Chúa Nhật XVIII - Thường Niên - Năm B
DẤU CHỈ TÌNH THƯỜNG
SƯU TẦM

Trong trận nội chiến ở Tây Ban Nha, một anh lính bị thương nặng được đưa về bệnh viện dã chiến. Anh có hy vọng sẽ được bình phục. Nhưng anh nhất định không chịu ăn uống gì cả. Các y tá đã tìm mọi cách thuyết phục nhưng anh vẫn từ chối mọi thức ăn đem tới. Một người bạn thân biết được ý anh muốn được gặp mặt cha mẹ, nên tình nguyện đi tìm nhà của anh bạn thương binh để báo tin cho cha mẹ anh đến thăm. Khi người cha chuẩn bị lên đường thì mẹ anh gói cho con bà một ổ bánh. Anh thương binh vui mừng vì được gặp mặt cha mình, nhưng anh vẫn chưa chịu ăn. Khi cha lấy từ trong túi xách gói bánh và nói: “Này con, đây là ổ bánh mẹ con đã làm”. Anh thương binh liền bật dậy tươi nét mặt thốt lên: “A! bánh mẹ con làm, cho con ăn một miếng đi!” Từ đó anh mới chịu ăn lại và cũng bắt đầu bình phục.

Thưa anh chị em,

Không có phù phép nào trong tấm bánh của người mẹ. Nhưng có tình yêu là phép mầu. Bởi kinh nghiệm, anh biết rằng tấm bánh mẹ anh làm gói ghém bao tình yêu thương mà mẹ dành cho anh. Cũng thế, tấm bánh Chúa Giêsu phân phát cho đám đông dân chúng ăn no nê là dấu chỉ lòng thương yêu của Thiên Chúa đối với dân chúng đang đói. Đáng lý ra họ phải nhận ra Thiên Chúa, nhận ra tình thương của Ngài qua tấm bánh mà họ nhận được, chứ không đòi hỏi cái gì khác nữa. Nhưng đàng này, sự cứng lòng và đam mê vật chất đã khiến họ không thể nhận ra mối tương quan giữa tấm bánh và con người làm ra bánh hay nhân ra bánh nhiều, cũng chẳng nhận ra ý nghĩa của việc Chúa bẻ bánh và chia sẻ cho họ ăn no: Ngài đã chia sẻ tấm bánh đó như là biểu tượng của chính Thân Thể Ngài sẽ bị bẻ ra, tan nát, bầm dập trong cuộc khổ nạn và phục sinh. Vì thế, Chúa Giêsu phải nói thẳng với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Thì ra, họ chạy theo Chúa Giêsu chỉ vì cơm bánh chứ không phải vì tin Chúa Giêsu là Bánh đích thực ban sự sống đời đời. Dấu lạ bánh mời gọi niềm tin, chứ không phải để tin thì cần phải có dấu lạ. Chẳng hạn, những người con biết nhận ra mồ hôi nước mắt, công lao của cha mẹ trong miếng cơm mình ăn, sẽ chẳng bao giờ đòi hỏi những món ăn đặc sản, ngon miệng, đắt tiền, mới tin vào tình thương của cha mẹ. Bởi vì họ đã tin vào tình thương của cha mẹ rồi, và chính nhờ niềm tin đó mà họ đón nhận chén cơm thanh đạm với tất cả niềm tri ân. Trái lại, những người con suốt đời chỉ biết đòi hỏi hết ăn ngon đến mặc đẹp, thì chẳng bao giờ thấy được tình thương của cha mẹ, cho dù cha mẹ có đáp ứng những đòi hỏi của họ tới mức nào đi nữa. Bởi vì cái họ yêu, các họ tìm, không phải là cha mẹ, nhưng là cơm áo và của cải vật chất.

Không phải tấm bánh làm ra tình thương, mà chính tình thương làm ra tấm bánh. Thế giới chúng ta ngày ngay thực ra đã không thiếu và không bao giờ thiếu cơm bánh, nhưng thiếu tình thương, nên bánh đã không được bẻ ra cho hết mọi người hay nói đúng ra, người ta chỉ bẻ ra cho những người sẵn sàng làm nô lệ cho họ: bánh cho người nô lệ thì có, nhưng bánh của tình thương dành cho những con người tự do thì không. Chúa Giêsu đã cho chúng ta thứ bánh của tình thương. Thứ bánh của tự do, khi Ngài bẻ bánh phân phát cho người ta và dặn dò: “Anh em phải ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”. Người Do Thái sẵn sàng làm nô lệ, miễn sao bụng được ăn no, nhưng Chúa Giêsu thì lại muốn cho con người được tự do, nên Ngài đã từ chối không làm phép lạ cho bánh từ trời rơi xuống, mà chỉ cho nhân loại thứ bánh của niềm tin, đó chính là bản thân Ngài: “Chính Tôi là Bánh Trường Sinh, ai đến với Tôi, không hề phải đói, ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”.

Anh chị em thân mến,

Đói khát, đó là thảm trạng và là nỗi ám ảnh thường xuyên nhất của nhân loại cho đến hôm nay. “No, đủ” vẫn là giấc mơ của hàng trăm triệu con người… Trước khi nói đến Bánh Hằng Sống, Chúa Giêsu đã chạnh thương đám dân nghèo khổ đi theo Ngài, họ đói, họ không có bánh ăn: “Anh em hay cho họ ăn đi” (Mc 6,37). Lời này mời gọi chính chúng ta hãy cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống. Và khi đã khởi sự cảm thông, chia sẻ cơm bánh với họ. Ngài đã cảm thông và chia sẻ, nhưng không chỉ dừng lại ở đó. Ngài đã mạc khải cho họ chân lý về Bánh Hằng Sống, nhưng không hề lãng quên, hay nhắm mắt trước cơn đói đang dày vò họ. Đó là hai khía cạnh gắn liền với nhau không thể tách rời hoặc thiếu một trong hai trong đời sống đạo của chúng ta.

Trên một bình diện khác, bình diện nhân linh, đói khát quả thực là một đặc tính riêng biệt của con người, nếu hiểu đói khát là khả năng khai mở, tiếp nhận, khát vọng, thì thực sự không có điều gì có thể lấp đầy nỗi khao khát vô hạn của con người. Vì tự thân con người đã làm một “khao khát vô biên”, “khao khát tuyệt đối”, và chỉ con người mới có khả năng đó. Thánh Augustinô đã nói lên điều này một cách thấm thía từ kinh nghiệm sống của Ngài: “Chúa đã dựng nên con cho Chúa, và tâm hồn con còn thao thức mãi cho tới khi được an nghỉ trong Chúa” (Tự thuật). Chúa Giêsu hẳn muốn khơi dậy nơi chúng ta niềm khao khát này khi Ngài nói: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho anh em” (Ga 6,27).

Anh chị em thân mến,

Nếu sự đói khát là một mối phúc trong tám mối phúc thật: “Phúc cho người đói khát sự công chính”(Mt 5,6) thì phải chăng, “không biết đói khát”, tự mãn với chính mình, không còn muốn nâng cao khát vọng của mình, là một “mối hoạ” không những cho bản thân mà còn cho gia đình và cho cộng đồng nhân loại.

“Chính Tôi là Bánh Hằng Sống”: Khẳng định long trọng của Chúa Giêsu không một chút mông lung, mơ hồ. Một ý tưởng, một lý tưởng hay lý thuyết thì có thể mơ hồ, nhưng một con người có danh xưng cụ thể thì không. Bánh sự sống, lương thực đem lại sự sống và là sự sống vĩnh cửu, bất hoại, chính là bản thân Chúa Giêsu. Và để đón lấy một con người, một Đấng làm sự sống và lẽ sống cho mình, thì “công việc” phải làm là “đến với” và “tin vào” Ngài. Vì thế kẻ đến nhận lãnh “Lời Hằng Sống” và “Bánh Sự Sống” khác nào người được đưa vào “kho tuý luý yêu thương”- như kiểu nói của Thánh Basiliô- “Lạy Chúa là thức ăn, thức uống của con. Càng ăn, con càng đói; càng uống, con càng khát; càng sở hữu, con lại càng ước ao”.

“Đến với” và “tin vào”, khao khát và no thoả. Đó là hành trình của tình yêu, một hành trình vô giới hạn, không cùng, là sự cất cánh của tình yêu càng lên cao, càng lên cao mãi không thôi… Mỗi lần rước lấy Tấm Bánh Hằng Sống chúng ta phải cảm nghiệm được Chúa Giêsu như tâm điểm luôn thu hút chúng ta đến với Ngài và đến với nhau, làm cho tất cả nên một, một tấm bánh duy nhất: Bánh của tình thương.