CHƯƠNG II:

THIÊN CHÚA

Thưa Hồng Y, tiến bộ khoa học ngày càng lột trần những bí ẩn của tạo dựng. Dù vậy, tạo dựng luôn vẫn là một ẩn số đối với ta. Tại sao Chúa không hiện ra một lần và nói: „Này các con hãy nghe! Hôm nay Ta cho các con biết vũ trụ đã hình thành như thế nào và trái đất tí hon của các con vận hành ra sao“?

Quả thật tạo dựng là một ẩn số; và ta càng biết thêm về nó, khoa vật lí càng đi sâu vào cấu trúc tế vi của vật chất, tạo dựng càng trở nên bí ẩn. Thêm nữa, lịch sử không thể hiểu và không thể lường của loài người cũng là một vũ trụ đầy bí ẩn.

Hẳn nhiên, cuối cùng rồi thì ta vẫn không thể trả lời được câu hỏi: "Tại sao Chúa lại làm như thế?” Tại sao Ngài lặng lẽ như thế? Tại sao Ngài bất lực như thế trong trần gian? Đó là câu hỏi mà chính người có đức tin luôn phải đặt ra. Hay: Tại sao Ngài không tỏ ra dứt khoát và rõ ràng hơn? Nhưng mặt khác, ta phải biết phận ta là hữu hạn. Nếu bỗng dưng thế giới bị lột trần hoàn toàn ra trước mắt ta, và việc lột trần đó vượt quá trí hiểu của ta, thì rồi các thắc mắc trên cũng vẫn không thể lí giải. Thành ra, ta chỉ có thể cố gắng chấp nhận Chúa như Ngài vẫn là, và rồi qua Ngài ta tìm ra ý nghĩa.

Ý nghĩa nào?

Tôi tin rằng, khi ta mạo hiểm vào một lịch sử mà rốt cuộc vẫn không thể hiểu nó nổi, nhưng biết rằng lịch sử đó được tình yêu Chúa nâng đỡ và hướng dẫn, thì rồi với thời gian, ta sẽ nhìn ra từng phần. Mạo hiểm đó là một công tác phù hợp Chúa trao cho loài người chúng ta. Vấn đề không phải là để ta có được một sản phẩm tính toán tiền chế ẩn dấu đâu đó, nhưng là ta bước vào một con đường, và trên con đường đó, chính chúng ta có thể đóng góp vào cái bí ẩn và lớn lao của thế giới. Tôi nghĩ, Chúa đã ban cho ta đủ vốn liếng để ta có thể sống. Và giới hạn nhận thức của ta không chỉ là một thách đố, mà cũng là một quà tặng. Nó dẫn ta vào cuộc phiêu lưu của tiếp tục lên đường, của học hỏi, nhờ đó các chiều kích nơi ta lớn lên dần. Nhưng điều kiện đặt ra ở đây, là phải luôn khiêm tốn cúi mình trước Thiên Chúa, đấng mà ta không thể thấu hiểu.

1. CON NGƯỜI

Nhà thần học Hans Urs von Balthasar* cho rằng, mọi điều có thể được nhìn dưới hai mặt, chúng vừa là dữ kiện vừa là bí ẩn. Ông nói: con người, nếu nhìn như một dữ kiện, thì nó là một sản phẩm ngẫu nhiên bên lề vũ trụ. Nhưng nếu nhìn như một bí ẩn, thì đó là tạo vật được Chúa sinh ra vì chính ơn ích của nó. Lối nhìn đó có phải là nền tảng giúp ta tiếp cận được nhân sinh quan và thế giới quan Ki-tô giáo không?

Đúng, tôi muốn nói như thế. Thoạt tiên, chúng ta thấy những dữ kiện, nghĩa là thấy được thực tại như nó có. Lịch sử cũng được nhìn như vậy, trong đó thật ra mọi chuyện cũng có thể xẩy ra một cách khác. Nhưng con người không ai bằng lòng mình chỉ là dữ kiện. Là vì, ngoài việc biết mình tiên vàn là một dữ kiện thuần tuý, mọi người trong chúng ta đồng thời cũng biết mình không phải chỉ có thế, mà còn là gì hơn thế nữa, và sự có mặt của mình không phải là một ngẫu nhiên.

Vì thế, không nhất thiết phải nhìn con người dưới khía cạnh dữ kiện thuần tuý, rồi bảo rằng, con người chỉ là sinh vật bị trò chơi tiến hoá ném vào thế giới. Không, mọi người đều là sản phẩm mong muốn. Mỗi người là một ý nghĩ của Thiên Chúa. Tất cả mọi sự, thoạt tiên xuất hiện như một dữ kiện, đều được tác động bởi một chương trình và một ý nghĩ. Và nhờ có ý nghĩnày mà cuộc tìm kiếm ý nghĩ riêng của tôi, và việc tôi bước đi cùng với toàn thể cũng như với đường đi của lịch sử trở nên có ý nghĩa.

Mỗi người là một ý nghĩ của Chúa. Nghiã là sao?

Vâng, đó là xác tín nền tảng của Ki-tô giáo. Khi Kinh Thánh dùng hình ảnh để trình bày việc tạo dựng con người: nó được người thợ Thiên Chúa nặn ra và thổi tinh thần vào, thì đó là hình ảnh mẫu được áp dụng cho từng người một. Con người nói về mình trong Thánh Vịnh: Ngài đã tạo ra tôi bằng bùn đất ; Ngài đã thổi hơi cho tôi. Điều này nói lên rằng, mỗi người có một giao tiếp trực tiếp với Chúa. Và như vậy, mỗi người đều mang một vai trò đầy ý nghĩa trong cấu trúc to lớn của lịch sử thế giới, mỗi người đều được đặt để vào một vị trí riêng, và với vị trí đó, nó có thể đóng góp phần không thể thay thế được của mình vào cái toàn thể của lịch sử.

HƠI THỞ THIÊN CHÚA

Sách Sáng Thế viết: Lúc đầu, địa cầu lạnh lẽo và trống không. Thiên Chúa chưa cho mưa xuống. Giờ đây Ngài dựng nên con người, và để làm chuyện đó, Ngài lấy „bụi đất và thổi hơi sự sống vào mũi, nhờ vậy con người trở thành vật sống động“. Hơi sự sống – có phải là câu trả lời cho ta về phát nguyên của con người?

Tôi tin đó là một hình ảnh hết sức lớn và là một tiên đoán quan trọng về con người. Theo đó, con người bắt nguồn từ đất và từ các khả thể của đất. Đoạn phim này ta cũng có thể đọc nó như một thứ tiến hoá. Nhưng không chỉ có thế mà thôi. Một thứ gì nữa đã được thêm vào; nó chẳng phải là đất mà cũng không thể tự phát triển thêm, nhưng là một cái gì hoàn toàn mới: và đó chính là hơi thở Thiên Chúa.

Cơ bản của bức tranh trên là tính hai mặt của con người. Con người vừa thuộc vào vũ trụ, vừa trực tiếp với Chúa. Đức tin Ki-tô giáo cho hay, điều được thông báo cho con người đầu tiên ở đây cũng có giá trị cho từng người một. Nghĩa là mỗi người là một sinh vật, nhưng đồng thời nó còn có cái gì hơn là một sản phẩm gồm những di tử (Gene) và chuỗi DNA, nó là cái gì đến trực tiếp từ Thiên Chúa.

Con người mang hơi thở Thiên Chúa. Nó có thể giống Thiên Chúa, nó có thể vượt lên trên vật chất, vượt lên trên cái được tạo thành. Nó là thứ có một không hai. Nó được Thiên Chúa đoái hoài và được xếp một cách đặc biệt vào cùng loại với Ngài. Qua con người, quả thật một hơi thở mới, hơi thở Thiên Chúa, đã đi vào tạo dựng. Có nhìn con người là tạo vật đặc thù của Chúa như thế, ta mới thấy được nét độc nhất và phẩm giá của nó, và qua đó, mới nhận ra được nền tảng của mọi nhân quyền. Có như thế, con người mới có được sự kính trọng đối với chính mình và với kẻ khác. Nó mang hơi thở của Chúa. Nó biết rằng, nó không chỉ là một kết hợp các vật liệu kiến trúc, mà còn là một ý nghĩriêng tư của Thiên Chúa.

Con người đầu tiên được Chúa thở hơi mang tên Adam,theo tiếng Hi-lạp nghĩa là người, đồng thời cũng là Adama, một lối chơi chữ, có nghĩa là đất. Sách ghi, Thiên Chúa đã lập nên một mảnh vườn trong địa đàng cho con người đó. Có phải hình ảnh biểu trưng đó đã nói lên mục đích sinh thành của con người?

Hẳn nó cho chúng ta biết về chuyện đó. Vườn biểu tượng cho tạo dựng lành lặn và cuộc sống an toàn. Trong đó tạo dựng không bị phá hoại hay bị lợi dụng, nhưng được chăm sóc và che chở - và được tiếp tục hình thành về mặt tinh thần. Hình ảnh đó nói lên tất cả tầm xa, nét tươi vui và sự chở che trong tạo dựng. Nó cho hay, Chúa muốn cho ta sống hài hoà với tạo dựng và được sống an toàn bên Ngài. Như thế, nó cho thấy hai khía cạnh nơi con người: là kẻ canh giữ tạo dựng, đồng thời có quan hệ trực tiếp với Chúa, để có thể nhờ Ngài và cùng với Ngài chia sẻ gánh tạo dựng.

Sách Khởi-nguyên cho thấy tạo dựng là một tiến trình. Mọi chuyện được hình thành từng bước. Và trong tiến trình đó Chúa nhận thấy „con người ở một mình không tốt. Ta muốn giúp nó có đối vật để hỗ trợ nó“. Vì thế Ngài đã dùng đất tạo ra muôn thú trên đồng và muôn chim trên trời và đưa chúng cho con người, để xem con người muốn đặt tên gì cho chúng. Một cơ hội tốt để nói về thú vật, là loài sống gần với ta. Adam đặt cho mỗi loài một tên. Ta có được phép sử dụng thú vật và ăn thịt chúng không?

Đây là một câu hỏi rất nghiêm túc. Rõ ràng loài vật được trao cho ta canh giữ, và ta không được đối xử một cách tuỳ tiện với chúng. Cả loài thú cũng là tạo vật của Chúa, tuy chúng không được tạo ra trực tiếp như con người, nhưng vẫn là những vật do Ngài muốn, và ta phải quý trọng chúng như là những kẻ đồng hành và như những thành tố quan trọng của tạo dựng.

Về câu hỏi có được phép giết và ăn thịt thú không, đã có câu trả lời lạ lùng trong Kinh Thánh. Theo đó, thoạt tiên của ăn của loài người là cây cỏ. Chỉ sau khi xẩy ra nạn hồng thuỷ, nghĩa là sau cuộc đứt đoạn mới giữa con người với Chúa, Ngài mới để cho con người tự quyết định việc ăn thịt thú vật. Điều này có nghĩa là, ăn thịt thuộc vào trật tự hạng hai và nó cũng chỉ được thông báo về sau. Dẫu sao, nếu việc ăn thịt thú có làm buồn lòng một người nào, ta cũng không nên để mình trở nên môn đồ của phái thờ thú vật.

Nghĩa là con người cũng được phép ăn thịt thú. Không ai cấm họ dùng thú làm của ăn, nhưng khi làm điều đó, họ nên giữ lòng quý trọng thú vật. Còn cái lối dùng thú như kĩ nghệ làm, như nhồi nhét cho ngan ăn để có gan lớn, hay khoá gà trong chuồng biến chúng thành những con vật dị hợm, cái lối hạ sinh vật xuống thành hàng hoá đó, tôi cho rằng phản lại sự tương thuộc giữa người và thú, như Kinh Thánh đã chỉ cho ta thấy.

Thế giới thú vật quả là một tạo dựng đầy man rợ. Ai cũng biết, có những loài thú có thể bất cứ lúc nào cũng săn đuổi, cắn xé và giết đồng loại. Con nào thoát, con đó thật sự có được cơ hội lớn để huỷ diệt con khác.

Quả là một ẩn số của tạo dựng, khi xem ra trong tạo dựng có sự hiện diện của quy luật bạo tàn. Nhà văn công giáo Reinhold Schneider, người vốn có khuynh hướng suy nhược thần kinh, đã lột trần mọi cái khủng khiếp trong thiên nhiên và trong thế giới loài thú ra cùng với cái nhìn thật chi li của một con người đau khổ. Và ông đã tuyệt vọng về Chúa và về tạo dựng.

Giáo Hội vẫn luôn tin rằng, sự rối loạn của tội tổ tông ảnh hưởng cả lên tạo dựng. Nó khiến cho tạo dựng không còn phản ảnh í định trong suốt của Thiên Chúa nữa. Nó làm cho mọi thứ, một cách nào đó, bị biến dạng. Thành ra chúng ta đứng trước những bí ẩn. Dù sao, thế giới loài vật cũng đã gợi lên cho ta thấy trước những nguy hại có thể có nơi con người.

NGƯỜI NAM VÀ NGƯỜI NỮ

Theo sách Khởi-nguyên, kể từ đây thế giới có lẽ mới được trở thành là thế giới loài người. Chúa tiếp tục tạo ra các đối vật cho con người, và Kinh Thánh khoác cho hành vi đó một bức tranh tuyệt mĩ. Kinh Thánh viết: „Nhưng con người không tìm thấy sự hỗ trợ trong đối vật“. Chúa liền để cho con người ngủ say, rút một xương sườn ra và lấy thịt lấp chỗ đó lại. Thiên Chúa dùng xương sườn này làm thành một người nữ và đưa tới cho Adam. Và con người thốt lên: „Đây mới thật xương của xương tôi, thịt từ thịt tôi“. Kinh Thánh tiếp, từ đó người nam bỏ cha mẹ và hợp với vợ mình để thành một xương thịt.

Adam, theo ngữ nghĩa là „người”, gọi vợ mình là Eva. Eva có nghĩa là sự sống, và như thế Eva là mẹ của mọi loài sinh vật. Có lẽ cho tới ngày nay, các ông vẫn còn cảm thấy mất mát về vụ tặng xương đó, hình như trong chuyện này ẩn chứa một bí mật lớn nào đó ?

Đây cũng là một trong những hình ảnh nguyên mẫu mà Kinh Thánh đã tặng cho ta, để nhờ đó ta hiểu được những điều khó hiểu. Trước hết, ở đây nhấn mạnh tới sự bình đẳng giữa nam và nữ. Cả hai là một bản chất và cùng có một phẩm giá. Dù sao, ở đây, sự bình đẳng phẩm giá đã được trình bày một cách thật tài tình. Điểm thứ hai là sự tương thuộc lẫn nhau. Điều này thể hiện qua vết thương hiện hữu trong mỗi chúng ta và nó dẫn ta đi tới với người khác.

Hình ảnh, mà ta gặp trong Kinh Thánh ở đây, đã xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau trải dài trong toàn bộ lịch sử tôn giáo. Cả Platon* cũng đã kể về huyền thoại con người cắt đôi và mỗi nửa trở thành người nam và người nữ. Nhìn như thế, thì mỗi người chỉ là một nửa, và nửa này luôn trên đường đi tìm nửa kia của nó. Dịch chữ „xương sườn“ không chắc lắm. Có lẽ ở đây cũng là hình ảnh tương tự như trên, trong đó con người tự phân đôi và nửa này được tạo thành cho nửa kia. Người nam cho người nữ, người nữ cho người nam. Họ tìm kiếm nhau, để gặp lại cái toàn thể của họ.

Và nếu làm khác đi thì không có cái toàn thể đó?

Con người được tạo ra trong nhu cầu cần tới người khác, để nó vượt qua được chính mình. Nó cần sự bổ túc. Nó không được tạo ra để sống đơn độc, điều này không tốt cho nó, mà để sống vì nhau. Nó phải tìm và gặp nó trong người khác.Sau đoạn sách Khởi-nguyên đó, ta cũng thấy tiếp câu tiên tri: vì thế người nam sẽ bỏ cha mẹ để cùng với vợ mình kết thành một thân xác. Họ trở thành một thân xác với nhau, cùng nhau thành một con người. Toàn bộ bi kịch về nhu cầu của phái tính, về sự cần nhau, về tình yêu đều nằm trong đó. Ngoài ra, trong đó cũng nói tới việc hai người trao thân cho nhau, để chính từ việc trao thân này phát sinh một sự sống mới, và cả hai rốt cuộc hiến mình cho sự sống mới đó. Như thế, ở đây, bí ẩn hôn nhân cũng đã được nói tới, và cả chuyện gia đình cũng đã được nhắm tới.

Lắm lúc người ta có thể nghĩ rằng, đàn bà là tạo vật thành công và tốt hơn đàn ông, vì họ được tạo dựng sau. Họ xem ra không những đẹp hơn, mà cả phát triển hơn.

Tôi không muốn mở ra đề tài tranh luận này. Không chối cãi là đàn bà có nhiều khả năng đặc biệt, và trong một khía cạnh nào đó, giỏi chịu đựng và dai sức hơn. Và với khả năng yêu đặc biệt trời cho, họ có thể mang trong mình một con người mới và trao đi chính mình, máu thịt mình cho con người mới đó, tất cả những thứ đó làm cho người đàn bà có được sự tôn vinh và nét cao cả riêng. Còn những thứ khác, chúng ta nam hay nữ nên trao lại cho Chúa, và cả hai nên cố gắng cùng nhau sống sao cho đời mình được tốt đẹp.

Trên thực tế, có lẽ cả nam lẫn nữ không phải là hai bản chất hoàn toàn khác nhau?

Đúng, nhưng chúng ta cứ muốn chống lại điều đó. Cả hai đều là một con người. Và vì thân xác không chỉ là một phụ phẩm bên ngoài thêm vào cho con người, nên sự khác biệt thân xác dĩ nhiên là một khác biệt xuyên suốt toàn thể con người, và có thể nói, nó biểu hiện cho hai cách thế làm người. Tôi nghĩ, ta phải chống lại những thuyết sai trái về quan niệm bình đẳng cũng như về khác biệt.

Sai, nếu ta chủ trương đánh đồng nam nữ, rồi bảo rằng mấy cái khác biệt thể lí lẻ tẻ đó chẳng ăn nhập gì. Đây là khuynh hướng ngày nay đang chiếm thế thượng phong. Cá nhân tôi vẫn chưa hết rùng mình trước cảnh người ta muốn gọi nữ giới nhập ngũ. Đúng ra, họ là người canh giữ hoà bình, và chúng ta muốn thấy họ là lực lượng đối địch lại với tính ham gây gỗ và thích chiến tranh của nam giới. Vậy mà giờ đây họ lại ôm súng lang thang đây đó, cho thấy mình cũng có khả năng đánh nhau không thua gì nam giới. Cũng như cảnh phụ nữ có “quyền” làm phu đổ rác và làm thợ mỏ. Tất cả những gì lẽ ra người ta không nên làm cho họ, vì kính trọng nét cao cả, kính trọng sự khác biệt lớn lao và phẩm giá của họ, thì giờ đây người ta lại làm vì nhân danh bình đẳng. Theo tôi, đó là cái nhìn của chủ nghĩa ma-ni-kê, một chủ nghĩa chống lại thân xác.

Nhưng đó nhất định không phải là một khám phá của thời đại chúng ta.

Platon bảo, người ta nên đẩy cả nam lẫn nữ vào trại lính, cả hai nên làm công việc như nhau, vì cơ thể chẳng có gì quan trọng. Con người chỉ quan trọng nơi trí tuệ, và khi có con cái, nên đưa chúng vào vườn trẻ của nhà nước. Trên căn bản, ý hệbình đẳng này là một chủ trương duy linh, một thứ khinh miệt thân xác, ý hệđó không muốn công nhận chính thân xác cũng là con người. Vì thế, theo tôi, loại bình đẳng đó không nâng cao nữ giới, nhưng lấy đi nét cao cả nơi họ. Nó kéo họ xuống hạng tầm thường, khi muốn họ trở thành nam giới.

Mặt khác, cũng có một ý hệgiả tạo về khác biệt. Nó thường nhìn phái nữ như là hạng người thấp kém, chỉ có nấu nướng và quét dọn, trong khi đó các ông có quyền ăn nói, ra trận và tự coi mình ở vào một giai cấp cao hơn. Nó coi phái nữ chỉ là xác thịt, nhục dục, trí tuệ hẹp hòi, kém sáng tạo, và nhiều thứ khác nữa. Như thế, ý hệkhác biệt đã vươn lên thành chủ trương giai cấp mang tính tôn giáo. Nhận thức đó che lấp đi tính cách độc đáo của tạo dựng. Tạo dựng của Chúa thật đa dạng, nhưng vẫn mang tính thống nhất và bổ túc cho nhau.

Dù vậy, không ít khi các đôi vợ chồng thường chia tay bằng cuộc cãi cọ nhuốm màu phái tính.

Nam và nữ thuộc vào nhau. Họ có những năng khiếu cần được phát huy, để nhờ đó, đời người mới toả rộng chân trời và mới trưởng thành. Dĩ nhiên, ta biết cái khác biệt trong sự nhất thống đó có thể đưa tới căng thẳng và thử thách. Trong mỗi tình bạn cũng thế. Càng gần nhau, người ta cũng có thể bực bội nhau nhiều hơn.

Tình yêu là một đòi hỏi không cho phép tôi được yên thân nguyên vẹn một mình. Trong tình yêu, tôi không thể đơn giản vẫn là tôi, nhưng tôi luôn phải bỏ mình bằng cách bị gọt dũa, bị thương tích. Và tôi nghĩ, chính điều đó cũng là thành phần của tầm lớn và sức mạnh chữa trị của tình yêu, nó chấn thương tôi, để làm thức dậy những khả thể lớn hơn trong tôi. Vì thế, không được nghĩ rằng tình yêu chỉ có tính lãng mạn mà thôi, nghĩa là bầu trời đã ập xuống trên hai người khi họ hợp í nhau, và từ lúc đó trở đi, chỉ còn toàn là điều tốt mà thôi.

Phải coi tình yêu như đam mê. Chỉ khi ta sẵn sàng chịu đựng nó như đam mê, và luôn chấp nhận nhau một cách mới mẻ, thì cuộc tình duyên suốt đời mới có thể trưởng thành. Nếu không như thế, khi gặp khủng hoảng, ta sẽ tìm cách tránh né và rã nhau. Và như vậy, ta đánh mất cơ hội đích thực nằm sẵn trong sự kết hợp nam nữ, cũng là cơ hội nằm sẵn trong thực tại tình yêu.  

BÊN KIA ĐỊA ĐÀNG - TỘI TỔ TÔNG

Chúng ta đã nói tới một chệch hướng nào đó đã xẩy ra trong tạo dựng. Cái nhìn đó là nền tảng cho giáo huấn về tội tổ tông, do thánh An-tịnh hình thành. Giáo huấn dạy, vì tội Adam ngảnh mặt lại với Chúa và Eva bị cám dỗ ăn trái cây hiểu biết, nên sự chết và tội đã đi vào thế gian. Xưa nay, người ta vẫn luôn tranh cãi gay gắt về giáo huấn này, kể cả trong Giáo Hội. Sách Khởi-nguyên còn nói, con người bỗng dưng sợ Chúa. Phải chăng tội tổ tông quả là nét bản chất nền tảng nhất của con người không?

Không, tội tổ tông không phải là nét bản chất nền tảng nhất, nhưng nó là một thực tại mà ta có thể cảm nhận được sự hiện diện của nó – cả cho dù ta chỉ nhận ra nguồn gốc phát sinh của nó qua hình ảnh mà thôi. Một người bạn tôi đã khuất, ông ta là tay phê phán rất gay gắt, có lần nói với tôi: Tôi quả gặp khó khăn với nhiều tín điều. Nhưng có một tín điều mà tôi chả cần phải tin, là vì tôi cảm nhận nó hàng ngày, đó là tội tổ tông.

Qua những suy tư về con người trên đây, ta luôn nhận ra một nếp gẫy, một gián đoạn nào đó nơi con người, khiến nó không trở nên được như nó có thể trở nên. Sách Khởi-nguyên xem nếp gẫy đó như thể là một thời điểm khởi đầu lịch sử. Kinh Thánh Cựu Ước chưa coi điều đó là hậu quả của tội nguyên, nhưng Cựu Ước càng ngày càng gây nơi ta ý thứcrằng, con người luôn hướng về sự dữ. Và trong Kinh Thánh, chính Chúa đã nói trước và sau cơn hồng thuỷ: “Ta thấy chúng chỉ là xác thịt, chúng yếu ớt, chúng ngã theo sự dữ”.

Giáo huấn tội nguyên do An-tịnh đưa ra, đúng, nhưng căn bản nội dung của nó đã nằm sẵn trong thư gởi Rô-ma của thánh Phao-lô. Phao-lô một lần nữa đọc câu chuyện trong Khởi-nguyên dưới ánh sáng Đức Ki-tô. Và ngài nhận ra toàn bộ lịch sử đã được kể ra qua câu chuyện khởi đầu đó. Ngài bảo, ngay từ đầu, con người đã mang nỗi kiêu căng cho rằng mình đã nắm được chìa khoá hiểu biết, chẳng cần gì Chúa nữa, cũng chẳng cần chìa khoá mở ra sự sống, chẳng phải chết nữa, và vân vân. Từ việc rút lui khỏi Chúa, con người rốt cuộc trốn mặt Ngài. Lòng tín thác của tình yêu bỗng dưng trở thành nỗi sợ hãi trước một Thiên chúa đáng sợ và quá quyền uy.

Nghĩa là, ngay từ đầu, con người bị khống chế bởi ám ảnh của sự hiểu biết, và đó là tất cả cái bất hạnh của con người?

Đối với Phao-lô, câu chuyện trong sách Khởi-nguyên rõ ràng minh chứng cho thấy cái gián đoạn nơi con người, lạ thay, đã có ngay từ đầu. Nó là kết quả của toàn bộ lịch sử con người, mà ta phải biết tới. Tuy nhiên, kết quả đó chỉ có thể được trình bày ra và nghĩ ra một cách rõ ràng đầy đủ, một khi lực đối đầu xuất hiện. Nghiã là chỉ sau khi Đức Ki-tô đến và đi ngược lại nó, thì cái gián đoạn kia mới có thể gánh chịu được, và có thể nói, mới được công nhận, vấn đề là thế.

Cũng thuộc thư gởi Rô-ma của Phao-lô còn có thư gởi Phi-líp, chương hai, như một bài thánh ca của Ki-tô giáo sơ khai, (thư này) xuất hiện trước Phao-lô. Theo thư này, Adam giờ đây muốn giật lấy chìa khóa hiểu biết cho mình, và như vậy là muốn chiếm đoạt những gì dành riêng cho Chúa. Adam muốn cao bằng Chúa và chẳng cần Ngài nữa.

Nhưng Thiên Chúa đã tạo ra một lịch sử đối nghịch, khi Ngài xuống trần qua Đức Ki-tô, sống thân phận nghèo hèn con người cho tới chết trên thập giá. Qua đó, Ngài lại mở ra cánh cửa giúp ta có thể quay về với Chúa, và giúp ta nhận ra kiêu căng chính là hạt nhân mọi tội lỗi. Ngài đã cùng đau với ta, để kéo ta vào lại trong cộng đoàn gia đình Ngài. Vì thế, tôi tin rằng, ta không bao giờ được tách tường thuật Khởi-nguyên ra khỏi lịch sử Đức Ki-tô, khi đọc sách đó.

Nhưng, sau cái chết của Đức Ki-tô chết trên thập giá, tội tổ tông vẫn không được bứng ra khỏi thế gian.

Không, nó vẫn còn đó, ai cũng thấy. Nhưng trước đây, nó là vật cản bí ẩn và là nếp gẫy mà ta không vượt qua được, thì giờ đây đã có câu trả lời qua sức mạnh thứ tha của Chúa. Sức mạnh này làm cho hoạt động của ta, cuộc sống ta, việc làm của ta trở nên không phải vô ích. Nhưng nó đưa chúng vào một nội dung khác, và như vậy, nó cũng đề ra cho chính chúng ta một mẫu sống đức tin. Nếu ta sống theo nó, nghĩa là cùng bước đi với Đức Ki-tô, ta sẽ vượt qua được mọi vật cản, mọi nếp gẫy.

Tuy nhiên, Thiên Chúa không những cất đi ơn nên thánh khỏi Adam và Eva, mà còn khỏi cả nhân loại. Tại sao? Chúng ta là hậu sinh, đâu có tội tình gì?

Quan trọng là phải hiểu chữ tổ tông hay sự hiện hữu liên tục của nếp gãy nơi con người như thế nào. Chắc chắn các câu trả lời của ta cũng chẳng giải toả được hết mọi điều. Nhưng ta hãy bắt đầu với từ ơn nên thánh.

Mất ơn đó, có nghĩa là tương giao bị gián đoạn. Ta mất sự liên lạc đầy tin cậy và sống động với Chúa. Liên lạc này là cội nguồn và có lực chữa lành mọi liên lạc giữa người với người. Mất liên lạc, Chúa trở thành lu mờ trong ta. Ta trốn Ngài, và vì lô cốt của ta xây kĩ quá, nên ta cũng chẳng còn thấy Ngài nữa.

Chúng ta sinh ra trong gián đoạn liên lạc đó, trong thế giới đổ vỡ quan hệ đó. Và ta thấy Kinh Thánh diễn tả điều đó một cách tâm lí tuyệt hay, khi kể rằng, sau vụ phạm tội, Adam và Eva lập tức đổ lỗi cho nhau trước mặt Chúa. Như thế, gián đoạn tương giao với Chúa tức khắc khiến con người đâm ra chống đối nhau. Bởi vì ai chống Chúa, kẻ đó cũng chống lại người khác.

Như vậy, mất ơn nên thánh như là hạt nhân của tội nguyên tổ có nghĩa là một gián đoạn tương giao đã xẩy ra, và gián đoạn này đã trở thành một thành phần của cấu trúc lịch sử con người. Dĩ nhiên, mỗi chúng ta chẳng có lỗi gì trong chuyện này, nhưng vì chúng ta được sinh ra trong đó, nên ta cần đến người tái lập tương giao kia. Và vì Chúa chẳng muốn hành hạ hay tra tấn hoặc phạt con người, nên Ngài đã tự mình nối lại tương giao, và qua đó, sửa lại cái đã đổ vỡ. Khi ta nói về tội nguyên tổ, nghĩa là nói về cái tương giao đổ vỡ mà ta bị thẩy vào trong đó, ta phải luôn nói thêm, là Chúa cũng đã khởi sự lập tức nối lại và chữa lành lại tương giao đó. Nếu nói tới tội nguyên, mà không đề cập gì tới câu trả lời của Chúa, thì quả ta rơi vào vòng phi lí.

Kinh Thánh viết tiếp, cả hai liền mở mắt ra “và nhận thấy mình trần truồng. Họ kết lá cây vải làm khố che thân”. Tôi nghĩ, quả là chuyện khó chấp nhận, một huyền thoại thật cổ xưa và cơ bản như thế mà lại dính tới chuyện đạo đức thái quá như thế?

Không, chắc chắn không. Bức tranh đó nói lên rằng, con người không còn ở trong hào quang của Chúa nữa, họ cũng không còn nhìn nhau dưới hào quang đó nữa, họ thấy nhau như trần truồng và chẳng còn có thể chấp nhận nhau dễ dàng nữa. Tình trạng bình thường của tương giao, cả ở đây nữa, cũng bị chấn thương. Chúng ta dấu mặt nhau qua tấm áo, hay nói khác đi, phải chứng minh cho nhau qua những yếu tố xã hội bên ngoài. Như vậy, tấm áo trở nên biểu trưng cho chính con người đó, ta muốn dùng nó để tạo lại một cách bề ngoài phẩm giá bên trong đã bị thương tích của ta.Bức tranh hàm chứa một khoa thần học hay triết học về quần áo. Bức tranh đó hẳn cũng nói lên một cái nhìn thâm sâu về nhân chủng, mà tôi tin rằng, ta còn phải suy nghĩ lại trong từng điểm một. Nhưng, bảo rằng tội nguyên tổ đã tạo ra cái đạo đức quá đáng kia, thì chắc chắn không đúng.

LINH HỒN 

Ta từ đâu tới, ta như thế nào, đó là những câu hỏi nền tảng của con người. Thánh An-tịnh đã nói lên thao thức đó. Rất lâu trước Sigmund Freud*, An-tịnh đã thích thú tìm hiểu hai điều, như chính ngài nói: “Tôi chỉ muốn biết Chúa và linh hồn mà thôi, ngoài ra chẳng có gì nữa”.

Câu chuyện tạo dựng phân biệt ra hai thế giới lớn. Thế giới của những gì thuộc thân xác, và thế giới những gì thuộc thần linh. Con người ở giữa, dự phần cả hai thế giới. Nó được tạo thành bởi xác và hồn. Và hồn này mang tính thiêng liêng. Tắt lại, có thể nói được đó là hai thành tố chính của con người không?

Đúng. Con người là cây cầu nối liền hai thế giới. Nó là nơi hội tụ của hai thế giới vật chất và tinh thần, và nhờ vậy, nó có một vị trí đặc biệt trong toàn bộ cấu trúc của tạo dựng.

Qua con người, vật chất tự nâng mình lên nhập vào lãnh vực tinh thần, và qua sự nối kết đó, cả hai cho thấy cũng phù hợp với nhau. Vật chất không còn được xem là cái gì biệt lập và không thể nối kết được với tinh thần. Qua nối kết này, sự nhất thống của tạo dựng đã tỏ hiện ra nơi con người. Con người, nhờ vậy, đã nhận được một nhiệm vụ rất đặc biệt: Là kẻ đồng mang sự nhất thống của tạo dựng, nó nhập thể tinh thần vào mình, và ngược lại, nâng vật chất lên tới Chúa. Và như vậy, tất cả trong mọi sự, con người góp phần vào bản đại hoà tấu của tạo dựng.

Người ta gần như đã giải mã được hết hệ thống di tử của con người. Nhưng có một câu hỏi có lẽ các nhà khoa học luôn vẫn còn đặt ra: Linh hồn con người nằm ở đâu? Đức tin có trả lời được câu hỏi này không?

Chẳng ai xác định được Thiên Chúa ở đâu, chẳng hạn trên hành tinh nào. Linh hồn cũng thế, chẳng ở trong tim, mà cũng chẳng ở trong đầu, đó là hai nơi mà người xưa vẫn quan niệm. Linh hồn không thể xác định được vị trí, nhưng nó xuyên thấm toàn bộ con người. Kinh Thánh Cựu Ước đưa ra nhiều biểu tượng về linh hồn: gan, thận, lòng mẹ, tim, nghĩa là nó khoác áo nhiều thứ cơ phận khác nhau. Toàn bộ thân xác mang nhiệm vụ của linh hồn. Mỗi cơ phận biểu trưng cho một khía cạnh hiện hữu con người và biểu trưng cho hồn người. Điều đó nói lên rằng, toàn thân con người đều đượm hồn, và hồn, nói chung, tự thể hiện ra theo những cách thế khác nhau. Như vậy, có thể nói: Hồn có những tụ điểm, nhưng nó không có vị trí địa dư.

Có phải lương tâm - thứ thỉnh thoảng vẫn gây phiền toái kinh khủng cho con người - là một thành phần của hồn? Hay lương tâm chỉ là cái gì được tạo thành theo thời gian, như một số người vẫn tin?

Lương tâm, dĩ nhiên, là một cái gì sống động. Vì thế, nó có thể trở nên chín chắn hay bị méo mó trong một người. Không thể chối cãi, là lương tâm cũng bị các thực tế xã hội quanh tôi ảnh hưởng lên cách hoạt động cụ thể của nó. Môi trường xã hội vừa có những hỗ trợ giúp nó hình thành và triển nở, mà cũng có những nguy cơ bào mòn hay khiến nó chệch đường, những nguy cơ có thể tạo nên thứ lương tâm sai trái, dửng dưng hay bất nhẫn.

Có những người không có lương tâm?

Tôi dám nói rằng, không thể có ai tự í giết người, mà không biết rằng đó là điều xấu cả. Thế nào người đó cũng biết, đó là việc không nên. Thấy một người trong cơn vô cùng quẫn bách, tôi không thể không cảm thấy phải làm một cái gì cho họ. Có thể nói, có một tiếng gọi uyên nguyên nằm sẵn trong con người, có một cảm thức nguồn cội về điều tốt, điều xấu. Ngay dù người ta huấn luyện mật vụ quốc-xã giết người để phục vụ chủng tộc Đức, và bảo đó là tốt, và dù Göring* bảo, lương tâm của chúng ta mang tên Adolf Hitler, và chỉ có Hitler là chuẩn mực, thì những tay quốc-xã đó cũng hiểu, đó không phải là cái gì tốt. Và vì thế, ngay trong những hoàn cảnh xâm phạm sự sống nghiệt ngã như thế, ta vẫn thấy con người thật sự mang sẵn một hiểu biết nền tảng nội tâm sâu xa. Như vậy, đạo đức không chỉ là cái gì bên ngoài được tạo thành do giáo dục, nhưng khả năng phân biệt nền tảng giữa tốt và xấu là một thành phần của cấu trúc tinh thần con người.

Trong thánh lễ, có câu thưa: “Xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành”. Phải chăng chỉ có Chúa mới cứu độ được hồn ta?

Vâng, chỉ có Ngài mà thôi. Nhưng để cứu độ hồn, Ngài cũng dựng lên quanh ta những lực chữa trị. Và ở đây, ta lại thấy quan hệ giữa ta với Chúa được phát triển thông qua con người. Chúa muốn vậy, Ngài muốn tới với ta qua con người. Và rồi, qua con người, Ngài cũng nói lên lời tha thứ trong bí tích hoà giải, sự tha thứ thật ra chỉ có Ngài mới có quyền mà thôi. Chỉ có Chúa mới có thể nói lên lời tha tội, vì tội rốt cuộc là cái gì chống lại chính Ngài.

Việc cứu độ luôn cần sự đồng gánh vác của kẻ khác, cần sự thứ tha, chấp nhận, lòng tốt của họ. Chỉ trong tiến trình đồng hành với nhau, được soi sáng bởi niềm tin vào Chúa, ta mới có được những cứu độ cần thiết.

Các nhà phê bình đức tin, sau khi trình bày về một tổng kết khủng khiếp của Ki-tô giáo đối với văn minh nhân loại, cho rằng, những khái niệm như tội tổ tông là một trong những “tật bẩm sinh” của một “tôn giáo thế giới đã trở nên cằn cỗi”. Họ cho rằng, các ý tưởng đó chỉ là bịa đặt và chúng khinh miệt con người, vì chúng tạo cho con người định kiến là mình đã bị “hư mất”.

Và một triết lí sống tân thời ngày nay nói: Mày làm được mọi chuyện, nếu mày muốn; hãy quẳng gánh lo đi và vui sống. Giáo huấn nền tảng Ki-tô giáo về nguyên tội và về sự ăn năn xem ra khá yếu trước những lập luận đó. Chẳng mấy ai màng tới nó nữa.

Nietzsche* cũng đã đặc biệt nói tới điều đó. Ông bảo rằng, Ki-tô giáo là một tôn giáo tình cảm, nó bị thiệt thòi nên giờ đây muốn rửa hận, bằng cách đề cao sự lớn lao của cái bé nhỏ và làm chuyện ngược đời, là thay vì tôn vinh kẻ mạnh, thì lại xiển dương người đau khổ. Như vậy, nó là triết lí của bọn nô lệ, chúng muốn trả thù bằng cách đổ tội lỗi trên đầu con người.

Ý nghĩcho rằng Ki-tô giáo nô lệ hoá con người và Giáo Hội tìm cách trấn át tín hữu, bằng cách luôn nói tới tội và rồi lại tự cho mình có quyền tha tội, quả rất phổ biến. Đúng, nơi đâu con người không còn nhìn ra Chúa, nơi đó đương nhiên tội lỗi mất hết ý nghĩa. Bởi vì, khi Chúa chẳng đụng gì tôi cả, khi Ngài chẳng quan tâm gì tới tôi, thì cũng chẳng có quan hệ đổ vỡ nào giữa Ngài với tôi – bởi thật ra hai bên chẳng có quan hệ nào nữa cả. Như vậy, xem ra tội đã được đẩy qua một bên. Và thoạt nhìn, người ta có thể nói, giờ đây cuộc sống quả thật vui, thật nhẹ nhàng, đời ta lên hương.

Nhưng người ta sẽ sớm thấy ngay, cuộc lên hương chỉ là thoáng chốc. Ngay cả khi người ta chẳng còn muốn biết gì về tội, và đầu óc của họ xem ra chẳng còn phải nhọc mệt nghĩ ngợi gì nữa, thì họ vẫn nhận ra có sự hiện diện của tội. Cuối cùng rồi họ cũng phải nhận ra rằng, giữa tôi và anh còn có những hoá đơn chưa thanh toán, và còn có những nợ nần phải trả. Từ đó, những tội tập thể cũng lần hiện ra.

Ta hãy nhìn vào cảnh quan hiện tại. Con người thời nay gần như không còn ý thứcgì về tội chống lại Chúa nữa. Nhưng đồng thời họ lại nhất quyết vạch ra tội lịch sử. Dân tộc Đức, có thể nói, cứ gặm nhấm tội lỗi mình và đau khổ vì chúng. Ta thấy, như thế, vấn đề không dễ gì giải quyết được. Khi người ta chối Chúa và từ chối một í muốn của Ngài, người ta có thể gạt bỏ được ý niệmtội qua một bên, nhưng không thể gạt bỏ được vấn nạn của nhân sinh thể hiện trong đó.

TỰ DO 

Theo giáo huấn Ki-tô giáo, năng khiếu là những món quà Chúa tặng cho cuộc sống. Để làm hoa trái cho cuộc sống con người. Vậy tự do cũng là quà tặng, hay nó đúng hơn là một hồng ân của Chúa?

Ta hiểu hồng ân là sự thân thiện của Chúa đối với con người. Trong hồng ân, sự ân cần của Chúa tỏ ra một cách mới và đặc biệt đối với con người, và Ngài ban tặng cho họ một cái gì, có thể nói, chưa có trong tạo dựng. Tự do, trái lại, là cái đã có trong cấu trúc tạo dựng, là một thực thể của tinh thần con người. Chúng ta đã không được tiền định, và đã không được tạo thành theo một khuôn mẫu nhất định nào đó. Tự do có mặt, là để giúp mỗi người có thể tự hoạch định cuộc đời mình, và, cùng với tiếng Vâng nội tâm, nó giúp ta có thể bước theo con đường phù hợp với chủng loại mình. Với ý nghĩa đó, tôi cho rằng, tự do không phải là một hồng ân, nhưng đúng hơn là một quà tặng tạo dựng.

Nhưng câu hỏi đặt ra, đâu là giá trị thật sự của tự do đó? Phải chăng khi người ta cố tình dùng tự do đó làm chuyện không hợp í Chúa, người ta sẽ bị phạt muôn đời muôn kiếp?

Phạt có nghĩa là gì trong ngôn ngữ của Chúa? Có phải Ngài phạt những ai cố tình làm theo í riêng mình không? Không. Phạt là tình trạng xẩy ra khi một người nào đó không hành động hay sống xứng hợp với bản chất con người. Chẳng hạn như khi người đó giết người. Hay khi anh ta miệt thị phẩm giá kẻ khác, khi anh ta sống trái với chân lí v.v. Khi đó, đúng là đương sự đang sử dụng tự do của mình đấy, nhưng anh ta đồng thời lạm dụng tự do đó. Anh ta phá vỡ và dày đạp lên kế hoạch sống đã được dự thảo cho anh. Và như vậy, anh ta cũng làm hại chính anh. Tự do có nghĩa là tôi tự nguyện chấp nhận những gì con người tôi có thể làm. Và những gì có thể làm ở đây không chỉ hạn chế vào trong một chọn lựa giữa cái có và cái không mà thôi. Bởi vì, bên trên cái không, còn mở ra muôn vàn khả thể mang tính sáng tạo của sự thiện, mà ta có thể chọn lựa. Như vậy, trên căn bản, khi tôi từ chối nói không với sự dữ, lúc đó tôi mất tự do, tự do trở thành sa đoạ. Tự do chỉ tìm được không gian sáng tạo lớn trong lãnh vực sự thiện mà thôi. Tình yêu mang tính sáng tạo, chân lí mang tính sáng tạo - chỉ trong lãnh vực đó mắt tôi mới mở ra, nơi đó tôi mới nhận ra được rất nhiều thứ.

Khi ta nhìn vào gương sống của những mẫu người lớn, của các thánh, ta sẽ thấy, suốt dọc dài lịch sử, họ đã mở ra cho ta một cách sáng tạo những khả năng hoàn toàn mới của con người, khả năng mà những kẻ có tâm đui mù hay cằn cỗi không thể nhận ra được. Nói cách khác: Tự do đạt tới tác động đích thực, khi nó mở ra cái chưa được khám phá hay cái có thể khám phá trong vùng trời rộng lớn của sự thiện, và qua đó, nó mở rộng thêm những khả thể của các tạo vật. Tự do tự đánh mất mình, khi nó chỉ biết nói không mà thôi, mà cứ tưởng rằng í mình là đúng. Bởi vì lúc đó, quả thật tôi sử dụng tự do, nhưng cũng là lúc tôi bóp méo tự do.

2. THIÊN CHÚA

Ta hãy bàn tới chuyện cốt yếu đích thực, như ngài vẫn nói, đó là Thiên Chúa, nguồn gốc và mục tiêu của sự sống. Kinh tin kính của Ki-tô giáo bắt đầu bằng câu “Tôi tin”. Nhưng ki-tô hữu đâu có tin một cách chung chung vào một quyền lực cao hơn, vào một bản thể cao hơn.

Câu “Tôi tin” này là một hành vi ý thứccủa tôi. Một hành vi trong đó quyện lẫn cả ý chí, trí hiểu, sự soi sáng và dẫn dắt, đó là những thứ đã được ban tặng cho tôi. Câu đó cho thấy niềm tín thác hay cả việc tôi bước ra khỏi chính mình để hướng tới Chúa. Và ở đây, không phải là tôi hướng tới một quyền lực nào đó cao hơn, nhưng là hướng tới Chúa, đấng biết tôi và chuyện trò với tôi. Ngài thật sự là một Tôi, dù cái Tôi đó mang bản chất cao hơn bình thường nhiều, tôi có thể vươn tới cái Tôi đó và cái Tôi đó cũng đi đến với tôi.

Ngài muốn nói gì khi bảo Chúa cũng là một “Tôi”?

Tôi muốn nói rằng Ngài là một con người. Chúa không phải một phép tính đại cương của vũ trụ. Ngài không hiện diện trong trần gian như một tinh thần nào đó. Ngài không phải là một hoà hợp vô định của thiên nhiên, hay một “vô cùng” không thể gọi tên, nhưng Ngài là đấng tạo dựng thiên nhiên, là nguồn cội của hoà hợp, là đấng hằng sống, là chúa tể.

Khoan, ngài tin Chúa là một con người? Chúa biết nghe, thấy, cảm…?

… Đúng. Chúa có tất cả những gì cơ bản mà con người có, như í thức, nhận biết và tình yêu. Như vậy, Ngài là người có thể biết nói biết nghe. Tôi tin đó là cái cơ bản nơi Chúa.

Thiên nhiên có thể tuyệt diệu. Bầu trời tinh tú có thể lạ lùng. Nhưng đó cũng chỉ là một lạ lùng tuyệt diệu thiếu chất người, bởi vì rốt cuộc chúng cũng làm tôi thành một cơ phận nhỏ trong một bộ máy vĩ đại.

Nhưng Chúa còn hơn nhiều. Ngài không đơn giản là thiên nhiên, nhưng là đấng đi trước và cưu mang thiên nhiên. Ngài là đấng có thể biết nói, biết nghe, biết yêu, biết nghĩ. Và đức tin cho ta hay, bản chất của Chúa là quan hệ. Đó là điểm mà chúng ta muốn nói tới khi gọi Ngài là ba ngôi. Vì chính Ngài là quan hệ, nên Ngài cũng có thể tạo ra vật mang quan hệ, và tạo vật này được quan hệ với Ngài, vì Ngài đã quan hệ với nó trước.

Ngài có lần nói: “Ai bước vào kinh tin kính này, thì thoát ra khỏi những quy luật của thế giới hiện tại”.

Í tôi muốn nói rằng, huyền nhiệm phục sinh của Đức Ki-tô nâng ta lên trên sự chết. Dĩ nhiên, là người, chúng ta vẫn luôn sống theo quy luật tự nhiên của thế giới này. Thiên nhiên vận hành theo quy luật chết và sinh trưởng. Nhưng nơi Đức Ki-tô, ta thấy con người là cái gì viên mãn. Con người không chỉ là một thành tố của quá trình chết và sinh trưởng lớn lao đó, nhưng nó là và vẫn là một đích điểm riêng của tạo dựng. Vì thế, nó được bốc ra khỏi cơn lốc sinh tử muôn đời và được nhận vào trong sự bền vững của tình yêu sáng tạo của Chúa.

Tại sao lại dùng hình tam giác và một con mắt ở giữa chòng chòng nhìn ta để làm biểu tượng cho Chúa?

Hình tam giác là một cố gắng diễn tả sự hợp nhất trong bí ẩn ba ngôi. Người ta dùng hình đó để nói lên một thực thể duy nhất trong ba ngôi, và để diễn tả sự hoà tan của quan hệ tình yêu tay ba này vào trong một hợp nhất tối cao. Biểu tượng con mắt đã có từ rất xa xưa, và trong suốt lịch sử tôn giáo, nó được dùng để nói lên sự nhận thức. Con mắt cho ta biết, Chúa là đấng nhìn thấy, và con người là kẻ được nhìn thấy, và nhờ Chúa, chính con người cũng có thể trở nên nhìn thấy. Biểu tượng trên, dĩ nhiên, cũng có mặt nguy hiểm.

Thời Khai sáng, người ta bỏ Chúa một phần lớn cũng vì nó. Bởi vì người ta không chấp nhận một Chúa luôn chằm chằm nhìn tôi mọi nơi mọi lúc, dõi mắt luôn cả vào chỗ riêng tư của tôi. Vì thế, nếu ta xem cái nhìn đó là sự đe doạ, là một cái nhìn nguy hiểm, nó lấy mất tự do của tôi, thì đó là một quan niệm sai và đi ngược lại với hình ảnh Chúa. Phải hiểu con mắt đó là hiện thân của sự quan tâm đời đời của Chúa đối với ta, nó cho ta hay: Tôi không bao giờ bị bỏ rơi, có ai đó luôn luôn mến tôi, đón lấy tôi và đỡ nâng tôi.

Truyền thống do-thái bảo rằng, trước khi Thiên Chúa tạo dựng thế giới, Ngài chỉ hiện diện một cách ẩn kín. Hình tượng của Ngài không hiện thực. Vì thế, Ngài cần thế giới để thể hiện ra bộ mặt của Ngài. Cũng như một vị vua mà không có dân thì làm sao gọi là vua? Làm sao Chúa có thể yêu, nếu không có ai để yêu? Câu hỏi: Tình trạng trước khi Chúa tạo dựng vũ trụ như thế nào? Ai đã dựng nên Chúa?

Quan điểm trên xuất phát từ một trong nhiều truyền thống của Do-thái. Sau này, những í

nghĩ tương tự cũng xuất hiện nơi thần bí Ki-tô giáo, chẳng hạn nơi sư phụ Eckart*. Tuy nhiên, những quan điểm coi Chúa chỉ trở nên Chúa sau khi Ngài đã tạo dựng một cái gì, không phù hợp với hình ảnh nguyên mẫu của Kinh Thánh. Không, Thiên Chúa của Ki-tô giáo, đấng đã tỏ ra cho chúng ta thấy, là Thiên Chúa. Ngài nói : “Ta là Ta”. Vì thế, chẳng cần phải thắc mắc với câu hỏi luôn được đặt ra : Ai đã tạo nên Chúa, ai đã tạo nên kẻ tạo nên Chúa và vân vân. Hay cả câu hỏi : Có thật Tinh Thần Tạo Dựng đã tự mình hiện hữu trọn vẹn rồi không, một sự trọn vẹn vượt trên cái chết và sự sinh trưởng ?

Tôi nghĩ, ta có thể nói như vầy : Chính trong thực tại đã mang tính sáng tạo. Chúa không cần trần gian. Đó là điểm đức tin Ki-tô giáo và cả đức tin trong Kinh Thánh Cựu Ước luôn nhấn mạnh. Các thần linh cần con người, để được trò chuyện và được nuôi ăn. Trái lại, tự thân Chúa chẳng cần gì tới con người. Ngài là đấng duy nhất, đời đời, là toàn bộ hiện hữu. Đức tin Thiên Chúa ba ngôi cho ta hay, chính Ngài là đấng yêu thương, yêu thương qua lại và bên nhau giữa ba ngôi, nhưng đồng thời Ngài cũng là một hợp nhất tối cao.

Mặt khác, câu nói « Chúa là tình yêu » cũng hàm chứa một câu hỏi khác: ai được yêu ? Và câu hỏi này đã tự biến tan đi trong ba ngôi Thiên Chúa, đấng đã tự trao tặng mình và trở thành người Con, và rồi Ngài rút lui và trở nên một Thánh Thần. Xem như thế, thì tạo dựng là một hành vi tự do, và truyền thống Ki-tô giáo cũng luôn nhấn mạnh điều này: Việc tạo dựng, đối với Chúa, không phải là điều bó buộc, nhưng là một hành vi tự do.

Thế thì tại sao Chúa lại phải phiêu lưu tạo dựng thế giới và con người?

Rô-mano Guardini, người đã nhìn ra tất cả nỗi đau trong cuộc tạo dựng, đã phải dằn vặt ghê gớm với thắc mắc này: Tại sao Chúa lại làm điều, mà nếu không có nó, thì cũng chẳng sao ? Chúng ta không thể trả lời được câu hỏi đó. Ta chỉ biết chấp nhận, là Ngài hẳn muốn điều đó, Ngài muốn có tạo vật đối diện với Ngài, có thể nhận ra Ngài, và như thế vòng đai yêu thương của Ngài được nới rộng.

Người xưa đã cố diễn tả điều đó bằng một tư tưởng triết học : Tự thân cái Thiện có nhu cầu thông tin. Và vì Chúa là đấng tuyệt đối thiện hảo, nên đã có sự tuôn trào ra từ Ngài. Tư tưởng này cũng không giúp ta câu trả lời rốt ráo. Nhưng quan trọng ở đây : Tạo dựng là một hành vi tự hiến nhưng không, chứ không phải là một thứ nhu cầu của Chúa, vì nếu không, thì chính Chúa sẽ chỉ là Chúa nửa vời và, như thế, hi vọng của ta cũng có thể chỉ là hi vọng nửa vời.

THIÊN CHÚA ĐÀN ÔNG HAY ĐÀN BÀ ?

Thiên Chúa là nam hay nữ ?

Thiên Chúa là Thiên Chúa. Ngài chẳng phải nam mà cũng chẳng phải nữ, mà là Chúa trên đàn ông và đàn bà. Ngài hoàn toàn khác. Đức tin Kinh Thánh luôn nói rõ : Thiên Chúa chẳng phải nam mà cũng chẳng phải nữ, nhưng Ngài là Chúa, và cả nam lẫn nữ đều được tạo nên theo hình ảnh Ngài. Cả hai xuất thân từ Ngài, và mọi khả năng phát triển của họ đều múc từ nơi Ngài. Tôi tin, đấy là điều quan trọng, cần phải nắm vững.

Nhưng Kinh Thánh gọi Chúa là Cha, và như thế đã khoác vào Ngài tấm áo đàn ông.

Trước hết phải nói rằng, quả thật Kinh Thánh đã dùng hình ảnh người cha, chứ không phải người mẹ, trong ngôn ngữ cầu nguyện, nhưng đồng thời Kinh Thánh cũng dùng nhiều thuộc tính nữ giới khi nói về Chúa. Chẳng hạn, khi nói về sự thương cảm hay cùng đau khổ của Chúa đối với con người, Cựu Ước không dùng từ «thương cảm» hay «đồng khổ» trừu tượng, nhưng dùng một từ có liên quan tới cơ thể con người, « Rachamin », có nghĩa là « lòng mẹ / bụng mẹ » của Chúa. Như vậy, trong ý nghĩa tinh thần, từ đó cũng nói lên mẫu tính của Chúa. Mọi hình ảnh nói về Chúa được dùng trong Kinh Thánh, nói chung, đều cho ta thấy con người cả nam lẫn nữ đều là hình ảnh của Ngài. Chúa dựng nên cả hai giới. Như vậy, cả hai ở trong Ngài – nhưng đồng thời Ngài vượt lên trên họ.

Thế thì tại sao điều đó không được diễn tả ra trong các lời nguyện ?

Vâng, tại sao người ta vẫn hạn chế cứng nhắc vào từ Cha ? Và câu hỏi tiếp nhức nhối hơn : Tại sao Thiên Chúa xuống trần như một «nam nhi » ? Tại sao Thiên Chúa làm người như một người nam ? Và tại sao người Con Chúa đó lại dạy ta, cùng với Ngài gọi Thiên Chúa là Cha, để cho từ đó chữ « Cha » trong suốt dòng lịch sử đức tin không còn chỉ là một hình ảnh nữa, mà mãi mãi ở lại như một lời dạy của Chúa Con ?

Ngài có thể trả lời được chứ ?

Trước hết, tôi muốn xác định từ « Cha » dĩ nhiên vẫn là một hình ảnh. Đúng là Chúa chẳng phải nam mà cũng chẳng phải nữ, Ngài là Chúa. Đó cũng chỉ là một hình ảnh, mà Đức Ki-tô đã dùng trong lời nguyện, để giúp ta hiểu đôi chút về khuôn mặt Thiên Chúa.

Nhưng tại sao ? Câu hỏi này hiện nay đang dẫn chúng ta bước vào một giai đoạn suy tư mới, nhưng tôi tin, rốt cuộc thì ta cũng không thể trả lời được nó. Có lẽ ta có thể nói được hai điều. Thứ nhất : Các tôn giáo trong vùng quanh Is-ra-en xưa tin Thiên Chúa có đôi, Chúa nam và Chúa nữ. Trái lại, tôn giáo độc thần không chấp nhận hình ảnh cặp đôi đó, và thay vào đó, tôn giáo này coi nhân loại được chọn, cũng như dân Do-thái được chọn, là hiền thê của Chúa. Lịch sử tuyển chọn này cho thấy Chúa yêu dân Ngài như yêu một người vợ. Như vậy, hình ảnh người nữ được khoác cho Is-ra-en và Giáo Hội, và cuối cùng, hình ảnh đó một lần nữa lại được hiện thân một cách đặc biệt nơi mẹ Maria.

Thứ hai : Nơi đâu các hình ảnh Thần Mẹ được dùng, nơi đó người ta buộc phải tạo nên những mô hình phiếm thần. Là vì các hình ảnh này làm cho tư tưởng tạo dựng biến đổi, thay vì tạo dựng, người ta giờ đây chỉ nghĩ tới sự phát sinh, việc sinh đẻ. Thiên Chúa, trái lại, dưới hình ảnh người cha, được tạo ra do Lời – và chính vì vậy nổi bật lên sự khác biệt giữa tạo dựng và tạo vật.

THIÊN CHÚA NHƯ THẾ NÀO ?

Dù Chúa không là nam hay nữ, ta vẫn có thể hỏi, Ngài như thế nào ? Cựu Ước kể chuyện bụi gai cháy và tiếp đó là những bản án. Ngài nói : « Bởi vì Ta là chúa tể, là Chúa ngươi, là Thiên Chúa ganh tị : Ai thù địch Ta, Ta sẽ truy tội đời cha, đời con đến đời thứ ba, thứ bốn của chúng ». Thiên Chúa ngày nay còn thịnh nộ như xưa, hay Ngài đã đổi khác ?

Trước hết, tôi muốn hoàn chỉnh câu trích dẫn. Câu đó như sau : « Ta sẽ phạt tới đời thứ ba, thứ tư, Ta sẽ đổ thứ tha xuống trên ngàn đời ». Ta thấy, qua câu tiên tri này, đã có sự bất cân xứng giữa thịnh nộ và thứ tha. Thứ tha nhiều gấp ngàn lần thịnh nộ, và nếu đọc đầy đủ, thì đây là một câu đong đầy hi vọng. Dù tôi có đáng phạt, dù tôi vấp ngã rơi khỏi tình yêu, tôi vẫn biết rằng, lòng nhân Chúa lớn gấp ngàn lần cơn bực bội của Ngài.

Nhưng quả Thiên Chúa của Do-thái giáo và Ki-tô giáo đó cũng tỏ ra thịnh nộ.

Cơn giận của Chúa là dấu chỉ cuộc sống sai trái của ta, ta chống lại tình yêu, nghĩa là chống lại Ngài. Ai sống xa Chúa, sống xa sự thiện, kẻ đó đang bước vào thịnh nộ. Ai rời khỏi tình yêu, kẻ đó đang bước vào vùng phủ định. Vì thế, đây không phải cái gì như hành vi của một tay độc tài hám quyền đánh vào người nào đó, nhưng chỉ nói lên cái lô-gích nội tại của hành động. Khi tôi hành động ngược lại ý nghĩcủa tạo dựng, khi tôi tách khỏi tình yêu là nền tảng đỡ nâng tôi, lúc đó tôi rơi vào khoảng không, vào vực tối. Và lúc đó, có thể nói, tôi không còn ở trong không gian tình yêu, nhưng ở trong một không gian mà ta có thể gọi là không gian thịnh nộ.

Hình phạt của Chúa không giống như việc mấy ông bà cảnh sát bắt nộp tiền phạt hoặc thích dí người khác. « Chúa phạt » thật ra là một lối nói nhắc nhở về việc lệch hướng sống của ta, và qua đó, ta sẽ nhận thấy hậu quả sai trái của hành động mình. 

Nhưng làm sao không tránh khỏi cảm giác bị lệ thuộc, hay cả cảm giác bị xỏ mũi, khi đọc câu : « Chúa là đấng tác động í muốn và hành động trong các ngươi ». Đây là Thiên Chúa nào đây, khi Ngài lúc nào cũng bảo, nếu không có Ta thì ngươi không làm được gì hết ? Tại sao Ngài lại không mang lấy trách nhiệm cho ta ? Bởi có ai trong ta ảnh hưởng được gì trên việc có mặt của mình trên mặt đất này đâu.

Quan trọng là Giáo Hội trình bày hình ảnh Chúa đủ lớn, và Giáo Hội không gán Ngài với những đe doạ sai trái. Trước đây giáo lýcó đôi chỗ như vậy thật, và ngày nay có lẽ cũng còn sót lại đây đó đôi chỗ. Trái lại, ta phải luôn nhìn Ngài qua Đức Ki-tô và trình bày Ngài như một đấng luôn dẫn ta đi với một sợi dây thật dài. Đôi lúc có người lại bảo, lẽ ra Ngài phải nói rõ hơn cho tôi hay. Có người lại tự hỏi : Tại sao Ngài để tôi quá tự do như thế này ? Tại sao Ngài để cho sự dữ lộng hành và quyền năng như thế ? Tại sao Ngài không ra tay nhiều hơn, sớm hơn ?

THIÊN CHÚA Ở ĐÂU?

Làm sao gặp Chúa, và tìm Ngài ở đâu? Có một câu chuyện ngắn: Ngày nọ bà mẹ dẫn đứa con trai tới gặp giáo trưởng (do-thái). Thầy hỏi cậu bé : « Nếu cháu trả lời được Chúa ở đâu thì thầy cho cháu một đồng tiền ». Cậu chẳng phải suy nghĩ lâu, nói ngay: « Và con sẽ cho thầy hai đồng, nếu thầy trả lời được Ngài không ở những nơi nào ». Sách Khôn ngoan viết, Thiên Chúa «để cho những người không thử thách Ngài gặp Ngài, và Ngài tỏ mình ra cho những ai không ngờ vực Ngài ». Nhưng Chúa thật sự ở đâu ?

Ta bắt đầu với sách Khôn ngoan. Tôi nghĩ, lời « Chúa không để cho những ai thử thách Ngài có thể gặp Ngài » mang nghĩa rất thời sự. Lời đó có nghĩa, là những ai muốn đem Ngài lên bàn thí nghiệm thì sẽ không gặp được Ngài. Trong thế giới do-thái xưa và cả mãi đến ngày nay, người ta đã biết rất rõ chân lí đó rồi. Nếu ta muốn thử thách Ngài, bằng cách hỏi Ngài có ở đó hay ở kia không, và muốn làm những điều mà ta nghĩ là Ngài sẽ phản ứng, nếu ta muốn đưa Ngài lên bàn thí nghiệm, thì đó là lúc ta bước vào một hướng chắc chắn sẽ không gặp được Ngài. Chúa không thể thử nghiệm. Ngài không phải là vật ta có thể cầm trong tay.

Một người bạn của tôi nói: Chính tôi đã chẳng thấy gì trong một lần bước vào nhà thờ ngày chủ nhật. Tôi chỉ thấy hoàn toàn không có gì cả.

Chúa không phải là cái gì có thể áp đặt, Ngài chẳng phải là kẻ một lúc nào đó sẽ la lên: « Này, Ta đây này ». Sẽ gặp được Ngài, khi ta xem Ngài là Chúa, chứ không phải khi ta biến Ngài thành tiêu chuẩn đúng sai của lối thí nghiệm tân tiến và tiêu chuẩn để bám giữ sự sống. Và, xem Ngài như là Chúa, có nghĩa là ta có một thái độ hoàn toàn khác đối với Ngài.

Với vật chất, ta có thể khảo nghiệm và áp đặt chúng, vì chúng là những gì thấp hơn ta. Nhưng ta không thể hiểu một con người, nếu ta cũng dùng lối đó để đối xử với họ. Trái lại, ta chỉ có thể hiểu họ được đôi chút, khi ta bắt đầu đi vào tâm họ với một thứ thiện cảm nào đó.

Với Chúa, cũng thế. Ta có thể tìm Ngài, khi ta gạt bỏ thói ngự trị ra khỏi đầu óc ta. Thay vào đó, khoác vào mình tinh thần sẵn sàng mở lòng mình ra, sẵn sàng tìm kiếm. Tôi phải sẵn sàng chờ đợi trong khiêm tốn để đón nhận điều Ngài muốn, chứ không phải để có được điều tôi muốn.

Nhưng Chúa thật sự ở đâu ?

Ngài chẳng ở chỗ nào xác định cả, như đã hàm ý trong câu chuyện trên rất hay của anh. Nói một cách tích cực : Không có chỗ nào cho Ngài cả, vì Ngài ở trong mọi sự. Tiêu cực mà nói thì : Ngài chắc chắn không hiện diện ở nơi nào có tội lỗi. Ngài không có mặt khi phủ định nâng cái không lên thành quyền lực.

Chúa ở khắp mọi nơi. Và có nhiều cấp độ khác nhau đưa ta đến gần Ngài, vì mỗi cấp sống cao hơn lại đưa ta tới gần Ngài hơn. Nhưng ở đâu mở ra tình yêu và trí hiểu, ở đó có một cách mới để gần Ngài, ở đó đạt tới một hình thức gần Ngài mới.

Như vậy, ở đâu có lòng tin, hi vọng và tình yêu, ở đó có Chúa, bởi vì những thứ này, khác với tội lỗi, là không gian đưa ta vào những chiều kích của Chúa. Như vậy, ở đâu có thiện hảo, ở đó có Chúa hiện diện, hiện diện một cách đặc biệt, vượt lên trên mọi hiện hữu và hiện tại thường tình. Ta gặp Ngài trong sâu thẳm, khi ta tới gần những chiều kích tương ứng nhiều nhất với bản chất nội tại của Ngài, đó là chiều kích của sự thật, của tình yêu, của sự thiện.

« Gặp Ngài trong sâu thẳm » phải chăng có nghĩa là Chúa không lơ lửng đâu đó ngoài vũ trụ, nhưng Ngài ở trong chính ta, ở trong mỗi người chúng ta ?

Đúng, thánh Phao-lô cũng đã nói điều đó với dân Athen nơi toà án thượng thẩm. Ngài đã trích dẫn câu của một thi sĩ Hi-lạp: Chúng ta chuyển động trong Chúa, chúng ta sống và hiện hữu trong Ngài.

Chúng ta chuyển động và hiện hữu trong bầu khí của Chúa là đấng tạo hoá. Điều này, trước hết và nhìn chung, đã được thể hiện trong đời sống sinh lí của ta. Và điều đó càng đúng, khi ta càng tiến sâu vào cái đặc thù của Chúa.Ta có thể diễn tả điều đó như thế này : Ở đâu một người làm điều tốt cho tha nhân, ở đó đặc biệt có sự gần gũi Chúa. Ở đâu con người mở lòng mình ra với Chúa trong lời nguyện, ở đó đặc biệt có sự gần gũi với Ngài.

Chúa không có độ lớn kiểu không gian vật lí. Ngài không ở cao trên hàng trăm ngàn cây số hay ở xa hàng nhiều năm ánh sáng. Trái lại,gần gũi của Ngài mang tính chất một tình trạng sống. Ở đâu khuôn mặt và sự hiện diện của Ngài được thể hiện nhiều nhất, ở đâu có tình yêu và sự thiện, ở đó ta sờ được đấng vô biên một cách đặc biệt.

Nếu như vậy thì cũng có nghĩa Chúa không hiện diện một cách đương nhiên, bởi vì Ngài

không phải bao giờ cũng có mặt sẵn đấy.

Chúa vẫn có đó, cả khi ta không cần đến Ngài để rồ máy cuộc sống của ta, nếu muốn nói như thế. Như vậy, có sự hiện diện của Ngài khắp mọi nơi. Nhưng, món quà được gần Chúa một cách thâm sâu của ta có thể nhỏ lại hoặc mất đi, mà cũng có thể trở nên lớn hơn.

Người được Chúa thấm nhập hoàn toàn đương nhiên ở gần Ngài hơn là kẻ xa hẳn Chúa. Ta hãy nghĩ tới việc truyền tin cho Maria. Chúa muốn Maria trở thành đền thờ sống động của Ngài. Đền thờ đó không chỉ là một chỗ ở nơi thân xác Mẹ mà thôi. Và Mẹ đã trở nên chỗ ở của Chúa, vì Mẹ đã mở lòng ra cho Ngài, vì tâm Mẹ đã hoàn toàn hoà hợp với tâm Chúa.

Nhưng, có thể có chuyện thỉnh thoảng Chúa lui mình vào bóng tối không? Einstein* chẳng hạn, ông tôn thờ Chúa như một bậc thầy kiến trúc của vũ trụ, nhưng cuối cùng ông cũng cho rằng, Ngài chẳng còn thú vị gì nữa với tạo dựng của Ngài và với số phận của con người. 

Tư tưởng coi Chúa là một nhà đại kiến trúc trên làm cho ý niệmThiên Chúa bị gò bó. Chúa ở đây chỉ là một giả thuyết bên lề, mà người ta còn cần để có thể giải thích sự hình thành vũ trụ. Theo đó, có thể nói, Thiên Chúa thoạt tiên phác thảo ra vũ trụ, và rồi sau đó vũ trụ tự nó cứ việc tiếp tục chuyển động. Ở đây, bởi vì Chúa thuần tuý chỉ là một căn nguyên vật lí cuối cùng đối với thế giới, nên Ngài cũng có thể đương nhiên rời khỏi sân khấu. Thiên nhiên giờ đây đã có được sự độc lập của nó, còn Chúa thì hết nhiệm vụ. Và cũng theo tư tưởng trên, mối liên hệ tiếp tục của Chúa với tâm con người – nghĩa là với một chiều kích khác của hiện hữu - tới đây cũng hết, vì nó đã không được dự trù ngay từ đầu trong chương trình tạo dựng. Như vậy thì Chúa chẳng còn là đấng « sống động » nữa, mà thật ra chỉ là một giả thuyết, mà người ta rốt cuộc sẽ tìm cách loại trừ.

Nhưng nhiều nhà thần học cũng nói về « sự vắng mặt của Thiên Chúa ».

Điều này lại hơi khác. Kinh Thánh đã nói tới chuyện Chúa dấu mặt. Chúa ẩn mặt trước đám dân bất tuân. Ngài im tiếng. Ngài không gởi tiên tri đến. Và cả trong cuộc sống các thánh cũng có những đêm tối. Có thể nói, các ngài bị đẩy vào một thứ vắng mặt, một thứ im lặng của Chúa, như trường hợp thánh Thérèse ở Lisieux chẳng hạn, và rồi phải cùng đau khổ cảnh đêm đen của những kẻ không tin.

Nhưng điều đó không có nghĩa là không có Chúa. Cũng không có nghĩa là Ngài kiệt sức, Ngài chẳng còn là tình yêu nữa. Đây là những hoàn cảnh của lịch sử con người hoặc của cuộc sống con người, trong đó vì bất lực không nhận ra Chúa, nên con người đã tạo ra « bóng đêm Thiên Chúa », như Martin Buber nói. Trong cảnh bất lực hay cố chấp không muốn nhận diện hay liên hệ với Chúa này của con người, xem ra Chúa ẩn mặt.

THIÊN CHÚA MUỐN GÌ?

Thánh Clê-men-tô* ở Alexandria, một trong những giáo phụ lớn của Giáo Hội, có lần nói: « Thiên Chúa vì con người mà dựng nên con người, và Ngài muốn có con người ». Vậy, nếu Chúa là tình yêu nhưng không, thì tại sao Ngài lại cứ bắt ta tôn thờ và ngợi ca?

Đức thánh cha Gio-an Phao-lô II đã dùng lại câu « vì con người mà dựng nên con người » nhiều chỗ khác nhau trong các thông điệp của ngài. Ngài dùng câu đó dựa theo í của Immanuel Kant* và suy diễn thêm theo một cách mới. Kant nói, con người là vật duy nhất mang trong chính mình một mục đích, và không phải trở thành mục đích cho một cái gì khác. Giáo chủ thì nói : Thật ra, con người mang trong chính mình một kết thúc, và về phần nó, nó lại không phải là mục đích cho một cái gì khác.

Điều đó cũng là thành trì chở che vững vàng cho mỗi con người. Bởi vì Thiên Chúa tạo hoá muốn rằng, không ai có quyền dùng kẻ khác như một phương tiện - dù kẻ đó nghèo hèn hay yếu kém-, cho một mục đích nào đó cao hơn. Ngày nay, trước những thí nghiệm con người, ngay cả việc thí nghiệm phôi thai, điều đó đã trở thành một chân lí cao trọng, nó trở thành một thành trì bảo vệ rất quan trọng cho phẩm giá con người. Nhân quyền chẳng là gì khác ngoài việc không được biến con người thành phương tiện, nhưng là để cho họ có được một phẩm giá bảo toàn. Nhưng sự kiện đó không có nghĩa là con người hành động đúng, khi nó tự khép kín, khi nó chỉ biết có mình nó mà thôi. Con người là một vật tương giao.

Nghĩa là gì ?

Trước hết, con người được dựng nên để hướng về tình yêu, hướng về giao tiếp với người khác. Nó không phải là vật chỉ sống cho mình, chỉ biết có mỗi mình mà thôi, không phải là một ốc đảo, nhưng bản chất của nó là giao tiếp. Không có giao tiếp, nó sẽ tự huỷ. Và con người giống Chúa là chính chỗ đó. Là vì, như giáo huấn về Chúa ba ngôi dạy, bản chất của Chúa cũng là tương giao. Như vậy, tương giao của con người trước hết là tương giao giữa người với người, nhưng đó cũng là tương giao với cái vô cùng, với chân lí, với chính tình yêu.

Đó là điều bắt buộc?

Tương giao đó hẳn không hạ giá con người. Nó không biến con người thành phương tiện, nhưng trao cho con người tầm lớn của nó, vì chính con người ở trong một tương giao trực tiếp với Chúa và con người trực tiếp được Chúa muốn. Vì thế, không được phép nhìn việc thờ phượng Chúa như là một công việc bề ngoài, như thể đó là chuyện Chúa muốn, hoặc như thể là Chúa cần những nịnh bợ. Chuyện đó xem ra trẻ con, thật khó chịu và buồn cười.

Vậy thì thế nào?

Thờ phượng hiểu đúng nghĩa, là tôi sống đúng với bản chất tương giao của con người tôi, như vậy là tôi sống đúng với mục đích hiện hữu của đời tôi. Và đó là một cuộc sống theo í Chúa, nghĩa là đi tới đồng í với chân lí và với tình yêu. Đây không phải là ta làm một cái gì để Chúa cũng được vui. Thờ phượng nghĩa là chấp nhận đường bay của mũi tên cuộc đời mình. Chấp nhận rằng mục đích của đời tôi không phải là cho chính mình, nhưng tôi phải vươn lên trên mọi mục tiêu khác. Nghĩa là vươn tới hợp nhất với đấng muốn tương giao với tôi, và đấng đó đồng thời cũng để tôi hoàn toàn tự do trong hành động mình.

Và đó thật là điều Chúa muốn nơi ta ?

Đúng.

3 - TẠO DỰNG

KHỞI THỦY LÀ LỜI

Sách Khởi-nguyên viết: „Khởi đầu Thiên Chúa dựng trời và đất. Đất thời trống không mông quạnh, bóng tối bao trùm lũ lụt, và thần khí Chúa là đà trên mặt nước. Chúa phán: Hãy có ánh sáng! Và đã có ánh sáng“.Chẳng ai trong chúng ta có mặt lúc trái đất hình thành. Một truyền thuyết cổ do-thái kể rằng, Đấng toàn năng lúc đó đã tạo dựng thế giới chúng ta gần đúng i như những gì viết trong Kinh Thánh. Người ta kể, Chúa nhìn vào kinh Thora, và đã dựng thế giới theo mẫu cấu trúc trong đó. Và cả Gio-an cũng bắt đầu Tin Mừng của mình bằng câu: „Từ khởi thuỷ là Lời“.

Vâng, quả thật Khởi-nguyên và Tin Mừng Gio-an đã quyện vào nhau, cái này giải thích cái kia. Thời Do-thái giáo cổ, nghĩa là đương thời  Đức Giê-su, người ta nghĩ Thora đã có trước lúc thế giới vật chất được tạo dựng. Có thể nói, trái đất là chỗ ở đã được xây lên cho Thora. Điểm này ta thấy có vẻ ngây thơ, nhưng trong đó chứa đựng một tư tưởng rất lớn, đó là thế giới có một ý nghĩa tinh thần.

Thế giới được tạo dựng, là để có chỗ cho Thiên Chúa nối kết với con người. Có thể nói, nó được hình thành theo cấu trúc nội tâm của giao ước, và Thora được ví như là chứng thư của giao ước và của cô dâu. Gio-an đã cố tình lấy lại câu đầu của Thora: „Từ khởi thuỷ Thiên Chúa dựng nên trời và đất“, vâng, có thể nói Gio-an đã tóm cả câu chuyện tạo dựng vào một câu duy nhất: „Từ khởi thuỷ là Lời“.

Nghĩa cụ thể của câu đó ra sao?

Câu của Gio-an cũng là một chìa khoá quan trọng để diễn giải trình thuật Khởi-nguyên. Nó cho ta thấy, mọi yếu tố trong trình thuật tạo dựng đều là hình ảnh cả.

Thiên Chúa phân biệt ngày và đêm, Ngài làm ra trời và đất, chim trời và cá biển…

Các yếu tố hình ảnh cho thấy thế giới là tạo dựng và nó bắt nguồn từ Logos, nghĩa là „ý nghĩa “ hay „Lời“. Logos là „lực chuyển tải ý nghĩa“. Xưa kia trong thế giới hi-lạp và do-thái cổ, Logos là một từ nguồn cội quan trọng, nó vừa có nghĩa là tư tưởng, vừa có nghĩa là lời nói. Nói cách khác: Thiên Chúa này không chỉ là tư tưởng mà thôi, nhưng Ngài đồng thời là lời nói, là hành động. „Khởi đầu là Lời“ có nghĩa là thế giới có sau ý nghĩa tinh thần, nghĩa là có sau tư tưởng về thế giới. Có thể nói, thế giới là kết quả vật chất hóa của tư tưởng và của cái ý tưởng cội nguồn mà Chúa mang trong Ngài, và Ngài đã biến thế giới thành không gian lịch sử giữa Chúa và thụ tạo của Ngài.

Gần đây, các hiểu biết khoa học đã chiếu một ánh sáng mới trên những phát biểu Kinh Thánh. Một giáo sư giải thích cho tôi hay, di tử con người được viết ra như một thứ cuốn sách, hay nói đúng hơn, một cuộn chữ. Cuộn này bao gồm mọi thông tin khơi nguồn sự sống, dù sự sống đó là người, vật, tế bào hay siêu vi khuẩn. Các nhà khoa học đã đặt tên cho các yếu tố hoá học của di tử là A, C, G và T. Quả thật lạ lùng, vì mọi chữ trong cuộn đó đều hình thành do bốn vần đó mà thôi. Tổng số di tử của con người, gọi là Genom, như vậy quả là một cuốn sách, một cuốn sách với không biết bao nhiêu là câu. Cuốn sách về lịch sử sự sống này, theo giáo sư trên, „trước đây hàng tỉ năm đã được viết ra chỉ một lần mà thôi, và chữ đều thống nhất“.

Quả đó là một trong những hình ảnh quan sát mới mà khoa học đã cung ứng cho ta. Nhờ chúng, có thể nói, ta nhận ra được cơ cấu vần chữ của tạo dựng. Người xưa cũng đã từng nói tới cơ cấu toán học của thế giới, cơ cấu này giờ đây đã được xác nhận. Như vậy, Lời quả thật là lực tạo thành, và tạo dựng có thể hiểu như là sự cụ thể hoá và việc tự mở ra của một chứng thư đã có.

TUYỆT ĐỈNH TẠO DỰNG

Để có thể hiểu được các chiều kích thời gian của tạo dựng, có người đã ví toàn bộ tuổi trái đất là một năm. Theo đó, mồng 1 tháng 1 là ngày hình thành địa cầu. Mồng 1 tháng 4 – quả đúng ra là sau khoảng 3,4 tỉ năm – xuất hiện sự sống của các loại đơn bào trên hành tinh. Mãi tới ngày 27 tháng 11 mới xuất hiện chú cá đầu tiên, và các chú khủng long có mặt vào ngày 12 tháng 12. Hẳn là Chúa yêu thương mọi loài lắm. Chúng làm chủ địa cầu suốt khoảng 150 triệu năm, và không phá hoại mặt đất gì cả.Cuối cùng xuất hiện các loài có vú ngày 27 tháng 12, nghĩa là cách đây 15 đến 20 triệu năm. Lịch sử của con người khôn ngoan (Homo sapiens) mới có cách đây 150.000 năm. Tuyệt đỉnh tạo dựng có mặt, như vậy, tương đối trễ.

Trước hết, tất cả những con số đó đều là ước định. Tuy chúng có nền tảng khá vững, nhưng ta không được tuyệt đối hoá chúng. Dù thế, tôi thấy niên biểu đó rất quan trọng, vì nó phù hợp với những gì Kinh Thánh và các giáo phụ đã nói, nghĩa là tiêu đích của nó cũng sẽ xuất hiện khi thời gian kết thúc.

Đặc biệt về Đức Ki-tô, khuôn mẫu toàn vẹn của con người, kinh sách viết là Ngài sẽ tới khi thời gian viên mãn. Kinh Thánh cho ta thấy hình ảnh về một toàn bộ lịch sử diễn ra trước chúng ta, mà ta không thể mường tượng được ý nghĩa từng chi tiết của nó. Lịch sử này hẳn không chỉ là sự chuẩn bị cho cái sẽ tới. Bởi vì nhiều thứ sẽ lại biến mất hoặc cho thấy đó là một quá trình chuyển tiếp. Nhưng rõ ràng đây là một con đường dài vô cùng và cuộc phiêu lưu của loài người sẽ xuất hiện như một thứ chung kết.

Câu hỏi thêm: Chúng ta còn bao nhiêu thời gian nữa?

Ta không thể trả lời được. Chỉ biết rằng cái chung kết đó, từ nội tại, đã nằm sẵn trong kế hoạch, nhưng sẽ được đưa ra áp dụng khá trễ, và có thể nói, nó sẽ thâu tóm tất cả vào mình.

Nếu là Thiên Chúa yêu thương và nếu Ngài yêu hết thảy chúng ta, thì tại sao Ngài lại tạo ra chúng ta quá khác nhau như vậy? Người này xinh đẹp và được mến mộ, kẻ kia cô đơn. Người này khôn và giỏi giang, kẻ kia phải chiến đấu nhọc nhằn mới thành công. Chưa nói tới những người sinh ra trong cảnh tật nguyền. Phải chăng đó là do lỗi của chính mỗi người?

Chắc chắn không, vì như vậy có nghĩa là ta có thể chuẩn bị trước cho cuộc sống về sau của mình. Mặt khác, quan niệm luân hồi cũng hoàn toàn không giải thích được tính duy nhất và trách nhiệm của con người. Không, ta không biết được. Ta chỉ có thể nói điều này: Thiên Chúa đã dựng nên một thế giới đa dạng, đa dạng này đã có nơi con người và cả trong giai đoạn trước con người rồi. Điều này không nhất thiết mang tính tiêu cực. Người không có khiếu toán, có thể rất giỏi về nghệ thuật. Kẻ yếu mặt trí thức, có thể có tay nghề giỏi trong lãnh vực thủ công.

Tôi tin rằng, có lẽ nền giáo dục khuôn thước của ta quá một chiều, chỉ chú trọng huấn luyện điều con người có thể làm được mà thôi. Trở đi trở lại cứ lấy cái gọi là chỉ số thông minh mà đo, nhưng chỉ số này cũng chỉ giúp nắm bắt được một loại thông minh nào đó mà thôi. Chúng ta nhận diện con người qua khía cạnh khả năng hay thành công, mà bỏ quên kho tàng các năng khiếu khác, tất cả những năng khiếu này cũng đều có ý nghĩa, giá trị và vai trò của chúng.

Dĩ nhiên cũng có những trường hợp tiếp biên, bị thiệt thòi thật, đó là những người tàn tật, hay những người lớn lên trong bần cùng, không bao giờ có được môi trường để thăng tiến. Ở đây, chúng ta lại gặp lại câu hỏi, tại sao trên thế giới này có nhiều khổ đau đến thế. Nhưng, ta chưa cần vội tìm câu trả lời, mà hãy khẳng định rằng, không phải người tàn tật là tạo vật đáng lẽ không nên có. Ngay chính cái tàn tật làm cho người đó có một giá trị riêng. Và Đức Ki-tô, người đã để cho người ta đóng mũ gai lên đầu và đã tự ví mình là sâu bọ chứ chẳng phải người, cũng đã tự xếp mình vào đoàn người tàn tật đó, và họ đã mang tới cho nhân loại một sứ điệp. Là những kẻ khổ đau, những kẻ đòi hỏi tình yêu của ta cũng như sẽ tặng lại ta trong tình yêu, họ có thể có một sứ mạng đặc biệt trong một cách thế đặc biệt, – nếu như ta chịu khó tỉnh thức để nhận ra điều đó.

Có đủ lí do để gọi con người là tuyệt đỉnh tạo dựng. Chúng ta đã phát minh ra 19.000 ngôn ngữ. Chúng ta hát nhạc kịch và chơi những nhạc cụ do ta tạo ra. Chúng ta vượt qua những khoảng cách diệu vợi. Nhưng mặt khác, tuyệt đỉnh tạo dựng đó nhiều khi cũng hiện thân như những tạo vật khát máu, không ngừng biến nhà mình thành lò sát sinh. Đau khổ này chưa dứt thì đã gây nên đau khổ khác. Chiến tranh này chưa xong, thì đã chuẩn bị cuộc chiến khác. Và nạn nhân hôm qua, nay trở thành thủ phạm.

Anh đã nói lên toàn bộ nỗi căng thẳng và toàn bộ tấn bi kịch của kiếp người. Không ai chối cãi được nét cao cả của con người. Tạo vật tí hon này, so với các tạo vật khác về mặt sinh lí, thuộc vào hàng những tạo vật nghèo nàn và kém sinh hoạt giác năng (đây cũng lại là cái lớn lao trong sự nhỏ bé), nhưng nó đã có được những khả năng để tìm hiểu vũ trụ. Với đôi mắt, con người có thể nhìn thấu vào vũ trụ, và từ vũ trụ lại nhìn lại được những chi tiết sự sống mình. Như thế, có thể nói, con người đã tiến sâu được vào trong giếng sâu hữu thể, để có thể tự tái cấu trúc nó hoặc sử dụng nó một cách có ý nghĩa và làm phát triển nó tiếp.

Tôi tin rằng, cái lớn lao - và dĩ nhiên cả cái khả năng gẫy đổ - của con người chưa bao giờ hiện rõ như lúc này. Bởi vì tạo vật càng lớn, nó càng phải đối diện với nhiều hiểm nguy. Và các khả thể lẫn sức mạnh và khả năng của nó càng lớn chừng nào, thì các nguy cơ ẩn tàng trong nó có thể càng lớn chừng đó. Một con muỗi có thể làm hại trong chừng mực khả năng của muỗi, không hơn không kém. Nhưng con người nắm trong tay với cả nhân loại toàn bộ khả năng tàng ẩn trong nó.Do đó, nó có thể bày ra những cách phá hoại vượt xa các loài khác.

Đó là cái mâu thuẫn nội tại của con người. Con người được kêu mời trở nên cao cả, nhưng tự do của nó có thể khiến nó muốn chống lại Chúa, muốn trở nên Chúa, khiến nó có thể trở nên một đe doạ thật sự. Tự do đó có thể chính là cái vấp ngã của nó, biến nó trở thành một con quỷ phá hoại.

Đôi khi, chúng ta muốn nói với Chúa thế này: Giá mà Chúa dựng nên con người bớt cao cả đi một chút thì hay biết mấy, bởi vì nó sẽ bớt nguy hiểm hơn. Nếu như Chúa đừng cho nó tự do, thì nó có thể đã không sa ngã nặng nề như thế. Nhưng rồi cuối cùng ta đã không dám nói lên điều đó, bởi vì ta phải cám ơn Chúa, vì Ngài đã dựng nên điều cao cả. Và cho dù Chúa có nhận vào Ngài hết mọi cái nguy cơ của tự do con người và tất cả những vấp ngã của tự do đó, thì ta cũng có thể bị choáng váng trước những sa ngã có thể xẩy ra, và phải gắng dốc toàn lực để chống trả lại chúng, nhưng đồng thời ta cũng phải nói lên niềm tín thác nền tảng sẵn có của ta nơi Chúa. Và chỉ trong tư thế bám chặt vào niềm tín thác đó ta mới có thể chống trả được những nguy cơ của con người và có thể chịu đựng được chúng.

Khi Chúa tạo nên địa cầu, Ngài dựng nên nó như một phần của hệ thống mặt trời, hệ thống này lại là thành phần của một hệ thống ngân hà gồm một trăm triệu ngôi sao vận hành trong vũ trụ, giữa một đại dương vô tận với vô số dải hành tinh tương tự. Hệ thống hành tinh gần chúng ta nhất cách khoảng hai triệu năm ánh sáng. Có thể tưởng tượng được rằng, đâu đó trong vũ trụ bao la ngoài hành tinh tí hon của ta, còn có sự hiện diện của các tạo vật của Chúa, mà có thể cũng giống như con người?

Phải chăng chúng ta không cô độc trong vũ trụ hành tinh bao la này, tư tưởng này không xa lạ. Chúng ta cũng không thể gạt bỏ tư tưởng đó một cách dứt khoát, bởi vì ta không biết được hết tầm xa của ý nghĩThiên Chúa và của tạo dựng. Nhưng thực tế cho tới lúc này, mọi nỗ lực tìm ra các tạo vật khác đã không thành công. Mới đây, có một quan điểm rất khoa học bảo rằng, có lẽ không có sự sống cao cấp ở ngoài hành tinh của ta. Jacques Monod chẳng hạn, một tác giả trước đây không phải là ki-tô hữu, nói rằng, theo những kiến thức khoa học về thế giới mà chúng ta biết, thì xác xuất có sự sống ngoài hành tinh quá thấp đến độ không thể có được.

Ta chỉ có thể nói được là: Ta không biết. Cho tới lúc này vẫn chưa có một cứ điểm nào cho thấy có thể có sự hiện hữu các tạo vật như thế.

Tuy nhiên, ta biết một cách chắc chắn, là Chúa coi con người trên địa cầu hạt bụi này quan trọng đến nỗi chính Ngài đã sống và đã gắn bó đời đời với địa cầu này. Điều đó rốt cuộc cũng tương ứng với khuôn mẫu hành động của Chúa, mà chúng ta biết. Chúa luôn nâng cao những gì xem ra tầm thường, và tỏ hiện ra cho con người qua cái xem ra như chỉ là hạt bụi, hoặc như ở Na-da-ret, trong một địa danh hầu như không có trên trái đất. Như vậy, Chúa luôn nắn đi sửa lại tiêu chuẩn của ta. Ngài cho thấy cái mênh mông của lượng có một độ lớn hoàn toàn khác với cái mênh mông của con tim, như Pascal* cũng đã nói. Lượng có độ lớn không thể chối cãi của nó, nhưng điều cũng quan trọng, là lượng đó - chẳng hạn như độ dài bất tận của vũ trụ - cũng chỉ là tương đối. Một trái tim biết cảm thông và yêu thương cũng có một độ lớn vô cùng khác. Độ lớn này khác hẳn độ lớn của mọi lượng số với sức mạnh dữ dội trong chúng, nhưng dù vậy, nó không nhỏ hơn.

Nếu ta có bà con trong vũ trụ, thì Chúa đã cho biết qua mạc khải của Ngài rồi?

Không nhất thiết, vì Ngài không muốn kể hết cho ta mọi thứ đang có. Mạc khải không có mục đích cung cấp cho ta một nhận thức đầy đủ về ý nghĩcủa Chúa và về vũ trụ. Một trong các sách Khôn ngoan mà các giáo phụ hay trích, có câu: Chúa trao thế giới cho ta tranh luận. Hiểu biết khoa học có thể nói là cuộc phiêu lưu, mà Chúa để lại cho chính chúng ta. Trái lại, trong mạc khải, Ngài chỉ cho ta hay cái gì thật quan trọng cho cuộc sống và cái chết mà thôi.

Giáo huấn Ki-tô giáo chia thế giới ra làm hai, thế giới hữu hình và vô hình. Giáo huấn đó nói tới cái „trên“ và „dưới“. Nghĩa là thế nào?

Trên và dưới dĩ nhiên chỉ là hình ảnh giúp ta dễ hiểu mà thôi. Trợ cụ này có thể khiến nhận thức của ta trở nên ngây thơ mang tính thuần vật lí, làm ta quên mất cái nền tảng. Nhưng hình ảnh trên dưới tự nó vẫn có giá trị. Nó dạy ta biết có chiều sâu chiều cao, biết có nhiều cấp sống, biết có cái lớn cái bé, biết có cái chiều cao đích thực, biết có Chúa hằng sống.

Ta cũng kinh nghiệm được cái vô hình và hữu hình một cách cụ thể. Có những lực, tuy mắt ta không thể thấy, nhưng chúng vẫn thực tế hiện diện. Cứ xem những điều liên quan tới trí tuệ và con tim thì biết. Nhìn vào mắt một người, nhìn lối biểu tả hay nhìn một cái gì khác nơi họ, tôi có thể thấy được nội tâm họ, nhưng thấy như một phản xạ từ đáy sâu tâm hồn. Như vậy, nhờ những cái vật chất mà cái vô hình được sáng tỏa, qua đó chúng ta biết chắc chắn có cái vô hình, và cái đó kéo chúng ta theo hướng nó. Dù sao, những lực vô hình, mà ta cảm được qua tác động của chúng, giúp ta hiểu được rằng, thế giới còn sâu xa hơn những gì con mắt và giác quan có thể thu nhận.

Trong Kinh Thánh Cựu Ước có những dạng hình đầy bí ẩn liên quan tới cái „trên“ và „dưới“, cái „ vô hình“ và „hữu hình“. Những dạng hình đó xuất hiện như là sứ giả của Chúa hoặc như là „thiên thần của Chúa“. Trong số các thiên thần, có ba vị tổng lãnh có danh gọi hẳn hoi. Đó là thiên thần Mi-ca-el (tên có nghĩa là „Ai giống như Chúa“?), Ra-pha-el („Chúa cứu độ“) và Ga-bri-el („Chúa phù-trợ“). Trước đây, trường học dạy cho chúng tôi hay, thiên thần là đấng thiêng liêng, biết nghe và biết muốn. Điều này có còn đúng không?

Đúng, vẫn luôn đúng. Kinh Thánh nói cho ta hay điều đó, và con người tự thâm tâm, một cách nào đó, cũng biết rằng không phải chỉ có họ là thụ tạo linh thiêng mà thôi. Chúa cũng phủ đầy thế giới với các tạo vật linh thiêng khác, các tạo vật này giống ta, bởi vì kì cùng thì toàn bộ thế giới của Ngài cũng chỉ là một. Các thiên thần cũng là dấu chỉ sự phong phú, sự cao cả và lòng từ ái của Chúa. Như thế, thiên thần có mặt thật sự trong vũ trụ quan Ki-tô giáo, các ngài là những tạo vật của tạo dựng, nhưng mang dạng hình khác, phi vật chất. Với tính thiêng liêng, các ngài hiện diện trong một không gian sống động quanh Chúa, nơi chúng ta cũng sẽ được đưa vào.

Trong vương quốc thiên thần, theo lời dạy của Giáo Hội, không chỉ có các tổng lãnh và các Ke-ru-bim lẫn Se-ra-fim, mà còn có các thiên thần bản mệnh. Lạ thật, mỗi người có một thiên thần bảo vệ, và người đó còn có thể cộng tác với thiên thần đó!

Đó là một niềm tin đã hình thành nên trong Giáo Hội, và niềm tin đó có lí lẽ vững vàng. Không ai buộc phải tin, vì điều đó không mang tầm mức chắc chắn như các lời dạy về Đức Ki-tô hay về mẹ Maria, chẳng hạn. Nhưng nó thuộc vào những xác tín tại tâm, đã dần dần lớn lên với kinh nghiệm Giáo Hội. Kinh nghiệm đó cho ta hay, một cách nào đó, Chúa đã gởi tới cho ta mỗi người một vị đồng hành để hỗ trợ ta. Dĩ nhiên không phải ai cũng có một xác tín nội tâm như nhau về điểm này.

Ngài có biết vị bản mệnh của ngài không?

Không. Cám ơn Chúa đã cho tôi tin có thiên thần bản mệnh. Nhưng riêng tôi, tôi cảm thấy có liên hệ trực tiếp với Chúa hơn. Về điểm này, mỗi người mỗi khác, tuỳ tánh khí. Có những người gần thiên thần bản mệnh hơn, và cảm thấy rất được ngài ủi an. Điều quan trọng là không được dừng lại nơi vị bản mệnh, mà phải qua ngài ta tiến tới Chúa, và hướng tương giao đích thực luôn phải là chính Chúa.

 

ĐIỀU GỌI LÀ SỰ DỮ

Huyền thoại kể rằng, lúc đầu các thiên thần mang đầy ơn nghĩa và vinh quang Chúa. Các ngài được ngắm dung nhan Chúa, được cầu nguyện và đầy hạnh phúc. Nhưng Lu-zi-fer, một trong những thiên thần bên cạnh Chúa, đã sa chước cám dỗ kiêu căng và muốn chống lại Chúa. Lu-zi-fer và đồng bạn vì thế phải sa hoả ngục.

Cố gắng giải thích sự dữ đó của huyền thoại Kinh Thánh cho tới nay vẫn không ổn. Hiện nay các nhà khoa học quan sát thấy nơi con người có hiện tượng «gia tăng sự man rợ khả nghiệm và của tính xấu không thể hiểu nổi ». Thánh Phao-lô đã mô tả: “Tôi lỗi luật, sự dữ hiện diện trong tôi, mặc dầu tôi muốn làm điều lành ». Người ta còn kể, Luther* đã thấy sự dữ, nghĩa là đã thấy Sa-tan, bằng xương bằng thịt, và ông đã ném bình mực vào đầu Sa-tan. Câu hỏi nền tảng : Tại sao Chúa lại dựng nên Sa-tan ? Tại sao Ngài lại dựng nên cho chính Ngài một đối thủ ?

Câu chuyện sa hoả ngục trên không do Kinh Thánh trực tiếp kể, nhưng bắt nguồn từ nhiều bản văn được hình thành theo thời gian. Nhưng Kinh Thánh có nói tới các thần dữ. Lúc đầu đề cập ít, nhưng về sau càng lúc Kinh Thánh càng cho thấy bên cạnh thần lành còn có thần dữ, chúng tác động vào thế giới và con người, làm hại con người, và có thể nói muốn lôi con người đi xuống.

Nhưng không thể nói Chúa tạo ra Sa-tan. Câu chuyện Lu-zi-fer sa hoả ngục mới hình thành sau này. Nó muốn nói lên rằng, rõ ràng không phải Chúa tạo nên các lực thần dữ. Các lực này xuất hiện rõ nét trong câu chuyện  Đức Giê-su trừ quỷ. Chúa chỉ tạo nên thần lành. Và sự dữ không bao giờ là một cái gì độc lập, song nó chỉ xuất hiện như là phủ định của một sự lành. Chỉ trong tương quan với sự lành mới có sự dự, chứ một mình sự dữ thì không có.

Cơn cám dỗ đã như thế nào ?

Nhắc lại : Chúa đã không tạo ra vua sự dữ nào cả, Ngài chẳng cần có một Chúa đối lập nào đứng bên cạnh. Điều Ngài đã tạo ra, là tự do và hoàn cảnh trong đó nhiều khi ta không thấy rõ được tự do đó.

Kinh Thánh cho hay, những lực thần dữ đó có thể là gương soi cho ta. Qua chúng, ta có thể nhận ra cái nguy hiểm của tự do có hình thù dễ sợ như thế nào. Hình thù đó có dạng như sau : Tạo vật càng lớn, nó càng muốn có nhiều độc lập, càng muốn bớt bị lệ thuộc và muốn mình trở thành một thứ chúa tể, chẳng cần nhờ ai giúp nữa. Đây là lúc xuất hiện í muốn bất cần đời, mà ta gọi là kiêu ngạo.

Luôn luôn có cám dỗ nơi loài linh thiêng. Cám dỗ đó xuất hiện như một thứ ngược đời : nó khiến người ta coi tình yêu là lệ thuộc, chứ không phải là quà tặng để tôi được sống. Nó khiến người ta coi tình yêu không như là nguồn lực sự sống nữa, mà như cái gì hạn chế sự độc lập của mình.

Bằng cách nào có thể nhận ra sự dữ ?

Có lẽ phải nói, chẳng bao giờ có thể chứng minh được quỷ. Nhưng ta biết, ngoài tính xấu nơi con người ra, còn có những rối loạn và phá hoại trong tạo dựng, còn có một thứ lực ganh tị, nó muốn lôi ta đi và nhấn ta xuống. Đó là điều Kinh Thánh và đức tin Ki-tô giáo muốn ta phải í thức. Nhưng phải nhớ rằng, không bao giờ được nâng quỷ lên thành một nghịch chúa, vị này có thể đối đầu và chống trả lại Chúa. Cuối cùng rồi thì phủ định cũng chẳng có quyền lực gì. Sự dữ, tuy là một mối nguy và một cám dỗ thường trực, nhưng kì cùng nó không phải là đối thủ ngang hàng của Chúa. Ta phải luôn biết rằng, chỉ có Chúa là Chúa, và ai bám vào Ngài, kẻ đó chẳng cần sợ gì mọi quyền lực Sa-tan.

Hitler có phải là « Sa-tan bằng xương bằng thịt không », như một số người vẫn nói ? Sartre* có lần bảo: « Quỷ là Hitler, là Quốc-xã Đức ». Và triết gia gốc Do-thái Hannah Arendt*, khi nói về những hành vi tội ác của chủ nghĩa phát-xít, đã dùng một từ nổi tiếng để mô tả : «nỗi tầm thường của sự dữ ».

Quả thật lạ. Một tay lớn lên từ đáy tầng xã hội, chẳng học-thức gì, ăn không ngồi rồi, mà lại có thể làm dấy động cả một thế kỉ. Với cái nhìn thông suốt quỷ quái, i đã có những quyết định chính trị và đã có thể làm cho mọi người, ngay cả những kẻ trí thức, nghe theo.

Hitler là một hình tượng ma quái. Đọc lịch sử các tướng lãnh người Đức, ta thấy trong họ ai cũng muốn chống lại, nhưng rồi cuối cùng lại bị ông ta hớp hồn và không còn dám nói lên ý kiến riêng của họ nữa. Nếu nhìn thật gần con người mang nét mê hoặc ma quái đó, ta lại thấy i quả là một tay thật tầm thường. Và cuối cùng, chính vì quyền lực sự dữ cắm lều trong sự tầm thường, nên ta cũng nhận ra phần nào diện mạo của nó : sự dữ càng lớn, nó càng trở nên nghèo nàn, và kích thước lớn lao của nó thật ra chẳng lớn gì cả.

Có thể nói, Hitler cũng đã nhìn ra được trước những hoàn cảnh ma quái. Chẳng hạn, tôi đã đọc một phúc trình về việc chuẩn bị cho chuyến thăm của lãnh tụ phát-xít nước Í ở Berlin. Những người được uỷ thác công việc theo nhau đưa ra đề nghị. Nhưng rồi, sau một hồi lâu suy nghĩ, Hitler tuyên bố : « Không, mọi đề nghị đều trật lất. Tôi thấy phải làm như thế nào rồi ». Và rồi, như trong một cơn xuất thần, i nói ra toàn bộ kế hoạch, và kế hoạch đó cũng đã được thực hiện. Nghĩa là, đâu đó có một siêu lực ma quái khiến cho cái tầm thường trở nên lớn lao – và cái lớn lao trở nên tầm thường – và nhất là khiến nó trở nên nguy hiểm và phá hoại.

Chắc chắn không thể nói Hitler là một con quỷ. Ông ta là một con người. Nhưng, qua những tường trình đáng cậy của những người mắt thấy tai nghe, xem ra Hilter có những cuộc gặp gỡ với ma quỷ, i hay run lên và nói: “Nó lại tới kìa”, hoặc những câu đại loại như thế. Ta không thể tìm hiểu ngọn ngành được điều đó. Tuy nhiên, tôi tin, một cách nào đó, i có dính dáng với ma quỷ; điều này có thể thấy qua cách i sử dụng quyền lực, qua những khủng bố và đại hoạ do quyền lực của i gây ra.

Như thế nghĩa là nơi Chúa dứt khoát không có vực sâu, không có mặt tối? Không như kiểu nơi con người có “hai hồn ngủ gật trong lồng ngực tôi”?

Câu hỏi đó luôn được đặt ra trong lịch sử tôn giáo, ngay cả nơi các phong trào ngộ giáo trong lịch sử Ki-tô giáo. Carl Gustav Jung* cũng đã nhắc lại câu đó theo lối của ông, và tự hỏi, phải chăng đấng Tối hậu cũng lại phải mang trong mình hai khuôn mặt? và ông tiếp: Phải chăng Thiên Chúa này cũng đồng thời là một con quỷ? Phải chăng sự dữ bắt nguồn từ Ngài? Bởi vì, nếu sự dữ hiện hữu, thì nó hẳn phải là cái gì xuất phát từ nơi Ngài?

Câu hỏi này khiến cho thế giới trở nên thật đáng sợ, bởi vì Thiên Chúa quả đáng sợ.

Nhưng câu đó đã được Đức Ki-tô giải toả mọi thắc mắc, khi chính Ngài đã chết cho chúng ta, và qua đó cho ta thấy vực thẳm yêu thương nơi Thiên Chúa. Vì thế, thư Gia-cô-bê đã có thể viết: “Không có bóng tối nơi Ngài”, bóng tối đến từ một chỗ nào khác, chứ Chúa, trái lại, là nơi ta có thể hoàn toàn trông cậy; ma quỷ hay sự dữ không cắm neo trong Ngài, và vì thế, khi Chúa trở nên tất cả trong mọi sự, thì đấng Tối hậu sẽ là kẻ giải phóng khỏi mọi áp chế của sự dữ.

Dĩ nhiên ta phải đặt câu hỏi, nếu sự dữ không bắt nguồn từ Thiên Chúa, thì nó từ đâu mà ra? Như vậy, nó làm sao có thể tồn tại? Nếu sự dữ không do Chúa, thì làm sao còn nói được Chúa là đấng tác tạo mọi sự? Ở đây, chúng ta lại đứng trước một vấn nạn vực thẳm. Câu trả lời của Ki-tô giáo và của Kinh Thánh là: Nó tới từ tự do.

Như vậy, sự dữ không phải là một tạo vật mới, nó không phải là một cái gì tự sinh tự tồn, nhưng, tự bản chất, nó là phủ định, nó là sự huỷ diệt thụ tạo. Nó không phải là một hữu thể, vì hữu thể chỉ xuất phát từ nguồn của mọi hữu thể, nhưng nó là cái không. Sức mạnh của cái không này quả làm cho chúng ta rùng mình. Nhưng, tôi tin rằng, ta cũng an tâm khi biết rằng sự dữ không phải là một tạo vật riêng rẽ, mà nó là một thứ cây chùm gởi. Nó sống nhờ kẻ khác, và rốt cuộc nó sẽ tự giết nó, như số phận cây chùm gởi, một khi nó trở thành ông chủ và giết kẻ bảo trợ mình.

Sự dữ không phải là thứ gì tự sinh, tự hữu, nhưng nó là phủ định. Và khi tôi để mình sa vào sự dữ, thì đó là lúc tôi bỏ không gian triển nở tích cực của hữu thể, để bước vào tình trạng ăn bám của phá hoại và phủ định hữu thể.

THIÊN ĐÀNG VÀ ĐỊA NGỤC

Một trong những thành tố cơ bản của đức tin là quan điểm về thiên đàng, hoả ngục, và ngay cả luyện ngục. Quan điểm này ngày càng trở nên xa lạ và bị ngờ vực.

Chết không phải là hết, đó là xác tín của đức tin Ki-tô giáo. Ngoài ra, đây cũng là niềm tin chung của nhân loại, thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Một cách nào đó, con người biết rõ: còn có một cái gì thêm, còn có một cái gì hơn nữa. Điều đó có nghĩa là chúng ta có trách nhiệm trước Chúa, có nghĩa là có một toà án, có nghĩa là cuộc sống con người có thể được cứu rỗi hay bị hư mất.

Liên quan tới việc được cứu rỗi, mà chúng ta ai cũng hi vọng đạt đến, dù mình vẫn còn nhiều thất bại, thì lửa luyện ngục đóng vai trò quan trọng. Nào ai trong chúng ta có được cuộc sống toàn hảo. Và hi vọng cũng không có nhiều người trong chúng ta hoàn toàn bị hư mất. Dù gặp nhiều thất bại, đa số chúng ta vẫn ao ước điều tốt. Chúa có thể đưa tay đón lấy bình vỡ và hàn gắn nó lại. Nhưng với điều kiện là ta phải có một sự thanh tẩy cuối cùng nào đó, tức là lửa luyện ngục; ánh lửa nhìn của Đức Ki-tô này, có thể nói, sẽ uốn ta lại cho đúng, và nhờ đó ta mới có thể gặp được Chúa, và có thể bước vào được trong nhà Ngài.

Nghe ra vừa khiêu khích vừa cổ hủ.

Tôi tin đó là một cái gì rất người. Có thể nói, ngay cả nếu không có luyện ngục thì cũng nên lập ra nó, vì ai dám bảo mình đã toàn hảo, có thể trực diện với Chúa. Và ta cũng chẳng muốn mình, nói như trong Kinh Thánh, là chiếc “bình bất hạnh” phải bị bỏ đi, nhưng muốn mình được cứu độ. Lửa luyện ngục thật ra có nghĩa là Chúa hàn gắn lại những mảnh vỡ, là Ngài có thể thanh tẩy ta thật sạch, để ta có thể tới được bên Ngài và có được một cuộc sống dư đầy.

Còn các tín hữu Phật giáo hay Tin lành làm gì ở thế giới bên kia? Một vở kịch xưa của tiểu bang Bayern bảo rằng, dân Phổ có riêng một thiên đàng, bởi vì nếu không, thì thiên đàng của Bayern không còn là thiên đàng nữa.

Tôi muốn nói rằng, với cái nhìn thật người, thì lửa luyện tội cũng giúp ta bỏ đi được các chủ trương cá biệt kiểu đó. Nó giúp ta quẳng đi những gì không kham nổi, và tẩy sạch những gì không thể chịu đựng, để trong ta chỉ còn hiện ra cái tâm trong sáng, và ta nhận ra rằng, tất cả mọi người đều thuộc vào một bản đại hoà tấu chung.

Còn các Phật tử, họ quan niệm tất cả chỉ là khổ đau, nên cũng muốn bước ra khỏi bánh xe khổ đau của quá khứ, để bước vào một cõi không tinh tuyền, nhưng cõi không này, một cách nào đó, cũng không phải là hoàn toàn hư vô. Vì thế, dù với một lối diễn tả hoàn toàn khác ta, đạo đó cũng dạy một cái gì như hi vọng vào một hiện hữu tối hậu chân thực.

Chúng ta chia sẻ với tín hữu tin lành niềm tin có thiên đàng và hoả ngục. Vì nhiều lí do, trong đó có giáo huấn về công chính hoá, nên họ đã không thể chấp nhận lửa luyện tội. Và có lẽ ta cũng chẳng nên tranh luận nhiều về chuyện này. Trên căn bản, mọi người chúng ta đều mừng, khi biết Chúa sẽ uốn nắn lại những gì ta không thể uốn nắn được.

Cầu nguyện cho kẻ chết hẳn cũng bắt nguồn từ đó?

Có một lực thôi thúc uyên nguyên nơi con người, khiến họ muốn làm một cái gì thêm cho người đã khuất, cũng như để nói lên tình yêu đối với người đó, nhất là khi họ cảm thấy mình có lỗi với người quá cố. Chúng ta tin rằng, mình còn có thể gởi một món quà sang bên kia thế giới cho người đã mất. Nếu chỉ có thiên đường và hoả ngục không thôi, thì điều đó quả vô nghĩa.

Như vậy, cầu nguyện cho người chết hàm chứa nhận thức sâu xa, là ta còn có thể làm điều tốt cho họ. Và tôi tin rằng, cái khía cạnh rất nhân bản này chính là luyện ngục. Những người chết đang ở trong một tình trạng, mà lời cầu của ta có thể giúp họ.

An-tịnh có lần phân biệt « tạo dựng ban đầu » và « tạo dựng tiếp tục ». Giáo Hội thì nói tới « chương trình cứu độ lớn của Chúa ». Như vậy, có nghĩa là trước sau Chúa vẫn ngồi trước tập sách của Ngài và viết tiếp trang lịch sử sự sống, hết chương này tới chương khác ?

Trong Tin Mừng Gio-an, Đức Ki-tô cũng có lần nói : « Cha Ta đã tác động, và Ngài vẫn luôn tác động ». Ngài dùng cả chữ « làm việc », vì Ngài được nói tới như một người làm công, và Ngài nói : Chúa đã làm việc và Ngài luôn còn làm tiếp. Điểm này hoàn toàn giống như điều chúng ta có thể thấy được trong khái niệm « Thiên Chúa sống động ».

Chúa không rút lui. Trong Ngài, chỉ cần một nháy mắt là mọi sự đã có. Và mọi sự diễn ra không bao giờ như một bánh xe quay nhàm chán, mà trái lại, luôn tiếp diễn như một hiện tại sống động. Như thế, đúng là Chúa luôn hiện diện trong lịch sử. Lịch sử thâu tóm sự duy nhất của ý nghĩvà lời nói của Ngài, tắt lại, thâu tóm toàn bộ hiện tại của Ngài trong từng cấp phát triển của nó.

Người ta cũng có thể nghĩ rằng, giờ đây, chính con người là kẻ viết tiếp chương tạo dựng. Bởi vì thiên nhiên cho tới nay đã cần hàng triệu năm để làm điều, mà ngày nay các nhà nghiên cứu di tử và các nhà hoạ mẫu sinh học, chỉ bằng qua một nháy mắt lịch sử, đã tạo ra nơi các loại thực phẩm và sinh vật mới.

Việc ráp nối di tử đó dĩ nhiên là một vấn nạn lớn. Một mặt, đó là một cơ may. Nhờ đó, chúng ta đã tiến sâu vào cơ cấu uyên nguyên của sự sống, để có thể nhận ra được những mật mã, và có thể cùng cấu trúc hoặc ngay cả tái cấu trúc các di tử. Việc làm này tốt, bao lâu nó có tác dụng chữa lành và còn tôn trọng tạo dựng. Nhưng khi con người tin rằng, chính mình là tạo hoá, là thợ cấu trúc thế giới, lúc đó nó có thể trở nên kẻ phá hoại.

Vấn đề quan trọng ở đây, là phải biến sự kính trọng trước những gì không được đụng đến thành một hiến chương cho mọi hành động con người. Ta phải biết, con người không thể và không được phép trở thành thí vật cho kế hoạch lắp ráp của chính con người. Ta phải ý thứcrằng, ngay khi bắt đầu lắp ráp là trong ta có thể đã manh nha tư tưởng muốn cai trị thế giới, và điều này đồng thời cũng có nghĩa là một tiềm năng phá hoại đã chớm nở.

Con người không thể tạo ra một cái gì cả, nó cùng lắm chỉ có thể kết hợp một cái gì đó thôi. Với khả năng đó, nó có thể là một người giúp việc và bảo vệ khu vườn Thiên Chúa, bao lâu nó còn tỏ ra khiêm tốn và kính trọng đối với những ý nghĩđã có trong tạo dựng. Nhưng khi nó muốn làm tạo hoá, lúc đó tạo dựng sẽ bị đe dọa.

CÂY SỰ SỐNG

Việc hái trái cây hiểu biết đã là một tội tầy đình. Chúa đã cảnh cáo điều đó trong trình thuật Kinh Thánh, và Ngài còn cảnh cáo tiếp về một chuyện tày đình hơn, chuyện cấm kị tuyệt đối, đó là việc nhúng tay vào cây sự sống.

Sách Khởi-nguyên viết, Chúa đã sai các thiên thần Che-ru-bim cầm gươm lửa đứng canh phía đông vườn địa đàng, để không ai được tới gần cây đó, cho tới khi ngày phán xét đến. Chúa nói trong Kinh Thánh «Vâng, con người giờ đây đã trở thành giống Ta, vì nó nhận ra sự lành sự dữ. Giờ đây, chỉ còn việc là không để nó vươn tay tới cây sự sống, hái trái ăn và sống đời đời!» Phải chăng Chúa muốn dựng lên một biên cương cuối cùng ở đây ? Nếu vượt qua, đương nhiên con người sẽ tự huỷ diệt mình ? 

Những hình ảnh lớn trên đây của Khởi-nguyên, rốt cuộc, không thể giải thích hết được và sẽ không bao giờ hoàn toàn cạn ý nghĩa. Chúng còn bao gồm các chiều kích khác vượt lên trên mọi nhận thức của ta.

Trước hết, tôi muốn trình bày cái nhìn cổ điển do các giáo phụ khai triển về những hình ảnh đó. Các ngài cho rằng, con người không được gần cây sự sống, là vì con người đã ăn trái cây hiểu biết, và do đó tự đưa mình vào một tư thế không còn xứng hợp. Khi đưa tay hái trái cây đó, con người đã chuốc vào mình một số phận thảm thương. Trước hoàn cảnh mới này, Chúa bảo, con người không được gần cây sự sống nữa, bởi vì, nếu như nó bất tử trong tình trạng này, thì quả đó là điều khốn nạn cho nó.

Như vậy, việc cấm tới gần cây sự sống, là nơi gắn liền với số phận sự chết, là một ân huệ. Nếu chúng ta phải bất tử trong tư thế ta đang sống, thì đó không phải là một tình trạng đáng mong. Trong một cuộc sống với quá nhiều hỗn mang, thì cái chết là một hồng ân, tuy nó vẫn là một mâu thuẫn và là một biến cố bi thảm đối với từng người. Bởi vì nếu không, cuộc sống theo kiểu đó sẽ nên bất tử, và thế giới như thế sẽ trở thành nơi hoàn toàn không thể dung thân được.

Phải chăng sứ điệp của hình ảnh trên ngày hôm nay phải được lưu tâm hơn bao giờ hết ?

Dĩ nhiên ta có thể đi sâu hơn vào ý nghĩa của những hình ảnh đó. Nếu giờ đây ta thấy con người, khi đã nắm được các mật mã di tử, bắt đầu chiếm hữu cây sự sống, và tự coi mình là chúa sự sống, có thể lắp ráp sự sống ra mới, thì như vậy, họ đã thật sự vượt qua lằn biên cuối cùng mà đáng lẽ họ phải giữ.

Với kĩ năng xảo thuật đó, con người biến con người thành tạo vật của mình. Do đó, con người không còn xuất phát từ bí mật tình yêu, nghĩa là không còn được hình thành từ tiến trình tạo thai và sinh hạ vốn đầy bí ẩn nữa, nhưng là một sản phẩm kĩ nghệ. Nó được tạo ra bởi người khác. Như vậy, nó bị cướp mất phẩm giá và hào quang tạo dựng riêng của nó. Ta không biết tương lai của lãnh vực này rồi sẽ ra sao, nhưng ta có thể xác tín : Chúa sẽ ra tay chống lại tội ác tự huỷ của con người. Ngài sẽ chống lại việc dày đạp con người, sẽ chống lại việc con người tạo ra những đồng loại nô lệ. Có những đường biên cuối cùng, mà nếu ta bước qua, ta sẽ trở thành những tên phá hoại tạo dựng, và lỗi phạm của ta còn vượt xa tội tổ tông và các hậu quả tiêu cực của nó.

Vấn đề dùng xảo thuật để cải biến sự sống con người đã trở nên cấp tính.

Sự sống con người là bất khả nhượng, không thể có chọn lựa nào khác ở đây. Phải dựng lên nơi đây một biên giới cho hành động, khả năng, khuôn phép và thí nghiệm của con người. Con người không phải là một đồ vật. Song mỗi người là đại biểu cho sự hiện diện của Chúa trên trần gian.

Đôi lúc xem ra đường ranh đó không còn ở trước ta nữa, nhưng đã bị ta vượt qua rồi. Với kĩ thuật di tử, con người có được một dụng cụ mới cho phép họ lần đầu tiên toàn quyền sử dụng toàn bộ vật liệu di truyền trên hành tinh này.

Sự sống đã bị biến thể từ khá lâu rồi. Đã có tới hàng chục, thậm chí hàng trăm ngàn bào thai không được hình thành qua hành động giao phối bình thường, nhưng qua việc kết hợp tinh trùng và trứng bên ngoài dạ mẹ. Có những đứa trẻ có tới ba mẹ : mẹ cho trứng, mẹ mang thai và mẹ nuôi. Có những trẻ có cha đã mất nhiều năm trước khi chúng sinh ra.

Trong tương lai, rất có thể người ta sẽ tạo ra trẻ theo í muốn, theo phái tính, màu mắt, chiều cao, sức nặng, hay có thể kéo dài sự sống với một thân xác khác. Cuối 1999, khi một nhóm nhà khoa học đã hoàn tất mở khoá được một trong 24 chromosomen của con người (tuy là một trong những chromosomen nhỏ bé, nhưng mỗi cái chứa khoảng 30 triệu thông tin di truyền), một bà trong nhóm đã nói với phóng viên : Quả là một « công việc hỏa ngục ». Có thể nhà khoa học đó có lí ?

Đúng, rất tiếc có thể đúng như vậy. Nhưng trước hết, ta phải phân biệt giữa cái con người làm và cái con người là. Bất cứ ai được sinh ra từ ống nghiệm đều cũng là người, và ta vẫn yêu và chấp nhận họ như là người. Việc ta phải chống lại lối tạo người bằng ống nghiệm không có nghĩa là ta đóng ấn những người được sinh ra bằng cách đó. Dù vậy, ta vẫn nhận ra nơi họ cái bí ẩn của con người và chấp nhận họ như là người. Đó là điều rất quan trọng, tôi tin như thế.

Quả thật đã có sự vượt rào gia trọng, như anh nói. Giáo Hội công giáo, ngay từ đầu, đã cảnh báo việc chế tạo con người. Lối chế tạo đó, thoạt tiên, diễn ra dưới những hình thức vô tội, như mọi chuyện vẫn luôn khởi đầu một cách vô tội. Trước hết, người ta bảo là để giúp cho những cặp vợ chồng không con. Vấn đề ở đây chưa phải là gia trọng, nếu quả thật đó là những vợ chồng thành tâm muốn có được con bằng cách ấy. Tuy nhiên, ở đây, người ta cũng bắt đầu tuột dốc, khi tin rằng, mình phải có con bằng bất cứ giá nào, mình phải có quyền có con. Với kiểu đó, đứa con trở thành một của cải thuần tuý. Nó không còn được sinh ra từ tự do của Tạo hoá nữa, tự do này cũng được thể hiện nơi sự bất lường của tự do nơi thiên nhiên.

Tôi nghĩ, cái nguy cơ lớn của ngày nay, nói chung, là xem con như một quyền, như một của cải. Các cha mẹ không những muốn phô trương chính họ qua của cải đó, mà còn qua đó nhắm vớt vát lại những gì họ chưa thành đạt. Có thể nói, qua con cái, họ lặp lại chính cuộc đời mình một lần nữa và để được xã hội công nhận. Vì vậy mới có sự chống đối của con cái. Chúng chống cha mẹ, vì chúng muốn thể hiện quyền muốn được là chính chúng.

Chính mỗi người được sinh ra từ tự do của Chúa, và ở trong tự do đó với quyền riêng của mình. Giáo dục gia đình là để hướng trẻ tới cái riêng tư của chúng, chứ không phải là để cho cha mẹ, đó là trọng điểm đích thực của các chương trình giáo dục phản quyền uy hiện nay. Nhưng điểm sai của các chương trình này là chủ trương hoàn toàn vứt bỏ giáo dục, với lập luận rằng, giáo dục sẽ lèo lái tự do và có thể bóp chết tự do. Tự do cần được giúp đỡ để cất cánh, nó cần được nâng đỡ qua sự đồng hành. Và một lối giáo dục thật sự cảm thông sẽ không nhắm lái trẻ theo mình, nhưng là giúp chúng phát triển hình hài và mở ra con đường riêng của chúng.

Xin trở lại một lần nữa về việc lắp ráp, chế tạo con người …

Như đã nói, việc làm khởi đầu vô hại, tỏ ra vì con người, nhưng khi coi đứa con không còn là quà tặng nữa, mà là sở vật phải tạo ra nếu cần, lúc đó là ta đã bước qua lằn biên. Hành vi kĩ thuật, bao gồm cả việc thụ thai ống nghiệm, giờ đây thay thế cho một hành vi tình yêu. Từ đây, những vấn nạn kế tiếp sẽ được đặt ra. Trước hết, làm gì với số phôi gọi là thặng dư, phôi đó đã là người, nhưng lại bị xử lí như là những sản phẩm dư thừa.

Với lối xử lí hiện tại, hàng ngàn sự sống đã bị giết hàng loạt.

Nhiều hậu quả khác cứ thế theo nhau xẩy ra, chúng rốt cuộc từng bước làm biến đổi tương quan đối với con người. Rồi cái gì sẽ diễn ra tiếp, bắt đầu từ lúc nào sẽ nổ ra tai hoạ kiểu nào, ta chưa biết được. Cám ơn Chúa là ta không biết. Nhưng ta biết, ta phải chống lại việc dùng xảo thuật cải biến sự sống và việc tuỳ nghi sử dụng sự sống. Không phải ta chống lại tự do của khoa học hay cản ngăn những khả thể của kĩ thuật, nhưng là bảo vệ tự do của Chúa và phẩm giá con người, vì hai thứ đó đang gặp nguy. Ai có được lối nhìn đó nhờ đức tin – khá nhiều người không phải ki-tô hữu cũng có cái nhìn như vậy -, đều có bổn phận làm nổi bật lằn biên đó lên và làm cho người khác chấp nhận dừng lại trước lằn biên đó.

4 . TRẬT TỰ TỰ NHIÊN

NHỮNG BẰNG CHỨNG HIỂN NHIÊN CỦA VŨ TRỤ

Ngay cả khi chúng ta không thể nhìn thấu được Chúa, chúng ta vẫn có thể, qua những gì dưới đây, thấy được ít nhiều về việc cấu tạo thế giới và về những gì được trao tặng cho con người trong vũ trụ thần thánh này. Nhưng luôn với điều kiện là Chúa hiện hữu thật sự. Về điểm này, ngài nhiều lần nói tới những giá trị khách quan, tới « bằng chứng hiển nhiên của sự sống con người » và tới những sứ điệp của vũ trụ. Ngài bảo rằng, vấn nạn của thời đại tân tiến là con người đã xa lìa khỏi bằng chứng hiển nhiên đó. Có những thái độ tuyệt đối đúng và luôn đúng, có những thái độ khác đương nhiên sai và luôn sai, vì chúng đi ngược lại sự sống và con người. Nghĩa là thế nào ?

Ki-tô giáo quan niệm thế giới, trong từng chủng loại, được hình thành qua một quá trình tiến hoá rất phức tạp, nhưng nó chung quy lại cũng được phát sinh ra từ cội nguồn Logos (Lời). Như vậy, thế giới mang trong mình không những một lí trí toán học – không ai chối cãi được rằng thế giới được cấu tạo theo toán học -, nghĩa là một lí trí trung lập và khách quan, mà với tính cách là Logos, nó còn mang một lí trí đạo đức nữa.

Làm sao biết được điều đó ?

Chính tạo dựng giúp ta hiểu và chấp nhận điều đó. Ngay người ngoài Ki-tô giáo cũng hiểu được điều này. Song, nhờ đức tin bật mí, ta thấy được trong lí trí của tạo dựng không những chỉ có sứ điệp toán học, mà còn có cả sứ điệp đạo đức nữa.

Cái bật mí thứ nhất gọi là lương tâm. Lương tâm là nhận thức cội nguồn, nó cho ta biết có những sự việc không bao giờ là tốt cả. Giết một người vô tội, dù với lí do nào đi nữa, là điều đương nhiên ai cũng thấy sai, với điều kiện người đó không bị giáo dục sai lầm. Nói chung, tôn trọng sự sống là tốt. Hoặc giữ lời hứa, nghĩa là trọng tính chân thật và sự thật, cũng vậy.

Dĩ nhiên đó là những giá trị rất chung. Ta biết, Hans Küng* muốn hoà trộn chúng lại dưới dạng một nền đạo đức thế giới, nghĩa là lập chúng thành một bảng điều lệ chung áp dụng cho hết mọi người. Ta chưa cần tranh luận chuyện này ở đây. Nhưng dù vậy, nỗ lực của ông cũng hé cho ta thấy có một nét trong sáng nào đó trong tạo dựng, xuyên qua đó ta nhìn ra được những huấn lệnh của Tạo hoá. Và nữa, các hằng số giá trị chung - cho dù trong mỗi cái riêng còn chứa những khác biệt lớn - xưa nay vẫn hiện diện xuyên suốt qua các tôn giáo lớn và qua toàn bộ lịch sử tri thức của nhân loại. Hãy lấy nói dối làm thí dụ. Có người cho rằng, đôi lúc nói dối là đúng, là cần. Nhưng chẳng ai muốn xác định nói dối tự nó là đúng cả.

Để các bằng chứng hiển nhiên đó trở nên tác dụng và trong sáng, chúng ta cần được giáo huấn. Nhờ giáo huấn, các kiến thức tổng quát và chưa rõ ràng sẽ được cụ thể hoá và trở nên có thể thực hiện được. Việc giáo huấn đó là một phần của con đường dẫn ta tới Đức Ki-tô. Giáo Hội gọi con đường đó là sự soi sáng, bởi vì nhờ đó mà một cá nhân dần dần nhìn ra được rõ hơn về một điều nào đó đã tiềm tàng nơi mình.

Phải chăng những «bằng chứng hiển nhiên của vũ trụ», cái « hiến chương sự sống » đó (mà ta vẫn luôn hay quên và thường không nghĩ đến) đã nằm sẵn trong những huyền thoại xa xưa như lũ lụt, tháp Babylon, hay thành Sodom và Gomorrha ? Phải chăng sứ điệp của các câu chuyện đó quả là một thứ kiến thức sống còn cho cả nhân loại ?

Lạ thật, những câu chuyện đó có mặt khắp nơi trong lịch sử tôn giáo. Chúng hiển nhiên là những tiếng còi báo động. Chuyện lũ lụt có mặt trong nhiều vùng địa lí hoàn toàn biệt lập, không liên hệ gì tới nhau. Một cách nào đó, chúng nói lên một kinh nghiệm và nhận thức chung của nhân loại, một hồi tưởng còn đọng lại nơi con người. Ta có thể khám phá ra nhiều sứ điệp ẩn tàng trong các câu chuyện đó. Chẳng hạn việc xây tháp Babylon, ở đây con người muốn dùng kĩ thuật để kiến tạo cho mình một văn minh chung. Họ muốn dùng sức mình và khả năng xây dựng của mình để thực hiện giấc mơ – chính đáng - về một thế giới, về một nhân loại. Và qua tháp cao chạm trời đó, họ muốn chứng tỏ quyền năng mình và muốn nhảy vào lãnh vực thiên chúa. Trên căn bản, điều đó cũng giống như giấc mơ của nền kĩ thuật hiện nay: nắm được quyền năng thiên chúa và tìm ra được chốt khoá của thế giới. Như vậy, các hình ảnh trên đúng là những lời cảnh cáo vang lên từ nhận thức cội nguồn của ta.

Hãy bàn tiếp chuyện tháp Babylon. Ở đây, Kinh Thánh cho ta một thông tin lạ lùng «Chúa nói, xem kìa, chúng là một dân tộc, và chúng tất cả chỉ có một tiếng nói. Nhưng đó mới là khởi đầu công việc của chúng. Không có gì chúng muốn mà chúng không làm được. Thôi, Ta hãy xuống đó! Ta sẽ làm rối loạn ngôn ngữ của chúng, để chúng không thể nghe hiểu nhau nữa ». Nghe ra thật chuyên quyền.

Vâng, nghe như giọng ganh tị, cơ hồ Chúa không muốn để cho con người ngẩng cao đầu. Dĩ nhiên đây là một ngôn ngữ hình ảnh, rút ra từ kho văn hoá do-thái xưa. Một số yếu tố ngoại giáo lúc đầu vẫn còn hiện diện trong đó, nhưng qua những đợt giải thích chúng dần dần được gột bỏ hết. Vấn đề ở đây không phải là Chúa sợ con người trở nên quá lớn rồi giành ngai Ngài, nhưng Ngài thấy được ước vọng sai trái và tiềm năng tự huỷ của họ.

Có lẽ ta nên giải thích hình ảnh trên như thế này : Tháp Babel tượng trưng cho việc con người muốn chỉ dùng khả năng kĩ thuật để hợp nhất nhân loại và để vươn tới Chúa, trở thành như chính Ngài. Nhưng giờ đây Chúa nói cho ta biết, một hợp nhất trên căn bản như thế sẽ không vững, nó sẽ tạo ra hỗn-loạn.

Bài học đó có thể áp dụng cho ngày nay. Một mặt, thế giới hôm nay có sự hợp nhất đó. Trọng điểm của mọi thành phố đều giống nhau, dù ở Nam Phi hay Nam Mĩ, ở Nhật hay Mĩ châu, Âu châu. Đâu đâu con người cũng bận quần bò (Jeans), hát một thứ nhạc, cùng theo dõi một chương trình truyền hình và cùng chiêm ngưỡng những ngôi sao màn ảnh. Như thế, có thể nói, nhân loại có một thứ văn minh chung, kể cả một thứ thức ăn chung là McDonalds.

Thoạt nhìn, cảnh đồng phục đó là một thứ lực dung hoà khá hiệu nghiệm – cũng giống như cái ngôn ngữ chung khi xây Babel -, nhưng cùng lúc đó con người trở nên xa lạ nhau. Họ không tới gần nhau được nữa. Thay vào đó, ta thấy nổi lên các chủ trương độc lập vùng, các văn hoá chống đối nhau, ai cũng muốn mình chỉ là mình hoặc cảm thấy mình bị văn hoá khác đàn áp.

Có phải đó là một bản luận chứng chống lại nền văn minh chung không?

Đúng, bởi vì nó làm người ta mất nét riêng, mất nét đích thực của họ. Mất thông tin chiều sâu giữa người với người. Thông tin này không thể tạo ra được bằng những cách cư xử bề ngoài, phiến diện và bằng những máy móc kĩ thuật giống nhau. Nếu người ta chỉ hợp nhất trên bề mặt đó, thì cùng lúc thâm tâm họ sẽ chống lại sự đồng phục, vì họ nhận ra chính sự đồng phục đó làm cho họ bị nô lệ.

Có thể nói, dạng thống nhất và tư tưởng muốn làm chủ thế giới cũng như làm chủ sự sống theo kiểu Babel của con người cần phải xét lại. Đây chỉ là một thứ hợp nhất giả hiệu, một thứ giả nâng con người lên mà thôi. Thật ra nó cướp đi chiều cao và độ sâu của con người. Ngoài ra, nó cũng biến con người thành nguy hiểm, vì một mặt con người có thể làm được rất nhiều chuyện, nhưng mặt khác khả năng đạo đức của họ không tương ứng được với khả năng kĩ thuật. Sức mạnh đạo đức không lớn kịp với khả năng hành động và đập phá, mà con người đã tạo ra. Đó là lí do, tại sao Chúa ra tay chống lại thứ hợp nhất kia và mở ra một loại hợp nhất hoàn toàn khác.

Ngài muốn nói gì ?

Với ki-tô hữu chúng ta, Tân Ước và Cựu Ước luôn là một. Các sách Cựu Ước là bước đầu. Theo xác tín của ta, các sách đó không thể hiểu, nếu ta không đọc tiếp bước thứ hai. Ta cũng sẽ thấy điểm này trong các chương sau, khi bàn đến liên hệ giữa Adam và Đức Ki-tô và qua các thí dụ khác. Chúa đã mở ra một mô hình hợp nhất qua diễn tiến câu chuyện ngày lễ ngũ tuần. Mô hình đó là đối cực của Babel, chỉ nhờ nó ta mới hiểu được Babel. Lúc đó, các tông đồ tuy không nói chung một thứ tiếng, nhưng tất cả đều hiểu nhau. Vẫn giữ đa dạng, như giờ đây sự hợp nhất con tim đã tạo thành một hợp nhất nội tâm.

Mô hình ngũ tuần đối lại với Babylon : một sự hợp nhất vẫn bảo tồn được kho tàng của nhân loại. Chúa muốn hợp nhất. Đó là mục tiêu của toàn bộ hành động của Ngài trong lịch sử; đó là lí do xuống thế của Đức Ki-tô; đó là lí do Ngài lập Giáo Hội. Nhưng sự hợp nhất mà Ngài muốn phải có một độ sâu và một tầm cao khác.

Lời cảnh báo của Babylon khiến ta phải nghĩ tới cuộc cách mạng điện tử hiện tại, một cuộc cách mạng làm thay đổi và đảo điên thế giới như chưa từng có. Xem ra chúng ta muốn tạo một vũ trụ hoàn toàn mới. Những hiện thực trên mạng lưới và những cái gọi là công ti thương mại điện tử không còn chỉ là trò chơi giải trí, mà đã trở thành một trò chơi ăn thua đủ với rất nhiều tiền, với quyền lực và với kinh tế quốc dân, chúng nắm trong tay số phận của hàng triệu con người.

Và thêm nữa : Ngày nay, đa phần dân tây phương mất nhiều thì giờ cho máy móc điện tử hơn là cho việc tiếp xúc với thực tế « thường nhật », nghĩa là tiếp xúc với con người và thiên nhiên. Những thực tế ảo trên mạng đang thay thế cho các thực tế thường nhật. Càng ngày, chúng ta buộc phải bỏ thêm công sức ra để chống trả lại những hình ảnh thôi miên trong cái thế giới hợp nhất đó.

Ở đây, nhờ diễn tiến lịch sử, ta lại nhận ra được những trực giác của một hình ảnh, mà trước đây ta không thể nghĩ tới được. Dĩ nhiên, đó không phải là nghĩa chữ của nội dung câu chuyện Babylon. Song, nếu ta đọc nó với ánh sáng kinh nghiệm, ta sẽ nhận ra cái trực giác chứa đựng trong đó, nó cụ thể hoá ra trước mắt ta ngày hôm nay. Nhờ đó, ta hiểu được ý nghĩa của những biến chuyển hiện tại, hiểu được tại sao việc tạo nên thứ thống nhất kia là một mối nguy.

Có thể so sánh một hình ảnh huyền thoại lớn khác của Kinh Thánh, đó là lụt hồng thuỷ, với những thứ lụt khác trên thị trường tư bản: lụt hình ảnh khích dâm, lụt tuyên ngôn, lụt quảng cáo… không ?

Nước cũng là một hình ảnh mang nhiều chiều kích. Nước luôn có hai nghĩa. Với nghĩa là nguồn, là mưa, thì đó là một quà tặng, một yếu tố cần cho sự sống. Khi nó mang hình ảnh đại dương hay lũ lụt, thì đó lại là mối nguy cho trái đất, nó có thể nuốt luôn sự sống. Lụt hồng thuỷ như vậy là biểu tượng nguyên mẫu cho những thế lực phá hoại, chúng vùi chôn sự sống, xoá đi biên cương bảo vệ sự sống mà Chúa đã vạch ra. Đê vỡ cuốn theo sự sống. Nhìn như thế, thì cơn hồng thuỷ vẫn là một hình ảnh rất nhiều nghĩa đối với con người. Bao nhiêu cảnh tượng ta thấy ngày nay : lũ lụt, đê vỡ, phá hoại sự sống, phá hoại văn hoá, phá hoại con người.

5 CÁC GIAO ƯỚC

GIAO ƯỚC CŨ

Giao ước cũ là câu chuyện giữa Thiên Chúa với dân riêng Ngài. Chính Chúa đã cho dân này một tên gọi. Đó là ngày Ngài đánh vật với tổ phụ Gia-cóp bên sông Gia-cóp. Gia-cóp đã không chịu thua, vì vậy từ đây ông được gọi là „Is-ra-en“, kẻ tranh cãi với Chúa.

Tại sao Chúa lại phải chọn một dân riêng? Và tại sao lại là dân Do-thái?

Cựu Ước, chẳng hạn như trong sách Dân-số, luôn nêu lên lí do đặc biệt về sự tuyển chọn đó. Qua Mai-sen Chúa nói với dân Ngài: Ta không chọn ngươi vì ngươi là một dân đặc biệt lớn và đặc biệt quan trọng, cũng không phải vì ngươi có được phẩm cách này kia, mà vì Ta yêu ngươi.

Chúng ta không thể dùng lí luận để tìm hiểu việc tuyển chọn này, đó vẫn là một ẩn số. Vấn đề là Chúa chọn. Nhưng không phải Ngài chọn để loại trừ những dân khác, mà là để qua dân này Ngài tới với các dân khác, và để Ngài bước vào sân chơi lịch sử một cách cụ thể.

Suốt 3000 năm lịch sử, dân riêng đó đã phải trải qua 2000 năm lưu đày, và cho tới ngày nay cũng còn phải đấu tranh cho nền an ninh đất nước. Phải tự hỏi: Tại sao lại là Ai-cập to lớn và hùng mạnh với các đại đế Pha-ra-ôn, và tại sao một dân tộc được tuyển chọn nhỏ bé lại bị truy nã, lưu đày và bách hại suốt bao nhiêu thế kỷ- cho tới sém bị huỷ diệt hoàn toàn bởi nạn Quốc-xã?

Thiên Chúa có những khái niệm khác. Việc tuyển chọn của Ngài không mang nghĩa to lớn như ta hiểu. Ngài không cất nhắc dân Ngài lên hàng cường quốc, nhưng Ngài tự tỏ mình và gây tác động qua cái bé nhỏ. Tiêu chuẩn quan trọng của Chúa không phải là cường quốc, mà là thực tại đức tin.

Vì đức tin mà một dân tộc được chọn. Dân tộc này nằm lọt giữa các nước lớn Ai-cập và Babylon, và luôn bị họ đe doạ xâu xé. Như vậy, Chúa làm lịch sử của Ngài một cách hoàn toàn khác, không như một quyền lực trần gian. Và đó có thể là bài học cho Giáo Hội chúng ta, để ta hiểu rằng giá trị của mình không nằm nơi quyền lực thế gian, mà nơi việc mình luôn thể hiện và đại biểu cho một Thiên Chúa khác. Thời điểm lớn lao của Giáo Hội là thời điểm đau khổ và bách hại, chứ không phải lúc có nhiều tiền và nhiều quyền lực.Đây cũng là bài học cho chính ta, để nhìn ra đâu là cái cơ bản và đâu không là cơ bản trong cuộc sống. Chứ đừng hỏi tại sao Chúa lại làm thế. Ngài đã chỉ cho ta một con đường, một hướng đi, và Ngài giữ sự độc lập của Ngài.

Quả là một lịch sử lạ lùng. Dù dân Do-thái suốt 2000 năm lang thang, bị săn đuổi từ nước này sang nước khác, tôn giáo của họ vẫn không bốc hơi. Đây là một hiện tượng có một không hai trong nhân loại. Câu hỏi: Có sự liên quan nào giữa sự phát triển đầy bí ẩn của thế giới với sự phát triển của dân tộc Do-thái?

Theo tôi, rõ ràng có. Một dân tộc tí hon, không đất, không tên tuổi, suốt 2000 năm sống rải rác khắp thế giới, vậy mà vẫn giữ được đạo, vẫn giữ được căn cước Is-ra-en và do-thái của mình, quả là một bí ẩn tuyệt đối. Điều này cho thấy có sự tác động của một bàn tay nào khác trong đó.

Chúa đã không biến dân đó thành nước lớn, mà trái lại, họ đã trở thành một dân tộc mang nhiều đau khổ nhất trong lịch sử thế giới. Nhưng họ luôn giữ được căn cước của mình. Đức tin của họ không mất. Và đức tin đó luôn là một cái gai cho hoàn vũ Ki-tô giáo, một tôn giáo thoát sinh từ lịch sử do-thái và gắn bó với lịch sử đó. Như vậy, chỉ giải thích bằng các ngẫu nhiên lịch sử không thôi thì không đủ. Mọi cường quốc thời đó đều đã suy-tàn. Chẳng còn Ai-cập xưa, mà cũng chẳng còn dân Babylon hay Assiri. Nhưng Is-ra-en vẫn còn đó. Và nó chỉ cho ta thấy chút gì bền vững, vâng, cho ta thấy cái bí ẩn của Thiên Chúa.

Is-ra-en là cái nôi của đức tin Ki-tô giáo, và ta có thể nói không ngoa rằng, hai tôn giáo lớn này đã ảnh hưởng quyết định lên nền tảng cuộc sống của nhiều vùng đất lớn địa cầu. Cho tới hôm nay, dân Do-thái còn tác động nhiều lên việc phát triển văn hoá của nhiều quốc gia, mà Hoa-kì là một điển hình đặc biệt. Có phải dân Do-thái ngày nay vẫn là dân riêng của Chúa?

Đó là câu hỏi thời gian qua đã có những tranh luận kịch liệt. Dân Do-thái có một mối liên hệ đặc biệt với Chúa và Chúa không bỏ rơi họ, đó là điểm quá rõ. Và đó cũng là hướng nhìn của Tân Ước. Phao-lô nói với ta trong thư gởi giáo đoàn Rôma: cuối cùng thì cả Is-ra-en sẽ trở về. Nhưng vấn đề là sau khi đã hình thành Giáo Hội, đã hình thành Dân Chúa bao gồm mọi dân tộc, sau khi đã có Giao-uớc mới, thì một cuộc sống theo Giao ước cũ - một cuộc sống không mở ra cho cái mới của Đức Ki-tô – tự nó có còn giá trị nữa hay không?

Ngày nay có rất nhiều luận-thuyết trả lời cho câu hỏi đó. Là ki-tô hữu, chúng ta xác tín rằng bản chất Cựu Ước là hướng về Đức Ki-tô, và nó chỉ tìm thấy lời giải đích thực cũng như đích điểm tối hậu, khi nó được đọc từ quan điểm Đức Ki-tô. Ki-tô giáo không phải là một đạo nào đó khác với đạo của Is-ra-en, nhưng nó là cách đọc Cựu Ước mới với Đức Ki-tô.

Chúng ta đã thấy qua một lô thí dụ, là những câu chuyện và bản văn Cựu Ước chỉ là nhập đề để đi tới một cái gì khác. Chỉ khi ta đọc chúng qua Tân Ước thì ý nghĩa của chúng mới sáng tỏ và toàn hảo. Tân Ước vì thế không phải là cái gì chép thêm vào. Và thái độ của ta đối với Cựu Ước không phải là thái độ của người chiếm hữu trái phép một cái gì đó của người khác. Với ta, Cựu Ước chỉ là một đoạn đường dang dở, nếu không được tiếp tục với Tân Ước. Đó là xác tín nền tảng của Ki-tô giáo.

Nhưng, cùng với xác tín đó, ta cũng tin rằng Is-ra-en ngày nay vẫn có một sứ mạng đặc biệt. Chúng ta vẫn chờ thời điểm dân tộc này về với Đức Ki-tô, nhưng chúng ta cũng biết rằng, trong giai đoạn lịch sử gọi là đứng trước cửa này, họ vẫn mang một sứ mạng có tầm quan trọng đối với thế giới. Như vậy, dân tộc này vẫn nằm trong chương trình của Thiên Chúa một cách đặc biệt.

Nghĩa Chúa không rút lại lời, Is-ra-en vẫn là dân riêng của ngài?

Không, Chúa không rút lại, vì Ngài thuỷ chung. Dĩ nhiên, ta có thể thấy là Is-ra-en còn có một đoạn đường nữa phải đi. Là ki-tô hữu, chúng ta tin rằng kết cuộc rồi họ sẽ gặp Đức Ki-tô cùng với chúng ta. Nhưng không phải vì vậy mà họ bị coi thường và đẩy ra khỏi chương trình của Chúa, trái lại họ vẫn chung thuỷ với Ngài.

Như vậy có nghĩa là dân Do-thái phải, hoặc nên chấp nhận đấng Cứu Thế?

Chúng ta tin như thế. Điều này không có nghĩa là ta được phép ép họ theo Đức Ki-tô, nhưng ta phải chia sẻ sự kiên nhẫn của Chúa. Ta cũng phải nỗ lực sống sao cho cộng đoàn ki-tô không còn chống lại họ hay trở nên quá đáng đối với họ, mà ngược lại, phải làm sao để con đường trở về mở rộng thêm cho họ. Nhưng ta vẫn luôn xác tín Đức Ki-tô cũng là vị cứu tinh của dân Do-thái. Dĩ nhiên mọi quyết định đều nằm trong tay Chúa, Ngài sẽ quyết định khi nào và bằng cách nào dân Do-thái sẽ làm một với dân ngoại, khi nào và bằng cách nào tất cả đều quy tụ thành một Dân Ngài.

Phao-lô viết trong thư gởi giáo đoàn Rô-ma: “Cả tôi cũng là dân Do-thái, cũng là một hậu duệ của Abraham theo chi Benjamin”. Dù vậy, ngài cho hay, một phần dân này vẫn “cứng đầu”. Và ngài tiếp: “Nhìn theo Tin Mừng thì họ là kẻ thù của Chúa…, nhìn theo sự tuyển chọn thì họ là dân được Chúa yêu”. Quả nặng lời.

Đó lại là một trong những nghịch lí của Tân Ước. Việc không chấp nhận Đức Ki-tô, một mặt, đẩy dân Do-thái vào một hoàn cảnh xung khắc với hành động tiếp nối của Chúa, nhưng đồng thời ta cũng biết, là Chúa vẫn chung thuỷ với họ. Họ không bị loại ra khỏi ơn cứu độ, nhưng vẫn phục vụ Ngài theo cách riêng của họ, và vì thế Chúa vẫn chờ họ, cũng như Ngài vẫn chờ ta

SÁCH CỦA MỌI SÁCH

Kinh Thánh, cuốn sách ta thường đọc, gồm 72 cuốn: 45 cuốn của Cựu Ước và 27 cuốn của Tân Ước. Lâu đời nhất là sách Mai-sen, đã có từ hơn 3000 năm. Người ta bảo, Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn và chỉ vẽ cho người viết phải viết thế nào và Ngài đã giúp họ tránh lầm lẫn: “Điều này được viết cho dòng dõi sẽ tới, để dân tộc sắp được tạo thành ca ngợi Thiên Chúa”.

Có phải tất cả Kinh Thánh thật sự đều là lời Chúa không? Nếu đúng như thế, thì lẽ ra Chúa Thánh Thần phải biết trái đất hình cầu, chứ đâu phải hình dĩa!

Vâng, người ta có thể nêu ra những thắc mắc hài hước như thế. Nhưng anh thấy đó, người ta cũng phải suy nghĩ về nét cá biệt của Kinh Thánh.

Hãy so sánh Kinh Thánh với kinh Co-ran, chẳng hạn. Tín hữu Islam xác tín rằng Co-ran do Chúa trực tiếp đọc cho viết. Chẳng cần phải thông qua lịch sử, chẳng cần môi giới con người nào, đó là lời Chúa trực tiếp. Kinh Thánh, trái lại, có một cấu trúc hoàn toàn khác. Nó được môi giới qua một lịch sử, và chính sách đó được viết trải dài hơn một ngàn năm. Việc Mai-sen hay một ai đó có thật sự là tác giả hay không, chuyện này ta tạm để qua một bên. Nhưng đúng là văn chương Kinh Thánh đã hình thành trải qua một ngàn năm lịch sử, và trong đó phản ảnh nhiều tầng lịch sử và văn minh khác nhau. Chẳng hạn trong ba chương đầu của sách Sáng-thế, ta đối diện với một hình thái văn minh khác với hình thái của thời lưu đày hay thời sách Khôn ngoan hoặc cuối cùng là thời văn chương tân ước. Như vậy, rõ ràng đây không phải là lời trực tiếp của Chúa, nhưng là lời viết về một lịch sử do Ngài dẫn lối, là chứng từ của lịch sử đó.

Đọc Kinh Thánh, người ta bắt gặp những câu chuyện thật gay cấn và những dụ ngôn ơn ích cho cuộc sống – nhưng cũng gặp vô số chuyện đầy mâu thuẫn. Tôi chỉ hiểu Kinh Thánh như là lời Chúa, khi đọc nó trong sự lôi cuốn của cái nhất thống, của cái toàn thể, chứ không phải đọc từng chữ, từng câu. Đó là một cái gì rất nền tảng và rất gây cấn. Kinh Thánh vì thế chứa đựng nhiều chuyện mâu thuẫn hoặc chắc chắn hào hứng, bởi vì, trước mắt ta, đức tin được trình bày như là một hệ thống chưa hoàn chỉnh.

Kinh Thánh không phải là sách giáo khoa về Chúa hay những chuyện của Ngài, nhưng nó chứa đựng những hình ảnh mở ra các nhận thức và những cái nhìn đang phát triển, và trong đó cũng cho thấy một lịch sử đang được hình thành. Tôi chỉ hiểu Kinh Thánh như là lời Chúa, nếu khi đọc, tôi biết nối cái này với cái kia, biết dùng hình ảnh này để sửa hình ảnh kia. Nếu khi đọc, tôi không đặt những hình ảnh đó trong liên quan với cuộc sống phúc âm, thì lúc đó tôi chỉ đọc những câu chuyện lịch sử mà thôi. Dĩ nhiên các câu chuyện đó có những trạng huống đặc biệt, nhưng chúng cũng chỉ là những câu chuyện riêng rẽ - và đó không hẳn bao giờ cũng là lời Chúa trực tiếp.

Rắc rối quá.

Một là, ta coi Kinh Thánh như những câu chuyện lịch sử thuần tuý, trong đó có thể nói các yếu tố con người được phơi bày ra một cách không che đậy. Hai là, ta nhìn nó trong tổng thể như là lời Chúa, trong đó các sự việc có liên quan với nhau và chúng mở ra từ từ. Nhìn như thế, thì tiêu chuẩn linh ứng và không sai lầm không thể áp dụng một cách máy móc được ở đây. Không thể rút ra một câu nào đó, và bảo rằng câu này trong sách Chúa và tất nhiên nó phải đúng.

Kinh Thánh là lời Chúa, khi ta nhìn nó như một lịch sử thống nhất. Người Do-thái cũng quan niệm như thế. Họ phân biệt giữa kinh Thora như là quy điển thật sự của Kinh Thánh, và các sách tiên tri và sách truyện khác như là một loại khung. Còn chúng ta, như đã nói, chúng ta xác tín Tân Ước là chìa khoá của Cựu Ước.

Đó là lí do các giáo phụ thần học và thần học thời trung cổ không bao giờ gọi Kinh Thánh là “mạc khải”. Mạc khải là cái gì lớn hơn, cái gì đứng đàng sau Kinh Thánh. Và linh ứng có nghĩa là những tác giả Kinh Thánh – nên nhớ Kinh Thánh thường là kết quả của các tập thể - đều xuất phát từ dân Chúa và viết về lịch sử của Ngài. Gọi là linh ứng, vì họ là những người, xuyên qua nhiều trung gian, đã diễn tả lịch sử dân Chúa và sự hướng dẫn của Ngài ra bằng chữ viết, trong đó có phần đóng góp của chính Chúa.

Có nghĩa là toàn bộ lịch sử nhân loại đã được ghi chép trong Kinh Thánh, từ đầu đến cuối. Trong đó đã gồm mọi khôn ngoan, mọi bí mật, và cả mọi biến cố cho tới hôm nay và cả tương lai. Muốn hiểu nó, chỉ cần thủ đắc một thứ chìa khoá. Vì thế ta chỉ cần học cách mở khoá. Ngài nghĩ gì về quan điểm này?

Nếu hiểu một cách phiến diện và máy móc thì quan điểm đó sai. Có người tin rằng đã nắm được chìa khoá, rồi bảo rằng Chúa muốn nói đến chiến tranh nguyên tử trong sách Khải-huyền, chẳng hạn, và gán cho Chúa là tác giả của những biến cố. Dĩ nhiên ta có thể theo cách đó nhìn ra nhiều tương đồng lạ lùng và thấy được nhiều chuyện đã được nói trước. Nghĩ rằng trong Kinh Thánh đã chứa sẵn mọi sự kiện thực nghiệm, là hoàn toàn sai.

Cái toàn thể và tổng thể có thật trong Kinh Thánh mang bản chất hoàn toàn khác. Kinh Thánh nói về toàn bộ lịch sử, và cũng mở ra những nguồn sáng cơ bản chiếu soi đường đi của lịch sử. Nhưng Chúa không nghĩ thay chúng ta. Ngài không thay thế khoa học, không thay thế những nỗ lực tinh thần của chính chúng ta. Ngài để cho chúng ta, như đã nói, tự do vật lộn với thế giới. Ngài không nhảy vào lỗ hổng kiến thức của ta, nhưng ban cho ta khôn ngoan - sự khôn ngoan này dĩ nhiên bao gồm cả kiến thức trong nó, vì nếu không, thì nó chẳng phải là khôn ngoan thật sự. Ngài cho ta những định hướng cần thiết để ta có thể sống đúng. Những bảng chỉ đường của Ngài có giá trị cho toàn bộ lịch sử, cho mọi nơi mọi thời, nhưng vấn đề là ta phải luôn hiểu chúng một cách mới. Sách giáo lýcó ghi lại câu của đại giáo chủ Grê-gô-ri-ô: Lời trong Kinh Thánh lớn lên với người đọc. Và người đọc cũng lớn lên với Lời đó, và chỉ như thế Lời mới cho thấy nét cao cả của nó và đồng thời lớn lên trong lịch sử.

Có người tin rằng Kinh Thánh chứa đầy bạo tàn, bất dung và thiếu độ lượng. Họ đếm được 250 chỗ nói tới việc tiêu diệt kẻ thù. Mặt khác, một thầy dòng già nói với tôi, càng đọc Kinh Thánh, cuộc sống thường nhật của ta bắt đầu càng thay đổi, tiến về hướng tốt đẹp hơn.

Đúng, tôi cũng muốn nói như thế. Nếu tôi đọc Kinh Thánh chỉ để tìm những cảnh rùng rợn, hay để thu góp những màn máu me, thì việc đọc hẳn chả giúp gì cho tâm hồn.

Một mặt, Kinh Thánh quả là tấm gương phản chiếu lịch sử, nhưng mặt khác, nó cũng là con đường dẫn đưa từng người tiến về ánh sáng. Khi tôi đọc Kinh Thánh đúng với tinh thần của nó, nghĩa là đọc trong tư thế hướng về Đức Ki-tô, cũng như khi người Do-thái đọc nó với tinh thần vô tư và tin tưởng, lúc đó Kinh Thánh có sức biến đổi thật. Nó đưa tôi vào phong cách của Đức Ki-tô, chỉ ra cho tôi ý nghĩa cuộc đời và làm chính tôi biến đổi.

Ngài có lần nói, sở hữu chủ của Kinh Thánh là dân thường, chứ không phải là hạng thông thái.

Điều đó tôi muốn nói với thần học giải phóng. Đúng là: Kinh Thánh do Dân Chúa viết ra, các tác giả riêng rẽ được linh ứng, vì thế tiếng nói của họ cũng là tiếng nói của Giáo Hội, và qua Giáo Hội Chúa nói với ta. Vì thế, Kinh Thánh cũng được trao cho đức tin của những người đơn sơ.

Dĩ nhiên cần có những chuyên viên, những học giả để diễn giải những chuyện thuần lịch sử và khoa học. Nhưng ý nghĩa quyết định của Kinh Thánh thì ngay tín hữu bình dân cũng hiểu được. Kinh Thánh thật sự được viết ra cho mọi người nên ai cũng hiểu. Thánh An-tịnh có một câu thật hay: Con thỏ và con lừa rừng đều uống từ một nguồn suối, cả hai đều đã khát. Mà quả thực như thế, thỏ và lừa đều nhận được của uống phù hợp cho mình.

Có một lô những tài liệu không được nhận vào Tân Ước. Ngày nay, những tài liệu thuộc loại ẩn thư đó đã được khai quật và được nói đến khá nhiều. Có lẽ người ta đã kết thúc công việc điển chế Kinh Thánh quá sớm?

Chuyện điển chế là một trong những vấn đề lớn, ngay cả cho Cựu Ước. Cựu Ước cũng có nhiều ẩn thư, và cũng có những quy điển khác nhau. Người ta đã phân biệt rất sớm giữa quy điển Alexandria, là tập hợp các sách Cựu Ước được dịch ra tiếng Hi-lạp, và quy điển Masora, mà đạo Do-thái đã ấn định sau thời Đức Ki-tô. Dĩ nhiên, đã có những tài liệu quan trọng – như kinh Thora và cả phần nhiều các sách Tiên tri – từ lâu đã được xếp vào loại quy điển rồi, nhưng nói chung, vào thời Đức Ki-tô công việc điển chế vẫn còn chưa xong.

Từ cái nhìn Tân Ước, hầu như toàn bộ quy điển Alexandria được công nhận là quy điển của Cựu Ước. Còn các giáo sĩ Do-thái chọn quy điển Masora, là bản mỏng hơn, vì theo họ bản Alexandria chứa quá nhiều yếu tố Ki-tô giáo. Cuối cùng, Luther chọn bản quy điển do-thái, mà ông cho là bản duy nhất đúng. Vì vậy ngày nay Cựu Ước của Tin lành mỏng hơn Cựu Ước của ta.

Lịch sử điển chế Tân Ước quả rất nhiêu khê. Dù các phần cơ bản đã định hình vào cuối thế kỷthứ hai rồi, nhưng chuyện điển chế vẫn dây dưa mãi tới thế kỷthứ năm.

Nhìn từ quan điểm thuần lịch sử, hay nói như nhà thần học tin lành Harnack[1], là nhìn từ góc độ tự do, ta có thể nói được rằng, việc điển chế Tân Ước xẩy ra một cách tình cờ, dù vậy, các tài liệu thật sự quan trọng và giá trị đều đã được nhận vào đầy đủ trong đó. Nếu xét từ góc độ đức tin, thì việc quy điển đã không do một ai làm nên cả, chẳng phải do một nhóm nhà thông thái tụ nhau lại nghiên cứu sắp đặt, nhưng nó đã được hình thành lần hồi qua việc Giáo Hội sống trực tiếp với những bản văn sống động đó, và nhất là chúng cũng đã được bảo toàn nhờ phụng vụ. Người xưa đã tự hỏi: Cái gì nên đọc? Cái gì mang giá trị phổ quát? Cái gì đã được ki-tô hữu do-thái, hi-lạp và la-tinh công nhận? Có thể nói, qua một tiến trình sàng lọc khó khăn, Giáo Hội đã chọn ra những gì là nền tảng chung (dĩ nhiên có những chút khác biệt tuỳ từng vùng trong Giáo Hội).

Ngày nay, có những nỗ lực xét lại và làm lại từ đầu một phần quy điển. Đặc biệt các phong trào nữ quyền thấy quan điểm của họ được phản ảnh trong các tài liệu ngộ giáo và những tài liệu này lại không được nhận vào Tân Ước. Vì thế, họ đòi có một quy điển khác. Nhưng, như vậy có nghĩa là chối bỏ Giáo Hội sống động để thay vào đó những tái cấu trúc của các nhà thông thái. Như vậy là người ta muốn có một cuộc trưng cầu về đức tin. Vấn đề là: Tôi tin có Giáo Hội, Giáo Hội này được nhận ra nơi một đức tin chung và đặt nền tảng trên đức tin đó. Hay tôi cho rằng việc tuyển chọn các bản văn mang tính tình cờ và lịch sử? Nếu tôi theo quan điểm thứ hai, thì tôi cứ việc tìm lấy một Ki-tô giáo khác, và cứ việc tìm cho mình những nguồn mới khác.

Mặt khác, chẳng tìm đâu ra một nguyên bản các sách Kinh Thánh nào. Lại nữa, làm sao tránh khỏi lỗi lầm khi chép lại các văn bản. Như vậy làm sao xác định được sự trung thực của Kinh Thánh?

Vẫn xác định được, đó là điều chắc chắn. Dĩ nhiên người ta vẫn còn tranh luận nhau từng chữ từng câu. Cứ đọc ấn bản Tân Ước mới và mang tính phê bình của Nestle-Aland[2] thì rõ, trong đó có biết bao điểm khác với ấn bản thường. Nhưng, dù đọc và học được nhiều cái hay trong các bản chép tay đó, dù biết được những phong trào và kinh nghiệm của Giáo Hội phản ảnh trong đó, cuối cùng ta vẫn nhận ra nét bản chất không đổi của Kinh Thánh. Dù ta chọn cho mình một bản chép tay khác hay chọn một lối đọc khác, thì Kinh Thánh vẫn vậy. Có nhiều biến thái và khía cạnh hay, nhưng bản văn và bản chất thực của nó nhìn chung vẫn không đổi. Và chính vì tính trung thực của nó được bảo đảm, nên nó có thể xuất hiện dưới nhiều biến thái khác nhau.

Phan-sinh không những đọc Kinh Thánh, mà còn dùng nó như một lối chơi bài. Tương truyền, khi lập dòng, ngài mở đại một trang sách và nói: “Chúng ta làm như thế!”. Rồi lại mở một trang khác và nói: “Đấy là luật dòng chúng ta!”. Cả thánh An-tịnh cũng có lần mở đại một trang và áp dụng cho đời mình; trang đó đã biến đổi hoàn toàn con người ngài.

Chuyện đó có lâu lắm rồi. Cả thánh An-tịnh cũng đã từng nghe chuyện đó. Trang Kinh Thánh đã đổi đời An-tịnh và Phan-sinh. Vua Baudouin nước Bỉ có lần kể cho tôi hay, ông cũng áp dụng cách thức đó, và luôn gặp được những câu ông cần, và chúng đã mang lại cho ông ơn ích không thể tưởng. Trong một cuộc khủng hoảng chính phủ thật trầm trọng, ông không còn biết làm sao để lập chính phủ, ông liền vào nhà nguyện, cầm Kinh Thánh dở ra và đã tìm được phương cách giải quyết. Chuyện có thể xẩy ra.

Và đó là lời khuyên cho những ai muốn lập chính phủ…

Dĩ nhiên. Nhưng ta không thể đơn giản dùng nó như một toa thuốc. Bằng không, Kinh Thánh trở thành sách bói toán. Điều đúng và quan trọng, là ta đọc Kinh Thánh thường đều, và để lời Chúa đồng hành và hướng dẫn ta. Cứ suy tư với nó, ta sẽ gặp được những lời thiết thực có ích cho ta trong những tình huống nhất định.

6. LỀ LUẬT

VỀ BỐN LỀ LUẬT

Giáo Hội đã lập ra bốn lề luật. Những lề luật này đặt nền tảng trật tự cho việc tổ chức cuộc sống trong thế giới. Các luật đó: thứ nhất là luật thiên nhiên; thứ hai là luật dục vọng; thứ ba là luật giao ước cũ qua Mai-sen; thứ bốn là luật giao ước mới qua  Đức Giê-su Ki-tô. Tóm tắt của tôi như thế có đúng không?

Trước hết, phải nói các lề luật đó không có cùng một cấp độ ngang nhau. Luật thiên nhiên cho biết chính thiên nhiên cũng có một sứ điệp luân lí. Công cuộc tạo dựng còn mang một nội dung tinh thần, và nội dung này không chỉ mang tính cơ giới toán học. Sứ điệp luân lí là chiều kích nâng khoa học tự nhiên lên trong các luật thiên nhiên. Nhưng không phải chỉ có tinh thần, không phải chỉ có „luật thiên nhiên“ trong cuộc tạo dựng. Tạo dựng tiềm ẩn trong nó một trật tự, và nó cũng chỉ cho ta thấy trật tự đó. Qua trật tự này, ta đọc được suy nghĩ của Thiên Chúa và hiểu được mình phải sống ra sao.

Điểm thứ hai: Luật dục vọng muốn nói lên rằng sứ điệp của tạo dựng đã bị che mờ. Tội lỗi trong thế giới là một thứ đối lực chống lại sứ điệp đó. Luật này cho thấy con người, như người ta vẫn nói, đang chống lại mình. Về điểm này, Phao-lô đã nói như sau: Con người cảm thấy có sự hiện diện của một luật trong họ, nó khiến họ nhiều khi làm chuyện trái với mong muốn của mình. Điều này như vậy là một cấp độ khác. Trong khi luật thiên nhiên cho biết sứ điệp tiềm ẩn nơi tạo dựng, thì luật dục vọng cho thấy con người tự xây cho mình một thế giới riêng, và như vậy đã mang vào thế giới một chiều hướng đối nghịch.

Đó là điều đặc biệt thánh Tô-ma ở Aquino đã diễn tả và kiện toàn?

Vâng. Tô-ma là tổng hợp và kết quả của những điều trên.

Điểm ba : luật giao ước cũ. Cả luật này cũng có nhiều tầng ý nghĩa. Căn bản của luật này là mười giới răn ở núi Si-nai. Thêm vào đó, cả 5 sách của Mai-sen cũng được gọi là « luật ». Các sách này là bộ luật của Is-ra-en. Chúng đề ra những quy tắc sống, những lề lối cầu nguyện và những quy định đạo đức phải theo cho dân này. Phao-lô đã xét kĩ các luật đó, và nhận ra rằng luật Mai-sen đã là một quyền lực thật sự. Luật này vẫn còn giá trị cho dân Do-thái, và trên nhiều bình diện, cho cả chúng ta nữa, chúng ta sẽ bàn thêm chuyện này sau. Nhưng Phao-lô đồng thời cho hay, luật đó hoàn toàn không thể giải phóng được con người. Lí do: Luật càng đòi hỏi mạnh bao nhiêu thì bản năng chống lại nó càng lớn bấy nhiêu.

Chính  Đức Giê-su Ki-tô, theo Phao-lô, là kẻ đã giải phóng lề luật, đã đưa tự do đức tin và tình yêu thay thế lề luật. Tiếp nối í của thánh Phao-lô, Tô-ma ở Aquino đã nói tới một luật gọi là luật Đức Ki-tô, và luật này có một bản chất hoàn toàn khác. Thánh Tô-ma nói, luật mới, luật Đức Ki-tô, là Thánh Thần, nghĩa là đó là một sức mạnh thúc đẩy ta từ bên trong, và ta không hoàn toàn bị lệ thuộc bởi bên ngoài.

Như vậy chúng ta có tất cả bốn tầng khác nhau : thứ nhất là sứ điệp của tạo dựng. Thứ hai là khuynh hướng đối nghịch của con người trong lịch sử, muốn chống lại Thiên Chúa và muốn tạo cho mình một thế giới riêng. Thứ ba là tiếng nói Thiên Chúa trong Cựu Ước, Cựu Ước đề ra cho con người một con đường, nhưng con người chống lại con đường đó và xem ra họ bất lực trong việc chống đó. Luật giao ước cũ tạm thời vẫn còn, nó mở ra cánh cửa vượt qua nó. Và cuối cùng thứ tư là Đức Ki-tô, Ngài đã đến trong ta không qua các lề luật bề ngoài, và đã mở ra một hướng nội tâm cho cuộc đời chúng ta.

Nhưng câu này của  Đức Giê-su làm cho tôi khó chịu : « Đừng nghĩ rằng tôi đến để phá lề luật và các tiên tri. Tôi đến, không phải để phá, mà để làm cho trọn. Amen, tôi cũng muốn nói điều này : Cho tới khi trời đất qua đi, một nét chữ nhỏ nhất trong luật cũng không qua đi, cho tới khi tất thảy mọi sự đã xảy ra ».

Đức Ki-tô đến không như một kẻ phá luật. Ngài không đến để bãi bỏ luật hay biến nó thành ra vô nghĩa. Phao-lô cũng hành động như thế, cả cho dù một số người theo quan điểm của ngài nhận thấy có điều khó hiểu trong câu nói của  Đức Giê-su được ghi lại bởi Mat-thêu trên.  Đức Giê-su nói, toàn bộ luật cũ có vai trò sư phạm rất quan trọng. Và Ngài đến để làm trọn nó. Điều này cũng có nghĩa là để nâng nó lên một tầm cao hơn. Ngài làm trọn nó qua cuộc khổ nạn, qua cuộc sống và sứ điệp của Ngài. Và nhờ vậy, toàn bộ luật đó giờ đây mới có được ý nghĩa. Tất cả những gì luật cũ gói gém và muốn nói lên, đã được thực hiện nơi con người  Đức Giê-su.

Đó là lí do tại sao chúng ta giờ đây chẳng cần phải thực thi từng mớ chi tiết của luật cũ nữa. Sống cộng đoàn với Đức Ki-tô có nghĩa là chúng ta đang ở nơi luật đã được nên trọn, nơi luật có chỗ đứng đúng của nó, nơi nó đã được « nâng lên », nghĩa là nơi nó được bảo tồn và đồng thời cũng được biến thể.

Có biết bao nhiêu thư viện chứa đầy những bộ luật quy định cách sống chung và cách hành xử cho con người trong các quốc gia. Nhưng ngược lại,  Đức Giê-su muốn tóm tắt những luật đó trong vài câu dễ hiểu và có thể áp dụng cho mọi người trên trái đất, Ngài muốn có một bộ luật chính yếu cho thế giới.

Trước câu hỏi: Thưa Thầy, điều luật nào quan trọng nhất, Ngài trả lời : « Ngươi nên yêu Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết tâm hồn và với hết mọi ý nghĩ. Đó là điều luật thứ nhất và quan trọng nhất. Điều thứ hai cũng quan trọng không kém : Ngươi nên yêu tha nhân như chính ngươi ». Và Ngài còn nói thêm, như thể để cho mọi người có thể nắm bắt: « Hai điều luật đó là toàn bộ lề luật và các tiên tri ».

Quả thực đó là bước đột phá lớn, là tổng hợp quan trọng mà  Đức Giê-su đã mang tới. Ngài giúp ta vượt qua mọi góc độ và chi tiết để nhìn vào tổng thể : tất cả mọi thứ đều nằm sẵn trong hai điều răn đó. Thiên Chúa và tha nhân gắn liền với nhau. Như vậy,  Đức Giê-su đã đơn giản hoá vấn đề một cách tuyệt diệu, đây không phải là Ngài coi nhẹ hay tầm thường hoá, nhưng là cơ bản hóa vấn đề. Ngài đưa ra ánh sáng tâm điểm của vấn đề, tất cả mọi chuyện đều đặt nền trên đó, đều xoay quanh nó, không có nó là không được, như Phao-lô đã nói. Nếu không có nó như là giới răn nền tảng, thì mọi chuyện chúng ta nói đều là phèng la inh ỏi mà chẳng thực tế. Mọi hành vi sùng mộ và mọi thứ sinh hoạt sẽ là trống không, nếu trong chúng không có hồn tình yêu. Chúng không giúp ta đụng được với Chúa và cũng chẳng giúp được gì cho tha nhân. Như vậy thì việc tóm kết và đơn giản hoá đó quả là một đột phá nền tảng, nó chỉ ra sự đơn giản của Thiên Chúa và đồng thời cũng cho thấy nét đẹp và cao cả trong đòi hỏi của Ngài.

Ta hẳn biết rằng, trong Is-ra-en xưa, luật pháp và quy chế luân lí quốc gia đều hoà chung làm một với lề luật phụng tự. Qua biến cố  Đức Giê-su, những thứ đó đã được tách ra. Tôn giáo có thể nói giờ đây nhận được bản chất riêng của nó. Tôn giáo vẫn là hồn cho quốc gia và luật pháp quốc gia, và nó vẫn đề ra mực thước đạo đức cho quốc gia, nhưng luật pháp quốc gia giờ đây không còn là một với những gì đạo đức hay đức tin dạy.

Với cái nhìn đó, các quốc gia càng ngày càng phải tạo ra cho mình những quy định và tiêu chuẩn pháp lí riêng. Nhưng những cái đó sẽ trống rỗng, nếu chúng không có hồn, và nếu con người từ thâm tâm không nhận ra được yêu cầu nền tảng của cuộc sống, và từ đó biến những quy định hành xử có tính cách thuần bề ngoài đó trở thành một cuộc chung sống hài hoà, công bình.

Có phải đó là điều mà ngài đã có lần phát biểu: luật thiên nhiên đúng nghĩa là một luật đạo đức?

Đúng. Như đã nói, thiên nhiên không những mang trong mình những luật diễn biến, như khoa học tự nhiên nghiên cứu, mà còn cả một sứ điệp sâu xa nữa. Sứ điệp này soi đường dẫn lối ta. Và khi Giáo Hội nói tới luật thiên nhiên, thì đây không phải là những luật của khoa học tự nhiên, mà đó là bảng chỉ đường nội tâm mà Tạo hoá đã bật sáng trong ta.

MƯỚI GIỚI RĂN

Trong sa mạc Si-nai, Mai-sen vẽ một đường ranh quanh núi Ho-rép. Không ai được bước qua ranh đó, ngoài một mình ông. Vào ngày thứ ba, sấm chớp bắt đầu nổi lên, mây vần vũ bao phủ lấy ngọn núi, kèn loa vang dội. Cả ngọn núi dậy khói, toả lửa và động đất, và chỉ có Mai-sen leo lên đỉnh để nhận mười giới răn, luật thiên chúa. Mai-sen viết tất cả những lời của Thiên Chúa vào Sách Giao ước.

Huyền thoại được viết lại như thế. Đối với Giáo Hội, mười giới răn nói lên nỗi lo lắng của Thiên Chúa đối với con người, các giới răn hướng dẫn họ bước vào một cuộc sống tốt đẹp. Tôi muốn hỏi : Có thật các giới luật đó đã được Chúa hiện ra trao cho Mai-sen trên núi Si-nai ? Đó là những tảng đá, có phải trên đó chính « tay Chúa đã viết ra », như vẫn được truyền tụng không ?

Có lẽ phải giải thích rõ hơn một chút về chữ « huyền thoại ». Ngôn ngữ diễn tả ở đây rõ ràng là ngôn ngữ hình ảnh. Ngôn ngữ đó nói lên những điều khó có thể diễn tả. Nhưng việc những sứ điệp đó được thông báo qua biểu tượng, không có nghĩa là chúng chỉ là một cơn mơ, một truyền thuyết hay là một thần thoại.

Hình ảnh ở đây nói lên một biến cố có thật, đó là biến cố Thiên Chúa đi vào lịch sử, biến cố gặp gỡ giữa Ngài và dân Is-ra-en – và xuyên qua dân này gặp gỡ nhân loại. Hình ảnh này được thông truyền qua một người, người đó sống gần Chúa, thật sự muốn lắng nghe Chúa và, như Kinh Thánh nói, có thể nói chuyện với Ngài như một người bạn, và từ tình bạn đó đã trở thành kẻ môi giới, và đã có thể chuyển tiếp sứ điệp của Ngài. Như vậy, chúng ta gặp ở đây một biến cố trung tâm và biến cố này đã được diễn đạt bằng hình ảnh thị kiến.

Nhưng làm sao biết được rằng các giới răn đó thật sự đến từ Thiên Chúa ?

Ngày nay ta biết rằng chuyện mười giới răn, như đã được truyền lại trong các sách Mai-sen, có dây mơ rễ má với lịch sử của các dân tộc lân cận. Những chuyện nói lên việc vật lộn với lịch sử như thế cũng có trong vùng Assiri. Tuy nhiên, việc có một giới luật dưới hình thức đó và được viết ra bằng chữ như thế thì quả đã vượt ra ngoài mọi nguồn ảnh hưởng hỗ tương. Nó đã được một người gần gũi với Chúa viết ra dưới một dạng hình mà ta nhận biết thực sự là lời của Chúa. Như là bạn thân tình, Mai-sen đã nhận ra được ý Thiên Chúa, ý này cho tới lúc đó chỉ xuất hiện từng mảng rời rạc và đây đó trong nhiều nguồn khác nhau. Và Mai-sen đã kết hợp chúng và diễn tả ra. Có phải thật đó là những mảng đá hay không, lại là một chuyện khác. Ta biết, theo như sách kể, Mai-sen vì tức giận đã đập bể các mảng đó, và cuối cùng đã nhận được các mảng khác thay thế. Vấn đề quan trọng ở đây là chính thật Thiên Chúa đã tỏ hiện xuyên qua một người bạn. Vì thế, việc môi giới này là điều vượt ra ngoài sự tưởng tượng của con người, hay cả vượt ra ngoài sự nhạy cảm của họ đối với sứ điệp của tạo dựng.

Mười giới răn vẫn mang giá trị - vô giới hạn - cho ngày nay ?

Chúng vẫn giá trị. Chúng ta đã nói tới một giới răn. Giới răn đó, sau khi gặp Đức Ki-tô, có thể nói đã mang một bộ mặt và ý nghĩa mới : « Ngươi không được tạc tượng hình nào khác ». Giới răn này trở thành mới ngay khi chính Thiên Chúa tự tỏ hiện qua hình ảnh Ngài. Nghĩa là tất cả các giới răn cũng đều đang trên đường hình thành, chỉ qua Đức Ki-tô chúng mới nhận được hình thù hoàn chỉnh.

Cả giới răn thánh hoá ngày thứ bảy cũng giữ nguyên giá trị. Giới răn này có liên hệ với câu chuyện tạo dựng. Nhưng nó đã nhận được một khung mới, vì giờ đây ngày phục sinh của  Đức Giê-su trở thành thực sự là ngày giao ước. Thứ bảy chuyển thành chủ nhật – và mang theo một chiều sâu mới.

Trong ý nghĩa đó, các giới răn chưa hẳn là những lời đã hoàn chỉnh. Phải qua ánh sáng Đức Ki-tô chúng mới có được hình thù quyết định. Tuy nhiên chúng vẫn có giá trị trong nền

tảng.

Mười giới răn đã chẳng bao giờ bị sửa đổi ?

Không. Có hai bản văn, một trong sách Xuất hành và một trong sách Dân-số. Hai bản có khác nhau đôi chút bề ngoài, nhưng bản chất giống nhau – và dĩ nhiên con người không có quyền sửa đổi chúng.

Khi Mai-sen từ núi thánh xuống, thấy dân đang nhảy múa quanh bò vàng, ông giận ném tan các mảng giới răn. Chỉ có con cháu của chi Lê-vi, chi họ về sau trở thành giai tầng giáo sĩ, tụ tập chung quanh ông, và như vậy đứng về phe Thiên Chúa. Maisen ra lệnh : « Hãy đi từ bên này sang bên kia doanh trại, từ cửa này tới cửa kia, và giết hết ngay cả anh em, bạn bè, người hàng-xóm ».

Câu chuyện mười giới răn, như thế, đã khởi đi từ một tội chống lại điều răn thứ năm : Chớ giết người. Lẽ ra Mai-sen phải biết điều đó chứ.

Trước hết, nó khởi đi từ tội chống lại điều răn nền tảng thứ nhất : Ngươi không được thờ thần nào khác ngoài Thiên Chúa.Con người chỉ quân bình, khi họ chấp nhận Thiên Chúa và tôn thờ Ngài. Khi họ bỏ Chúa chạy theo thần khác, khi họ muốn tự mình làm Chúa và thờ lạy chính mình, lúc đó họ phản nghịch lại với thân phận mình. Tội nền tảng này đã làm cho bộ mặt dân này ra dị hợm và khiến họ ăn tươi nuốt sống nhau. Bởi bỏ Chúa là bỏ nguồn sống, cũng có nghĩa là ra khỏi sự sống.Câu chuyện trên quả dã man và thật khó hiểu đối với ta. Nhưng ở đây, ta lại phải nhìn về Đức Ki-tô. Ngài hành động ngược lại. Ngài nhận lấy cái chết cho mình mà không giết hại ai cả. Trong giờ phút lịch sử ở Si-nai, có thể nói, Mai-sen đã chỉ hoàn thành điều đã xảy ra : chính những người khác đã đồi truỵ cuộc sống họ. Câu chuyện trên thật sự xẩy ra như thế nào, lại là một câu hỏi khác. Dân Is-ra-en vẫn còn đó. Câu chuyện muốn nói lên rằng, ai bỏ Chúa, người đó không những bỏ giao ước, mà còn ra khỏi không gian sự sống, phá hoại chính sự sống, và như vậy là đã bước vào vùng đất chết.

Giới răn thứ nhất , « Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi. Ngươi chớ có thần nào khác ngoài Ta »

Nếu nhìn kĩ, thì cuộc nhảy múa quanh bò vàng trong lịch sử nhân loại chưa bao giờ dữ dội và say sưa như trong thời đại ngày nay.

Ngày nay không có những thần linh được minh nhiên tuyên xưng, nhưng có những quyền lực khiến người ta kính cẩn sấp mình. Tư bản, hay nói chung của cải, là một trong những quyền lực đó. Hay đam mê quyền lực cũng thế. Bò vàng xuất hiện dưới nhiều bộ mặt và hiện rất thời sự trong thế giới phương tây của chúng ta. Hiểm nguy luôn chờ sẵn.

Nhưng còn hơn thế nữa. Càng ngày gương mặt Thiên Chúa càng bị xoá nhoà. Người ta bảo : Chúa nào thì rồi cũng chỉ là một Chúa đó cả thôi. Vấn đề là mỗi nền văn hoá có một cách gọi riêng, chứ dù mình có coi Ngài là một con người hay không, có gọi Ngài là Jupiter, Shiva hay với tên nào đi nữa, thì tất cả cũng chỉ là một! Và càng ngày, người ta càng chẳng quan tâm gì tới Chúa nữa. Người ta rời xa Chúa, và chỉ quay nhìn vào những tấm gương phản chiếu chính họ trong đó.

Ta thấy : Chính khi Chúa bị gạt ra một bên, thì đó là lúc các chước cám dỗ thờ ngẫu tượng trở nên rất mạnh. Nguy cơ lớn của ta lúc này, là người ta coi Chúa là dư thừa. Họ bảo, Ngài ở xa quá, và có thờ Ngài thì có lẽ cũng chẳng lợi lộc gì. Điều chúng ta ít để ý hơn : Khi ta nhổ cây cột trụ làm nền cho cuộc sống của ta đó đi, lúc đó càng ngày ta sẽ càng trở nên mất cân bằng và phân rã.

Giới răn thứ hai, « Ngươi chớ làm ô danh Thiên Chúa ! »

Nhưng ta tự hỏi : Nếu Thiên Chúa lớn như thế, thì sao Ngài lại phải phiền vì một tội nhỏ của tôi như thế, tội của một chú giun đất nhỏ nhoi ?

Không phải vì ta có thể đe doạ Chúa mà Ngài phải trả thù ta. Song là vì để ta giữ được thăng bằng trong cuộc sống. Chính khi ta làm ô uế Ngài, làm biến thể bộ mặt Ngài, khiến bộ mặt không còn toả rạng để cho thế gian nhận ra Ngài, thì lúc đó con người cũng chẳng còn toả rạng nữa.

Martin Buber có lần nói, không có từ nào bị lạm dụng như từ THIÊN CHÚA. Từ đó bị bôi đen và làm biến thể đến nỗi không còn sử dụng được nữa. Ông nói tiếp, tôi nghĩ rằng, dù vậy, ta không được tránh hay không nhắc tới từ đó, nhưng hãy cố gắng kính cẩn vực nó dậy và tạo lại ý nghĩa đúng đắn cho nó.Ta chỉ cần nghĩ tới câu « Thiên Chúa ở cùng chúng ta » được in trên dây lưng của quân đội Đức trong thời quốc-xã, thì cũng đủ rõ. Tưởng là để vinh danh Chúa, nhưng thực ra là để lợi dụng cho mục tiêu riêng của họ.Mỗi lạm dụng danh Chúa, mỗi hành vi làm biến thể bộ mặt của Ngài đều để lại nhiều rác rưởi và dấu vết có hại kinh khủng.

Nếu không có những lạm dụng danh Chúa đó, ta không thể giải thích được quyền lực lớn của vô thần, hay của việc chối từ hoặc vô tâm đối với Thiên Chúa. Gương mặt Ngài đã bị bóp méo đến đỗi người ta không còn dám nhìn. Xem đó, ta thấy việc lỗi phạm điều răn này có thể mang lại những hậu quả ghê gớm như thế nào.

Giới răn thứ ba , « Hãy nhớ thánh hoá ngày thứ bảy »

Có người rất thích ngày chủ nhật và muốn tận hưởng nó. Có người lại chẳng muốn nghỉ, dùng nó để đi chợ, làm việc hay gây ồn ào. Phải chăng là vì người ta không còn hiểu ra ý nghĩa của ngày này nữa?

Trong trình thuật tạo dựng, ngày thứ bảy là thời gian con người nghỉ ngơi lo việc Chúa. Đây là dấu chỉ giao ước giữa Chúa với dân Ngài trong nội dung thập giới. Ý nghĩa nguồn cội của ngày thứ bảy, như thế, là việc báo trước tự do và bình đẳng cho tất cả mọi người.

Trong ngày thứ bảy, cả nô lệ cũng không còn là nô lệ nữa, họ cũng được nghỉ ngơi. Đó là một trong những ý nghĩa chính trong truyền thống Giáo Hội. Còn đối với những người tự do thì họ vẫn được tiếp tục làm việc, là vì việc họ làm không phải là công việc đúng nghĩa. Điểm quan trọng thứ hai, đây là ngày nghỉ, kết thúc cuộc tạo dựng. Giới răn này cũng có giá trị ngay cả cho súc vật.

Ngày nay, con người muốn dành toàn quyền cho mình việc sử dụng thời gian. Thực tế là chúng ta đã quên đi tầm quan trọng của việc để Chúa đi vào thời gian, và quên rằng thời gian không phải chỉ là vật liệu sử dụng cho nhu cầu riêng của mình. Vấn đề là ta phải thoát ra khỏi sự ràng buộc của cái lợi và cái hữu ích - để giải thoát cho chính mình và cho kẻ khác.

Như đã nói, ngày thứ bảy đã mặc lấy hình thức mới trong ngày phục sinh của Đức Ki-tô. Đó là ngày  Đấng Phục Sinh hiện ra giữa các môn đồ của Ngài, là ngày chúng ta quy tụ với Ngài, là ngày Ngày mời gọi chúng ta tới với Ngài – ngày cầu nguyện và gặp gỡ, Chúa tới và thăm ta và ta thăm Ngài.

GIỚI RĂN THỨ BỐN « Ngươi phải tôn kính cha mẹ, để được an khang và sống lâu trên trái đất »

Đây là giới răn duy nhất gắn liền với một hứa hẹn.  Đức Giê-su nhiều lần nói tới tầm quan trọng của giới răn này.Tôi muốn kể ở đây một câu chuyện nhỏ. Đó là chuyến nghỉ hè của chúng tôi, và tôi rất vui khi thấy hai đứa con vui. Thằng Paul ngồi hàng giờ câu cá măng và các chú tôm nhỏ. Jakob đào chơi cát. Chúng tôi chèo một chiếc thuyền nhỏ và Paul bơi theo rất lâu bên cạnh. Nó bỗng nhiên chẳng còn sợ nữa và rất hãnh diện vì mình có thể bơi một mình. Có lúc tôi ngồi trên mỏm đá xa xa nhìn vợ con, thấy tất cả khoẻ mạnh, tươi trẻ. Lòng tự nhủ, đây là khởi đầu thời gian đẹp nhất của đời mình, và tôi không muốn phí phạm nó, tôi nghĩ có được như vầy thì tuyệt quá. Nhưng bỗng dưng tôi chợt nghĩ tới bố mẹ và ông bà tôi – và cũng nghĩ tới giới răn thứ bốn này.

Giới răn này quả là đại hiến chương (Magna Charta) của gia đình. Nó xác định một trật tự nền tảng. Nó nói cho chúng ta hay, tế bào căn bản của xã hội tính và của xã hội là gia đình, là cha mẹ và con cái. Và chỉ trong trật tự nền tảng đó ta mới tập được những đức tính căn bản. Chỉ trong đó tương quan nam nữ và tương quan thế hệ mới nẩy nở đúng.

Một mặt, giới răn chứa đựng nhiệm vụ giáo dục, nghĩa là hướng dẫn người khác bước vào tự do của họ một cách đúng đắn, để họ nhận ra những quy luật bên trong, để họ học sống cho ra người. Trong quá trình giáo dục này, sự vâng lời đóng vai trò phục vụ cho việc tập sử dụng tự do riêng. Và ngược lại, điều kiện đương nhiên về phía con trẻ là phải chấp nhận sự giáo dục đó.

Điều răn thứ bốn cũng dạy ta cách đối xử với người già cả, là những người hết ích lợi và sinh lực. Nó dạy ta phải quý trọng cha mẹ già. Ta không nên chỉ nghĩ tới cái lợi, nhưng quý trọng các ngài, vì các ngài đã cho ta sự sống. Qua các ngài, ta cũng quý trọng phẩm giá con người nói chung, những con người giờ đây không còn tự giúp mình được nữa. Sự kính trọng nền tảng đối với con người đó, là khía cạnh tối quan trọng của giới răn này. Trong nó cũng hàm chứa tương lai của chính chúng ta, để sau này ta có thể tin tưởng bước vào tuổi già.

GIỚI RĂN THỨ NĂM, « Ngươi không được giết người »

Chẳng ai muốn phản đối điều này. Cái lạ là nó luôn bị lỗi phạm.

Trong con người, rõ ràng có sự hiện diện của một nhận thức nguồn cội, nó bảo tôi không được phép giết người. Dù tôi quên rằng, chỉ có Chúa mới có quyền trên con người, thì ít nhất tôi cũng biết người đó có sự sống và nhân quyền riêng của họ, và nếu tôi giết họ, là tôi phạm tội đối với nhân loại.

Tuy nhiên cái nhìn trên đây càng ngày càng trở nên lu mờ nơi các trường hợp biên tiếp. Đặc biệt nơi sự sống mới bắt đầu, là lúc nó chưa biết tự vệ, còn dễ bị lèo lái. Đây là lúc dễ bị nguy cơ cái lợi sai khiến. Người ta muốn chọn để ai sống, bắt ai chết, vì sợ rằng bào thai đó sẽ hạn chế tự do và nhân cách của mình. Nơi nào sự sống chưa đủ vóc dáng và trí tuệ để đối phó, nơi đó ý thứcvề giới răn thứ bốn dễ mai một. Trường hợp kết thúc cuộc đời cũng thế. Người ta coi người bệnh, người đau khổ trở thành phiền hà và nghĩ rằng cái chết có lẽ tốt hơn cho đương sự. Và đó là cớ để người ta vội vàng trợ tử cho người bệnh.

Và từ đó cứ tùng bước, từng bước một đi tới. Ngày nay, ý nghĩnuôi cấy người lại trở nên thịnh hành, như ta đã thấy trong thời gian bất hạnh vừa qua. Người ta nẩy ra đắn đo, không biết một người không còn ý thức nữa và không còn khả năng hoàn thành được vai trò xã hội nữa, có phải thật sự còn là một con người nữa không.

Suy tư từ đó cứ mở tiếp ra. Đặc biệt, trong lãnh vực trợ tử, ta gặp ngay câu hỏi: Khi nào thì ta có quyền chấm dứt một sự sống, để nó không phải chịu đau đớn quá đỗi. Xem thế, trong các trường hợp tiếp biên, ý thứccội nguồn và đạo đức của con người về việc kính trọng sự sống kẻ khác quả rất dễ bị triệt tiêu. Điều răn thứ năm, nói lên quyền của Chúa trên mạng sống con người từ lúc sinh ra cho tới lúc chết, vì thế, lại đáng cho ta tranh luận hơn bao giờ hết.

GIỚI RĂN THỨ SÁU, « Ngươi chớ làm sự dâm dục »

Thế giới chúng ta đã biến việc sở hữu và sử dụng tình dục thành ra một đức tính. Nếu không phải là kẻ quá mê đắm dục tình, thì thử hỏi : Phải chăng dâm dục thật sự là tội ?

Bản văn nguồn của giới răn này trong Cựu Ước có nội dung như sau : « Ngươi chớ ngoại tình » (Xh 20,14 ; Ds 5,18). Như vậy, giới răn này thoạt tiên có một nghĩa rất nhất định. Nó dạy sự trung thành trong quan hệ vợ chồng, nó không những bảo vệ tương lai con người, mà còn hội nhập tình dục hôn nhân vào trong toàn thể cuộc sống làm người, và chỉ qua đó tình dục mới có được phẩm giá và chiều kích cao cả.

Đó là tâm điểm của giới răn. Hôn nhân không phải là một giao tiếp tạm bợ, mà là sự kết hợp giữa hai người trong tiếng Vâng, tiếng Vâng này đồng thời cũng nói lên việc sẵn sàng chấp nhận con cái. Như vậy, hôn nhân là nơi đích thực để cho tình dục nhận được phẩm giá và cao cả. Chỉ nơi đó tinh thần mới thành cảm giác và cảm giác mới thành tinh thần. Nơi đây diễn ra cái mà ta gọi là bản chất của con người. Nó có vai trò như cây cầu nối liền hai điểm kết thúc của tạo dựng vào nhau và trao cho nhau phẩm giá và nét cao cả.

Nếu giờ đây ta bảo, chỗ của tình dục là hôn nhân, thì đương nhiên điều đó cũng hàm ý rằng, chỉ trong hôn nhân tình dục mới có được phẩm giá và sự nhân tính hoá đích thực. Hôn nhân có nghĩa là một kết hợp trong tình yêu và chung thuỷ; nó bao hàm cả sự chăm sóc lẫn nhau và sự sẵn sàng cho tương lai, nghĩa là hướng đến nhân loại trong toàn thể.

Hẳn nhiên sức mạnh quá lớn của bản năng tình dục, nhất là trong một thế giới ngập đầy yếu tố kích dục như hiện nay, đã khiến cho bản chất hôn nhân bị lu mờ. Tình dục từ lâu đã trở thành hàng hoá có thể mua bán. Nhưng như thế thì con người đã bị lợi dụng thành kẻ bán dâm, nhân tính họ bị biến thể, và họ chẳng còn được kính trọng như là một con người nữa. Những kẻ tự biến mình thành hàng hoá, hay bị ép buộc làm chuyện đó, trước sau sẽ bị khai thác đến kiệt quệ. Và, lúc này đây, trên nền chợ tình dục kia còn nẩy sinh thêm một chợ nô lệ mới. Như vậy, chính khi tôi không đặt tình dục vào khuôn tự do trách nhiệm của đôi bên, không nối nó vào trong cái toàn thể của sự sống, lúc đó con người đương nhiên trở thành vật mua bán.

Xin ngài nói lại lần nữa tâm điểm của điều răn.

Đây là sứ điệp của tạo dựng : Người nam và nữ được tạo nên cho nhau. Sách Sáng-thế viết: Họ sẽ bỏ cha mẹ để hợp với nhau thành một thân xác. Vậy từ cái nhìn thuần sinh lí, ta có thể nói được rằng, thiên nhiên đã sáng tạo ra tình dục để duy trì chủng loại. Điều chúng ta thoạt tiên thấy như chỉ là một sản vật thiên nhiên, như là một thực thể thuần sinh lí, đã trở thành dạng hình người qua sự chung sống của người nam và người nữ. Đó là một cách con người mở ra cho nhau. Một cách không những để làm triển nở sự gắn bó và chung thuỷ, mà còn mở ra một không gian để con người có thể khởi đi từ lúc thụ thai tiến lên thành người. Không gian này là chỗ đặc biệt nẩy sinh cuộc chung sống đúng đắn của con người. Điều thoạt tiên chỉ là một quy luật sinh lí, một xảo thuật của thiên nhiên (nếu có thể nói được như vậy), đã trở thành dạng hình người, trong đó nẩy sinh sự chung thuỷ và gắn bó tình yêu giữa người nam và người nữ, và từ đó đồng thời hình thành nên một gia đình.

Đó là tâm điểm của giới răn mà tạo dựng muốn nói với ta. Càng suy nghĩ và sống trọn giới răn đó, ta càng thấy rõ các loại tình dục khác không đưa ta tới độ cao chân thực của ơn gọi làm người. Chúng không đạt tới cấp độ muốn có và nên có của tình dục con người. Chúng ta sẽ nói thêm về tình dục ở chương sau. Nhưng thập giới xem ra phản lại quy luật thiên nhiên. Chúng ta khó mà tuân giữ những điều đó được, vì chúng thường đi ngược lại bản năng con người.

Đúng, khó tuân giữ. Nhưng điều răn thứ sáu hàm chứa trong nó chính sứ điệp của thiên nhiên. Thiên nhiên quy định sự hiện diện của hai phái, để cho giống nòi được tồn tại – đặc biệt cho giống người, vì sau khi lọt lòng mẹ, con người còn lâu mới toàn thành và còn cần một thời gian chăm sóc dài.

Con người không phải là loài thoát tổ, mà là nằm tổ. Với cái nhìn thuần sinh lí, thì giống người cần có tình yêu của cha mẹ như là lòng mẹ mở rộng, để mới có thể vượt qua cấp sinh lí ban đầu, hầu tiến lên thành người được. Khung cảnh gia đình có thể xem là điều kiện hiện hữu của con người.

Như vậy, chính thiên nhiên ở đây đã mở cho ta thấy bộ mặt nguồn cội của loài người. Con người cần một gắn bó tiếp tục với nhau. Trong sự gắn bó đó, thoạt tiên hai người nam nữ hiến thân cho nhau – và rồi hiến thân cho con cái, để con cái cũng bước được vào quy luật tình yêu, quy luật tự hiến. Nơi loài nằm tổ, rõ ràng cần có sự chung thuỷ sau khi sinh. Như vậy, sứ điệp hôn nhân và gia đình hẳn là quy luật của chính tạo dựng và không đi ngược lại bản chất con người.

Dù vậy, vẫn quả thật khó mà tuân giữ.

Đúng là trong lãnh vực này, cũng như trong các lãnh vực khác mà chúng ta đã đề cập, đang có cảnh lội ngược dòng. Có sự thặng dư quyền lực sinh lí. Ta thấy trong các xã hội tân tiến – và cả trong xã hội của một số thời kì trước đây, chẳng hạn ở Rô-ma dưới thời vua chúa – có một sự kích dục công khai, khiến sức mạnh bản năng gia tăng, và vì thế gây khó khăn cho việc kết hợp hôn nhân.

Hãy trở lại với bốn điều răn đã nói. Ta thấy ở đây có hai trật tự khác nhau của thiên nhiên. Thiên nhiên một mặt cho hay, việc kết hợp nam nữ là hành vi thâm sâu nhất, nó rốt cuộc trở thành một hành vi con người, và mở ra không gian để loài người có thể phát triển. Một sứ điệp khác của thiên nhiên là chúng ta, trên phương diện nào đó, cũng hướng về sự chung đụng khác giới, đặc biệt hướng về việc sử dụng tình dục vượt ra ngoài khuôn khổ gia đình.

Đứng từ góc độ đức tin, ta thấy rất rõ sự khác nhau của hai chiều hướng trên. Một bên nói lên sứ điệp chân thực của tạo dựng. Bên kia phản ảnh khuynh hướng muốn làm chủ của con người. Do đó, việc tự trói buộc mình vào hôn nhân luôn là một nỗ lực liên lỉ. Tuy nhiên, ta cũng thấy, ở đâu nỗ lực đó thành tựu, ở đó có trưởng thành nhân bản và trẻ con có thể học được tương lai. Ở đâu việc li dị trở thành thường tình, ở đó trẻ con là giới chịu nhiều thiệt hại nhất. Như vậy, đứng từ phía trẻ con mà nhìn, ta có thêm một lí do minh chứng sự kết hợp nam nữ, sự chung thuỷ vợ chồng là đúng đắn và thật sự phù hợp cho con người.

GIỚI RĂN THỨ BẢY, « Ngươi chớ trộm cắp ».

Coi trọng tài sản kẻ khác là chuyện thường tình. Giới răn có ám chỉ thêm điều gì nữa không?

Bài học của tạo dựng về quy định chung của tài sản không chỉ là một tư tưởng đẹp, mà nó còn phải được thực hiện. Bài học này xác quyết mỗi người cần cho mình một số nhu cầu căn bản để sống, và vì thế phải có luật để bảo vệ tài sản cho từng người. Ở đây, nhà nước phải có những bộ luật để canh chừng và ngăn chận mọi lạm dụng tư hữu.

Ngay lúc này đây, ta thấy rõ hơn bao giờ hết cảnh con người đang tự huỷ diệt mình, khi họ chỉ còn biết sống cho của cải, cho đồ vật, khi họ ngụp lặn trong những thứ đó, và của cải trở thành thượng đế của họ. Chẳng hạn, ai bị quy luật cổ phần chế ngự hoàn toàn, kẻ đó chẳng còn suy nghĩ được gì khác. Ta thấy quyền lực của cải đè lên con người nặng như thế nào. Càng có thêm, ách nô lệ càng nặng, bởi vì họ phải lo giữ của và không ngừng làm tăng chúng.

Vấn nạn của quyền tư hữu cũng thấy được rõ nét trong tương quan bất ổn giữa thế giới thứ nhất và thế giới thứ ba. Ở đây, quyền tư hữu đã đi trệch ra ngoài quy luật chung về tài sản. Phải tìm ra những hình thức pháp lí để giữ nó thăng bằng hoặc ngay cả đưa nó về lại thế thăng bằng.

Như vậy, đàng sau giới răn đó ta thấy một gánh nặng ghê gớm của thực tế. Giới răn nói tới việc bảo vệ những gì cần thiết cho cuộc sống cá nhân (và những thứ đó cũng phải được quý trọng), cũng như trách nhiệm làm sao sử dụng quyền sở hữu cho đúng, để đừng đi ngược lại sự uỷ thác chung của tạo dựng và ngược lại tình yêu tha nhân.

GIỚI RĂN THỨ TÁM, « Ngươi chớ nói dối » hay « Ngươi chớ làm chứng dối ».

Có nhiều chuyện tuyệt hay về nói dối. Nhiều khi chính những lời dối trá nhỏ lại trở hành lớn, đến nỗi sém làm tiêu tan sự nghiệp các tổng thống của một siêu cường hoặc sém khiến cho những đảng cầm quyền hay những ông vua truyền thông sụp đổ. Chuyện lạ : chẳng có chi dấu được dưới ánh sáng mặt trời.

Tôi muốn nói, điều đó cho thấy bản chất con người là yêu sự thật. Mọi giới răn chung quy đều là giới răn của tình yêu, hoặc là những khai triển của giới răn tình yêu. Như vậy, tất cả chúng rõ ràng cũng có liên quan tới sản phẩm chân lí. Khi tôi dấu diếm hoặc làm méo mó sự thật, khi tôi trầm mình trong dối trá, lúc đó tôi thường làm người khác thiệt hại, và cũng luôn làm thiệt hại cả chính tôi.

Những dối trá lặt vặt dễ biến thành một thói quen, ở đâu rồi cũng dùng nói dối cho qua chuyện, dần dần người ta tự trói mình trong dối trá, và vì thế sống ngược lại với thực tế. Ngoài ra, mỗi lần làm tổn thương phẩm giá chân lí như thế, là mỗi lần ta không những triệt hạ con người, mà còn lỗi phạm gia trọng chống lại tình yêu. Là vì khi tôi dấu người khác sự thật, có nghĩa là tôi khước từ họ một tài sản nền tảng, và dẫn họ vào đường sai trái. Chân lí là tình yêu, và tình yêu sẽ trở nên dị hợm, khi nó chống lại sự thật.

GIỚI RĂN THỨ CHÍN VÀ THỨ MƯỜI, « Ngươi chớ muốn vợ người khác ». « Ngươi chớ tham của cải của người khác ».

Hai giới răn gắn liền với nhau đó mang ý nghĩa sâu xa vượt lên trên cái thực tế và bên ngoài. Chúng cho ta hay, khởi đầu của tội không phải là chính lúc ta ngoại tình, hay lúc ta chiếm đoạt tài sản kẻ khác một cách bất công, nhưng tội đã ló dạng ngay từ trong tư tưởng của ta rồi. Một khi tâm tưởng tôi đã không còn kính trọng kẻ khác, không còn tôn trọng hôn nhân và tài sản họ, thì việc dừng tay trước hành động cuối cùng cũng chẳng còn ý nghĩa.

Như vậy, tội không chỉ bắt đầu với những hành vi cụ thể bên ngoài, mà nó đã bắt đầu từ trong vườn ươm của nó, từ trong ý nghĩ ghen tương, ý nghĩ phủ nhận chính kẻ khác và tài sản của họ. Thiếu trong sạch trong tư tưởng, cuộc sống sẽ mang hậu quả bất ổn. Hai giới răn trên, như vậy, muốn kêu gọi trực tiếp tới tâm con người. Bởi vì tâm chính là cội nguồn xuất phát hành động. Chỉ riêng với lí do đó thôi cũng đủ cho ta phải giữ tâm trong và sáng.

Khi Mai-sen nhận những tấm đá giới răn giữa sấm sét trên núi, lúc đó cũng là giây phút khởi đầu của cá nhân tự do. Nhà báo Đức gốc Do-thái Hannes Stein đã lí luận như thế. Kể từ đây, mỗi cá nhân, dù là chủ hay tớ, đàn ông hay đàn bà, đều mang trách nhiệm trực tiếp với Chúa về mình và về hành vi mình. Có thể nói, tính cách pháp nhân tự trị đã hình thành cùng với giao ước trên núi Si-nai. Có liều lĩnh lắm không, khi bảo rằng nền tảng xã hội tự do dân chủ không phải xuất phát từ Hi-lạp cổ, mà từ truyền thống do-thái và Ki-tô giáo ?

Tôi cũng đã đọc sách của Hannes Stein và thấy có những điểm rất nền tảng. Trên thực tế, tâm điểm của nhân quyền nằm nơi phẩm giá của mỗi cá nhân, người đó đối diện một mình với Chúa, Chúa nói trực tiếp với họ, và Giao ước đề cập tới họ như một cá thể. Nhân quyền có nghĩa là mỗi người đều có phẩm giá ngang nhau, và nhân quyền chính là nền tảng của dân chủ.

Lẽ ra Is-ra-en thoạt tiên không có vua, mà chỉ có những phán quan dùng luật Chúa mà cai trị. Điều đó có nghĩa là người ta nhắm tới một xã hội hoàn toàn bình đẳng, một thứ xã hội vô chính phủ theo nghĩa tích cực, trong đó không ai ngoài chỉ mình Chúa là kẻ trị vì. Và Ngài cai trị thông qua luật Ngài, lời Ngài và qua các giới răn.

Nhưng loại xã hội đó cuối cùng đã phải thay đổi theo thực tế, điều này trước đây chúng ta đã nói rồi. Ở đây, dĩ nhiên tôi không dám coi thường nền dân chủ hi-lạp, nó đã làm nẩy nở đôi điều quan trọng và đã khai sinh một mô hình thực tế, mà người ta về sau đã có thể noi theo. Nhưng ta cũng phải biết, là trong nền dân chủ hi-lạp, chỉ có lớp đàn ông tự do mới có quyền bầu cử, đàn bà và nô lệ không phải là chủ thể của chính trị, nên không được bầu phiếu. Vì tự do bị hạn chế, nên dân chủ hi-lạp chỉ là mẫu mực của một nền dân chủ hạn định. Trái lại, lời Kinh Thánh coi mỗi người đều là người và là hình ảnh của Chúa, và đã trao cho từng người trong họ đầy đủ tư cách chủ thể. Vì thế, quả thật lời Kinh Thánh đã xây thêm nền tảng cho các thể chế dân chủ.

7. TÌNH YÊU

Ý NGHĨA CUỘC SỐNG

Giáo Hội dạy, con người tự mình không thể tạo ý nghĩa cho thế giới và cho chính mình. Quả thật khó tin, nếu ta nhìn vào những thư viện mênh mông đầy sách nói về cuộc đời và ý nghĩa cuộc đời, do những tác giả vừa giỏi vừa ít giỏi hơn viết.

Nếu thế giới đã không có ý nghĩa trong nó rồi, thì ta cũng chẳng có thể tạo thêm ý nghĩa nào cả. Hành động của ta chỉ giúp cho cơ cấu đã có định hướng thêm rõ ra đôi chút, chứ nó không tạo ra chính ý nghĩa cuộc sống. Ý nghĩa đã có - hoặc không có. Vì vậy, nó không thể đơn giản là một sản phẩm của ta. Những gì ta tạo ra, có thể làm cho ta thoả mãn trong giây lát, nhưng chúng không thể biện minh cho toàn bộ cuộc sống của ta và tạo nghĩa cho cuộc sống đó.

Dĩ nhiên con người trong mọi thời và mọi nơi đều đi tìm ý nghĩa, và họ sẽ còn tiếp tục tìm. Trên đường đó, họ cũng có thể gặp được những mẩu giải đáp. Trong những mẩu đó, chỉ có phần do con người khám phá ra nơi thụ tạo mình là đúng đắn, chứ không phải phần do họ nghĩ ra. Và cái khám phá đó có thể giúp con người hiểu biết mình hơn, để họ sống cho có ý nghĩa.

Giáo Hội dạy, ý nghĩa là do Chúa chứ không do con người tạo ra, phải được hiểu theo hướng này: Ý nghĩa là cái nâng con người đi, là cái ở trước và ở trên những suy tưởng và khám phá của ta – và chỉ như vậy nó mới có sức mạnh để nâng ta đi.

Nếu ta thật sự có thể thu tóm ý nghĩa cuộc đời vào một chữ, thì chữ đó sẽ là TÌNH YÊU. Thi sĩ và học giả mọi thời bảo đó không những là ý nghĩa, mà cũng là nguyên tắc nền tảng của sự sống, là bí ẩn thật sự của cuộc đời. Có người bảo, ai cảm được cái vô tận của tình yêu này, người đó mới bước được vào tâm điểm của đức tin.

Trong cuộc trao đổi, chúng ta đã lặp đi lặp lại nhiều lần, là cùng đích cuộc sống của chúng ta là khám phá ra tình yêu, đón nhận nó và trao nó đi tiếp. Đức Ki-tô chịu đóng đinh, kẻ đã đưa tình yêu tới tận cùng, như chính Tin Mừng Gio-an nói, đã hiện thực hoá nguyên tắc đó. Chính Thiên Chúa là tình yêu. Trong ý nghĩa đó, tình yêu là luật căn bản, và là cùng đích căn bản của cuộc sống.

Ở đây, ta gặp lại bí ẩn hạt lúa miến, trở lại với việc từ bỏ mình và gặp lại mình. Ta biết rằng, tình yêu không do ta làm nên, nhưng đó là quà tặng. Tình yêu xuất phát từ một người khác đi tới với ta, đi vào trong ta.

Tình yêu con người luôn hàm chứa một đòi hỏi đời đời trong nó. Tình yêu là một mâu thuẫn với sự chết, như triết gia người Pháp Gabriel Marcel* đã nói. Tình yêu này, như vậy, từ một lời hứa chỉ trở thành thực tại được tuân giữ, khi nó được bao trùm bởi yếu tố đời đời. Marcel bảo, khi tôi nói với một người „Tôi yêu anh/em“, thì điều đó có nghĩa: Tôi không chấp nhận cái chết của anh/em, tôi chống lại cái chết.

Như vậy, ta thấy tình yêu con người tự nó là một lời hứa không thể tháo gỡ. Nó muốn sự vô hạn nhưng có thể chỉ cho cái hữu hạn. Nhưng mặt khác, nó biết lời hứa đó không phải là vô nghĩa và mâu thuẫn và vì thế có tính huỷ diệt, bởi vì nó chứa cái vô tận trong mình. Như vậy, chỉ nhìn theo khía cạnh con người mà thôi, thì tình yêu quả thật là cái chúng ta hướng vọng tới và sống cho nó. Nhìn từ các chiều kích của chính nó, thì tình yêu rốt cuộc hàm chứa trong nó cái nhìn lên Chúa và mong chờ Ngài.

Tình yêu, đôi khi nói thì dễ, nhưng mấy ai hiểu nó là gì. Chẳng hạn mấy ai hiểu được Chúa yêu ta như thế nào? Chúng ta đã nói tới một „Thiên Chúa phẫn nộ“. Có người bảo Chúa cũng loan báo một sứ điệp đe doạ. Tình yêu Thiên Chúa ban tặng cho ta mang hình thù ra sao?

Trước hết, phẫn nộ không phải là cái gì đương nhiên chống lại tình yêu. Chẳng hạn một người cha, anh biết điều đó hơn tôi, thỉnh thoảng cũng phải bực bội với con, vì ông ta yêu con mình. Và ông ta có lẽ sẽ không làm tròn bổn phận và í muốn yêu thương của mình, nếu chỉ vì muốn yên thân cho chính mình và cho người khác, nên chẳng nghiêm khắc răn đe, sửa phạt con.

Chúng ta đều biết, một đứa con hư, cái gì cũng nó được phép làm, rốt cuộc không thể có một đời sống tốt đẹp, bởi vì cuộc sống sau này không dễ dãi như nó đã gặp, và bởi vì nó đã không học được kỉ luật, không học được cách sống đúng. Hay một thí dụ khác về con cái nghiện ngập. Thay vì cất thuốc đi (làm thế đứa con sẽ rất khổ sở) thì tôi lại cung cấp thuốc cho nó. Đó không thể gọi được là yêu thương đúng nghĩa.

Nói cách khác: Tình yêu đúng nghĩa không phải là luôn nhượng bộ, dễ dãi và ngon ngọt. Do đó, nếu  Đức Giê-su hay Chúa chỉ luôn tỏ ra ngọt ngào, dễ thương, cái gì cũng ừ, thì đó chỉ là một biếm hoạ về tình yêu đích thực mà thôi. Vì Chúa yêu ta, muốn ta lớn lên trong đường chân lí, nên Ngài phải đòi hỏi và cả sửa sai ta. Thiên Chúa phải, như ta nói, „phẫn nộ“, nghĩa là Ngài phải chống lại, khi chính ta sa ngã và rơi và vòng nguy hiểm.

Nghe thật nghiêm khắc.

Điều quan trọng cần biết, một tình yêu chân thật cũng phải có tính nghiêm khắc trong đó. Nó muốn cho người khác điều tốt thật, vì thế nó phải can đảm chống lại, khi người đó chẳng nhìn ra cái tốt, mà cứ đâm đầu vào cái bất hạnh.

Chúng ta cũng đã nói tới khía cạnh tích cực của tình yêu. Nó yêu thích người khác. Nó muốn cho họ được điều tốt đẹp, được hạnh phúc, được nhận ra chính mình. Và như vậy thì tình yêu tốt cho họ. Nhưng tốt cho họ không có nghĩa gì khác hơn là tôi phải bước ra từ điều tốt, phải để cho điều thực sự tốt hướng dẫn và cố gắng giúp người khác trở nên tốt. Như vậy, một hành động yêu đúng nghĩa là hành động bước ra từ điều thiện và lại quay trở vào trong điều thiện. Và như thế, một đàng, yêu cũng có nghĩa là quên mình vì người khác, và mặt khác, cũng là giúp đỡ kẻ khác. Giúp người khác đừng đóng chặt tâm họ lại, cũng đừng vơ vào mọi thứ cho mình, nhưng trái lại giúp họ tìm được con đường mở lòng mình ra, con đường của hạt lúa miến.

Triết gia tôn giáo người Do-thái Martin Buber mô tả tình yêu Thiên Chúa bằng một thuộc tính quan trọng, mà ông gọi là “lôi ra, kéo ra”. Buber nói: “Kéo lôi ra, ngay từ đầu, là bản chất của Thiên Chúa. Kéo ra khỏi những vướng mắc, ra khỏi sự dửng dưng, ra khỏi cô đơn và cô lập”.

Về điểm này ta có thể lấy hình ảnh xuất hành của dân Do-thái ra khỏi tù đày ở Ai-cập làm mẫu. Nhưng nó đã khởi đầu với ơn gọi của Abraham. Chúa đưa ông Abraham ra khỏi gia đình ông và dẫn ông lên đường. Tự căn bản, mỗi người phải làm cuộc xuất hành của mình. Không những người đó phải rời lòng mẹ để trở thành tự lập, mà còn để ra khỏi chính mình. Người đó phải đi ra, qua khỏi mình, chỉ như thế nó mới vào được đất hứa - bước vào được không gian tự do, để từ đây góp tay xây dựng thế giới. Bản chất của tình yêu là vượt qua, quy luật nền tảng đó chúng ta đã biết. Hẳn nhiên, hành động của kẻ yêu tôi cũng là một hành động vượt qua. Nó phải kéo tôi ra khỏi bản năng thoải mái muốn ở lại trong chính tôi.

Một bậc thầy về phân tâm, Erich Fromm*, đã tự hỏi: Tại sao ta phải yêu?

Fromm nghĩ là câu trả lời nằm trong kinh nghiệm hãi hùng về cô đơn, về chia lìa, phát

sinh từ biến cố bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng. Chính vì vậy con người mới có nhu cầu mạnh mẽ hướng tới sự đồng dạng, tới những kinh nghiệm ngất ngây trong một nhóm. Đối lại, ông cho rằng nghiện rượu, nghiện thuốc và tự tử trong thế giới hiện nay là triệu chứng thất bại trong nỗ lực đồng dạng.

Rồi Fromm bước thêm một bước. Ông nói, chúng ta không thể giải quyết tình trạng chia lìa này bằng việc làm, thành công, thích nghi hay cả bằng những kinh nghiệm ngất ngây, tất cả những thoả mãn đó chỉ mang tính cách tạm thời. Câu trả lời đích thực cho vấn nạn nền tảng đó chỉ có qua việc kết hợp với một người khác, nơi tình yêu. Fromm: “Đòi hỏi kết hợp với một người khác là đòi hỏi mạnh nhất nơi con người. Đó là đòi hỏi căn bản nhất, là sức mạnh duy trì giống người, duy trì bộ tộc, gia đình và xã hội. Thất bại của đòi hỏi đó có nghĩa là điên loạn hoặc huỷ diệt - tự huỷ diệt hay hủy diệt kẻ khác. Theo ông, không có tình yêu, nhân loại không thể hiện hữu được chỉ một ngày”.

Cái hay của Fromm, là ông coi cô đơn đối nghịch với tình trạng tự nhiên của tâm hồn con người. Nếu cô đơn là không được yêu, là bị bỏ rơi, là chỉ có trơ một mình mà thôi, và như thế đời tôi trống rỗng, thì tình trạng đó quả là nỗi kinh hãi sâu xa nhất của mọi kinh hãi. Từ đó, ta lại thấy con người, nhìn từ bên trong, quả là hình ảnh của Chúa, nó được tạo nên để được yêu và để trở thành một kẻ yêu.

Tôi tin rằng, ở đây ta nhất định phải nói tới hình ảnh Chúa trong con người. Thiên Chúa là tình yêu. Chính tình yêu nền tảng thể hiện trong ba ngôi. Con người là hình ảnh Chúa, như vậy, nó được sinh ra với động lực chính yếu là để nhận và cho tình yêu.

Con đường đưa vào tình yêu đúng nghĩa gắn liền với sự từ bỏ mình, nghĩa là gắn liền với nỗ lực của một cuộc xuất hành. Do đó, trên con đường dẫn tới nó, đã phục sẵn nhiều cám dỗ thúc ta muốn đạt đích nhanh, bằng qua những thoả mãn thay thế, mà anh đã vừa đề cập ở trên.

Chỉ về sau người ta mới hiểu ra, cái thay thế đó chỉ là những lừa đảo kinh tởm, nó rốt cuộc xô ta vào nỗi cô đơn kinh hoàng, xuống hố thất vọng của sự trống rỗng tuyệt đối. Hình ảnh hoả ngục là đó. Bởi khi ta tự hỏi, bị giam lửa hoả ngục là gì, thì điều đó có nghĩa: chẳng còn tìm được thích thú nơi cái gì nữa cả, chẳng yêu thích gì nữa cả, chẳng thích ai mà cũng chẳng được ai thích. Hết khả năng yêu, và như thế là bị đuổi ra khỏi không gian có thể yêu – đó là sự trống rỗng tuyệt đối, trong đó con người sống mâu thuẫn với chính mình và cuộc sống tiêu vong hoàn toàn.

Nếu thật bản chất con người là giống Chúa, là trở thành một kẻ yêu, thì nhân loại và mỗi người chúng ta chỉ có thể tồn tại khi tình yêu có mặt và khi ta cũng được chỉ dạy để đi tới tình yêu đó. Ở đây, ta có thể quay trở lại với Đức Ki-tô: Hành động cứu chuộc của Đức Ki-tô nằm nơi chỗ Ngài làm cho ta hiểu được tình Chúa yêu ta như thế nào. Ngài mang tình đó tới với mỗi chúng ta, và chính Ngài vác thập giá đi với ta tiến về mục tiêu quên mình, từ bỏ mình.Với hành động đó, Ngài đã biến luật yêu thương thành quà tặng yêu thương, và như thế là Ngài đã thắng vượt được nỗi cô đơn của mọi cô đơn, nỗi cô đơn này cũng có thể coi như là việc mất ơn cứu chuộc.

Học yêu như thế nào?

Nhưng quả lạ, dù cho khao khát yêu thương cắm rễ sâu như thế trong lòng, con người vẫn coi những cái khác quan trọng hơn: Thành công, tình dục, danh tiếng, tiền, quyền. Hầu như tất cả sinh lực của ta được bỏ ra để tìm cách đạt những đích đó. Và hầu như chẳng ai quan tâm một tí gì để học lấy nghệ thuật yêu.

Nhiều điều anh vừa nói chỉ là những con đường tắt, đường thế. Họ làm thế để chóng đạt đích mà chẳng phải phiêu lưu vào con đường từ bỏ mình. Đó là một chuyện. Còn việc phát triển khả năng mình thì họ coi là chuyện phụ. Việc phát triển khả năng này chính là ơn gọi của con người – và cũng có thể nói nhờ đó họ mới thực thi được sứ mạng yêu thương của mình.

Con người cần cập nhật và tập luyện những khả thể đã được Tạo hoá đặt để trong họ, họ cần làm một cái gì đó trong cuộc đời này. Như vậy, việc học nghề và nỗ lực dấn thân cho nghề đó rõ ràng không đi ngược lại nhiệm vụ căn bản của tình yêu, nhưng là cụ thể hoá tình yêu. Có thể nói, tôi chỉ hoàn thành đầy đủ sứ mạng yêu thương của tôi, khi tôi hoàn toàn trở nên kẻ mà tôi có thể trở thành, khi tôi cho được cái tôi có thể cho, khi tôi mở ra cho tạo vật và quan hệ giữa người với người những khả thể giúp nhau chung sống, và làm cho sự phong nhiêu của thế giới và đời sống trở thành vườn ươm an toàn và tự do.

Nhiệm vụ căn bản trên sẽ không thành đạt, khi việc học nghề chỉ còn nhắm tới việc tập luyện những khả năng; khi việc làm chủ thế giới và khả năng kiếm tiền, khả năng sử dụng quyền lực tách rời khỏi nhiệm vụ thâm sâu của tình yêu, là hiện diện cho và vì người khác; khi quyền hành khiến tôi không còn cho đi được nữa; và cả khi tôi chỉ còn biết có tôi, chỉ còn biết ôm vào mọi thứ cho tôi, và như thế khả năng yêu trong tôi bị chết ngộp. Và rồi con người bị chế ngự bởi quyền và của, và không còn biết đánh giá đúng những thứ đó nữa.

Quan trọng là chúng ta đừng xem chính khả năng của ta, việc học nghề của ta là một thứ gì thứ yếu. Nhưng mọi tài năng của ta, và cả mọi khả năng kĩ thuật của con người, phải giữ đúng chỗ của chúng, và không được chỉ biết có chúng mà thôi. Khi quyền trở thành tâm điểm, nó sẽ biến con người thành nô lệ, và như vậy quyền lúc đó là đối lực của tình yêu.

Câu hỏi cụ thể: Một Hồng Y cũng có thể học nghệ thuật yêu?

Người ta không học yêu, như học chơi đàn hay học sử dụng máy vi tính. Mà có thể nói phải luôn học nó với từng việc một. Và dĩ nhiên cũng học nó từ những người gương mẫu. Trước hết từ cha mẹ, là gương sáng và là người lãnh đạo, mà ta coi như là những vị đã thành nhân. Sau nữa, học qua những cuộc gặp gỡ trong đời. Học nơi tình bạn, nơi công tác nối tôi với kẻ khác, nơi một nhiệm vụ. Điều quan trọng là không phải đi tìm chính mình qua những quan hệ và việc làm đó, mà là để tìm ra con đường cho đi, và nhờ đó biết nhận vào một cách đúng đắn.

Phần tôi, tôi không muốn tự xét đoán mình, nhưng tôi cố bằng mọi cách học yêu qua hình ảnh Đức Ki-tô và các thánh. Nói cách khiêm nhường hơn, là học lấy sự nhân ái nơi các ngài và cố bước theo và làm theo các ngài. Còn việc tôi thật sự học được tới mức nào, thì để cho Chúa và cho người ta phán xét.

Người ta đôi khi có thể lầm. Tôi không quên được hình ảnh mà tôi đã một lần viết về ngài. Trong bài viết tôi lặp lại điều của văn sĩ Stefan Andres. Andres viết trong một chuyện ngắn về một đại quan thẩm tra – hoạ sĩ tài danh El Greco đã hoạ lại hình ảnh đại quan đó - như sau: “Ông ta không dính dáng gì tới tình yêu cả”.

Vâng, một vai trò như tôi người ngoài có thể nhìn thấy như vậy. Dù sao, chúng tôi đã cố dùng tình yêu để đối xử với người khác trong những hoàn cảnh có thể nói là khó khăn. Tình yêu đó, dĩ nhiên, không phải chỉ là ve vãn nhau, nhưng nó cũng đặt ra giới hạn cho chỗ nào có hại, và chỗ nào gây phương hại tới quy luật nội tại của tình yêu. Các cộng sự viên của tôi và tôi cố gắng đặt chính người đó vào một toàn cảnh thuận lợi, để chính người đó nhìn ra vấn đề cần giải quyết. Không phải chúng tôi đơn giản muốn gấp rút khai trừ họ, nhưng muốn phục vụ cả toàn cộng đoàn và trong đó rốt cuộc cũng có cả họ nữa. Và chúng tôi cảm thấy bó buộc phải bảo vệ đức tin của những người bé nhỏ. Vừa rồi, một giám mục danh tiếng kể cho tôi hay, ông đã thấy một trong những người nổi tiếng ở Á châu chống lại Bộ tín lí đức tin tỏ ra cao ngạo quá mức, và thái độ đó đã dẫm đạp lên đức tin của những người bé nhỏ như thế nào. Qua đó, cũng theo giám mục, tôi mới thấy công tác bảo vệ đức tin cho kẻ thấp cổ bé miệng chống lại sự cao ngạo thật quan trọng.

Lời Chúa dĩ nhiên không chỉ được khuôn đúc theo chức vụ, mà còn có thể bị chính người giữ chức vụ làm phai mờ.

Đúng, nguy hiểm đó đương nhiên có. Ta chỉ có thể luôn nỗ lực sửa sai và đừng để nguy hiểm đó đè bẹp mình.

Một vấn đề gặp phải trong vấn đề yêu, là con người ta trước hết chỉ nghĩ tới cách làm sao để được yêu, chứ ít khi làm sao để yêu.

Với cái nhìn như thế thì bản chất tình yêu kể như tiêu. Nếu ta chỉ muốn có được tình yêu mà thôi, thì chắc chắn ta sẽ không nhận được nó, nó sẽ trở nên ích kỉ, thoái hoá, và người khác hẳn cũng nhìn ra được điều đó. Con đường học yêu cũng có nghĩa là vượt thắng mình, từ bỏ mình, học cách trao tặng mình, kể cả khi mình chẳng mong nhận lại được đáp trả nào. Nhất là học cách quên mình cho những người khó thương đối với mình, và cho những người đau khổ đang cần đến mình. Ta hãy nghĩ tới người Samarita. Ta chỉ trở thành kẻ yêu, khi ta không phải lúc nào cũng chỉ nghĩ tới việc thu vén cho mình, mà là lúc ta nỗ lực trở thành kẻ cho đi, kẻ luôn nhìn ra được người bị bỏ rơi không ai đoái hoài, có thể là vì con người đó chẳng có chút thiện cảm nào.

Các bộ mặt của tình yêu

Erich Fromm nói, lãnh vực quan trọng nhất để cho đi không phải là lãnh vực vật chất. Một người cho kẻ khác nhiều nhất, khi người đó cho chính họ, nghĩa là cho đi cái quý giá nhất mà họ có, cho đi cuộc sống của mình. Người đó cho đi niềm vui, sở thích, sự cảm thông, sự hiểu biết của mình, và dĩ nhiên cả cái hài hước lẫn u sầu của mình – nghĩa là tất cả những gì tạo sống động nơi người đó.

Cho, trước hết, không hẳn là cho tiền, điều đó hiển nhiên. Dĩ nhiên người ta có thể rất cần tiền. Nhưng nơi đâu chỉ cho tiền, nơi đó người ta cũng thường gặp cảnh bị xúc phạm. Tôi luôn chứng kiến điều đó nơi thế giới đệ tam. Họ nói với một nhân vật rằng, nếu các anh chỉ gởi cho chúng tôi tiền mà thôi, thì thường các anh làm hư chúng tôi nhiều hơn giúp chúng tôi.

Tiền thường hay bị lạm dụng và thường khiến cho tình trạng gia trọng thêm. Các anh nên cho thêm gì khác. Chính các anh nên tới, các anh nên cho chính các anh, có như thế vật chất mà các anh giúp mới được dùng đúng chỗ, chúng mới không phải là những cái các anh móc túi vứt ra, để tìm cách xí xoá đi những vấn nạn mà chúng tôi đặt ra cho các anh, và những vấn nạn của các anh.

Bao lâu chúng ta chỉ cho tiền và kiến thức, chúng ta chỉ mới cho rất ít. Hiểu như thế thì các nhà truyền giáo là những tấm gương. Họ đã mang Thiên Chúa tới cho người khác. Họ đã làm cho tình yêu trở nên đáng tin. Họ đã trao tặng một con đường sống mới. Họ đã cho chính bản thân họ, không phải chỉ có hai, ba năm mà thôi, không phải vì máu phiêu lưu, mà hiến cả thân mình để đến chung sống, làm một với người. Bao lâu ta chưa học lại được khả năng hiến thân đó, thì cái cho của ta còn quá ít.

Điều đúng trên bình diện thế giới, tất nhiên cũng đúng nơi mỗi cá nhân. Về điểm này, thi sĩ Rilke* có câu thuyện hay. Ông kể, lúc ở Paris, mỗi ngày khi đi ngang qua người đàn bà ăn xin, ông đều thẩy vào mũ bà ấy một đồng tiền. Mỗi lần như thế, ông  để ý thấy nét mặt chị ta vẫn bất động, xem ra như chị ấy mất trí. Một ngày nọ, thay vì đồng tiền, ông đưa cho chị một bông hồng. Mặt chị bỗng rạng lên. Lần đầu tiên ông thấy cảm xúc nơi chị. Chị mỉm cười rồi biến mất suốt tám ngày, bởi vì chị đã nhận được cái gì còn hơn tiền.

Tôi tin, đó là một hình ảnh cho ta thấy rằng đôi khi chỉ một bông hồng, một cử chỉ quan tâm, một niềm nở đón nhận người khác còn đáng giá hơn tiền bạc hay những món quà vật chất khác.

Lề luật mới của đấng Cứu thế là Tin Mừng tình yêu. Như vậy phải chăng có thể nói được rằng Giao ước cũ đã mất hết sức sống; phụng vụ, của lễ và lối hiểu về đời sống cộng đoàn của nó kể như chấm dứt? Bởi vì rõ ràng nay là thời điểm để khởi sự một cái gì mới. Malakia, vị tiên tri cuối cùng của Giao ước cũ, đã tuyên bố: „Thiên Chúa của các đạo binh nói: Ta không còn thú vị gì với các ngươi nữa và sẽ chẳng nhận lễ vật nào nữa từ tay các ngươi“.

Tôi không muốn nói rằng Giao ước cũ đã kiệt sức. Người Do-thái vẫn còn sống với nó và vẫn còn luôn rút ra được từ Cựu Ước kho tàng tinh thần lớn. Nhưng, là người công giáo, chúng ta bảo rằng Giao ước đó đang trên đường, và nó đang tiến dần về tới đích, bởi vì nếu không có đích, thì con đường kia chẳng có nghĩa gì. Như vậy, không thể cắt đứt hoặc bỏ đi cái cũ, vì coi như nó đã hết xài, nhưng đó là một con đường đang tiến về đích của nó. Không có đường thì ta không thể tới đích được.

Những phê bình liên quan tới của lễ đã có trong Cựu Ước ngay từ đầu. Thiên Chúa nói với con người trong các Thánh Vịnh: Ta sẽ không nói cho ngươi hay Ta muốn ăn gì; những của lễ thú vật và lễ vật hoả thiêu của ngươi là những thứ Ta không cần, Ta cần trái tim cơ.

Của lễ cũng luôn nói lên cố gắng của con người trong việc công nhận quyền cai trị của Chúa, và ít ra, chúng tỏ dấu cho thấy con người muốn dâng cho Chúa một cái gì của chính họ. Đồng thời, một cách nào đó, họ cũng biết Chúa chẳng màng gì tới thú vật hoặc bê thiêu. Trong ý nghĩa đó, các hành vi thờ cúng trong Cựu Ước đã nhập làm một với lễ vật đích thực, là Đức Ki-tô, kẻ đã hiến thân cho ta và trao ta cho Cha Ngài, là kẻ có thể nói, đã khởi sự dùng tình yêu để biến đổi thế giới. Tình yêu mới là lễ vật đích thật. Nó thay thế cử chỉ vô vọng nơi của lễ thú vật và làm cho những của lễ đó thành vô nVì thế, cũng chẳng phải là một việc tình cờ, khi 40 năm sau cái chết của Đức Ki-tô, Đền thờ đã biến mất khỏi lịch sử, là vì mục tiêu của Đền thờ giờ đây đã được hiện thực (qua Đức Ki-tô) rồi.

Thiên Chúa gởi Con Ngài xuống trần là vì yêu con người – hay vì muốn chia sẻ nỗi đau của họ?

Có lẽ giữa yêu thương và chia sẻ đau khổ chẳng có gì đối nghịch nhau. Chia sẻ đau khổ đích thực không chỉ là một biểu hiện tình cảm. Nhưng đó là một thứ đồng hoá với nỗi đau của kẻ khác, và như vậy nó là một hành động cơ bản của tình yêu .

Người Hi-lạp xưa quan niệm Thiên Chúa bất biến, như vậy họ coi Ngài là tinh thần thuần tuý, và do đó Ngài không thể cảm giác mà cũng chẳng biết đau. Vì thế ki-tô hữu đã phải tự hỏi, vậy thì Thiên Chúa thật sự ra sao? Và Origenes* đã nói một câu thật hay: Thiên Chúa quả thật không biết đau, nhưng Ngài biết cùng đau. Nghĩa là Ngài có thể đồng hoá với ta, với những kẻ đau khổ. Quả là một hành vi yêu thương lớn, khi Thiên Chúa đã đi vào thân xác con người trong Đức Ki-tô để đồng hóa với ta – và như vậy Ngài đồng hoá ta với Ngài và đưa ta vào trong tình yêu của Ngài. Tôi nghĩ, chính khi ki-tô hữu chống lại quan điểm vô cảm hoàn toàn của phái khắc kỉ và đề cao khả năng chia sẻ đau khổ, thì đó cũng là lúc họ tuyên xưng tình yêu. Chia sẻ đau khổ một cách đúng đắn là một hành động yêu thương.


[1] Adolf von Harnack (1851 – 1930): Người Đức, nhà thần học và sử gia Giáo Hội tin lành nổi nhất cuối thế kỷ19 và đầu thế kỷ20. 

[2] Nestle-Aland: thuộc Viện nghiên cứu văn bản Tân Ước của đại học Münster, Đức (INTF). Mục tiêu của Viện là thu thập, xếp loại, đánh giá các văn bản Tân Ước cổ bằng tiếng Hi-lạp (nay đã phát hiện được 5700 văn bản) với hi vọng tái tạo lại được bản gốc của Tân Ước.