Chúa Nhật XX - Thường Niên - Năm B
THẬT, TÔI BẢO THẬT CÁC ÔNG
Chú giải mục vụ của Alain Marchabour

Trong phần cuối này của diễn từ của Chúa Giêsu, từ vựng nói về Thánh Thể trổi vượt, với một thực tại chỉ có thể hiểu được tùy vào thời điểm của Giáo Hội. Giữa các câu 53 và 54-56, Gioan, thay vì từ “ăn” quen thuộc, lại sử dụng một từ sống sượng: “nhai, cắn”, để có thể nhấn mạnh sự chiếm hữu và sự nội tâm hóa cần thiết. Trong trường hợp này, có thể phần này của diễn từ chịu ảnh hưởng của các cuộc tranh luận trong cộng đoàn của Gioan về thực tại Thánh Thể. Ta liên tưởng đến các môi trường theo thuyết trực quan hay ảo thân thuyết, chủ trương liên kết với Chúa Giêsu mà không cần thông qua trung gian bí tích. Thánh Thể, mình và máu, thông ban cho tín hữu hai ân huệ mà các tín hữu thời Chúa Giêsu tìm kiếm: sự sống đời đời ngay từ lúc này đây và được ở lại với Chúa Giêsu: “ở lại với Chúa” đó là điều mà người Do Thái hướng đến khi tìm kiếm Chúa Giêsu (sự tìm kiếm Chúa Giêsu) mà không đạt được. Việc nhắc lại Caphanaum (c.59) đi theo việc nhắc lại lần đầu về địa điểm này trong 6,24. Sự mạc khải đã kết thúc, tuy nhiên nó không ngưng nghỉ tạo nên nhiều hiệu quả.

 

Tóm lại, đây là vài suy tư có hệ thống hơm, khả dĩ cung hiến những điểm chính yếu giúp hiểu rõ hơn sự hợp lý của bài diễn từ quan trọng này.

1. Diễn từ này cần được hiểu bằng cách so chiếu với phép lạ trước đó. Chúa Giêsu đưa ra một dấu lạ chiếm vị trí trong sự tiếp đãi bánh manna và ý nghĩa của nó. Điều can hệ ở đây, đó là căn tính của Chúa Giêsu và thân phận của Người đối với Do Thái giáo và nhất là với các biến cố căn bản của việc Xuất hành. Người mong muốn được nhận biết và đã thất bại. Do đó diễn từ cố gắng làm điều mà hành động đã không thể thực hiện được.

 

2. Lần mạc khải này được điều tiết bằng bốn lần thật, tôi bảo thật các ông. Nắm vững các điệu tiết này như những dấu chỉ sự tiến triển của dòng tư tưởng, ta sẽ có cơ may tôn trọng sự hợp lý của dòng văn bản. Ta nhận ra rằng mỗi một đơn vị được cấu tạo bằng một lần mạc khải và một lần biểu hiện sự cứng lòng không chịu tin, ngoại trừ đơn vị sau cùng chỉ có lời mạc khải của Chúa Giêsu chiếm lĩnh.

 

3. Sự kiên trì cứng lòng không chịu tin tạo cảm nghĩ rằng chúng ta đang đứng trước một bản văn tranh luận và biện giải. Cuộc tranh luận này để lộ ra thân phận dành cho người Do Thái và những gương mặt quan trọng của Israel. Dụng ngữ “tổ tiên các ông” được lặp lại nhiều lần, chỉ rõ sự rạn nứt đã xảy ra giữa người Do Thái và các Kitô hữu đang tranh luận. Lối diễn đạt như thế khiến nghĩ đến thời kỳ cộng đoàn chứ không phải thời kỳ lịch sử của Chúa Giêsu. Vả lại, còn có nhiều dụng ngữ khác xác nhận cảm nghiệm này, đặc biệt sự đối nghịch liên lỉ giữa bánh manna như lương thực của sự chết – “Tổ tiên các ông đã ăn và đã chết” (c. 49) – và Chúa Giêsu như “bánh đem lại sự sống cho thế gian” (c. 33).

 

4. Chính cá nhân Chúa Giêsu là tâm điểm của diễn tiến. Giữa bốn phần, ta thấy có sự tiến triển trong mạc khải.

 

Trong phân đoạn thứ nhất (cc. 26-31), Chúa Giêsu trình bày mạc khải khi Người nói về mình ở ngôi thứ ba mà không hề xưng “Tôi”. Những người Do Thái là những chứng nhân và là những người thụ hưởng một dấu lạ. Thế nhưng họ tỏ ra không có khả năng nhận biết nơi Chúa Giêsu điều gì khác hơn điều họ chờ đợi: một Mêsia trần thế. Để thấu hiểu hiện tại, họ không thể tìm thấy cách đo lường nào khác hơn là cách đo lường của quá khứ: tổ tiên chúng tôi đã ăn manna (c. 31)...

Phân đoạn thứ hai (cc. 32-46) đặt ở vị trí thứ nhất Thiên Chúa Cha và nhất là Chúa Con, “Đấng từ trời xuống” (c. 33). Ta nhận thấy rằng Chúa Giêsu xoay hướng lợi ích về bản thân mình: điều đó biểu lộ qua việc sử dụng ít nhất 18 đại từ ở ngôi thứ nhất. Cuộc thách đố: đó là tin rằng nơi con người Chúa Giêsu (“con ông Giuse, cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả” c. 42), Thiên Chúa tỏ hiện và tự hiến. Tin vào Chúa Giêsu, đó là được sự sống ngay từ lúc này đây và sống cho sự sống lại chung cục.
 

Phân đoạn thứ ba (cc. 47-52), theo cách thức Sêmit, lặp lại các chủ đề đã đưa vào và xác định chúng: Chúa Cha, từ nơi Người mà Chúa Con đã lãnh nhận mọi sự, không được nhắc đến trong phân đoạn này; ở đây Chúa Giêsu nói về chính mình và đưa vào chủ đề sự chết của Người như nguồn mạch sự sống cho thế gian. Chủ đề cho đến lúc đó đã tập trung ở đức tin vào Chúa Giêsu thì giờ đây nhắc đến sự chết của Người và Thánh Thể như bí tích tưởng niệm sự chết.
 

Phân đoạn sau cùng (cc. 53-59) đề cập cách rõ ràng về Thánh Thể: các từ ngữ được sử dụng rất thực tế: ăn thịt (“nhai” theo nghĩa từng chữ). Rõ ràng ở đây chúng ta đang ở trong thời kỳ của Giáo Hội: việc cử hành Thánh Thể là hành động đối lại ảo-thân-thuyết (giáo phái cho rằng Chúa Giêsu giả bộ làm người) và là sự quả quyết có tính bí tích về thực tại của sự nhập thể.

 

5. Sự mạc khải về mầu nhiệm của Chúa Giêsu ngày càng thâm sâu thì số môn đệ càng bớt dần. Trước tiến đó là người Do Thái “xầm xì” (c. 41) như dân Israel xưa kia đã làm trong sa mạc: Xh 17,3. Tiếp đến ngày càng nhiều môn đệ “rút lui và không còn đi với Người nữa” (c. 66); sau cùng, ngay giữa nhóm Mười Hai, cũng bắt đầu sự cứng lòng không chịu tin. Dù có lời tuyên xưng đức tin tuyệt vời của Phêrô, chương này kết thúc với một ghi chú bi quang: “Chính Giuđa, một môn đệ trong nhóm Mười Hai sẽ nộp Người” (c. 71).

 

6. Toàn thể chương này xoay quanh vấn nạn: “Làm sao tìm gặp Chúa Giêsu?”. Dân chúng đi theo Người, tưởng đã gặp Người đến nỗi có thể “bắt ép Người” (c. 15). Chúa Giêsu lẩn tránh được họ và dân chúng bắt đầu “tìm kiếm Người” (c. 25). Khi đã gặp được Người trong hội đường, dân chúng cảm nghiệm có thể mất Người vì những kỳ vọng xem ra thái quá. Họ tranh luận nhau và kẻ trước người sau bỏ đi hết. Đối với các Kitô hữu sống sau thời Chúa Giêsu tại thế, Thánh Thể cho phép sự gặp gỡ là “ở lại với Người” (c. 56). Phêrô, người phát ngôn của nhóm Mười Hai, ở lại với Người bởi vì “Người có những lời đem lại sự sống đời đời” (c. 68).
 

Chương này dài và khó đã khiến nhiều nhà chú giải có những ý kiến khác nhau về ý nghĩa. Ngay các Giáo phụ cũng đã tranh luận về giá trị Thánh Thể của bài trần thuật. Vài vị đã quả quyết rằng hình ảnh của ăn uống là những biểu tượng của đức tin. Những vị khác lại nhận thấy một ý nghĩa đặc biệt trong các câu 53-58. dường như hiện nay những đối nghịch đó không còn mãnh liệt nữa, vì đa phần đều chấp nhận ảnh hưởng của Giáo Hội đối với chương này. Đặc biệt các quy chiếu Thánh Thể, không thể hiểu được trong thời gian Chúa Giêsu tại thế, lại có thể hiểu được và trở thành hiển nhiên sau việc lập Thánh Thể và việc cử hành bí tích của Giáo Hội.