1/19/2014 10:44:38 AM
Ngay từ thời các
nền văn hóa còn hoang sơ, dân Ixraen đã ý thức được
lệnh Thiên Chúa truyền cho họ phải tôn kính tổ tiên.
Đây không phải là một lời khuyên, nhưng là một điều
luật của Thiên Chúa cho dân của Ngài: “Ngươi hãy thờ
cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20,12)
Ngày 20 tháng 2 năm
2013, trên internet có đăng bài “Khó lấy chồng vì
không tìm được người cùng tôn giáo”[1]. Bài viết là
tâm sự của cô gái tên Hồng, cô cho biết năm nay đã 28
tuổi, nhưng vẫn chưa lấy được chồng. Một trong những
lý do dẫn đến việc cô khó lấy chồng, là “Một phần,
người theo đạo không thờ cúng tổ tiên, nên cũng không thể
lấy người khác niềm tin được”[2]. Đó cũng là điều mà
chúng ta vẫn thường nghe nói ở các xứ đạo những
người nam và nữ lương dân không muốn kết hôn với
người Công Giáo vì cho rằng ‘đi đạo là mất ông bà
tổ tiên’. Thực tế có phải như vậy hay không? Chắc
chắn đây là một ngộ nhận, vì đã là con người, ai
cũng phải nhớ về công ơn của các bậc sinh thành. Có
điều mỗi dân tộc, tôn giáo lại thể hiện sự tôn kính
theo cách thức của mình. Vì thế, Đạo Công giáo cũng
không loại bỏ sự tôn kính Ông Bà Tổ Tiên, nhưng “đạo
Công giáo còn cho thấy một chiều kích rộng lớn hơn của đạo
hiếu, giúp quan niệm về đạo hiếu của dân tộc trở nên rộng
rãi và hoàn chỉnh hơn”[3].
Vấn đề còn lại là
Người Công Giáo Việt Nam tôn kính tổ tiên như thế
nào?
Để làm sáng tỏ
những điều đó, xin được trình bày qua ba ý tưởng:
- Tôn Kính Tổ Tiên
là một giới răn và có nền tảng trong Kinh Thánh;
- truyền thống Tôn
Kính Tổ Tiên phù hợp với chữ Hiếu trong Đạo
CôngGiáo;
- hình thức Tôn
Kính Tổ Tiên theo Đạo Công giáo.
1. Tôn kính tổ tiên
là một giới răn và có nền tảng từ Thánh kinh
Ngay từ thời các
nền văn hóa còn hoang sơ, dân Ixraen đã ý thức được
lệnh Thiên Chúa truyền cho họ phải tôn kính Tổ Tiên.
Đây không phải là một lời khuyên, nhưng là một điều
luật của Thiên Chúa cho dân của Ngài: “Ngươi hãy thờ
cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20,12). Giới răn này
được đặt ở vị trí thứ tư trong 10 giới răn, chỉ sau
ba giới răn con người với Thiên Chúa; nghĩa là việc kính nhớ
Ông Bà Tổ Tiên đứng ở vị trí đầu tiên trong bảy giới răn còn
lại con người sống với nhau. Điều đó thể hiện tầm quan
trọng của việc tôn kính Tổ Tiên của người Công Giáo.
Tôn kính Tổ Tiên là điều quan trọng nhất trong các
giới răn liên quan đến tha nhân.
Trong sách Tôbia,
trước khi chết, người cha đã gọi con trai là Tôbia đến
và khuyên rằng: “Con hãy chôn cất cha cho tử tế. Hãy thảo
kính mẹ con và đừng bỏ rơi người bao lâu người còn sống. Con
hãy ăn ở đẹp lòng người và đừng làm điều chi phiền lòng
người cả. Này con, con phải nhớ rằng mẹ con đã trải qua bao
nỗi ngặt nghèo vì con, khi con còn trong dạ mẹ. Khi người
mất, con hãy chôn cất người ngay bên cạnh cha, trong cùng
một phần mộ” (Tb 4,3-4).
Tác giả sách Huấn
ca, khi đưa ra những lời giáo huấn về đời sống luân
lý, cũng đã không quên nói đến nghĩa vụ của con
cái: “Hãy thảo kính cha con bằng lời nói việc làm, để nhờ
người mà con được chúc phúc. Vì phúc lành của người cha làm
cho cửa nhà con cái bền vững, lời nguyền rủa của người mẹ
làm cho trốc rễ bật nền. Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi
người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người
buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy
mình sung sức mà khinh dể người. Vì lòng hiếu nghĩa đối với
cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con. Ai
bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ
mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa” (Hc 3, 8-9.12-14.16).
Đức Giêsu đến trần
gian cũng đã sống cuộc đời hiếu thảo với cha mẹ:
“Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và
hằng vâng phục các ngài” (Lc 2, 51a). Trong sứ vụ công
khai, Ngài đã khiển trách các kinh sư và Pha-ri-sêu
về lối tôn kính cha mẹ kiểu vụ hình thức (Mt
15,1-9). Ngài đã sống trọn vẹn chữ hiếu với Thiên
Chúa Cha qua việc vâng lời cho đến bằng lòng chịu
chết để cứu độ con người. Đỉnh điểm khi bị treo trên
thập giá, Chúa Giêsu đã trao phó mẹ Ngài cho môn đệ
Gioan (Ga 19, 25-27). Xét về phương diện chữ hiếu, lúc
mà sự cứu rỗi thế gian sắp hoàn tất, Đức Giêsu vẫn
không quên bổn phận hiếu thảo của mình, Ngài đã tìm
cho mẹ một chỗ nương tựa lúc tuổi già.
Thánh Phaolô cho
chúng ta thấy việc hiếu thảo với cha mẹ là điều
đẹp lòng Thiên Chúa “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong
mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa” (Cl 3,20). Và đó là
điều phải đạo: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh
thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo” (Ep 6,1).
Như vậy, việc tôn
kính Ông Bà Cha Mẹ đối với người Công Giáo không chỉ
dừng lại ở bình diện bổn phận, nhưng đó còn là
giới răn của Thiên Chúa bó buộc mọi người phải thi
hành. Chính vì vậy, chúng ta thấy được thái độ tôn
kính phải có của người Công Giáo với Ông Bà Tổ Tiên,
chứ không phải là theo Chúa thì bỏ Ông Bà Tổ Tiên.
2. Truyền thống Tôn
Kính Tổ Tiên hợp với chữ Hiếu trong Đạo Công Giáo
Ca dao Việt Nam
chúng ta có câu:
“Con người có tổ, có
tông,
như cây có cội, như
sông có nguồn”.
Đó là lời răn dạy của
cha ông đối với mỗi chúng ta. Dù ở địa vị nào, ở bất kỳ nơi
đâu, sống trong hoàn cảnh nào, cũng đừng quên cội nguồn của
mình, phải nhớ đến tình cha, nghĩa mẹ, công đức ông bà, tổ
tiên. Từ đó, chúng ta có thể rút ra những lý do
người Việt Nam tôn kính Ông Bà Tổ Tiên và những lý
do này phù hợp với niềm tin Công Giáo.
Lý do thứ nhất là
phải đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha
mẹ. Thực ra, nào có cần phải nêu ra lý do này lý do kia để
chúng ta hiểu tại sao mình cần phải hiếu thảo với cha mẹ,
ông bà, tổ tiên. Tận trong sâu thẳm tâm hồn mỗi người, ai
sống trên đời mà chẳng có người sinh ra, chân lý này chỉ mới
dừng lại ở công ơn sinh thành. Quả thực, con người sống với
nhau, luôn có mối dây thiêng liêng liên kết ràng buộc, ta
gọi đó là tình nghĩa gia đình và đạo hiếu, cách riêng đối
với người Việt Nam, đạo hiếu đã trở thành nghĩa cử thiêng
liêng ăn sâu trong tâm trí họ, thay vì hiểu nó là trách
nhiệm, bổn phận. Ca dao ví von:
“Công cha như núi
thái sơn,
nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra”.
Người xưa đã mượn
câu ca dao đó để ca ngợi công lao trời biển của cha mẹ.
Công đức sinh thành của cha mẹ thật không có gì sánh được,
biết ơn cha mẹ trước tiên và sâu xa nhất, là biết đến công
ơn sinh thành, nuôi dưỡng ta bao năm tháng. Trong Đạo Công
giáo, đền đáp công ơn của các bậc sinh thành được
tác giả sách Huấn ca nhấn mạnh: “Cha con, con hãy hết
lòng tôn kính, và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy
luôn nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành, công ơn ấy, con sẽ
lấy chi đáp đền cho cân xứng?” (Hc 7, 27-28).
Thứ đến là lòng
bác ái. Là người Việt Nam, chắc hẳn ai cũng biết
mình mang dòng máu rồng tiên. Truyền thuyết Lạc Long
Quân – Âu Cơ cho thấy mọi người đều sinh ra từ cái
bọc trăm trứng. Mọi người là anh em của nhau, nên phải
thể hiện tình thương yêu đối với nhau. Đạo Công Giáo
luôn cổ vũ lòng bác ái. Bác ái là trung tâm điểm
của việc thực thi Giáo lý, người Công Giáo phải
“mến Chúa” và “yêu người thân cận như chính mình”.
Bác ái trước hết, phải thể hiện từ những mối tương
quan gần gũi, ông bà cha mẹ.
Cuối cùng, việc tôn
kính Ông Bà Tổ Tiên thể hiện lòng hiếu kính. Bổn
phận làm con phải biết thờ mẹ kính cha, phải làm tròn chữ
hiếu. Quy luật của cuộc sống là không có cây thì không có
quả, không có người sinh thành thì không thể có chúng ta.
Người biết ơn là người thể hiện rõ đức tính nhân
bản. Đạo Công Giáo cũng có thể được gọi là Đạo
Hiếu, bởi người Công Giáo tin Thiên Chúa là Cha, là
Đấng sáng tạo con người và muôn vật. Vì thế, con
người cũng phải thể hiện chữ hiếu với Thiên Chúa
bằng cách thờ phượng và tôn vinh. Bên cạnh đó, việc
thảo hiếu với cha mẹ là điều giúp con cái được
hưởng thọ và hạnh phúc, như thánh Phaolô khẳng định:
“Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo
lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất
này” (Ep 6,2).
3. Tôn kính như thế
nào?
Việt Nam là một
nước mang đậm truyền thống văn hóa Á Đông, hơn nữa lại
ảnh hưởng bởi Nho Giáo và Đạo Giáo, nên vấn đề tôn
kính ông bà cha mẹ rất được coi trọng. Đức tin Công
Giáo được gieo vào lòng đất Việt vào khoảng thế kỷ XVI –
XVII (1533 – 1659), thời các cha dòng Tên chính thức việc
rao giảng Tin Mừng tại Việt Nam. Tuy nhiên, những bước đầu
tiếp cận con người và vấn đề hội nhập văn hóa rất
khó khăn. Bởi các vị thừa sai chưa hiểu một cách thấu
đáo về truyền thống văn hóa tôn kính Ông Bà Tổ Tiên của
người dân trong khu vực này và có nhiều điểm dị biệt trong
quan điểm hội nhập. Thực tế, lịch sử cũng có những
câu chuyện đáng tiếc xảy ra, và quan niệm sai lầm về
Đạo Công Giáo không được tôn kính Ông Bà Tổ Tiên vẫn
còn dư âm đến ngày hôm nay, nhất là ở những nơi mà
ánh sáng Tin Mừng chưa được lan tỏa. Nhưng thiết nghĩ
rằng, đó là lối suy nghĩ đã cũ, và chưa hiểu về
Đạo Công Giáo.
Thực tế, “Tin Mừng
không chọn lựa đất sống. Tình yêu chẳng chối từ gian
nan”[4], Tin Mừng chấp nhận hội nhập với mọi nền văn
hóa. Giáo Hội đã tìm cách tháo gỡ những bế tắc,
đã đưa ra phương hướng cho việc hội nhập đức tin Công
Giáo vào truyền thống tôn kính Ông Bà Tổ Tiên trên dân
tộc Việt Nam nói riêng và vùng Á châu nói chung. Ngày 08
tháng 12 năm 1939, Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin đã cho
công bố “Huấn thị Plane compertum est” nhằm tháo gỡ
việc cấm tôn kính Ông Bà Tổ Tiên tại Trung Quốc,
Nhật Bản và những nước có nền văn hóa tương tự.
Tại Việt Nam, các
giám mục cũng xin áp dụng huấn thị vào tình hình
lịch sử văn hóa của đất nước và được Tòa thánh, qua Bộ
Truyền Giáo, chấp nhận vào ngày 02 tháng 10 năm 1964.
Trong hội nghị giám mục tại Đà Lạt vào ngày 13-14
tháng 6 năm 1965, các ngài đã công bố thông cáo về
việc tôn kính tổ tiên và các anh hùng liệt sỹ. Thông
cáo lấy lại Thông điệp “Evangelii praecones” của Đức
Piô XII để nói lên quan điểm của Giáo Hội: “Giáo Hội
không bao giờ miệt thị, khinh chê tư tưởng cũng như nghệ
thuật hoặc văn hóa của người không Công giáo. Trái lại, Giáo
Hội đã từng góp phần thanh luyện hoặc bổ túc để đi đến chỗ
hoàn hảo”. [5]
Ngày 14 tháng 11 năm
1974, Hội nghị các giám mục họp tại Nha Trang đã đưa
ra quyết nghị về vấn đề Thờ Kính Tổ Tiên trong 6 điểm:
a. Bàn thờ Gia Tiên
được đặt dưới bàn thờ Chúa, miễn là không bày biện gì mê tín
như hồn bạch.
b. Đốt hương, nhang,
đèn, nến trước bàn thờ Tổ Tiên và những cử chỉ hiếu thảo tôn
kính được phép làm.
c. Ngày “kỵ nhật” được
cúng giỗ trong gia đình theo phong tục địa phương, miễn là
bỏ những gì dị đoan mê tín như đốt vàng mã,… giảm thiểu,
canh cải những lễ vật biểu dương ý nghĩa thành kính, biết ơn
ông bà, như dâng hoa trái, hương đèn…
d. Trong hôn lễ, cô
dâu, chú rể được làm lễ Tổ, lễ Gia Tiên vì đó là nghi lễ tỏ
lòng biết ơn, hiếu kính, trình diện với ông bà.
e. Trong tang lễ, được
vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái lạy theo
phong tục địa phương để tỏ lòng tôn kính người đã khuất.
f. Được tham dự nghi
lễ tôn kính vị Thành Hoàng tại đình làng để tỏ lòng cung
kính biết ơn với những vị mà theo lịch sử là có công với
dân tộc hoặc là ân nhân của dân làng, chứ không như mê tín
đối với các “yêu thần”, “tà thần”[6].
Từ đó, chúng ta
nhận thấy rằng Đạo Công Giáo luôn dành vị trí đặc
biệt cho việc tôn kính Ông Bà Cha Mẹ, chỉ sau việc
kính mến và thờ phượng Thiên Chúa. Qua việc cổ võ đạo
Hiếu, đạo Công Giáo hướng con người tới việc hiểu biết tổ
tiên đích thực của mình, chính là Thiên Chúa – Đấng đã dựng
nên trời đất, sinh ra loài người chúng ta (St 1-2, 4a).
Việc tôn kính ấy được thể hiện qua việc thảo hiếu,
chăm sóc, phụng dưỡng lúc các ngài còn sống cũng
như khi đã qua đời. Tuy nhiên, điều mang lại hy vọng tích
cực nơi người Công Giáo, họ tin rằng con người có hồn
thiêng bất tử, sau khi chết, hồn không thể hưởng thụ
những gì là vật chất, mà cũng chỉ dùng thứ lương
thực thiêng liêng để được hưởng hạnh phúc muôn đời bên
Thiên Chúa. Vì thế, phụng vụ Giáo Hội cũng dành ưu
tiên cho việc tôn kính Ông Bà Tổ Tiên khi dành ngày
muồng hai Tết và suốt cả tháng 11 Dương lịch để kính
nhớ các ngài, đặc biệt trong Kinh Nguyện Thánh Thể được
đọc trong các thánh lễ mà người công giáo cử hành
mỗi ngày, đã dành phần cầu nguyện cho “anh chị em đã ly
trần, và mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ
và thân bằng quyến thuộc…”. Có nơi, theo truyền thống
nếu vào ngay thứ hai trong tuần khi không có lễ kính
hay lễ nhớ thì vị linh mục sẽ dâng lễ cầu nguyện cho
các linh hồn Ông Bà Tổ Tiên.
Tóm lại, từ những
ý tưởng trình bày trên, ta thấy quan điểm của Giáo
Hội Công Giáo với Ông Bà Tổ Tiên. Việc tôn kính Ông
Bà Tổ Tiên không nghịch lại với niềm tin Công Giáo.
Trái lại, Đạo Công Giáo luôn cổ vũ khích lệ lòng
hiếu kính với Ông Bà Tổ Tiên. Khi vào Việt Nam, Đạo
Công giáo đã làm phong phú thêm kho tàng văn hóa của
dân tộc, Đạo Công giáo không phá hủy truyền thống dân
tộc, nhưng nâng cao và kiện toàn như Công Đồng Vatican
II đã nhận định: “Những gì tốt đẹp trong tâm hồn và tư
tưởng của loài người hoặc trong nghi lễ và văn hóa riêng của
các dân tộc, hoạt động của Hội Thánh không nhằm tiêu diệt,
nhưng làm cho lành mạnh, nâng cao và kiện toàn, hầu làm vinh
danh Thiên Chúa và mưu cầu hạnh phúc cho con người” [7]. Vì
lẽ đó, người Công Giáo luôn được mời gọi tuân theo
luật Chúa dạy chu toàn bổn phận thảo hiếu với Ông
Bà Tổ Tiên. Đồng thời, loan truyền Tin Mừng bằng
cách chia sẻ với những người không cùng tôn giáo
trong những dịp mừng thọ, an táng, những dịp giỗ hay
lễ hội… để mọi người có cái nhìn và hiểu đúng về
Đạo Công giáo, nhờ đó xóa đi rào cản ngăn cách và
xây dựng một xã hội bác ái yêu thương hơn. |