Chúa Nhật XI thường niên - Năm A |
THƯƠNG DÂN CHÚNG LẦM THAN |
Suy niệm của Lm. VIKINI |
Sau khi đi rao giảng Tin mừng khắp các thành thị, làng mạc, hội đường và chữa lành mọi bệnh hoạn, tật nguyền, Đức Giêsu đã chứng kiến tận mắt cảnh dân chúng lầm than, vất vưởng như bầy chiên không người chăn. Thời Chúa Giêsu, dân Do thái sống trong cảnh không có lãnh đạo chân chính về tôn giáo cũng như về chính quyền. Chính quyền thuộc về đế quốc Rôma cai trị. Họ vô cùng đau đớn và nhục nhã phải thờ hai chủ: Chủ đế quốc và tay sai của đế quốc là bè phái Hêrôđê và Sađốc. Phái Hêrôđê gồm tất cả con cháu, họ hàng vua Hêrôđê đại đế (37-11 av. Jc) người xứ Dumê phía nam Do thái. Sađốc thuộc dòng dõi thượng tế Sađốc từ thời vua Salômon truyền lại. Họ là hàng quý tộc, thượng tế với tư tế. Họ độc quyền thu hoa lợi của Đền thờ Giêrusalem và liên kết với đế quốc để thống trị, bóc lột dân. Tuy họ giữ luật Môisê (Torah) nhưng lại sống phóng khoáng giao du với dân ngoại, nhiễm tinh thần văn hoá thần tượng Hy Lạp và Rôma. Trái lại, biệt phái (Pharisiêu) hoàn toàn biệt lập, bài ngoại và bài đế quốc. Họ giữ luật cổ truyền, nhất là những tập tục của tiền nhân. Họ coi tập tục tiền nhân hơn luật Môisen. Họ cắt nghĩa luật truyền khẩu rất tỉ mỉ và bắt dân giữ rất khắt khe. Họ tự coi mình là những tiến sĩ luật, những ký lục bảo tồn lề luật của tiền nhân. Họ cho đó là cách bảo vệ tôn giáo và đất nước tốt nhất. Thực sự họ đã chồng chất lên dân chúng những gánh nặng gông cùm dưới danh nghĩa tôn giáo. Họ đã biến tôn giáo thành thứ quốc giáo cuồng tín, hẹp hòi, kích động lòng ái quốc mù quáng. Sống giữa cảnh lãnh đạo mù quáng và mâu thuẫn, chống đối, thù hận nhau của phái Sađốc và biệt phái. Dân chúng thật bơ vơ, lạc hướng. Có lần Chúa Giêsu đã cảnh cáo họ: “mù dắt mù xuống hố”, “các ông thật lầm lạc”. Dân ngoại và dân Samari không bị những hệ phái tôn giáo xâu xé tinh thần như dân Israel, có lẽ đây là lý do chính cho ta hiểu tại sao Đức Giêsu dậy các tông đồ đi đến nhà Israel. Phải cứu Israel trước, vì họ cực khổ hơn các dân khác, cũng như phải cứu chữa những con chiên lạc, những người Israel đau yếu, tật nguyền, quỷ ám trước những người Israel khác. Để thực hiện chương trình cứu chiên lạc, Đức Giêsu căn dặn các tông đồ ít nhất là hai điều cần thiết: thứ nhất là phải biết chạnh lòng thương những người lầm than. Thầy chạnh lòng thương họ thế nào, môn đệ cũng phải thương họ như vậy. Thương dân không được đàn áp bóc lột như phái Hêrôđê. Họ dùng quyền sai lính bắt dân làm đầy tớ cho họ sống vinh thân phì gia: “một người làm quan cả họ được nhờ”. Đáng lý ra, ở địa vị chính quyền, họ phải lo sống chân chính chăm lo hướng dẫn, giúp dân sống sung túc văn minh tiến bộ mọi mặt tích cực. Người xưa như Aristote và Khổng tử đã khuyên chính quyền phải là người hiền đức biết mưu hạnh phúc tốt nhất cho nhân dân: “quý dân như con đỏ”, tôn trọng dân hơn việc làng xã “dân vi quý, xã tắc thứ chi”. Cụ thể hơn, sách Xuất Hành đã nêu gương Môisê là người lãnh đạo dân phục vụ dân hết lòng, hết cuộc đời như Thiên Chúa muốn: “Các ngươi thấy Ta đã xử với Ai cập thế nào và đã mang các ngươi như trên cánh phượng hoàng mà đem đến với Ta. Ta coi các ngươi như tư tế, như dân thánh” (Bài I). Thương dân, tránh thái độ thờ ơ lãnh đạm của phái Sađốc. Họ chỉ lo bảo vệ địa vị, quyền lợi họ, họ tìm lợi lộc cá nhân đến nỗi họ “biến nhà Cha Ta thành chợ búa, thành hang trộm cướp”, Dân nghèo đói, khổ sở, sống chết mặc bay. Thương dân, môn đệ phải theo gương Thầy lăn lộn với dân chúng nghèo khổ bệnh tật, nhất là những chiên lạc bị quỷ dữ hãm hại trong sự ác tội lỗi, đem Tin mừng nước Trời đến cứu chữa họ. Thương dân, không chất trên vai dân những gánh nặng tập tục của loài người như những Biệt Phái giả hình bên ngoài. Nhưng môn đệ sẵn sàng vác gánh nặng, để gánh nặng của người dân trở nên êm ái và nhẹ nhàng, nhất là những gánh nặng tội lỗi. Ước chi môn đệ thí mạng sống chết vì dân, chết thay cho kẻ tội lỗi để chứng tỏ Thiên Chúa yêu thương họ, Thiên Chúa giao hảo với họ, cứu sống họ muôn đời (Bài II – Rm. 5, 6-11).
|
|