Chúa Nhật Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô - Năm C
SỐNG ĐỨC TIN THEO GƯƠNG
HAI THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ
 

1. Hai chứng nhân sống động về đời sống đức tin.

Trong kinh tiền tụng lễ thánh Phêrô và Phaolô tông đồ, Hội thánh dạy rằng: Thánh Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là người làm sáng tỏ đức tin. Thánh Phêrô thiết lập Hội thánh tiên khởi cho người Israel, thánh Phaolô là thầy giảng dạy muôn dân.

Thực vậy, các bài đọc phụng vụ hôm nay đã làm sáng tỏ đức tin của hai chứng nhân tông đồ này. Trước hết, Sách Công vụ ghi lại thời kỳ Hội thánh sơ khai bị bách hại. Thánh Giacôbê là anh của Gioan bị chém đầu và thánh Phêrô bị bắt bỏ tù (x. Cv 12.1-2). Dầu bị thử thách như thế, thánh Phêrô vẫn không lung lạc đức tin. Thánh nhân một mực tin tưởng vào Chúa. Niềm cậy trông và tin tưởng ấy của thánh Phêrô đã đạt được kết quả bất ngờ. Thánh nhân đã được Chúa giải thoát khoải lao tù một cách hết sức nhiệm mầu. Chính biến cố được giải thoát ấy làm cho thánh Phêrô thêm niềm tin vào Chúa và ngài đã thốt lên rằng: “Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Hê-rô-đê, và khỏi mọi điều dân Do-thái mong muốn tôi phải chịu”(Cv 12, 11).

Kế đến, tại vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, thánh Phêrô còn biểu lộ một đức tin mạnh mẽ và cá vị. Trong khi các tông đồ khác lúng túng chưa trả lời Chúa Giêsu là ngôn sứ hay là Êlia, thánh Phêrô đã mạnh mẽ tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống (x. Mt 16, 16). Danh xưng Con Thiên Chúa là chân lý được thiên thần Gápriel tuyên báo trong ngày truyền tin cho Đức Maria (x. Lc 1, 35) và Chúa Giêsu đã mạc khải trong những lần rao giảng. Trong thời gian Chúa Giêsu rao giảng và làm phép lạ, có một số người tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa (x. Mt 14, 33, Lc 8, 28, Ga 11, 27, Mt 27, 54) nhưng chưa minh nhiên xác quyết. Ngược lại, rất nhiều người không chấp nhận và xem danh xưng đó là lời phạm thượng (x. Ga 10, 36, Ga 19, 7). Vì thế, lời tuyên xưng của thánh Phêrô về căn tính của Chúa Giêsu là tuyên xưng đức tin đầu tiên và lời tuyên xưng đó góp phần củng cố đức tin cho các tông đồ khác. Thánh Phêrô thật có phúc khi tuyên xưng chân lý ấy cách chính xác, bởi ngài đã được Chúa Cha mạc khải (x. Mt 16, 17).

Với thánh Phaolô, lời tuyên xưng đức tin của ngài là những lời loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu phục sinh và một đời sống trung tín với Chúa Giêsu đến cùng. Thánh nhân đã tin vào Chúa Giêsu đến độ chọn Chúa Giêsu là lẽ sống cho cho đời của ngài: “Tôi coi tất cả mọi sư là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô (Pl 3, 8). Thánh nhân đã sống chết cho Chúa Giêsu (x. Pl 1, 21) và không ai, không thử thách nào có thể tách ngài ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, dù cho đó là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo (x.Rm 8, 35). Tình yêu Đức Kitô đã thúc bách thánh Phaolô loan báo Tin Mừng và thánh nhân đã sống một đời chứng nhân để tuyên xưng đức tin. Những lời tâm sự cuối cùng với Thimôthê đã cho thấy thánh Phaolô đã sống hết mình cho đức tin của mình: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin”(2Tm 4, 6).

2. Sống đức tin theo gương hai thánh Phêrô và Phaolô

Hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô đã trở nên những cột trụ đức tin trong Hội thánh. Gương sáng của hai ngài mời gọi các tín hữu sống đức tin trong cuộc sống hôm nay. Với những lo toan cơm áo gạo tiền, các tín hữu được mời gọi dành cho Chúa một chỗ trong đời sống của mình. Không vì những của cải chóng qua mà họ quên đi hạnh phúc vĩnh cửu trên trời, không vì lợi ích quá nhỏ ở trần thế này mà họ quên đi mối lợi tuyệt vời là Đức Kitô.

Bằng những giờ kinh tối đều đặn và sốt sắng, bằng hành vi thờ phượng khi lãnh nhận các các bí tích, và tham dự các thánh lễ chúa nhật cách sinh động và trang nghiêm, các gia đình Công giáo đang loan báo cho người khác rằng họ tin vào Thiên Chúa và Đấng Ngài sai đến là Đức Kitô. Chính sức mạnh của Chúa tác động, các tín hữu sống chứng nhân giữa đời.

Trong khi nhiều gia đình khác bất hòa, ly dị, các gia đình người Công giáo vẫn luôn trung thành trung thủy với nhau đến cùng và không có một thử thách nào có thể tách mối dây hôn phối của các gia đình Công giáo. Tình yêu vợ chồng trong các gia đình rập theo khuôn mẫu của Đức Kitô và Hội thánh. Vợ chồng luôn biết hy sinh những sở thích riêng để giúp nhau được hạnh phúc. Chính khi vợ chồng vợ chồng Công giáo sống yêu thương nhau theo mẫu gương của Đức Kitô yêu thương Hội thánh, họ đang họa lại cách sinh động tình yêu của Đức Kitô và Hội thánh. Trong khi sự gian dối xảy ra nhiều nơi, trong nhiều môi trường, các cha mẹ Công giáo luôn dạy cho con cái sống trung thực và thực hành sự trung thực ấy trong gia đình, trường học, công sở…

Có thế, từng người trong các gia đình Công giáo đang trở nên những chứng nhân sống động cho Chúa Kitô và minh chứng đức tin của mình. Nhờ lời chuyển cầu của hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ hôm nay, ước mong mỗi tín hữu trở nên những chứng nhân đức tin trong gia đình, trong trường học và mọi môi trường của cuộc sống.

 

39.Gà gáy và ngã ngựa

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Gà gáy và ngã ngựa là hai sự kiện nổi bật trong cuộc đời hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Tiếng gà gáy để phản tỉnh. Cú ngã ngựa để hết tự mãn. Phêrô và Phaolô, trước khi là thánh, hai vị cũng là người tội lỗi, yếu đuối, chập choạng trên con đường đức tin. Các ngài có một quá khứ lầm lỗi. Phêrô có lần bị Chúa quở là satan; ông đã ba lần chối Thầy. Phaolô đã năm lần bảy lượt đi lùng bắt và giết chết những ai mang danh Kitô hữu; ông đã can dự vào việc ném đá Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên của Giáo hội. Cả hai đều hăng say năng nổ, muốn dùng sức lực của mình và phương tiện thế gian để bảo vệ Chúa mình tôn thờ, và muốn tiêu diệt những kẻ không theo đạo giống mình. Chúa Giêsu đã cứu cả hai, mỗi người được cứu một cách. Tiếng gà gáy và cú ngã ngựa là hai dấu ấn không phai trên hành trình nên thánh.

1. Tiếng gà gáy phản tỉnh

Sau khi chối Thầy lần thứ ba, từ trên pháp đình Chúa nhìn xuống Phêrô. Ánh mắt Thầy vẫn trìu mến thân thương như gởi đến ông sứ điệp: Phêrô, sao con lại chối Ta. Ơn nghĩa Thầy trò ba năm gắn bó chẳng lẽ không còn một chút vương vấn hay sao? Lại thêm tiếng gà gáy đêm khuya, nhắc nhở lương tâm ông tỉnh ngộ và nhớ lại lời Thầy đã tiên báo: “Trước khi gà gáy, con đã chối Ta ba lần.” Phêrô lầm lũi ra khỏi pháp đình, nước mắt tuôn trào, tâm hồn trĩu nặng, cõi lòng xốn xang, mình chỉ là cát bụi, phận yếu hèn và quá dễ sa ngã! Phêrô thổn thức. Mới hôm nào ông còn tuyên bố: “Dù mọi người bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ.” Thế mà, giờ đây ông lại nhát gan khi đối diện nguy nan nên đã chối Thầy đến ba lần. Và đêm hôm ấy, tiếng gà gáy đã thức tỉnh tâm hồn Phêrô. Xuất thân là ngư phủ với bản tính chất phác, chân thật, có sao nói vậy, nên khi lầm lỗi ngài chân thành sám hối và òa khóc như một đứa trẻ. Đó là hành trình của phàm nhân, những con người luôn mỏng dòn và yếu đuối, nhưng luôn được Thiên Chúa hải hà thương xót, thứ tha và thánh hóa. Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mãnh, giữa trọn vẹn và dang dở. Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại. Tuy nhiên, thánh Phêrô có nhiều đức tính đáng nể phục. Chính những đức tính sáng chói này sẽ làm lu mờ đi những cái tầm thường nơi con người của ngài. Nhờ đó, ngài đã xứng đáng với sự tín nhiệm của Chúa. Thánh Phêrô có lòng quảng đại. Khi được Chúa gọi, ông nhanh nhẹn bỏ tất cả mọi sự rồi theo Chúa. Thánh Phêrô có một đức tin chân thành và lòng gắn bó keo sơn với Chúa: “Lạy thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có lời ban sự sống đời đời.” Đức tính đáng cảm phục nhất chính là lòng khiêm nhường. Đó là nhân đức nền tảng của mọi nhân đức. Khiêm nhường là mẹ các nhân đức. Rõ ràng, trong trái tim Phêrô lúc nào cũng yêu Chúa. Ngay cả khi Chúa bảo Phêrô là Satan thì ngài cũng không giận Chúa. Chỉ vì sự sợ hãi yếu đuối mà chối Thầy, chứ trong tâm hồn lúc nào Phêrô cũng yêu mến Chúa. Không phải Phêrô yếu đuối vấp ngã mà Chúa bỏ rơi, chính tình yêu chân thành trong tâm hồn Phêrô mà Chúa đã yêu thương chọn làm Tảng Đá.

2. Cú ngã ngựa để hết tự mãn

Saolô ở Tacxô, là người Do thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái-Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem. Là biệt phái nhiệt thành nên Saolô đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Stêphanô và trên đường Đamat truy lùng các Kitô hữu. Oai phong trên yên ngựa đang phi nước đại, thình lình, một luồng ánh sáng từ trời loé rạng bao lấy ông, Saolô té nhào từ yên ngựa. Nằm sóng soài dưới chân ngựa, Saolô nghe được tiếng gọi trong luồng ánh sáng phát ra từ trời: “Saolô, Saolô, sao ngươi bắt bớ Ta?” Saolô hỏi lại: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Tiếng từ trời đáp: “Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ.” Không thể tin vào chính mình nữa, không ngờ ông Giêsu Nadarét, người đã bị đóng đinh vào thập giá như một tên tội phạm, lại chính là Thiên Chúa quyền năng đã quật ngã mình và đã tự đồng hóa với những Kitô hữu mà mình đang lùng bắt. Dưới ánh sáng của Đấng Phục Sinh, đôi mắt của Saolô bị mù loà, nhờ đó ngài biết rằng trước đây mình thật là mù quáng. Nhưng sau đó, qua trung gian của Khanania, đại diện của Giáo Hội, ngài đã được sáng mắt về phần xác và cả phần hồn để nhìn thấy con đường mình được mời gọi bước vào.

Hoàn toàn phó thác, ngài đã thưa với tất cả tâm tình phục thiện: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” Con đường đức tin của Saolô đã hoàn toàn thay đổi kể từ lần gặp gỡ hi hữu ngoài sức tưởng tượng ấy. Sự sống của Chúa Phục Sinh đã làm thay đổi cuộc đời của ông. Được ơn trở lại từ cú ngã ngựa nhớ đời, Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô,Tông Đồ dân ngoại. Khi đã biết Chúa Kitô thì “những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa tôi còn coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Môsê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Giêsu”(Pl 3,7-9). Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô. Ngài trở thành một Tông đồ dân ngoại kiệt xuất, thành lập nhiều Giáo đoàn, mở mang phát triển Hội Thánh cách quang minh chính đại, khiến bản thân phải ra toà, tù tội, vất vả trăm đường. Các mối phúc thật được kết tinh nơi cuộc đời thánh nhân. Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình “Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành” (2Cor 12,9). Không gì có thể làm nao núng lòng tin mãnh liệt ấy “Chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyêt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt”(2Cor 4,8-9). Vị Tông đồ dân ngoại đã nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức “Khốn thân tôi,nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cor 5,14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài “Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi”(Gal 2,20). Vì Đức Kitô và vì Tin mừng, thánh nhân đã sống và chết cho sứ vụ. Cuộc sống bôn ba vì Nước trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?… Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”(Rm 8,35-39).

3. Là người tội lỗi được Chúa nhìn đến

Giáo hội mừng kính hai thánh Tông đồ cùng chung một ngày. Hai con người khác nhau từ cá tính đến thân thế nhưng cùng chung một ơn gọi từ Chúa Kitô, cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô, chung một sứ mạng Chúa Kitô trao phó và cuối đời cùng chịu tử đạo vì Chúa Kitô tại Roma. Cùng chia sẻ một niềm tin, cùng thi hành một sứ mạng, Chúa Kitô đã đưa hai ngài đến một cùng đích, một vinh quang đội triều thiên khải hoàn. Hai con người khác biệt ấy lại có những điểm tương đồng lạ lùng. Chúa Kitô đã nối những điểm tương đồng ấy để tất cả được nên một ở trong Người. Thánh Phêrô, trước đây hèn nhát, sợ hãi, chối Chúa, về sau yêu Chúa nồng nàn thiết tha. Thánh Phaolô, trước kia ghét Chúa thậm tệ, sau này yêu Chúa trên hết mọi sự. Chúa đã dùng hai sự kiện gà gáy và ngã ngựa để thanh tẩy các ngài. Trước kia hai vị rất khác biệt, bây giờ cả hai nên một trong tình yêu Chúa.

Sự nghiệp Tông đồ tiếp bước Chúa Kitô, hai vị hiệp nhất trong cùng một lòng chân thành tuyên xưng, hiệp nhất trong một tâm huyết nhiệt thành rao giảng để rồi mãi mãi hiệp nhất trong cùng một đức tin minh chứng. Mặc dù có nhiều khác biệt về thành phần bản thân, về ơn gọi theo Chúa về hướng truyền giáo, nhưng cả hai vị đã tạo nên sự hiệp nhất trong đa dạng. Cùng chịu tử đạo. Cùng trở thành nền móng xây toà nhà Giáo hội. Cùng trở nên biểu tượng hiên ngang của niềm tin Công Giáo. Hai Vì Sao Sáng được Giáo hội mừng chung vào một ngày lễ 29 tháng 6. Hai Tông Đồ cột trụ đã trở nên tượng đài của sự hiệp nhất trong Giáo hội. Hiệp nhất là một công trình được xây dựng với nhiều nỗ lực của con người dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh. “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong điều chính, yêu thương trong tất cả,” đó là khuôn vàng thước ngọc cho tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội.

Đón nhận ánh sáng từ nơi Chúa Kitô, hoạt động truyền giáo theo sự dẫn dắt của Chúa Thánh Linh, hai Thánh Tông đồ trở nên nền tảng hiệp nhất. Hai ngài trở thành chói sáng như hai vì sao trong vòm trời Giáo Hội, đáng được các tín hữu chiêm ngắm noi theo. Hai ngài đã biết khiêm tốn, nhận mình là thấp hèn tội lỗi rồi mở tâm hồn ra đón nhận tình thương của Thiên Chúa. Khi trả lời câu phỏng vấn: “Jorge Bergoglio là ai?”, Đức Thánh cha Phanxicô đáp: “Tôi là người tội lỗi được Chúa nhìn đến.” Và ngài tuyên bố: “Chính tôi là người tội lỗi đây, có gì lạ đâu! Cái lạ là ở chỗ được Chúa nhìn đến, được Chúa xót thương. Và từ đó người ta tìm xem Chúa xót thương ở chỗ nào.”

Xin hai Thánh Tông Đồ giúp chúng con luôn biết tín thác vào tình thương của Chúa, luôn biết tiến bước theo các ngài trên con đường theo Chúa. Amen!