TẠI SAO THÁNH GIUSE LẠI CẦM CÀNH HOA HUỆ ?. |
dongcong |
TẠI SAO THÁNH GIUSE LẠI CẦM CÀNH HOA HUỆ ?.
Tôi thích nhất bức thánh Giu-se một tay cầm cành
hoa huệ, một tay ẵm Chúa Con; bức thứ hai là cảnh hai cha con
bác thợ mộc. Thánh Giu-se trạc ba mươi ngoài, (Đó là tôi nhìn
hình, đoán thế) Chúa Con độ bẩy, tám tuổi. Cha đang cưa gỗ, để
đóng vật dụng, con cầm cái thước chạy lăng xăng (lại đoán) làm
thợ vịn.
Tại sao thánh Giuse lại cầm cành hoa huệ. Trong những câu chuyện kể về đời thánh Gius-se có nói đến sự tích này.Theo truyền thuyết công giáo, khi Đức Mẹ lên ba tuổi, người đã được gửi tới đền thánh và sống ở đó đến tuổi lấy chồng. Nhận thấy Đức Mẹ là một người rất đặc biệt, nên ông Trùm (Rabbi) nơi đó mới gọi một số thanh niên đến, (trong đó có thánh Giu-se) trao cho mấy cành cây khô, trụi lá về trồng. Một thời gian sau, ông gọi đem mấy cành khô đó lại thì chỉ có một cành duy nhất của thánh Giu-se nẩy ra một bông huệ, tượng trưng cho sự thanh sạch. Hoa huệ nói lên sự tinh khiết, thanh sạch; cây thước nói lên sự giản dị, tính ngay thẳng, sự khiêm nhường.
Không phải những đức tính đó là của thánh Giu-se hay sao!
Tôi nhớ lại những lớp học giáo lý hồi bé, rồi đọc kinh thánh khi lớn hơn. Chẳng tìm ra được bài nào nói về công việc truyền giáo của thánh Giu-se.Chúa không chọn thánh Giu-se làm tông đồ đi rao giảng nước Chúa, đi đánh lưới người như những tông đồ xuất thân nghề chài lưới mà Chúa đã chọn. Chúa muốn giữ thánh Giuse là người cha ở thế gian cho riêng mình. Vì ở thánh Giuse, ngài có đủ đức hạnh cần thiết cho một người cha để hướng dẫn Chúa thuở thơ ấu.
Ta hãy so sánh những việc làm của Thánh Giuse (từ trước khi chính thức là cha nuôi của Chúa Con, cho đến đời sống của Ngài sau này) cùng với những công việc của Chúa khi còn ở thế gian. Ta sẽ thấy giữa Chúa và thánh Giu-se, có nhiều sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng lại cùng mang những ý nghĩa về lòng khoan dung, niềm tin mãnh liệt vào Thiên Chúa.
Thánh Giuse khi nghe tin vị hôn thê của mình có mang đã buồn bã bỏ đi trong im lặng, cái tâm nhân hậu của ngài không nỡ nhìn người phụ nữ có tên là Maria đó phải chết (Luật Do Thái, Maria có thể bị ném đá đến chết). Việc Chúa cứu người đàn bà tội lỗi khỏi bị chết vì ném đá, cũng đã dậy cho ta sự tha thứ và lòng khoan dung.
Thánh Giuse không thắc mắc, nghi ngờ về sự trung thực vào giấc mơ của thiên thần hiện ra với ngài, ngài quay về tìm Maria. Ngài đã chịu bao gian khổ, mang vị hôn thê có mang (không phải do mình) về quê ở Bethlem để kiểm tra dân số, giúp đỡ vợ sanh trong một hang của mục đồng, lừa, ngựa bên chân núi, mang vợ con trốn sang Ai Cập vào ban đêm, rồi lại tái định cư về Nagiarét hoàn toàn theo ý Chúa. Ngài làm tất cả những việc đó trong âm thầm, không ta thán, không nản lòng. Tài tháo vát đó quả thật tuyệt vời!
Chúng ta, những người công giáo nhận ra và cảm phục tài của thánh Giuse, khi chúng ta phải di tản ra khỏi xứ sở mình. Chúng ta bối rối, xuống tinh thần, thất vọng và mất mát, nhưng chúng ta còn được sự giúp đỡ của chính phủ ở những phần đất cưu mang mình. Thánh Giuse có sở xã hội nào giúp ngài trong thời điểm đó không nhỉ, ngài có được gửi đi học nghề, học sinh ngữ bản xứ không nhỉ? Chắc là không? Ngài đặt niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa qua thiên thần.
Chấp nhận khổ nạn thương khó. Cũng thế, khi Chúa nhìn thấy thánh giá, mão gai, đòn phạt của quân dữ sẽ trút xuống thân xác mình, nhưng Chúa đã chấp nhận đau khổ trong thinh lặng. Đã cầu xin cùng Chúa Cha: “Nếu bằng con dám xin Cha/ Thì xin Cha cất chén kia bồ hòn/ Nhưng xin đừng cứ ý con/Liệu bề cha đinh vẹn tròn thì hơn”. Chúa đã chấp nhận và đặt niềm tin tuyệt đối vào Chúa Cha.
Thánh Giuse đã nuôi vợ, nuôi con bằng một đời sống đơn giản của một gia đình Do Thái nghèo nàn và đạo đức. Chúa Con nhất nhất vâng lời cha. Từ học thánh kinh cho đến nghề mộc. Cả ba sống an vui trong một mái nhà đơn sơ, như hầu hết nhà của dân xứ Nagiarét thời đó dưới sụ bảo hộ của thánh Giuse, và lòng kính trọng của Đức Mẹ luôn luôn đặt cho ngài.
Ông làm thợ mộc, và dậy con nối nghề, bà kéo sợi và cắt may. Nhà thánh ở Nagiarét cũng như mọi căn nhà khác. Mái hình vuông, có cầu thang phía ngoài đi lên sân thượng, buồng khoét vào vách đá, phần nhô ra được xây bằng đá xanh và đất xét, nhà quét vôi trắng, nhỏ và tối. Nền nhà bằng đất nện, gồ ghề, trước của nhà có trồng nho, cây ô liu, và rào dựng sơ sài làm xưởng mộc. Trong nhà thì có mấy chiếc chiếu trải, không có giường; dụng cụ bếp núc thô sơ, mấy viên gạch, mấy cái tô bằng gỗ, nồi niêu đất, đĩa đèn dầu bằng sành.
Chẳng hiểu sao mà những họa sĩ sau này vẽ hình ảnh Thánh Gia như ở trong cung điện. Thánh Giuse chắc không mấy hài lòng.
Khi nói về phép lạ của thánh Giuse, ta cũng thấy có điều gì thầm lặng khiêm nhường trong những dấu tích đó.
Người công giáo nào, ít ra, cũng một lần được nghe chuyện về “Chiếc Cầu Thang Kỳ Diệu” của dòng Loretto ở Santa Fe, thuộc bang New Mexico vào năm 1878. Ngôi nhà thờ đó được vẽ kiểu bởi một kiến trúc sư đến từ Pháp, nhưng vị này đã quên vẽ chiếc cầu thang đi lên gác đàn. Có đến năm người thợ địa phương đến xin làm mà không được, vì chỗ có thể đặt cầu thang thì hẹp và dựng đứng. Sau cùng có một ông thợ gầy gò, nói năng từ tốn đi trên một con lừa nhỏ với cái túi vải đựng cái bào, cái búa, cây thước đơn sơ đến nhận làm. Ông âm thầm làm việc một mình, sáng mang gỗ đến, chiều về trong lặng lẽ. Khi làm xong, ông cũng âm thầm bỏ đi, không lấy tiền gỗ, tiền công. Chiếc cầu thang hình trôn ốc dẫn lên gác đàn, không có trụ ở giữa, không có tay vịn, nó như một cuộn mây từ mặt đất bốc lên thiên đàng, nó có ba mươi ba bực (33).
Chao ôi! Tại sao lại 33 bực. Có phải đó là số tuổi của người con bác thợ mộc hay không? Vậy đích thị là thánh Giuse rồi.
Giáo hội không biết rõ thánh Giuse mất vào ngày, tháng nào,( Khoảng sau hoặc trước Chúa ba mươi tuổi) nhưng biết chắc thánh Giuse được chết trước mặt Đức Mẹ, và được cầm tay Chúa trước khi nhắm mắt. Thánh Giu-se là vị cha chung của các gia đình công giáo; Ngài là một người cha gương mẫu cho những người chủ gia đình noi theo: Đức trong sạch, niềm tin tuyệt đối, sống âm thầm và vâng lời, và ngài là bậc thánh linh hiển cho những ai đặt lòng tin nơi ngài.
Xin cho chúng con sống ngay thẳng, chuẩn mực như cây thước của cha và tâm hồn chúng con được tinh khiết, đơn sơ và cao quý như bông huệ trắng trong tay cha. tmt |