Chúa Nhật Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô - Năm C |
PHẦN CÁC CON, CÁC CON BẢO THẦY LÀ AI? |
Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ |
“Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" (Mt 16,15) Đó là câu hỏi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ của mình để trắc nghiệm họ về sự hiểu biết của họ về danh tính của chính Chúa Giêsu, khi Ngài đang đồng hành với các ông từ thượng lưu Galilê đi xuống. Hẳn đã nhiều lần người ta đặt cho các môn đệ câu hỏi về Chúa Giêsu, lần này chính Thầy Giêsu hỏi họ về Ngài. Một câu hỏi rất cụ thể được Chúa đặt ra, và chờ họ trả lời. Và đây, Simon Phêrô đã thay mặt cả nhóm thưa: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16,16). Câu trả lời thật rõ ràng. Ở đây, Đức tin của Giáo Hội phản chiếu một cách trọn vẹn. Chúng ta cũng thế, chúng ta được soi sáng cách đặc biệt do lời tuyên xưng của Phêrô. Phêrô tuyên xưng "Thầy là Đức Kitô!" Với lời tuyên xưng của Phêrô, Chúa Giêsu trả lời: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 16, 17). – Phêrô, con thật có phúc! Hạnh phúc thật, bởi vì sự thật này, là trung tâm đức tin của Giáo Hội, có thể nảy sinh trong tâm thức của con người như công việc của Thiên Chúa. "Không ai biết Con, trừ ra Cha, và không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mặc khải cho" (Mt 11, 27). Câu Tin Mừng giầu ý nghĩa và phong phú này khiến chúng ta suy nghĩ: Ngôi Lời Nhập Thể đã mạc khải Chúa Cha cho các môn đệ của mình, và giờ đây đến lượt Chúa Cha mạc khải cho họ chính Con Một của Ngài. Phêrô chấp nhận sự soi sáng nội tâm và ông can đảm tuyên xưng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống"! Những lời này ở trên môi của Phêrô, nhưng phát xuất từ mầu nhiệm thâm sâu của Thiên Chúa. Đó là những lời mạc khải chân lý nội tại, và đời sống của chính Thiên Chúa. Và Phêrô, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, đã trở thành một nhân chứng, và là người tuyên xưng chân lý siêu phàm ấy. Lời tuyên xưng của ông là nền tảng đức tin của Giáo Hội "Trên đá này, Ta sẽ xây Hội Thánh của Ta" (x. Mt 16, 18). Dựa vào đức tin và lòng trung thành của Phêrô, Giáo Hội của Chúa Kitô được thiết lập. Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi ý thức rõ điều ấy, như sách Công Vụ Tông Đồ đã viết, khi Phêrô bị giam trong ngục. Và Hội Thánh khẩn thiết dâng lời khẩn nguyện lên cùng Thiên Chúa cho ông (x. Cv 12: 5). Giáo hội đã được nghe, vì sự hiện diện của Phêrô vẫn cần thiết cho cộng đoàn trong những giai đoạn đầu của Hội Thánh: Chúa đã sai thiên thần của Người đến mà giải thoát họ khỏi tay những người bách hại (x.12, 7-11.). Điều này đã được viết trong ý định của Thiên Chúa mà Phêrô, sau khi thừa nhận với anh em mình trong đức tin, đau khổ tử vì đạo ở Rôma, cùng với Thánh Phaolô, vị Tông Đồ dân ngoại, cũng thoát chết nhiều lần. "Nhưng Chúa đã phù hộ tôi và ban sức mạnh cho tôi, để dùng tôi hoàn thành công việc rao giảng, và cho mọi dân tộc được nghe biết. Và tôi đã thoát khỏi miệng sư tử" (2 Tim 4, 17). Đó là những lời của Phaolô người môn đệ trung thành. Những lời này làm chứng cho việc được thành toàn nơi ông nhờ ơn Chúa, Đấng đã chọn ông cho sứ vụ loang báo Tin Mừng. Đấng đã, "chọn ông" trên đường đi Damas (x. Pl 3, 12). Được bao phủ trong ánh sáng chói lòa con mắt, Chúa đã hiện ra với ông và nói rằng: "Saul, Saul, tại sao ngươi bắt bớ Ta? "(Cv 9,4), một sức mạnh diệu kỳ quật ngã ông xuống đất (x. Cv 9,5). Saul hỏi: "Thưa Ngài, Ngài là ai? Chúa Giêsu trả lời "Ta là Giêsu, ngươi đang bắt bớ"! (Cv 9, 5). Có phải câu trả lời của Chúa Kitô hàm ý Saul đang bách hại những người theo Chúa Giêsu và Chúa Giêsu báo cho ông biết rằng, chính bản thân ông cũng đang bị họ bách hại lại. Chúa Giêsu thành Nazareth, Đấng chịu đóng đinh, Đấng mà các Kitô hữu loan truyền. Ngài đã phục sinh. Nếu bây giờ, Saul cảm thấy sự hiện diện mạnh mẽ, rõ ràng rằng Thiên Chúa đã thực sự sống lại từ cõi chết. Ngài chính là Đấng Mê-sia, Đấng dân Israel trông đợi, đó là Chúa Kitô hằng sống, đang hiện diện trong Giáo Hội và thế giới! Với lý lẽ trên, liệu Saul có thể hiểu tất cả những gì hàm chứa trong một biến cố như vậy không? Chắc là không! Đúng thế, vì đó chỉ là một phần trong những ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Thiên Chúa Cha sẽ trao ban cho Phaolô ơn hiểu biết mầu nhiệm cứu chuộc, do Đức Kitô thực hiện. Chính Ngài sẽ làm cho Phaolô hiểu được thực tại tuyệt vời của Giáo Hội, để Phaolô sống cho Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô. Còn Phaolô, khi tham dự vào thực tại này, ông sẽ không ngừng loan truyền cách không mệt mỏi cho đến tận cùng của trái đất. Từ Damas, Phaolô bắt đầu cuộc hành trình tông đồ của mình, hành trình ấy sẽ dẫn Phaolô mang Tin Mừng cho mọi quốc gia trên thế giới, đến những nơi mà ông được kêu gọi. Lòng nhiệt thành truyền giáo của Phaolô sẽ giúp ngài thực hiện được nhiệm vụ mà Chúa Kitô ủy thác cho các Tông Đồ: "Vậy anh em hãy đi, và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy" (Mt 28, 19). Sự hiệp nhất tròn đầy của Giáo Hội! Giáo hội mang trong mình sứ mạng do Chúa Kitô ủy thác. Đây là sứ mạng cần thiết ở thời đại này. Chúng ta hãy cầu nguyện cho hiệp nhất và những tiến trình cho hiệp nhất, đừng bao giờ chán nản, hay thất vọng. Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta sớm đạt được sự hiệp thông trọn vẹn nơi tất cả những người tin vào Chúa Kitô. Hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô đã cho chúng ta ơn đó, Giáo Hội nhắc lại cho chúng ta trong ngày này, nhờ sự kính nhớ cái chết tử đạo, ngày sinh ra vào đời sống mới trong Chúa của các ngài. Vì Tin Mừng, các ngài đã chấp nhận chịu đau khổ, chịu chết và các ngài đã được tham dự vào sự phục sinh của Chúa. Đức tin mà các ngài minh chứng bằng cái chết tử đạo của chính mình, là đức tin giống như Đức Maria, Mẹ của những người tin, Mẹ của các thánh Tông Đồ, và các thánh nam nữ trong mọi thời đại. Ngày nay, Giáo Hội tuyên xưng đức tin ấy. Đức tin của chúng ta, đức tin vững vàng của Giáo Hội tin vào Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất, Người là Con Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã chết và sống lại để cứu độ chúng ta và toàn thế giới.
14.Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ (Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ) Nhờ hồng ân Thiên Chúa, ngày 29 tháng 6 hằng năm, cả Giáo hội vũ hoàn kính nhớ đặc biệt và mừng trọng thể cùng lúc lễ hai thánh tử đạo Phêrô và Phaolô, những cột trụ của Giáo hội phổ quát Chúa Kitô. Theo truyền thống, Giáo hội không bao giờ mừng vị này mà bỏ vị kia, nhưng luôn mừng kính với lòng biết ơn hai chứng nhân vĩ đại của Chúa Kitô, và đồng thời tuyên xưng long trọng về một Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo, và tông truyền. Phêrô có tên gốc là Simon, người Galilê làm nghề chài lưới, sống ở Capharnaum bên hồ Tibêria. Phaolô có tên là Saolê, người Do thái lưu vong, sinh tại Tarsô miền Tiểu Á bởi cha mẹ là người thế giá, có quyền công dân Rôma. Cuộc đời của hai ông bị đảo lộn từ khi gặp Đức Kitô. Thánh Phêrô, thủ lãnh các Tông Đồ, con người say mê Chúa Kitô, đã xứng đáng nghe lời này: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16, 18). Trên tảng đá này, Chúa sẽ xây dựng đức tin mà Phêrô tuyên xưng. Phêrô lấy từ “tảng đá, chứ không phải tảng đá lấy từ Phêrô. Phêrô, ngư phủ miền Galilêa, ít học, đã lập gia đình, theo Thầy Giêsu ngay từ buổi đầu sứ vụ, là người sau khi đã vượt qua những ngày đen tối của cuộc Thương Khó của Chúa Kitô, sẽ có trách nhiệm củng cố anh em trong đức tin và chăn dắt đoàn chiên của Chúa (x. Mt 16, 13-19). Còn thánh Phaolô, người Pharisêu sốt sắng, có nhiều điều để tự hào, về gia thế, học thức, về đời sống đạo hạnh. Ông chưa hề gặp mặt Ðức Giêsu tại thế, ông bách hại những người tin Chúa Kitô. Nhưng khi gặp Đức Kitô Phục Sinh với biến cố ngã ngựa trên đường Damas, ông trở nên tông đồ của ơn cứu rỗi đến từ đức tin, là “dụng cụ ưu tuyển” để mang Tin Mừng đến cho các dân tộc (x. Cv 9, 1-22). Cả hai đều được Ðức Giêsu gọi, Phêrô được gọi lúc ông đang thả lưới bắt cá nuôi vợ con. Phaolô được chính Đức Giêsu Phục sinh gọi khi ông hung hăng tiến vào Ðamas, đang làm tông đồ không biết mỏi mệt của dân ngoại (x. Cv 9, 1-22). Cả hai đã từ bỏ tất cả để theo Chúa. Tất cả của Phêrô là gia đình và nghề nghiệp. Tất cả của Phaolô là những gì ông cậy dựa vênh vang. Bỏ tất cả là chấp nhận bấp bênh, tay trắng. Cả hai đều đã từng có lần vấp ngã. Vấp ngã bất ngờ sau khi theo Thầy như Phêrô, trong phút giây quá tin vào sức mình. Ngã ngựa bất ngờ và trở nên mù lòa như Phaolô, trong lúc tưởng mình sáng mắt và đi đúng hướng. Vấp ngã nào cũng đau và in một dấu không phai mờ. Vấp ngã bẻ lái đưa con người đi vào hướng mới. Phaolô là chiếc bình được tuyển chọn, Phêrô giữ chìa khóa Nước Trời; cho dù người này là ngư phủ, người kia là kẻ bách hại. Phaolô đã bị đánh cho mù, cuối cùng thấy rõ hơn; Phêrô đã chối Chúa, sau tin vững vàng. Phaolô đã chọn tin vào Chúa Kitô sau khi phục sinh. Phêrô vị dân chài thay vì thả lưới bắt cá, nay trở thành kẻ lưới người ta. Chương trình mầu nhiệm của Chúa Quan Phòng dẫn đưa Phêrô tới Roma, nơi đây ngài đổ máu như chứng tá sau cùng và cao cả nhất của đức tin và của lòng mến đối với Thầy chí Thánh “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy» (Mt 16, 17). Như vậy ngài đã chu toàn sứ mệnh trở nên dấu hiệu của lòng trung thành với Chúa Kitô và của sự hiệp nhất tất cả Dân Chúa. Phần Phaolô, trong hành trình truyền giáo, không ngừng rao giảng Chúa Kitô bị đóng đanh và lôi kéo nhiều nhóm người Á Châu và Âu Châu trở về với Chúa. Sau khi qua Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, ngài đến Roma. Và chính ở đây, ngài được phúc tử đạo để làm chứng cho Chúa Kitô. Chính ngài đã nói lên trong bài đọc thứ hai Thánh lễ hôm nay rằng: “Chúa đã gần gũi tôi và ban sức mạnh cho tôi, để qua tôi, việc rao giảng sứ điệp Tin Mừng được thực hiện và để các dân ngoại được nghe biết đến”. (2Tm 4, 17-18) Phêrô và Phaolô đều yêu Ðức Giêsu cách mãnh liệt, vì họ cảm nhận sâu xa mình được Người yêu mến. “Này anh Simon, anh có mến Thầy không? Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,16). Cả Phaolô cũng yêu Ðấng ông chưa hề chung sống, vì Người là “Con Thiên Chúa, Ðấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20). Phaolô đã không ngần ngại khẳng định: “Không gì có thể tách được chúng ta ra khỏi Tình Yêu của Ðức Kitô” ( Rm 8, 35.39) Cả hai vị Tông Đồ đều hăng say rao giảng, bất chấp muôn vàn nguy hiểm khổ đau. Phêrô đã từng chịu đòn vọt ngục tù (x. Cv 5,40), còn nỗi đau của Phaolô thì không sao kể xiết (x. 2C 11, 23-28); “Tôi mang trên mình tôi những thương tích của Ðức Giêsu” (Gl 6, 1-7). Cả hai hạnh phúc trong việc giữ gìn giáo lý tinh tuyền, nhưng cái phúc tử đạo còn hạnh phúc hơn. Nơi dương gian, vinh quang chỉ là ước muốn; chốn thiên đàng mọi sự thật nhãn tiền. Tiếng các ngài đã vang đến tận cùng trái đất, và thông điệp loan đi tới chân trời góc bể. Khắp nơi vang tiếng ngợi khen các ngài; các tín hữu nhẩm đi nhắc lại chiến thắng khải hoàn của các đấng. Thật là hữu ích khi nhắc lại cho chúng ta vinh quang tử đạo của các hai đấng. Phaolô bị chặt đầu, Phêrô bị đóng đinh cắm đầu xuống đất. Hình thức tử đạo thật mầu nhiệm. Phêrô không dám chịu đóng đinh giống Thầy mình. Đó không phải là ông từ chối tử đạo, nhưng ông sợ nhận lấy cái chết giống Đấng Cứu Thế. Cả hai vị đã chết như Thầy, đã lấy máu mình mà làm chứng: thánh Phêrô bị dẫn đến nơi ông chẳng muốn (x. Ga 21, 18), chịu đóng đinh chết; thánh Phaolô đã chiến đấu anh dũng cho đến cùng, bị chém đầu; đã đổ máu ra làm lễ tế (x. 2Tm 4, 6). Thánh Phêrô được chôn cất ở chân đồi Vaticano; thánh Phaolô được an táng bên đường Ostiense. Hội Thánh hôm nay vẫn cần những Phêrô và Phaolô mới, dám bỏ, dám theo, dám yêu, dám sống và dám chết cho Ðức Kitô và Tin Mừng. Hội Thánh vẫn cần những chiếc cột và những tảng đá. Với lòng ngưỡng mộ biết ơn các ngài, chúng ta quyết một lòng trung thành với đức tin đã lãnh nhận. Lạy Nữ Vương Các Thánh Tông Đồ, cầu cho chúng con. Thánh Phêrô và thánh Phaolô, cầu cho chúng con. Amen. |