Chúa Nhật XIII - Thường Niên - Năm B
ĐỨC TIN
SƯU TẦM

Trong một trình thuật dài, đôi khi thánh Maccô xen vào một đoạn ngắn, theo lối hành văn riêng của ngài, để nhấn mạnh đến một điểm chung, Chúa Giêsu là Đấng chữa lành.

Chúa Giêsu hỏi: “Ai đã sờ vào áo tôi”. Nhưng người phụ nữ khốn khổ vẫn im lặng, bà đang bối rối. Căn bệnh của bà làm bà trở nên nhơ uế, không được phép đụng đến bất cứ ai. Phải chăng Chúa Giêsu muốn tố giác bà đã chạm đến áo của Ngài? Dù sợ hãi, bà tin quyền năng chữa lành của Chúa Giêsu đã ban cho bà một sức sống mới. Bà cảm thấy trong thân xác mình quyền năng chữa lành của Chúa, và sự nhơ uế của bà theo luật trong sách Lêvi 15: 25 không còn nữa. Đức tin của bà vào Chúa Giêsu đã làm cho luật trở nên lỗi thời. Chúa Giêsu khẳng định điều này khi Người nói: “Này con, đức tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”.

Trung thành với lối hành văn của mình, thánh Maccô trở lại lời cầu xin của ông Giairô, một vị trưởng hội đường, để nhấn mạnh đến “đức tin vào quyền năng chữa lành của Chúa”. Ông trưởng hội đường cầu xin Chúa cứu giúp. Ông muốn con gái được Chúa chữa lành.

Nhưng trước hết Chúa Giêsu đã chữa lành cho ông trưởng hội đường. Người bảo ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Rồi Người đến với đứa bé, cầm lấy tay nó và nói: “Này bé, Thầy truyền cho con trỗi dậy đi”. Lập tức, con bé đứng dậy và đi lại được. Nó đã được sống lại nhờ bàn tay của Chúa Giêsu, Đấng cứu chữa.

Rõ ràng Chúa Giêsu cho thấy “nỗi sợ” là một chướng ngại ngăn cản con người đến với Chúa. Nhưng chúng ta vượt thắng nỗi sợ nhờ lòng tin vào Chúa Giêsu, Đấng chữa lành. Một khi nỗi sợ được thay thế bằng lòng tin vào Chúa Giêsu, chúng ta sẽ cảm nghiệm được sự chữa lành của Chúa, và sẽ được sống trong bình an.

Lạy Chúa, xin Chúa hãy nói với con một lần nữa: “Lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy đi bình an”.

 


 

15. Mạnh mẽ

Bài Tin Mừng là hai phép lạ Chúa Giêsu đã làm gần nhau: phép lạ cho một phụ nữ được khỏi bệnh băng huyết, và phép lạ cho con gái ông trưởng hội đường Gia-ia được sống lại. Chúng ta thấy hai phép lạ như có một số điểm tương đồng: người phụ nữ mắc bệnh đã 12 năm, bằng với số tuổi của em bé kia, vì Tin Mừng cho biết khi em chết em được 12 tuổi. Cả hai phép lạ xảy ra đều do hành động thể lý là chạm tay vào tua áo Chúa và Chúa cầm tay em bé đã chết. Chủ đề của hai phép lạ này là ơn Chúa ban qua lòng tin.

Trước hết, chúng ta thấy Chúa Giêsu nhận lời kêu xin của ông Gia-ia đi chữa bệnh cho con gái ông. Dân chúng đông đảo đi theo có vẻ háo hức và chen lấn, các môn đệ cùng đi bên Chúa. Giữa lúc ấy các môn đệ nhận ra một người đến quì trước Thầy mình, nhưng lúc ấy phép lạ đã xảy ra rồi, đó là một phụ nữ đầy lòng tin đã được Chúa cho khỏi bệnh. Thực vậy, giữa đám đông dân chúng dày đặc, phụ nữ này nhận ra một vị Thiên Chúa ẩn dật nhưng đầy quyền năng, bà không dám công khai trực tiếp xin Chúa trước mặt mọi người, có thể là vì xấu hổ hoặc ngại ngùng. Ngoài ra, bà cũng biết luật Lêvi cấm ngặt về loại bệnh này. Đối với người Do Thái, băng huyết là một bệnh được liệt vào số các chứng bệnh nan y và ô nhục, làm cho người bệnh ra dơ bẩn trước mặt Chúa và cộng đồng. Hơn nữa, chứng bệnh này còn làm cho người khác lây sự dơ bẩn của bệnh nhân, tức là họ đụng chạm đến ai hay ai đụng chạm đến họ đều trở thành dơ bẩn và phải dâng lễ tẩy uế mới được sạch.

Vì thế, bà thẹn thùng, e lệ không dám đến trước mặt Chúa xin Chúa chữa, nhưng bà có một lòng tin chắc chắn vào sức mạnh uy quyền toàn năng của Chúa. Bà tự nhủ: “Không cần phải ra mặt, chỉ cần đụng chạm vào tua áo khoác ngoài của Ngài thôi thì chắc chắn sẽ được khỏi”. Chúng ta thấy bà thật khiêm tốn, có thể so sánh với người đàn bà xứ Canaan, hoặc như người trộm lành. Vì thế, bất chấp tất cả những luật lệ phiền phức và nghiêm ngặt, bà lén đến sau lưng Chúa, để thực hiện ý định rút ơn Chúa, và kết quả bà đã được toại nguyện. Bà đã thể hiện đức tin một cách sâu sắc, như chính Chúa đã xác nhận và thưởng công cho lòng tin của bà: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”.

Phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm là nơi nhà ông trưởng hội đường Gia-ia. Ông có đứa con gái mắc bệnh nặng thập tử nhất sinh, ông đến xin Chúa cứu chữa con ông. Lòng tin mạnh mẽ của ông được bộc lộ ra qua tất cả con người ông, nghĩa là qua các cử chỉ cũng như lời yêu cầu của ông. Thực vậy, khi đến trước mặt Chúa, ông quì sụp dưới chân Chúa, đây là một cử chỉ dành riêng cho Thiên Chúa Giavê trong Cựu ước, cử chỉ này chứng tỏ ông tin và nhận ra Chúa là Đấng Thiên Sai. Cử chỉ thứ hai là ông xin Chúa đến đặt tay trên con ông, cử chỉ này về sau được Giáo hội dùng vào bí tích Thêm sức. Rồi trong lời kêu xin, chúng ta cũng thấy bộc lộ lòng tin vững chắc của ông. Ông tin chắc chắn chứ không hồ nghi như người cha có đứa con bị quỷ ám từ lúc còn nhỏ. Người cha này thưa với Chúa một cách ngập ngừng: “Nếu Thầy có thể làm gì được thì xin Thầy giúp đỡ chúng tôi”. Nghe thế Chúa kêu lên: “Sao lại nói nếu có thể, tất cả mọi sự đều có thể đối với người tin tưởng”. Còn ông Gia-ia thưa Chúa: “Thưa Thầy, con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu thoát và được sống”. Chúng ta thấy ông không hồ nghi gì, ông tin chắc chắn sự việc sẽ xảy ra như thế, nếu Chúa muốn, vì Ngài là Chúa sự sống và sự sống lại. Ngài động đến đâu thì sức mạnh và sự sống lan tràn tới đó. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa đi tới nhà ông và cho con gái ông sống lại.

Niềm tin, lòng tin hay đức tin thì không thể nhìn thấy, bởi vì nó không phải là vật chất, nó là một cái gì có thật, nhưng thuộc về tinh thần. Người ta không thể thấy được nó nhưng người ta có thể biết nó có nhờ khi nó biểu lộ qua hành động bên ngoài. Cũng như không ai nhìn thấy lòng tin của ông Gia-ia và của người đàn bà băng huyết, nhưng qua thái độ, lời nói và cử chỉ của họ đã biểu lộ lòng tin của họ. Cũng vậy, chúng ta có đức tin hay không, chẳng ai biết, nhưng khi thấy chúng ta đi lễ, thấy chúng ta đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được chúng ta là người có đức tin. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận là: đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa.

Vì thế, chúng ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ như ông Gia-ia, hiên ngang mà không hổ thẹn, vững chắc chứ không hồ nghi. Đàng khác, chúng ta cũng cần có một đức tin kín đáo nhưng dẻo dai như lòng tin của người phụ nữ trên đây, bà không cần kêu xin nài nẵng như ông Gia-ia, bà chỉ có một thái độ khẩn khoản khiêm nhường và đầy tin tưởng trong tâm hồn, thế là đủ. Chúa cũng đang chờ đợi ở chúng ta những tâm tình như thế.