Chúa Nhật Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô - Năm C |
HAI ĐÁ TẢNG VÀ CỘT TRỤ GIÁO HỘI |
Suy niệm của Lm. Nguyễn Vinh Sơn, SCJ. |
Thánh Phêrô lúc đầu có tên là Simon, làm nghề đánh cá và đã có gia đình. Ngài được Chúa Giêsu gọi đi theo Người trong một lần đánh cá ở trên biển. Ngài đã đại diện các môn đệ tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (x. Mt 16, 16) được Chúa đặt đứng đầu nhóm Mười Hai. Ngài là một trong bốn môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu (x. Mt 4, 18-22) được tham dự hầu hết những biến cố quan trọng trong cuộc đời công khai của Chúa... Trong những lúc khó khăn nguy khốn, vì yếu lòng tin ngài đã chối Chúa ba lần nhưng đã quay trở lại và làm cho đức tin của Giáo hội phát triển mạnh tại Giêrusalem, sau khi Chúa về trời. Ngài tử đạo khoảng năm 64-67. Thánh Phaolô, trước đây là một biệt phái, sau khi bị Chúa làm cho ngã ngựa và làm mù lòa trên đường Đamas khi đang bách hại đạo Chúa. Ngài đã được Chúa chọn làm tông đồ rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Ngài thành lập nhiều cộng đoàn cũng như viết thư thăm hỏi, giải quyết những vấn đề của cộng đoàn mà ngài không thể tới được. Ngài tử đạo năm 67 tại Rôma. Noi gương hai thánh tông đồ, chúng ta gắn kết cuộc đời mình với Đức Kitô để kín múc nơi Người nguồn sức mạnh tình yêu, hầu chia sẻ cho mọi người và sống chứng nhân Tin Mừng. Câu chuyện Trong mọi công trình xây dựng, các chuyên gia đều chú trọng đến nền móng và trụ cột nâng đỡ toàn bộ kiến trúc của công trình. Trong ngôi nhà Giáo hội cũng vậy, chúng ta là những viên gạch để xây dựng lên và đã được Thiên Chúa kiến thiết với nền móng vững chắc từ “đá tảng niềm tin Phêrô và cột trụ bền vững nhiệt thành Phaolô”. Hai vị được nhìn nhận như là nền móng và trụ cột của công trình Giáo hội Chúa giữa trần gian. Trong kinh tiền tụng lễ hai thánh Phêrô và Phaolô, Giáo hội đã long trọng tuyên bố: ”Thánh Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là người làm sáng tỏ đức tin, thánh Phêrô thiết lập Hội Thánh tiên khởi cho người Israel, thánh Phaolô là thầy giảng dạy muôn dân”. Suy niệm Phêrô và Phaolô hai tính khí, hai nhân cách khác nhau: Một người xuất thân từ dân chài, thật thà chất phác nhưng đôi phần nóng nảy. Một người xuất thân là một trí thức trẻ học rộng tài cao thuộc đẳng cấp biệt phái và là công dân của Rôma. Cả hai có kinh nghiệm sống và gặp gỡ Thiên Chúa theo lịch sử riêng của mỗi người và được Thiên Chúa chiếm hữu biến đổi để trở nên đá tảng và trụ cột của Giáo hội. Phêrô: Quá khứ là dân chài lưới với chiếc thuyền nhỏ rong ruổi khắp hồ Tibériat đã trở nên kẻ chài lưới người theo ý muốn của Thiên Chúa, hôm nay là hoa tiêu trên chiếc tàu Giáo hội xuôi ngược đại dương trần gian. Phêrô đã được Chúa Giêsu biến đổi từ một con người tầm thường có lịch sử với những đặc điểm bình thường như bao người khác. Đó là Phêrô của sự tính toán: “Chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?” (Mt 19, 27). Sự tính toán của con người ấy đã khiến ông ngăn cản bước đi cứu chuộc nhân loại của Đức Kitô và bị Ngài quở mắng: “Satan, hãy lui ra sau Ta! Anh cản lối Ta. Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 23b); Phêrô của nóng nảy, của yếu đuối, của phản bội: Chối Thầy ba lần (x. Lc 22, 54-62). Kinh nghiệm được tha thứ khiến ông trở nên biết chia sẻ lòng thương xót của Chúa với anh em như Chúa Giêsu đã nói: “Phần con, hỡi Phêrô, sau khi đã trở lại, con hãy củng cố các anh em của con” (Lc 22, 32). Nhưng cũng Phêrô đầy ơn Chúa xác tín tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Trước niềm tin sắt son này, Phêrô được Chúa đặt làm nền tảng Giáo hội: “Con là đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Giáo hội của Thầy, và cửa hỏa ngục sẽ không thắng nổi” (Mt 16, 18); Phêrô tín thác hoàn toàn vào Đức Giêsu: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6, 68). Phêrô gắn bó với tình yêu của Thầy trên hết: “Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21, 15.16.17); Phêrô của sự cương quyết thuộc về Thiên Chúa và chỉ vâng lời và làm chứng về Ngài: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta... về những sự kiện đó (Đức Kitô đã sống lại), chúng tôi xin làm chứng…”. (Cv 5, 29.32). Ngài đã làm chứng cho đến chết bằng cái chết bị đóng đinh ngược trên đồi Vaticăn. Phaolô hôm qua còn ghét và truy bắt “tà đạo Kitô”, Phaolô, một tay bách hại đạo khét tiếng như chính ông đã nhìn nhận (Gl 1, 13), và là người tuân giữ nghiêm ngặt luật Do Thái (Gl 1, 14). Phaolô còn liên quan trực tiếp đến vụ án ném đá đến chết của Stêphanô, phó tế tử đạo tiên khởi (Cv 7, 59). Phaolô của ngày hôm nay lại càng nổi tiếng hơn bao giờ hết vì là người nhiệt thành yêu mến và truyền bá Đức Kitô và sẵn sàng chết cho niềm tin đó. Thánh Phaolô xác tín niềm tin của mình vào Đức Kitô: “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (2Tm 1, 12), tin và loan báo Đức Kitô là lẽ sống của Phaolô: “Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin mừng” (1Cr 9, 16) và chính ông để tình yêu Đức Kitô chiếm hữu “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2Cr 5, 14), Phaolô chỉ sống vì Đức Kitô và trở nên một với Đức Kitô: “Không còn là tôi sống nữa, nhưng là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Trong Ngài, Phaolô gắn bó với tình yêu Thiên Chúa không gì có thể chia ly: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Ðức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8, 39). Những bước chân của Phaolô là bước chân gieo hạt giống Tin Mừng cho anh em dân ngoại như là ơn gọi đặc biệt của ông (Gl 1, 16). Phaolô chứng nhân Tin Mừng Chúa Kitô cho đến khi đầu ông rơi, máu ông đổ vì Tin Mừng ở ngoài thành Rôma. Phêrô và Phaolô, hai người hai tính khí, hai trực giác khác nhau, hai đường hướng hoạt động tông đồ khác nhau, nhưng đã gặp gỡ nhau trong tình yêu Chúa và bổ túc cho nhau để xây dựng Giáo hội theo thánh ý quan phòng của Thiên Chúa. Thanh gươm ngày nào của Phaolô giơ cao bách hại đạo Chúa nay thế bằng Tin Mừng cứu độ giương cao để không ngừng khai quang truyền giáo cho Đức Kitô. Giọt nước mắt thống hối chân thành vì đã phản bội Thầy của Phêrô xưa và chìa khóa nước Trời được Chúa trao cho ông luôn hiện diện và mở toang nước Trời cho những ai chân thành sám hối. Noi gương như Phêrô, người đã nhận ra tình yêu của Ngài qua những giọt nước mắt của sự sám hối sau khi phản bội Thầy; như Phaolô nhận biết Ngài sau những lần truy lùng gắt gao các môn đệ của Ngài..., và chỉ một lần ngã ngựa đớn đau, ông đã gặp gỡ Ngài và đời ông biến đổi theo thánh ý Thiên Chúa và trở nên mạnh mẽ trong đức tin. Ý lực sống: “… Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12, 10). |