Chúa Nhật II Phục Sinh - Năm B
ĐỨC TIN
SƯU TẦM

Bài Tin Mừng kể lại hai lần Chúa Kitô Phục sinh hiện ra với các tông đồ: lần thứ nhất vào chính ngày Phục sinh, lúc đó vắng mặt ông Tôma, lần thứ hai, sau đó tám ngày, lần này có mặt ông Tôma. Mục đích Chúa hiện ra là để minh chứng cho các môn đệ thấy chắc chắn Ngài đã sống lại thực sự. Bài Tin Mừng này có hai câu nói của Chúa Giêsu rất đáng chú ý và suy nghĩ: Câu thứ nhất Chúa nói với ông Tôma: “Phúc thay những người không thấy mà tin”, đây cũng là điều Chúa muốn nói với chúng ta, những người đang sống xa biến cố Phục sinh cả hai ngàn năm, chúng ta không thấy Chúa Kitô Phục sinh, nhưng chúng ta vẫn tin, tin mạnh mẽ, tin vững chắc. Câu thứ hai là lời chào và cũng là lời cầu chúc của Chúa Kitô Phục sinh cho các môn đệ: “Bình an cho anh em”, đây cũng là điều Chúa muốn ban cho chúng ta và chúng ta cũng luôn cầu xin Chúa.

Chúng ta thấy lúc đầu ông Tôma tỏ ra một thái độ cứng lòng, khó tin những điều các bà đạo đức, các bạn tông đồ kể lại, ông cho là ảo tưởng, không đáng tin, ông nói: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Chúa rất nhân từ và nhẫn nại, Ngài vui lòng chờ đợi qua tám ngày rồi mới hiện ra để thỏa mãn những yêu sách quyết liệt của ông. Trước bằng chứng quá hiển nhiên ấy, ông phục xuống và kêu lệnh: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Theo cha Larăng, một học giả Kinh Thánh nổi tiếng, đây là lần thứ nhất Chúa Giêsu được gọi bằng danh hiệu “Thiên Chúa” rõ rệt, cho nên, đây là một tác động đức tin hoàn toàn và quyết liệt sau một thời gian hoài nghi và từ khước. Tác động đức tin này có giá trị, vì thực sự Tôma đã vượt qua hình dáng bên ngoài để đi tới thực tại tiềm ẩn: mắt ông chỉ nhìn nhìn thấy con người Chúa Giêsu, tay ông chỉ sờ tới những vết thương hữu hình, nhưng ông tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa của ông.

Lúc ấy Chúa phán một câu mà muôn đời sẽ suy niệm và trở nên nguồn an ủi, phấn khởi cho mọi thế hệ về sau: “Phúc thay những người không thấy mà tin”. Phán câu ấy Chúa có ý nhằm đến chúng ta ở thế kỷ XXI này và muôn thế hệ sau nữa, là những người không được đặc ân chiêm ngưỡng dung nhan nhân loại của Chúa, không được đặc ân nghe tiếng Ngài, đụng chạm tới thân xác thánh thiện của Ngài, nhưng chúng ta tin Ngài dựa vào bằng chứng của các tông đồ, thế giá của Kinh thánh và lời Giáo Hội giảng dạy, ai tin qua đó là có phúc. Chúng ta có thể nói như thánh Ghêgôriô: “ Ngón tay đa nghi của thánh Tôma đã trở nên ông thầy của toàn thể thế giới, bàn tay đa nghi của thánh Tôma đã dạy cho con người một sự thật rất chắc chắn, đó là thân xác Phục sinh của Chúa Kitô”. Chúng ta tin chắc như thế, chúng ta sẽ là người có phúc: phúc cho chúng ta, dù không thấy, chúng ta vẫn tin.

Đàng khác, ngay khi hiện đến với các tông đồ, cả hai lần, lời nói đầu tiên của Chúa là: “Bình an cho anh em”, lời cầu chúc đó được Chúa nói tới ba lần, đối với các môn đệ lúc ấy thật ý nghĩa và cần thiết. Quả thực, các ông đã bỏ mọi sự đi theo Chúa, nhưng ngờ đâu, “công chưa thành, danh chưa toại”, mới được 33 tuổi, vị thầy của các ông đã bị giết chết như một nhà cách mạng thất bại, và bây giờ đang nằm yên trong mộ đá. Chúa chết, các môn đệ “tay trắng vẫn hoàn tay trắng”. Hơn nữa, giờ đây các ông còn phải sống chui lủi trong cảnh “sảy đàn tan nghé”, như rắn mất đầu: thấp thỏm, hoang mang, lo sợ, các ông sợ tất cả mọi người, nên đã im hơi lặng tiếng, tụ tập nhau trong căn phòng cửa đóng then cài. Giữa lúc đó, Chúa hiện đến và chúc bình an, còn gì quý bằng, đang hoang mang, chán nản, sợ hãi, các ông được gặp Chúa và được Chúa ban cho điều các ông đang cần, đó là bình an. Ơn lộc đó Chúa cũng đang muốn dành cho chúng ta hôm nay.

Theo Hán tự, chữ “bình” có nghĩa là bằng phẳng, đều hòa, hòa hợp, thoải mái, chữ “an”, theo cách viết là “người nữ ở trong nhà”, có nghĩa là được bảo vệ, an toàn. Như vậy, bình an nói lên trạng thái tâm hồn, trạng thái nội tâm thư thái, an hòa, vui tươi, bình thản, vững chắc. Do đó, bình an khác với hòa bình, hòa bình nói lên trạng thái bên ngoài: không còn cạnh tranh, không còn chinh chiến, xô xát, súng đạn, gươm đao, cho nên có khi có hòa bình nhưng không có bình an, nhân loại thì khao khát hòa bình, còn mỗi người thì khao khát bình an.

Sống ở trần gian, ai cũng phải trải qua những giây phút lo âu: về tương lai, gia đình, con cái, tiền bạc, công ăn việc làm, sức khỏe… những lo ấu ấy như một chất thuốc độc tác hại vào tâm hồn và cướp đi những niềm vui trong lành, những giấc ngủ bình yên, khiến chúng ta luôn băn khoăn, khắc khoải, cố gắng tìm mọi cách để giải thoát mình khỏi những lo âu, và như thế có phải là chúng ta rất cần sự bình an không? Sự bình an đó do Chúa ban và cũng là cố gắng của mỗi người.

Chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cuộc đời cho Chúa để bản thân chúng ta tìm thấy sự bình an, đồng thời hãy cố gắng sống tốt đẹp, chúng ta sẽ cảm thấy bình an. Đàng khác, nếu chúng ta chưa đem lại bình an cho ai, thì chúng ta đừng cố tình làm mất bình an của họ bằng lời nói hay việc làm lỗi bác ái của chúng ta. Xin Chúa ban bình an cho chúng ta và xin Chúa cho chúng ta là “khí cụ bình an của Chúa” cho mọi người.