| Các Thánh Tử Đạo Việt Nam - Năm C |
| DÒNG MÁU ANH HÙNG |
| Linh mục Thiên Ngọc CRM |
|
“Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” (Tv 125,5) Thưa các bạn thân mến, Nếu có ai hỏi chúng ta quê hương Việt Nam có gì quý đẹp, liệu chúng ta sẽ trả lời như thế nào? Phải chăng là cảnh hùng vĩ núi sông, mênh mông biển cả, êm ả làng quê, sơn khê thanh trong, ruộng đồng bát ngát, thơm ngát lúa đòng, sông rộng phù sa? Nhưng cái vốn quý đẹp của quê hương nào hệ tại ở vật chất, mà chính là ở con người. Nếu như người Việt Nam trên thuận dưới hòa, giàu nhân nghĩa, yêu hòa bình, sống thủy chung, yêu quê hương, thương đồng bào, v.v... thì quả là vốn quý của dân tộc. Nhưng, trong vô vàn những tâm hồn cao quý ấy, có những người theo Chúa Kitô, dám sống và dám chết cho niềm tin của mình, thì thật quý đẹp biết ngần nào! Đã có như vậy, chính là đoàn lớp các bậc anh hùng tử đạo Việt Nam dọc dài đất nước. Suốt gần ba thế kỷ bị bách hại (Tk 17,18,19), trên quê hương đã có khoảng 130 ngàn người chịu chết vì Đạo, với đủ loại nhục hình như trảm quyết, xử giảo, thiêu sinh, tùng xẻo, lăng trì, phanh thây, tra tấn, rũ tù, thả rọ chìm đáy sông, v.v... Để tuyên dương, vào ngày 18.6.1988, Hội Thánh Công Giáo long trọng tuyên phong 117 vị lên bậc hiển thánh. Riêng Thầy Giảng Anrê Phú Yên được tôn phong lên á thánh vào ngày 05.3.2000, trong dịp kỷ niệm 2000 năm Con Chúa Giáng Trần. Thoáng nghĩ về từ “Anh Hùng” : Anh là vua loài hoa, Hùng là vua loài thú ; Anh Hùng nghĩa là người có đức độ cao cả, tài năng phi thường, có công lớn đối với đất nước. Về Các Đấng anh hùng tử đạo trời Nam, các ngài là “vua muôn loài hoa”, vì có đầy hương thơm của hoa đức ái: mến Chúa yêu người; các ngài là “vua các loài thú”, vì có ý chí bất khuất trước gian nguy và cái chết; các ngài lập công lớn vì là những hạt lúa gieo xuống và chết đi trong lòng đất Việt để trổ sinh dồi dào muôn tín hữu. Các ngài là những viên đá móng xây dựng cho Quê Trời và cho quê hương, là những cánh chim én bay cao báo hiệu Mùa Xuân Tin Mừng đã về trên dải non sông hình chữ S. Dường như có một mẫu số chung nơi các ngài, đó là một tâm hồn trung kiên bước theo Chúa Kitô, biết từ bỏ chính mình và vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ngài, hơn thế nữa, các ngài đều liều mất mạng sống mình vì Thầy Giêsu, không tham sanh úy tử, không xấu hổ vì Danh Chúa nhưng luôn tuyên xưng và tuyên xưng với giá mạng sống mình (Lc 9,23-26). Nhưng điều gì làm các Đấng ấy nên như thế? Thánh Phaolô, qua cảm nghiệm bản thân, đã nói rõ đó chính là tình yêu Đức Kitô: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Như có lời chép: “Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh”. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,35-37). Ví như Thầy giảng Anrê Phú Yên, chịu tử đạo mới 19 xuân xanh, là cánh chim đầu đàn của các anh hùng tử đạo Việt Nam (1625-1644). Trong ngục tù cũng như trên đường tiến ra pháp trường, Thầy đã nói vẫn một lời với những người thương mến đi theo mình, rằng: “Hãy đem tình yêu đáp trả tình yêu, hiến dâng mạng sống đáp đền mạng sống. Anh chị em ơi, hãy yêu mến Chúa Giêsu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời!”. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là tinh hoa của dân tộc, là kết quả của lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu mến quê hương. Chính Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong ngày đại lễ phong thánh cho 117 vị đã nói với chúng ta : “Máu các vị tử đạo là nguồn ân sủng cho anh chị em trước tiên, để anh chị em thăng tiến trong đức tin. Giữa anh chị em, đức tin của tổ tiên vẫn tiếp diễn và còn lưu truyền sang nhiều thế hệ. Đức tin này còn tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những ai là người Việt Nam thuần túy, để trung thành với quê hương đất nước, nhưng vẫn là người tín hữu Chúa Kitô” (Trích Hạnh Các Thánh tập 3, Hương Việt). Các ngài được kiên trung trong niềm tin như thế còn là nhờ một Người Mẹ: Đức Mẹ Maria. Trên Thánh Giá, Chúa Giêsu khi sắp hoàn tất lễ hy sinh chính mình, đã trao chúng ta vào tay Mẹ Maria: “Thưa Bà, đây là con của Bà” và dạy chúng ta: “Này là Mẹ của con” (Ga 19,26-27). Vì thế, Đức Maria nhận trọng trách cưu mang, sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục chúng ta trong đời sống siêu nhiên, giúp chúng ta đạt đến chạy đến cuối đường và giữ vững đức tin. Điều ấy, đọc Sách Macabêô quyển 2 (7,1-19) chúng ta nhận ra hình ảnh của Mẹ Maria: Hồi ấy, có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua Antiôcô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Môsê cấm. Bà mẹ thấy bảy người con trai phải chết nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa. Bà dùng tiếng mẹ đẻ mà khuyến khích từng người một, lòng bà đầy tâm tình cao thượng; lời lẽ của bà tuy là của một người phụ nữ, nhưng lại sôi sục một chí khí nam nhi; bà nói với các con: “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con thần khí và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con thần khí và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình”. Chắc rằng dòng máu anh hùng và khí phách của các ngài vẫn đang chảy trong huyết quản mỗi người con dân nước Việt là hậu duệ các ngài. “Con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh”, chúng ta được mời gọi noi theo những tấm gương đó, khao khát gắn bó với Thầy Giêsu, dám sống cho niềm tin vào Chúa Giêsu trong từng phút giây cuộc sống đời thường, để góp phần xây dựng một quê hương đầy tràn ánh sáng chân lý và tình thương. Lạy Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cầu cho chúng con. Lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cầu cho chúng con. |