Chúa nhật Truyền giáo - Năm C
NHỮNG CÁNH HOA
Linh mục Thiên Ngọc CRM

Các bạn thân mến,

Nhiều năm truớc đây, chúng tôi lãnh bài sai về tái phục vụ cánh đồng truyền giáo trong giáo phận Qui Nhơn. Công việc bấy giờ là phụ giúp việc mục vụ cho các giáo xứ trong vùng. Giáo phận Qui Nhơn, tiền thân là Đàng Trong, vì thế sự thăng trầm nên Giáo phận lúc bấy giờ chỉ độ hơn kém 70 ngàn tín hữu, ở vị trí thứ ba tính từ dưới lên trong 25 giáo phận tại Việt Nam ! Giáo phận gồm ba tỉnh: Phú Yên, Bình Định và Quảng Ngãi và trung bình mỗi tỉnh có khoảng 23 ngàn tín hữu, chỉ  bằng 3-4 giáo xứ vừa vừa trong giáo phận Xuân Lộc! Chúng tôi vẫn thao thức về vai trò của mình giữa môi trường lương dân này. Nhưng có một sự kiện làm chúng tôi ý thức hơn.

Sáng hôm đó, sau khi dự lễ khánh thành nhà giáo lý một giáo xứ nọ, chúng tôi cùng vài linh mục và anh chị em giáo dân trở về. Ngồi trên xe, chút men sau bữa tiệc đang làm tôi mơ màng thì một người ngồi bên hỏi mấy câu khiến tôi tỉnh hẳn. Anh nói với tôi: “Các cha dòng Đồng Công về Tuy Hòa đã mấy năm nay mà quả thật con chẳng biết các cha làm việc gì.... Chẳng những con mà nhiều người cũng thắc mắc như vậy. Không biết cha có thể trả lời cho không ?”.

Mặc dầu biết anh có thành ý tìm hiểu, nhưng nghe câu hỏi, tự nhiên tôi thấy chột dạ. Cũng dễ hiểu thôi, vì hoàn cảnh chưa thuận lời, chúng tôi chỉ làm những công việc nhỏ bé liên quan đến thánh chức mà các cha xứ cậy nhờ. “Lạy Chúa con chỉ là đầy tớ vô dụng, vì chỉ biết làm những công việc phải làm” (Lc 17,10). Những công việc đó, tựu trung là làm trọn thánh ý Thiên Chúa và tận lực yêu thương giải cứu cùng đem các linh hồn về cho Ngài. Ý thức đó đưa tôi về với một thực tại mà tôi xác tín từ lâu về căn tính của mình: là người đồng hành với mọi người trên con đường lữ hành trần thế.

Một người đồng hành với anh chị em, đó là điều mà Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng của Công đồng Vaticanô II đã nói: “Vui mừng và hy vọng, buồn sầu và lo lắng của con người hôm nay, nhất là của những người nghèo khổ, cũng là vui mừng, hy vọng, buồn sầu, lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người, mà lại không gieo âm hưởng trong lòng chúng ta. Thực vậy, cộng đoàn chúng ta được cấu tạo bằng những con người đã được qui tụ trong Đức Kitô, được Thánh Thần hướng dẫn trong cuộc lữ hành trần thế, và đã đón nhận Tin Mừng cứu rỗi để đem đến cho mọi người. Có được như vậy thì cộng đoàn ấy mới nhận thấy mình thực sự liên kết với loài người và lịch sử nhân loại” (GS 1).

Đọc những lời giáo huấn này, tự nhiên trong tôi có suy nghĩ: Thế giới và xã hội loài người đã nhiễu nhương, luân lý đạo đức suy đồi, sự dữ tràn ngập khắp nơi, bóng tối đã làm lu mờ sự thật…, vậy thì “hạt muối” của tôi sao có thể ướp cho “cá” khỏi thối, “que diêm” của tôi sao có thể trở nên ánh sáng dẫn đường, tẻo tẹo “men” của tôi sao có thể làm dậy “đống bột” ?... Càng nghe những ca thán của những người xung quanh trước những vấn đề muôn thưở của con người, của xã hội, của quê hương đất nước, lắm lúc chúng ta không khỏi nản lòng và thất vọng.

Nhưng tôi lại cảm thấy như được khích lệ bởi những điểm sáng, như được phấn chấn vì hương sắc của “những cánh hoa” quanh tôi.

Tôi thường tiếp xúc với anh chị em Legio Mariae. Các anh chị em ấy đã nêu gương cho tôi về đức tin và lòng nhiệt thành tông đồ. Họ lặng lẽ rảo bước khắp nơi để giúp đỡ những người già cả neo đơn, người đau yếu bệnh tật, người nghèo khổ, bất kể lương giáo. Họ tìm đến những người nguội lạnh bê trễ để thổi lên ngọn lửa tin yêu. Họ tiếp cận những người trước đây theo Đạo mà vì thời cuộc đã bỏ để vực dậy đưa về hội nhập đàn chiên. Đúng như lời kinh họ vẫn thường đọc khi hội họp hằng tuần: “Xin ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ, đức tin sống bởi đức mến, để chúng con có sức làm tròn mọi việc, chỉ vì mến Chúa và hằng nhìn thấy cùng hầu hạ Chúa đang ngự trong mình anh em chúng con”.

Tôi cũng chứng kiến bao cuộc lễ đặc biệt mang tính qui mô của giáo xứ mà Quý Chức và các đoàn thể tất tật lăn xả chu toàn nhiệm vụ. Tinh thần phục vụ của các anh chị em đã làm cho những buổi lễ diễn ra tốt đẹp. Tôi học được nơi họ một tinh thần phục vụ hy sinh quên mình, một sự khiêm tốn không ganh tị, không muốn được đề cao, một tinh thần trách nhiệm, một ý thức kỷ luật mau mắn và dễ thương, … Dường như chính “lòng nhiệt thành nhà Chúa” đã “thiêu đốt” họ vậy (Ga 2,17).

Tôi cũng thường nhìn thấy và ngưỡng mộ công việc quét dọn nhà thờ, chăm sóc hoa cảnh của các bà các chị các hội đoàn. Tôi học nơi đó mẫu gương âm thầm hy sinh. Không những các chị em phải chu toàn “việc nhà” mà còn phải lo “việc nước” nữa. Họ làm công việc đó, vừa như những Matta, vừa như những Maria. Phục vụ trong khuôn viên Nhà Chúa, hẳn các chị em đã tâm niệm: “Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi” (Tv 26,4).

Các giáo lý viên cũng đã nêu cho chúng tôi gương kiên nhẫn và tận tụy trong việc thông truyền giáo lý. Họ hòa mình vào tuổi hoa niên để dạy dỗ và và đồng hành. Khi tự tay dắt các em đến cùng Chúa, không những họ theo gương Chúa yêu thích các trẻ thơ, mà còn trở nên như trẻ thơ, mặc lấy tâm tình trẻ thơ (Mt 18,3). Điều đó chẳng là gương sáng cho tôi về tinh thần phục vụ đơn sơ đó sao?

Cũng không thể nào quên được các cựu chủng sinh, tu sĩ. Nhiều anh chị em đã dấn thân trong các đoàn thể giáo xứ đầy ý thức trách nhiệm. Rất nhiều người đã nêu cho tôi gương của hạt giống chôn vùi dưới lòng đất, của nhúm men trong thúng bột, đã trở nên ánh sáng theo ơn gọi riêng của mình. Nhớ có lần tôi viết thư chúc mừng ngày thành hôn của hai người thân quen đã từng đi tu rằng: “Để chuẩn bị cho các em sống đời hôn nhân gia đình thánh thiện và hạnh phúc, Chúa đã cho các em một thời gian được huấn luyện đào tạo về nhiều mặt trong dòng tu, nhất là về nhân bản và đời sống thiêng liêng. Các em hãy dùng tất cả những hồng ân đó để xây dựng gia đình mình và làm cho gia đình các em trở thành tông đồ của các gia đình, làm cho gia đình các em trở thành tin mừng cho ngàn năm thứ ba này”.

Nơi miền truyền giáo này, tôi còn được khích lệ bởi những tâm hồn cùng chí hướng theo Chúa trong đời sống thánh hiến, là quý nữ tu các tu hội và hội dòng. Tôi đã từng thấy quý Soeurs nguyện kinh trước lễ và cám ơn hoặc nguyện gẫm lâu giờ sau lễ. Điều đó nhắc tôi về sự trung tín gắn bó kết hợp với Chúa Kitô. Không dám nhìn lâu hình ảnh quý Soeurs khi cầu nguyện, nhưng chỉ cần thoáng qua thôi, thì vẻ đẹp và sức mạnh nội tâm đó cũng đã rạng ngời tựa dung nhan Moise xuống núi sau 40 ngày đàm đạo với Chúa, hoặc như lúc ngài giang tay cầu nguyện trên núi, đem lại chiến thắng cho Do Thái (x.Xh 17,8-13). Cả công việc giáo dục mầm non của các dòng cũng đã mang lại hiệu quả rất lớn trong việc định hình nhân cách các cháu nhỏ và tạo hình ảnh đẹp trong tâm thức của các bậc phụ huynh, trong đó có nhiều người không cùng tín ngưỡng tôn giáo. Đó là việc truyền giáo “khi thuận tiện cũng như khi không thuận tiện” (2Tm 4,2), là âm thầm gieo hạt giống Tin Mừng cho Giáo Hội. Ấy là chưa kể gương sáng của quí Soeurs trong việc phục vụ giáo xứ… Những điều ấy làm chúng ta liên tưởng đến những cô trinh nữ khôn ngoan cầm đèn cháy sáng đón chờ Chàng Rể (Mt 25,2).

Tôi nhớ lời của một vị linh mục trong dịp đổi nhiệm sở. Trước khi rời đi, cha đã nói trong dịp Đại Hội Tân Tòng và Dự Tòng: “Các bạn tân tòng và dự tòng rất thân mến, tôi muốn mượn những trang cuối cùng của tập đặc san này, để nhắn gửi đôi điều với các bạn, như tâm sự của một người cha, người thầy và một người bạn sắp sửa đi xa. Trên chặng đường thời gian 10 năm qua, có lẽ một trong những điều tôi thầm tạ ơn Chúa nhiều nhất, đó chính là tôi đã có cơ hội tiếp cận và giúp đỡ một số đông anh chị em dự tòng được học biết và tiến tới gia nhập Đạo Thánh Chúa. Tôi luôn cảm nhận sâu sắc rằng: chính sự tiếp cận và môi trường giáo lý đặc biệt này mà niềm tin của tôi được thêm củng cố và nghị lực mục vụ của tôi được tăng cường. Dĩ nhiên trong giới hạn của kiếp phận con người, tôi cũng luôn ý thức được những thiếu sót, những hạn chế và lỗi lầm trong khi tôi thể hiện vai trò một mục tử, một người thầy, một giáo lý viên và một người bạn.

Trong cuộc “chia tay” đặc biệt này, tôi chợt nhớ tới một lời thâm thúy của Michel de Montaigne, một nhà văn lỗi lạc nước Pháp thời Phục Hưng (1533-1592): “Si la vie n’est q’un passage, sur ce passage au moins semons des fleures”. Tạm dịch: “Nếu cuộc đời chỉ là một chuyến đi, thì ít nữa, trên chuyến đi đó, chúng ta hãy gieo những bông hoa”….

Vâng các bạn chính là những “cánh hoa” mà tôi và bao nhiêu người đã góp sức gieo trồng trên mảnh đất này. Tôi luôn cầu nguyện và hy vọng “những cánh hoa tâm hồn” này là chính các bạn sẽ mãi mãi rực sáng những gam màu đẹp nhất, mãi mãi là những cánh hoa đẹp nhất trong vườn hoa Hội Thánh Công Giáo” (Lm. Giuse Trương  Đình Hiền).

Xin Thầy Giêsu và Hiền Mẫu Maria giúp chúng ta trở nên “những cánh hoa” và là những người gieo trồng “những cánh hoa khác” nữa, các bạn nhé!