Tông Huấn - Người Trông Nom Đấng Cứu Thế

NGƯỜI BẢO VỆ MẦU NHIỆM THIÊN CHÚA

§ Đức Gioan Phaolô Đệ Nhị

4. Không lâu sau ngày Truyền tin, khi Mẹ Maria đến nhà ông Dacaria để thăm người bà con Êlisabét, vừa khi Mẹ cất tiếng chào, Mẹ được nghe những lời chúc tụng của Êlisabét, lúc ấy “được đầy tràn Chúa Thánh Thần” (Lc 1,41). Ngoài lời chào hỏi gợi lại điều sứ thần đã nói lúc truyền tin, bà Êlisabét còn nói: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45). Những lời này đã là ý tưởng chỉ đạo cho thông điệp Mẹ Đấng Cứu Chuộc. Trong thông điệp này, Tôi đã nhắm đào sâu giáo huấn của Công Đồng Vatican II. Công đồng đã nêu rõ rằng Đức Trinh Nữ rất thánh đã tiến bước trên đường lữ hành đức tin, và kiên tín giữ sự hiệp nhất với Con cả lúc đứng dưới chân Thập giá” (5), “đi trước” (6) mọi kẻ tin theo Đức Kitô.

Vào lúc khởi đầu cuộc lữ hành, đức tin của Mẹ Maria gặp đức tin của thánh Giuse. Nếu bà Êlisabét nói về Mẹ Đấng Cứu chuộc: “Phúc cho Bà là kẻ đã tin”, thì theo một nghĩa nào đó, sự chúc phúc này cũng có thể được áp dụng cho Giuse, vì Ngài đã tích cực đáp lời Thiên Chúa khi lời này được truyền đạt cho Ngài vào giây phút quyết định. Mặc dù đúng thật là Giuse đã không đáp trả lại lời truyền tin của sứ thần cùng một cách như Mẹ Maria, nhưng Ngài đã “làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà”. Điều Ngài đã làm là một “sự vâng phục đức tin” rõ rệt nhất (x. Rm 1,5; 16,26; 2Cr 10,5-6).

Người ta có thể nói rằng điều Thánh Giuse làm đã liên kết Người một cách đặc biệt với đức tin của Mẹ Maria. Người đã tin nhận như là chân lý đến từ Thiên Chúa chính điều mà Mẹ Maria đã đón nhận vào lúc truyền tin. Công đồng dạy rằng: “Vâng phục của đức tin là phải đáp trả lại Thiên Chúa khi Người mạc khải chính mình. Nhờ sự vâng phục của đức tin, con người tự do tận hiến cho Thiên Chúa, phó thác hoàn toàn trí khôn và ý chí cho Thiên Chúa, Đấng mạc khải, và “sẵn lòng tin nhận điều Thiên Chúa mạc khải cho mình” (7). Giáo huấn này nói lên chính yếu tính của đức tin, hoàn toàn có thể áp dụng cho Giuse, người làng Nagiarét.

5. Vì thế Ngài trở thành người bảo vệ duy nhất của mầu nhiệm “đã được giữ kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa” (Ep 3,9), giống như Mẹ Maria, vào giây phút quyết định mà Thánh Phaolô gọi là: “khi thời gian tới hồi viên mãn”, lúc “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà... để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4-5). Dùng chính ngôn từ của Công Đồng: “Theo hảo ý, trong sự tốt lành và khôn ngoan của mình, Thiên Chúa muốn tự mạc khải và thông tri mầu nhiệm ý muốn của mình (x. Ep 1,9) Ý muốn của Ngài là con người phải tới được Thiên Chúa Cha, qua Đức Kitô, Ngôi Lời thành xác phàm, trong Chúa Thánh Thần, và trở nên người tham dự vào thiên tính (x. Ep 2,18; 2Pr 1,4)” (8).

Cùng với Mẹ Maria, Giuse là người gìn giữ đầu tiên mầu nhiệm thiêng liêng này. Cùng với Mẹ Maria, và trong tương quan với Mẹ Maria, Ngài cộng tác vào giai đoạn tự mạc khải cuối cùng của Thiên Chúa trong Đức Kitô, và Ngài đã cộng tác như thế ngay từ buổi đầu. Nhìn lại các đoạn văn Tin Mừng của cả Mátthêu và Luca, người ta có thể nói rằng thánh Giuse là người đầu tiên chia sẻ đức tin của Mẹ Thiên Chúa, và khi chia sẻ như thế, Ngài nâng đỡ niềm tin của vị hôn thê vào lời truyền tin của Thiên Chúa. Ngài cũng là người đầu tiên được Thiên Chúa đặt trên đường “lữ hành đức tin” của Mẹ Maria. Đó là đoạn đường Mẹ Maria đi trước cách tuyệt hảo, đặc biệt vào lúc ở Núi Sọ và lúc Hiện Xuống.

6. Đường lữ hành trong đức tin của Thánh Giuse kết thúc trước, nghĩa là trước khi Mẹ Maria đứng dưới chân thập giá trên đồi Gôngôtha, và trước thời điểm Đức Kitô trở về cùng Cha, khi Mẹ hiện diện ở lầu Tiệc Ly vào lễ Ngũ Tuần, ngày mà Giáo Hội biểu lộ mình ra cho thế giới, sau khi được sinh ra trong quyền năng của Thánh Thần Chân lý. Dầu vậy, đường đức tin của thánh Giuse không có gì thay đổi: hoàn toàn được xác định bởi cùng một mầu nhiệm, mà Ngài cùng với Mẹ là người bảo vệ đầu tiên. Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu chuộc tạo thành một duy nhất tính hữu cơ và bất khả phân, nơi đó “chương trình mạc khải được thực hiện qua ngôn từ và hành động, cả hai tương quan mật thiết nội tại với nhau” (10). Chính vì duy nhất tính này mà Đức Gioan XXIII, người rất sùng kính thánh Giuse, đã chỉ thị phải thêm tên của thánh Giuse vào Lễ Quy Rôma của Thánh lễ - vốn là hành vi muôn đời tưởng nhớ việc cứu chuộc – sau tên của Mẹ Maria, và trước tên các Thánh Tông đồ, Giáo hoàng và Tử đạo. (11)

Việc phục vụ của người Cha

7. Như có thể suy diễn từ các bản văn Tin Mừng, cuộc hôn nhân của thánh Giuse với Mẹ Maria là nền tảng pháp lý cho chức vụ làm cha. Vì nhằm bảo đảm có một người cha bảo vệ Chúa Giêsu mà Thiên Chúa chọn Giuse làm chồng Mẹ Maria. Nhờ thế mà chức vụ làm cha của Giuse – một tương quan khiến Ngài hết sức gần gũi với Đức Kitô, Đấng mà những ai được tuyển chọn và được tiền định đều quy chiếu về (x. Rm 8,28-29) – [chức vụ làm cha] có được qua cuộc hôn nhân với Mẹ Maria, nghĩa là qua gia đình.

Khi minh nhiên khẳng định Chúa Giêsu được thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, và sự trinh khiết vẫn được bảo toàn nguyên vẹn trong hôn nhân (x. Mt 1,18-25; Lc 1,26-38), các thánh sử muốn nói Giuse như là chồng của Mẹ Maria, và Mẹ Maria là vợ của Người (x. Mt 1,16,18-20,24; Lc 1,27; 2,5).

Và khi Giáo Hội thấy thật là quan trọng phải tuyên xưng sự hoài thai Chúa Giêsu đồng trinh, thì một điều khác cũng không kém trọng yếu là Giáo Hội phải bênh vực hôn nhân của Mẹ Maria với thánh Giuse, vì theo pháp lý cương vị làm Cha của thánh Giuse tuỳ thuộc vào đó. Vì thế người ta mới hiểu tại sao phả hệ lại được liệt kê theo phả hệ của thánh Giuse. Thánh Augustinô hỏi: “Tại sao phả hệ lại không được kể theo thánh Giuse cơ chứ? Người không phải là chồng của Mẹ Maria sao? Kinh Thánh ghi nhận, qua uy quyền của sứ thần, rằng Người là chồng của bà. Sứ thần nói: ‘Đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần’. Giuse được bảo phải đặt tên cho con trẻ, dù không phải là con do mình. Sứ thần nói: ‘Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu’. Kinh Thánh nhìn nhận Chúa Giêsu không sinh ra từ dòng giống của Giuse, vì khi thắc mắc về nguồn gốc bào thai trong lòng Mẹ Maria, Giuse được cho biết đó là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Tuy vậy, Ngài không bị tước mất quyền làm cha vào lúc Ngài được bảo phải đặt tên cho con trẻ. Cuối cùng, cả Trinh Nữ Maria, dù ý thức rằng mình không thụ thai Đức Kitô qua việc vợ chồng với Giuse, bà vẫn gọi ông là Cha Đức Kitô”. (12)

Người Con của Mẹ Maria cũng là người Con của thánh Giuse qua mối liên kết hôn nhân đã nối kết hai người: “Nhờ hôn nhân thuỷ chung của họ, cả hai xứng đáng được gọi là cha mẹ của Đức Kitô. Không chỉ mẹ Người, nhưng cả cha Người, cũng là cha là mẹ cùng một cách thức như nhau, vì Giuse là chồng của Mẹ Người: theo tinh thần, chứ không theo thể xác”. (13) Trong cuộc hôn nhân này, không thiếu vắng điều kiện cần thiết nào: “Nơi cha mẹ của Đức Kitô mọi điều tốt đẹp của hôn nhân đều được thực hiện – con cái nối dòng, sự chung thuỷ, sự bền vững: Con cái là chính Chúa Giêsu; chung thuỷ, vì không có ngoại tình; bền vững, vì không có ly dị”. (14)

Phân tích bản chất cuộc hôn nhân này, cả Thánh Augustinô lẫn Thánh Tôma luôn luôn đồng hoá nó với một “hiệp nhất tâm hồn bất khả phân”, một “hợp nhất đôi tim”, với “đồng thuận”. (15) Người ta tìm thấy những yếu tố này được thể hiện cách tuyệt hảo trong cuộc hôn nhân của Mẹ Maria và Giuse. Vào cao điểm của lịch sử Cứu chuộc, khi Thiên Chúa biểu lộ tình yêu dành cho nhân loại qua quà tặng là Ngôi Lời, thì Mẹ Maria và thánh Giuse qua chính việc nhận lãnh và biểu lộ tình yêu hôn nhân của mình, đã thực hiện trong trọn vẹn “tự do” sự trao hiến mình cho nhau. (16) ”Trong công cuộc vĩ đại đổi mới mọi sự trong Đức Kitô, thì hôn nhân - vốn cũng được thanh luyện và canh tân - trở thành một thực thể mới, một bí tích của Tân Ước. Chúng ta thấy rằng, vào lúc khởi đầu của Tân Ước, cũng giống như lúc ban đầu của Cựu ước, đã có một cặp vợ chồng. Nhưng trong khi Ađam và Evà là nguồn gieo vãi sự dữ vào thế gian, thì thánh Giuse và Mẹ Maria là cao điểm hội tụ từ đó sự thánh thiện lan toả khắp thế giới. Chính nơi cuộc hôn nhân trinh khiết và thánh thiện này mà Đấng Cứu Thế đã bộc lộ ý toàn năng của Ngài, khi khởi đầu việc cứu chuộc, là muốn thanh luyện và thánh hoá gia đình – là cung thánh tình yêu và nôi bảo dưỡng sự sống”. (17)

Các gia đình ngày nay học hỏi được biết bao nhiêu điều từ điểm này! “Phân tích cho cùng thì bản chất và vai trò của gia đình là tình yêu. Vậy gia đình có nhiệm vụ bảo toàn, biểu lộ, hiệp thông tình yêu, và gia đình là một suy tư sống động về, và là một chia sẻ tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại và tình yêu Đức Kitô dành cho Giáo Hội, Hiền thê Người”. (18) Đây là điều diễn ra nơi Thánh Gia thất, mà mọi gia đình Kitô hữu phải phản ánh được nơi “Giáo Hội nhỏ bé (Giáo Hội tại gia)”. (19) “Qua an bài mầu nhiệm của Thiên Chúa, chính trong gia đình như thế mà Con Thiên Chúa đã trải qua nhiều năm ẩn cư. Vì thế, đó chính là nguyên mẫu và gương sáng cho mọi gia đình Kitô hữu”. (20)

8. Thánh Giuse được Thiên Chúa gọi để phục vụ con người và sứ mạng Chúa Giêsu trực tiếp qua việc thi hành chức vụ làm cha. Chính qua cách này, như Phụng vụ Giáo hội dạy, mà Người “cộng tác vào mầu nhiệm Cứu chuộc cao cả khi thời gian viên mãn” và Người đích thực là “thừa tác viên của ơn cứu chuộc”. (21) Chức vụ cha của Người được biểu hiện cụ thể “qua việc Người phải biến đời mình thành phục vụ, thành hy lễ cho mầu nhiệm Nhập Thể và cho sứ mạng cứu chuộc liên kết theo đó; qua việc Người phải dùng quyền uy hợp pháp của Người trên Gia đình thánh để biến chính Người, biến cuộc đời và công việc Người thành một quà tặng trọn vẹn; qua việc Người phải chuyển ơn gọi thuần nhân loại yêu thương trong nội vi gia đình thành một tế hiến siêu nhiên chính mình, chính con tim và mọi khả năng thành tình yêu phục vụ Đấng Thiên Sai đang trưởng thành dưới mái nhà mình”. (22)

Khi nhắc lại rằng “buổi đầu của việc cứu chuộc chúng ta” được tín thác trao cho “thánh Giuse thành tín chăm lo”. (23) Phụng Vụ nhấn mạnh rằng “Thiên Chúa đặt Người làm đầu gia đình, như một người phục vụ tín thành và cẩn trọng, hầu qua việc chăm lo trong vai người cha, Người coi sóc người Con duy nhất được sinh ra”. (24) Đức Lêô XIII nhấn mạnh đến bản chất cao siêu của sứ mệnh này: “Người trổi vượt giữa mọi người nhờ phẩm cách uy nghiêm, vì Thiên Chúa an bài Người làm người bảo vệ và nhân loại chân nhận Người là cha của Con Thiên Chúa. Từ đó Ngôi Lời Thiên Chúa quy phục thánh Giuse, Người vâng lời thánh Giuse và trao về thánh Giuse vinh quang và kính trọng mà mọi người con phải có đối với cha mình”. (25)

Vì người ta không thể tưởng tượng được rằng một công tác cao trọng như thế mà không có những phẩm cách cần thiết tương xứng để chu toàn nó cách thích đáng, nên chúng ta phải nhìn nhận rằng Thánh Giuse, “nhờ hồng ân đặc biệt từ trời”, đã dành cho Chúa Giêsu “trọn tình yêu tự nhiên, mọi chăm nom âu yếm mà một trái tim người cha có thể nghĩ ra được”. (26)

Ngoài quyền uy của một người cha đối với Chúa Giêsu, Thiên Chúa còn ban cho thánh Giuse thông phần vào tình yêu, tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa Cha “từ nơi Người là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất“ (Ep 3,15).

Các sách Tin Mừng miêu tả rõ ràng trách nhiệm làm cha của thánh Giuse đối với Chúa Giêsu. Vì việc cứu chuộc - xuyên qua nhân tính của Chúa Giêsu – được thực hiện bằng những hành động, là một phần đời sống gia đình hằng ngày, tương ứng với việc “tự hạ” vốn gắn liền với nhiệm cục Nhập Thể. Các thánh sử cẩn thận cho thấy không có gì trong cuộc đời Chúa Giêsu là ngẫu nhiên, nhưng mọi việc đều xảy ra theo đúng chương trình quan phòng của Thiên Chúa. Công thức thường được lặp lại: “Điều này xảy ra, để thực hiện trọn vẹn...” liên quan đến một sự kiện đặc biệt trong Cựu Ước, dùng để nhấn mạnh đến tính chất duy nhất và liên tục của chương trình được thành toàn nơi Đức Kitô.

Với việc Nhập thể, các “lời hứa” và “hình ảnh” trong Cựu Ước trở thành “thực tại”: các nơi chốn, nhân vật, biến cố và nghi thức liên quan với nhau theo đúng mệnh lệnh chính xác của Thiên Chúa được các sứ thần thông tri và được các thụ tạo là những người đặc biệt mẫn cảm với tiếng nói Thiên Chúa đón nhận. Mẹ Maria là nữ tì khiêm hạ của Thiên Chúa, được chuẩn bị từ muôn thuở để đảm trách chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa, còn thánh Giuse là một người được Thiên Chúa chọn để thành “người chăm nom việc Chúa hạ sinh”, (27) người có trách nhiệm trông nom việc Con Thiên Chúa được “chỉ định” nhập thế, theo đúng những điều Thiên Chúa an bài và luật lệ nhân loại. Tất cả đời sống được gọi là “riêng tư” hay “ẩn dật“ của Chúa Giêsu được tín thác vào sự bảo vệ của Thánh Giuse.

Cuộc kiểm tra dân số

9. Khi lên đường trở về Bêlem để được kiểm tra dân số theo lệnh của thẩm quyền hợp pháp, thánh Giuse đã chu toàn cho Hài Nhi một công việc đầy ý nghĩa là chính thức thêm tên “Giêsu, con của Giuse làng Nagiarét” (x. Ga 1,45) vào sổ bộ Đế quốc La Mã. Việc đăng ký này chứng minh rõ ràng rằng Đức Giêsu thuộc loài người như một người nam trong nam giới, một công dân của thế giới này, chịu sự chi phối của lề luật và các định chế dân sự, nhưng cũng là “đấng cứu chuộc thế giới”. Origênê đã miêu tả đúng đắn ý nghĩa thần học của sự kiện lịch sử này mà không hề tránh né một chút nào: “Vì cuộc kiểm tra dân số đầu tiên của toàn thế giới được thực hiện dưới thời Xêdarê Augúttô, và cùng với mọi người khác, thánh Giuse cũng đi đăng ký với Mẹ Maria bạn đời mình đang có thai, và vì Đức Giêsu được sinh ra trước khi cuộc kiểm tra hoàn tất, nên đối với những ai chăm chú khảo sát, dường như có một mầu nhiệm được biểu hiện qua sự kiện là vào chính thời điểm mọi người trên thế giới đi trình diện để được đếm, Đức Kitô cũng phải được đếm. Bởi được ghi tên vào sổ bộ chung với mọi người, Ngài có thể thánh hoá mọi người; bởi được ghi danh vào chung với toàn thế giới trong cuộc kiểm tra, Ngài mời gọi thế giới hiệp thông với Ngài, và sau khi trình diện mình, Ngài ghi tên mọi người thế gian vào sách hằng sống, để dù có bao nhiêu người tin vào Ngài, họ cũng được ghi danh trên trời chung với các thánh của Thiên Chúa, Đấng đáng được mọi vinh quang và quyền năng muôn thuở muôn đời, Amen”. (28)

Giáng sinh tại Bêlem

10. Là người bảo vệ mầu nhiệm “được giấu kín từ muôn đời trong ý định của Thiên Chúa,” và bắt đầu tỏ lộ trước mắt Ngài “vào lúc thời gian viên mãn,” cùng với Mẹ Maria, thánh Giuse là nhân chứng ưu tuyển việc Con Thiên Chúa giáng sinh vào thế gian đêm Sinh nhật tại Bêlem. Thánh Luca viết: “Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,6-7).

Thánh Giuse đã là chứng nhân của cuộc hạ sinh này vốn xảy ra trong những hoàn cảnh quá lúng túng, nói theo phương diện loài người, – đó là một lời tiên báo về việc “tự huỷ diệt” (x. Pl 2,5-8) mà Đức Kitô tự nguyện chấp nhận để tha tội. Thánh Giuse cũng mục kích việc các mục đồng đến nơi Chúa Giêsu hạ sinh để thờ lạy sau khi các thiên thần báo cho họ tin vui và quan trọng ấy (x. Lc 2,15-16). Sau đó, Ngài cũng mục kích việc các đạo sĩ từ Đông phương đến bái kiến (x. Mt 2,11).

Cắt bì

11. Việc cắt bì cho người con trai là nghĩa vụ tôn giáo đầu tiên của người cha, và với nghi thức này (x. Lc 2,21) thánh Giuse đã sử dụng quyền hạn và bổn phận của mình đối với Chúa Giêsu.

Nguyên tắc cho rằng cho mọi nghi lễ Cựu Ước đều là hình bóng của thực tại (x. Dt 9,9t; 10,1) được dùng để cắt nghĩa tại sao Chúa Giêsu phải chấp nhận những nghi lễ ấy. Cùng với mọi nghi lễ khác, việc cắt bì cũng “được hoàn thành” nơi Chúa Giêsu. Giao Ước củaThiên Chúa với Abraham, mà nghi thức cắt bì là dấu chỉ (x. St 17,13) đạt được đầy đủ hiệu quả và được thi hành trọn vẹn nơi Chúa Giêsu, Đấng là lời đáp “có” cho mọi lời hứa xưa (x. 2Cr 1,20).

Đặt Tên

12. Vào lúc cắt bì, thánh Giuse đặt tên con trẻ là “Giêsu”. Đây chính là cái tên duy nhất mang lại ơn cứu độ (x. Cv 4,12). Ý nghĩa của tên này đã được mạc khải cho thánh Giuse vào lúc truyền tin: “Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. (x. Mt 1,21). Khi đặt tên, thánh Giuse biểu thị cương vị làm cha hợp pháp của Người đối với Chúa Giêsu, và khi gọi tên ấy, Người tuyên bố sứ mệnh Đấng Cứu thế của Con trẻ.

Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ

13. Nghi thức này, theo thánh Luca kể lại (2,22tt), bao gồm việc chuộc lại người con đầu lòng, đồng thời soi sáng ý nghĩa cho việc sau đó Chúa Giêsu lưu lại Đền Thờ khi lên mười hai tuổi.

Việc chuộc lại người con đầu lòng cũng là một nghĩa vụ nữa của người cha, mà thánh Giuse đã lo chu toàn. Biểu tượng của người con đầu lòng là dân của giao ước từng được chuộc khỏi ách nô lệ để thuộc về Thiên Chúa. Cũng vậy, chính Chúa Giêsu là “giá chuộc” đích thực (x. 1Cr 6,20; 7,23; 1Pr 1,19) chẳng những đã chu toàn một nghi thức của Cựu ước, mà đồng thời vượt trên chính nghi thức ấy, bởi vì không phải Người đã được cứu chuộc mà chính Người là Đấng Cứu Chuộc.

Thánh sử ghi lại rằng “Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời nói về Người” (Lc 2,33). đặc biệt vì những điều Simêon nói lên trong bài ca tụng Thiên Chúa, khi ông đề cập đến Chúa Giêsu như là: “ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân, đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ítraen Dân Ngài” và là “dấu hiệu cho người đời chống báng” (x.Lc 2: 30-34).

Lánh nạn sang Ai Cập

14. Sau sự kiện dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ, thánh sử Luca ghi nhận: “Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nagiarét, miền Galilê. Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2,39-40).

Nhưng theo bản văn của Mát-thêu, một biến cố rất quan trọng đã xảy ra trước khi họ trở về Galilêa, biến cố trong đó Thiên Chúa quan phòng một lần nữa cậy nhờ đến Giuse. Chúng ta đọc thấy: “Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi đấy! " (Mt 2,13) Các nhà chiêm tinh từ phương Đông đến báo cho Hê-rô-đê biết việc hạ sinh của “Đức Vua dân Do thái” (Mt 2,22). Và khi các nhà chiêm tinh đi rồi, ông “sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống” (Mt 2,16). Khi giết hết các hài nhi, ông mong giết được hài nhi “Vua dân Do thái” mới sinh, mà ông vừa nghe biết. Vậy, sau khi được báo mộng, thánh Giuse đã “đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập. Ông ở đó cho đến khi vua Hêrôđê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: ‘Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai cập’” (Mt 2,14-15; x. Hs 11,1).

Và như thế lộ trình của Chúa Giêsu từ Bê-lem về Nagiarét phải qua ngả Ai cập. Cũng như Ítraen đã theo lộ trình xuất hành “từ thân phận nô lệ” để bắt đầu Giao Ước cũ, thì thánh Giuse, người bảo vệ và cộng tác vào mầu nhiệm quan phòng của Thiên Chúa, dù trong lưu đày, cũng đã chăm sóc Đấng thực hiện Giao Ước mới.

Chúa Giêsu lưu lại Đền Thờ

15. Từ lúc Truyền tin, cả Thánh Giuse và Mẹ Maria, theo một nghĩa nào đó, đã là trung tâm của mầu nhiệm được giấu kín từ muôn đời trong ý định Thiên Chúa, mầu nhiệm đã trở thành người phàm: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Người ở giữa loài người, trong nội vi Gia đình Thánh tại Nagiarét – một trong nhiều gia đình sinh sống tại làng nhỏ miền Galilê, một trong nhiều gia đình của xứ Ítraen. Ở đó, Chúa Giêsu “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2,40). Tin Mừng chỉ tóm lược trong vài chữ thời gian dài “sống ẩn dật”. Trong khoảng thời gian này, Chúa Giêsu tự chuẩn bị cho sứ mạng Thiên sai của mình. Chỉ có một tình tiết trong “thời ẩn dật” này được Tin mừng Luca ghi lại: Lễ Vượt qua tại Giêrusalem khi Chúa Giêsu lên mười hai tuổi. Cùng với Mẹ Maria và Thánh Giuse, Chúa Giêsu tham dự cuộc lễ như một thiếu niên trong đoàn hành hương. “Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết” (Lc 2,43). Sau một ngày hành trình, hai ông bà mới nhận thấy thiếu Ngài và bắt đầu tìm kiếm “giữa đám bà con và người quen thuộc”. “Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Ðền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu” (Lc 2,47). Mẹ Maria hỏi: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2,48) Chúa Giêsu trả lời mà “ông bà không hiểu lời Người vừa nói”. Ngài đã nói: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? " (Lc 2,49-50)

Thánh Giuse, người mà Mẹ Maria dùng từ “cha con” để gọi, đã nghe câu trả lời này. Dẫu sao, đó là điều mà mọi người nói và nghĩ: “Chúa Giêsu là con (như vẫn được coi) của Giuse” (Lc 3,23). Tuy nhiên, câu trả lời của Chúa Giêsu trong Đền thờ một lần nữa gợi lên trong trí người “vẫn được coi là cha” điều người ấy đã nghe được trong một đêm mười hai năm trước đó: “Giuse... đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần”. Từ thời điểm ấy trở đi, Giuse biết mình là người bảo vệ mầu nhiệm của Thiên Chúa, và chính mầu nhiệm này mà cậu Giêsu mười hai tuổi nhắc lại cho nhớ: ”Con có bổn phận ở nhà của Cha con".

Việc bảo trợ và giáo dục Đức Giêsu làng Nagiarét

16. Việc Chúa Giêsu lớn lên “thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52). xảy ra trong nội vi Gia đình Thánh dưới sự chăm sóc của thánh Giuse, người có trách vụ quan trọng “nuôi dưỡng” Chúa Giêsu, nghĩa là chăm lo cái ăn cái mặc, và dạy dỗ Người biết Lề Luật và biết mưu sinh, mà vẫn luôn vuông tròn bổn phận làm cha.

Trong Hiến Tế Thánh Thể, Giáo hội kính nhớ Mẹ Maria trọn đời đồng trinh của Thiên Chúa, và thánh Giuse, (29) vì “Người nuôi dưỡng Chúa, Đấng mà người tín hữu phải ăn như là bánh hằng sống”. (30)

Về phần mình, Chúa Giêsu “hằng vâng phục các ngài” (Lc 2,51), cung kính hồi đáp tình yêu của “cha mẹ Người”. Nhờ thế, Người mong thánh hoá những bổn phận gia đình và lao động, mà Người thi hành bên cạnh Thánh Giuse.

Trang Giuse | Trang nhà