Chúa Nhật V Phục Sinh
TA LÀ ĐƯƠNG LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG
Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1. Đường về với Chúa.

Cũng giống như Chúa nhật tới, bài Phúc âm Chúa nhật thứ 5 Phục Sinh hôm nay trích từ chương 14, diễn từ sau bữa tiệc ly, với những từ như "ra đi", "đi tới", "trở lại”, “con đường”. A.Marchadour minh định chương này ("được kết cấu xung quanh cuộc trở về với Chúa Cha của Chúa Cha vai trò độc nhất của Chúa Con trong việc đưa dẫn huynh đệ của mình về với Chúa Cha. (Tin Mừng Gioan, Centurion, 1992, p. 190) những lời loan báo liên tiếp về việc Giuđa phản bội (“một trong các con sẽ phản Thầy":14,2) về cuộc ra đi dứt khoát của riêng Ngài ("Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa” 13,38) và về việc Phêrô chối thầy (trước khi gà gáy, con đã chối ta ba lần: l3,38) đã khiến các môn đệ hoang mang - Dufour nhận xét "sự hoang mang ấy không chỉ vì phải xa cách Người thực sự cần thiết cho đời họ, mà cũng còn vì nỗi thất vọng sâu xa khi lượng giá công việc của Chúa Giêsu mà họ đang trông mong kết quả" (Đọc Tin mừng theo thánh Gioan, tập 3, Seuil, 1993, tr 90). Do đó mới có lời Đức Giêsu kêu gọi: "Lòng anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin vào Thầy chớ gì họ cậy dựa vững vàng vào lời Ngài và vào chính Ngài. Dufour viết tiếp: "Đức Giêsu dựa trên niềm tin của người Do thái, và những người không bao giờ tự coi mình độc lập trong mối liên hệ với Thiên Chúa, Đấng ban cho thụ tạo sự kiên vững của đá tảng, Ngài cũng dựa vào niềm tin vào chính mình Ngài, nếu họ còn có thể theo Ngài, các môn đệ chỉ dựa vào Ngài, như dựa vào chính Thiên Chúa". Vì thế nếu Ngài có ra đi, thì cũng chính là để trở lại nhà Cha, nơi Ngài sẽ "dọn chỗ sẵn cho họ". Từ chủ đề "ra đi" bài diễn từ sau bữa tiệc ly bắt sang ‘đường đi’, Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó. Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi Đức Giêsu bảo họ như vậy bấy giờ Tôma mới hỏi: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết được đường?" Chúa long trọng đáp "Thầy, Thầy chính là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy! Dufour đã diễn dịch câu nói ấy như sau: 'Tôma, nếu anh tin Thầy là chân lý và là sự sống, chắc chắn anh sẽ tìm thấy nơi Thầy con đường đưa về với Cha, đó là nơi Thầy đi đó là nơi Thầy ở. Đức Giêsu, trong đoạn 10,9, đã tự coi mình như là "cửa" dẫn đến sự sống, ở đây, lại nói như mình đã ở nơi mà các môn đệ muốn đến, bằng công thức vắn gọn này, Ngài thực sự công bố về tính đồng nhất sẽ còn vang vọng mãi trong nên chiêm niệm Kitô giáo" (p. 100)

2. Bày tỏ Chúa Cha.

Thấy thế, Philipphê mới lên tiếng: Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện rồi và Đức Giêsu đáp lại thấy Thầy, là thấy Chúa Cha rồi trong cuộc sống, mọi lời nói và việc làm của Đức Giêsu là một biểu hiện hoàn hảo hình ảnh của Chúa Cha vì người kết hợp mật thiết với Chúa Cha "Anh không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư?” cuộc sống của Ngài, đó là Chúa Cha thực hiện qua Ngài, lời Ngài nói đó là tư tưởng của Chúa Cha.

3. Đức Giêsu tiếp tục làm việc qua các môn đệ.

Nhắc lại lời mời gọi tin tưởng trên, Đúc Giêsu bắt đầu mạc khải cho các môn đệ biết cuộc sống mới của họ sẽ ra sao: "Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, vì Thầy đến cùng Chúa Cha”. Cho dù, hay đúng hơn Ngài về cùng Cha, mà các môn đệ sẽ sống cuộc sống Ngài không ngần ngại đồng nhất với cuộc sống chính mình. Dufour còn minh định thêm: Không phải vì cuộc sống của Ngài vẫn là gương mẫu, nhưng vì chính Ngài sẽ là tác giả đích thực của những họ thực hiện, đọc kỹ bản văn, người ta thực sự thấy rằng người tín hữu sẽ không làm những việc Đức Giêsu đã làm, nhưng là những việc Ngài đang làm và sẽ làm: Chúa Cha tiếp tục được tôn vinh nơi trần thế, từ đây, sứ mệnh Ngài đã hoàn tất phải đơm bông kết trái trong thời gian và không gian: và điều ấy được thể hiện nơi hành động của các tín hữu." (p.l07)

BÀI ĐỌC THÊM:

1. Thiên Chúa thật gần".

Khi Phúc âm thứ tư được viết ra, chắc chắn "những biến cố" đã xẩy ra hơn 60 năm, các cộng đoàn tín hữu ở Palestine, Tiểu Á, và các nơi khác đã chịu rất nhiều đau khổ. Họ phải chịu những cuộc tấn công dai dẳng trong các vùng có người Do thái. Họ đã bị chính quyền Rôma bách hại triền miên. Đặc biệt niềm tin của các Giáo Hội Tiểu Á lúc ấy đã rung động trước những luồng tư tưởng cho rằng mình khiến người ta quá tin vào trời cao mà khinh chê trần thế, chỉ để ý đến tâm hồn mà coi thường thân xác nhưng cuộc sống thề trần và sự phục sinh có đối nghịch đến độ phải khước từ cuộc sống này để sống cuộc sống kia không? Chẳng lẽ cứ phải trải qua cái chết mới được phục sinh hay sao?

Tác giả Tin Mừng nhấn mạnh: người tín hữu đã sống cuộc sống phục sinh ngay trên trần thế này. Niềm tin vào Đức Kitô hằng sống đã xóa bỏ khoảng cách giữa những sự dưới đất và trên trời. Niềm tin ấy giúp người ta sống ngay trên trần thế cuộc sống vĩnh hằng của Thiên Chúa. Chân lý thật khó hiểu và khó chấp nhận, cũng thế, Đức Giêsu nhà sư phạm đại tài, để dẫn đưa người nghe vào trong ánh sáng của Thiên Chúa, đã lợi dụng sự cứng tin của Tôma và Philipphê "Thưa Thầy chúng tôi không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con được đường?" Lầm lớn? Đây không phải con đường tính được bằng kilômét. Khoảng cách giữa cuộc sống trần thế và cuộc sống phục sinh không lớn hơn khoảng cách giữa Chúa Cha và Chúa Con: Cha ở trong Con và Con ở trong Cha. Niềm hi vọng về điều đã có và chưa có sẽ triển nở và đâm bông trong lòng người tín hữu như vậy đó.

Hoàn cảnh của cộng đoàn tín hữu giữa cuộc sống trần gian của Đức Giêsu và ngày Ngài trở lại. ("Célébrer", số 258, tr.34, tháng 3.l996)

Đâu là vị trí của cộng đoàn tín hữu giữa cuộc sống trần gian của Đức Giêsu và ngày Ngài trở lại?

Trước tiên, cộng đoàn tín hữu sống trong mềm hi vọng vô bờ một ngày kia sẽ được sống với Đức Giêsu rong nhà Cha Ngài: "Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó”! Sau đó họ biết được đường đi: "Thầy là đường là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy" hơn thế nữa, họ còn biết được Chúa Cha, họ đã “thấy” Ngài: “Ai thấy Thầy, là thấy Chúa Cha" Thấy Đức Giêsu, dĩ nhiên là biết được Ngài bằng niềm tin, là "nhận ra Ngài là con duy nhất, là lời sáng tạo vĩnh hằng đến độ khi Đức Giêsu nói, tôi biết rằng Ngài nói những lời của Chúa Cha, khi Đức Giêsu hành động, chữa lành, tha tội, phó mình cho đao phủ, tôi biết rằng Ngài làm theo ý Chúa Cha và Chúa Cha đã chữa lành, tha tội, tự hiến hoàn toàn qua Ngài. Tôi biết Cha và Con là "một”!

Như vậy, cộng đoàn tín hữu đã thực sự biết Đức Giêsu bằng đức tin, đến lượt mình có thể nhận biết Chúa Cha và hoàn thành những công việc của Người được không? được, Đức Giêsu nói thế và còn hơn thế nữa, vì Thầy đến cùng Chúa Cha”. Qua những lời này, ta có thể hiểu rằng Đức Giêsu phục sinh đã mặc lại trọn vẹn sức siêu nhiên mà Ngài đã tự giới hạn khi mặc lấy thân phận tôi đòi mặc lấy nhân tính. Cũng vậy, một khi đã được mời gọi tiếp tục sự nghiệp của Chúa Giêsu trên trần gian cộng đoàn các Tông đồ, bằng đức tin của mình, thực sự thông phần với Thiên-Chúa, họ là cộng đoàn những người con trong Đức Giêsu, Thiên-Chúa Con.