Chúa Nhật XIII - Thường Niên - Năm B
TRONG GIỜ CẦN KÍP
Chú giải của William Barclay

Ở đây có đầy đủ các yếu tố của một thảm kịch. Khi có một đứa trẻ lâm bệnh, bao giờ cũng là chuyện đáng lo. Câu chuyện này cho chúng ta biết ông trưởng hội đường có đứa con gái mười hai tuổi ngã bệnh nặng. Theo tập tục Do Thái, một cô gái được kể là trưởng thành vào lúc được mười hai tuổi một ngày. Cô gái này đang đứng trước ngưỡng cửa để trở thành người lớn mà cái chết lại đến đúng vào lúc ấy thì bi thảm gấp bội.

Câu chuyện cho chúng ta biết đôi điều về ông trưởng hội đường này. Người này chắc phải là một nhân vật quan trọng, ông là chủ tịch Ban Quản Trị hội đường và là chủ tịch Hội đồng Kỳ mục có trách nhiệm thu xếp mọi việc trong hội đường cho tốt đẹp. Ông có trách nhiệm trong việc chỉ đạo các buổi hội họp, có trách nhiệm phân phối công việc và xem xét mọi việc thực hiện đúng khuôn phép và trật tự. Ông là nhân vật rất quan trọng và khả kính nhất trong cộng đồng, nhưng khi con gái ông ngã bệnh, ông nghĩ ngay đến Chúa Giêsu.

1/ Ông đã quên đi các thành kiến. Chắc trước đó ông đã coi Chúa Giêsu như một người xa lạ, một người giảng tà giáo rất nguy hiểm, bị các hội đường cấm cửa, một người mà bất luận người nào coi trọng chính thống giáo cũng phải xa tránh. Nhưng ông đủ khôn ngoan để biết từ bỏ các thành kiến của mình vào giờ cần thiết. Thật ra thành kiến có nghĩa là sự phê phán, xét đoán trước. Đó là một phán đoán đã hình thành trước khi xem xét bằng chứng, hoặc một án lệnh đưa ra vì không chịu xem xét những chứng cớ. Hầu như mỗi sự tiến bộ đều là một cuộc đấu tranh chống lại các thành kiến trước kia người ta đã có về nó. Lúc Sir James Simpson phát minh ra cách dùng Chloroform làm thuốc mê, nhất là khi sanh nở, người ta cho rằng đó là “mồi của Satan, thoạt nhìn dường như đem lại hạnh phúc đến cho phụ nữ nhưng rốt cuộc khiến họ cứng lòng và cướp mất của Thiên Chúa những tiếng kêu xin sâu xa, nhiệt thành đáng lẽ phải được dâng lên cho Ngài trong cơn hoạn nạn”. Một thành kiến ngự trị trong con người sẽ phải đóng chặt tâm trí làm mất khả năng lãnh nhận các phúc lộc.

2/ Ông đã quên đi phẩm giá của mình. Ông là trưởng hội đường mà lại đến hạ mình dưới chân Đức Giêsu, là một ông thầy giảng đạo nay đây mai đó. Lắm khi người ta phải quên đi phẩm giá của mình để cứu lấy một mạng sống, cứu lấy linh hồn của mình. Trong câu chuyện xưa được kể lại, có trường hợp của Naaman (2V 5). Ông ta phải đến thưa với Êlisê để được chữa khỏi bệnh phong. Đơn thuốc Êlisê kê ra là ông ta phải xuống sông Giođan tắm bảy lần. Thật là cách đối xử hết sức tồi tệ với ngài đại tướng nuớc Syri. Êlisê cũng không đích thân truyền thông điệp ấy, mà sai đầy tớ ra bảo Naaman như vậy. Hơn nữa, các sông nước bên Syri không tốt hơn nước của con sông Giođan bé nhỏ, ngầu đục hay sao? Đó là những ý nghĩ đầu tiên của Naaman, nhưng ông ta biết dẹp tánh kiêu ngạo của mình qua một bên và bệnh phong của ông ta được sạch.

Có một câu chuyện nổi tiếng kể lại về Diogenes một triết gia phái hoài nghi. Ông ta bị bọn cướp bắt và đem bán làm nô lệ. Khi quan sát đám người đứng chung quanh để trả giá mình, ông ta nhìn vào một người và nói “Hãy bán tôi cho ông này đi, ông ta đang cần một ông thầy (hay là chủ)”. Người ấy mua ông, giao cho ông làm quản gia và dạy dỗ các con mình. Ông ta thường nói “Ngày mà Diogenes đã đặt chân vào nhà tôi, đúng là một ngày tốt lành”. Điều đó quả đúng như vậy, nhưng nó đòi hỏi việc phải từ bỏ phẩm giá. Tiếc thay, con người thích khư khư giữ chặt phẩm giá của mình mà đành đánh mật ân huệ.

3/ Ông đã quên đi tính kiêu ngạo. Việc đến và xin Đức Giêsu, người Nazaret giúp mình là một nỗ lực ý thức về sự hạ mình mà người này phải làm. Thật chẳng ai muốn phải mắc nợ người khác cả. Chúng ta muốn tự lo liệu lấy cho đời sống mình. Nhưng bước đầu tiên của đời sống là nhận thức mình chẳng có thể làm gì khác hơn là chịu mắc nợ Thiên Chúa.

4/ Đến đây chúng ta bước vào địa hạt của suy luận, vì theo thiện ý, chúng ta có thể bảo người này đã quên hết bạn bè. Rất có thể họ sẽ chống đến cùng việc ông cầu cứu Chúa Giêsu. Điều khá lạ lùng là ông đích thân đến với Chúa Giêsu chứ không sai người nhà. Điều cũng khó hiểu là ông lại chịu bỏ mặc đứa con gái đang hấp hối nằm đó một mình. Có lẽ sở dĩ ông ta phải đi vì chẳng còn ai khác chịu đi. Người nhà ông đều tỏ ra nghi ngờ và bảo ông rằng đừng đi tìm ông Giêsu đó làm gì cho mất công. Theo tinh thần câu chuyện, nếu ông không đi tìm Chúa Giêsu để xin Ngài giúp đỡ, họ còn hài lòng hơn. Người này đã bất chấp dư luận và thách đố cả những lời khuyên bảo của người nhà khi ông ta đến kêu cứu Chúa Giêsu. Nhiều người đã trở thành khôn ngoan nhất khi các bạn bè khôn ngoan của họ trên đời này nghĩ họ đang hành động như người ngu dại.

Đây là một con người đã quên hết mọi sự, trừ việc muốn được Chúa Giêsu cứu giúp mình, chính vì ông biết quên hết cho nên ông nhớ mãi rằng Chúa Giêsu là Chúa Cứu Thế.

HY VỌNG CUỐI CÙNG CỦA KẺ ĐANG ĐAU KHỔ (Mc 5,25-29)

Người đàn bà trong câu chuyện này mắc một chứng bệnh hết sức thông thường nhưng rất khó chữa trị. Chính kinh Talmud đã đề ra không dưới mười một cách chữa trị bệnh ấy. Có vài phương pháp là tốt nhưng phần lớn hoàn toàn do mê tín, chẳng hạn như mang tro của một trứng chim đà điểu đựng trong miếng vải lãnh rách vào mùa hè và trong miếng vải bông rách vào mùa đông, hoặc mang theo trong người một bông lúa mạch lượm từ đống phân của con lừa cái lông trắng. Chắc chắn bà này đã khổ công làm thử mọi thứ thuốc, và ngay cả thử những cách trị liệu mê tín này. Điều rắc rối là chứng bệnh đó chẳng những làm hại sức khoẻ, mà còn khiến bà luôn luôn bị ô uế, ngăn trở việc thờ phượng Thiên Chúa, và giao thiệp với bè bạn của bà nữa (Lv 15,25-27).

Ở đây, Maccô có một câu chễ giễu nhẹ nhàng mấy ông thầy thuốc. Bà ta đã tìm đến đủ mặt các lương y rồi, nhưng tiền mất tật mang, chẳng những bệnh không thuyên giảm mà lại nặng thêm. Văn học Do Thái có nhiều ám chỉ lý thú về mấy ông y sĩ. Có một nhân vật bảo “Tôi thường đến với một thầy thuốc mong được chữa bệnh, nhưng ông ta càng xức dầu, bôi thuốc cho tôi, thì hai mắt tôi càng mờ, cho đến khi tôi đui hẳn” (Tb 2,10). Trong khi Mishnah có một đoạn tóm tắt luật truyền thống, đề cập đến những nghề mà người ta có thể truyền lại cho con trai mình. Rabbi Giuđa nói “Bọn “tài” lừa phần đông đều gian ác, bọn “tài” lạc đà đa số là dân thường, thuỷ thủ phần lớn là lương thiện, kẻ tốt nhất trong các thầy thuốc đáng ở địa ngục, còn tên đồ tể quê mùa hơn hết cũng là phe đảng của dân Amaléc”. Nhưng rất may và cũng công bằng, là cũng có những tiếng nói ngược lại. Một trong những sự bày tỏ lòng kính trọng vĩ đại nhất được dành cho các thầy thuốc được nêu trong “Sách của Sirach (một trong ccac1 thứ kinh được viết vào giữa Cựu Ước và Tân Ước)” chương 38,1-15 như sau:

“Hãy bồi dưỡng thầy thuốc tuỳ theo nhu cầu của ông ta, vì ông ta cũng được Thiên Chúa tấn phong. Chính từ nơi Thiên Chúa mà thầy thuốc nhận được sự khôn ngoan, và từ nơi nhà vua mà ông ta được bổng lộc.

Tài năng của người thầy thuốc khiến ông ta ngẩng đầu lên khỏi vai, có thể đứng trước mặt những người quý phái. Thiên Chúa đã khiến thuốc men ra từ đất, vậy người có nhận thức đừng chối từ chúng.

Nhờ thuốc men, thầy thuốc xoa dịu nỗi đau thương, cũng vậy, nhà làm thuốc chế ra dầu, để công trình của Ngài không bao giờ ngưng lại, cũng như sức khoẻ không bị cất khỏi mặt đất.

Hãy dành cho thầy thuốc một chỗ, cũng đừng để ông ấy ở xa vì chúng ta cần đến ông. Có lúc chỉ có tài năng của ông mới tạo được sự giúp đỡ cần thiết. Vì ông cũng cầu khấn Thiên Chúa, giúp cho việc chữa bệnh của mình thành công, và việc chữa trị sẽ khiến bệnh nhân bình phục”.

Nhưng về chứng bệnh của người phụ nữ này thì các y sĩ đều bó tay và bà có nghe nói về Chúa Giêsu. Nhưng bà gặp chuyện khó xử: chứng bệnh của bà thật rắc rối. Công khai ra trước đám đông là việc bà không thể làm được, do đó bà quyết định chỉ lén chạm vào Ngài mà thôi. Vào thời Chúa Giêsu, tất cả những người Do Thái ngoan đạo đều mặc một chiếc áo khoác ngoài có bốn cái tua, ở mỗi góc vạt áo có một cái. Đó là theo sách Dân số 15,38-40, để khi nhìn thấy chúng thì người khác và bản thân người mặc áo nhớ đây là một người thuộc tuyển dân của Thiên Chúa. Các tua đó là dấu hiệu của một người Do Thái tin kính. Người đàn bà nọ đã chen đám đông, lén đến rờ vào một trong các tua áo ấy, và sau khi đã rờ vào, bà kinh ngạc thấy mình được lành bệnh.

Đây là một phụ nữ đã tìm đến Chúa Giêsu như một lối thoát cuối cùng, sau khi đã thử tất cả những gì đời này có thể cung cấp, cuối cùng bà ta phải thử chính Chúa Giêsu. Biết bao người đã đến với Chúa Giêsu khi chính họ lâm vào bước đường cùng. Có lẽ họ từng chiến đấu với cám dỗ cho đến khi sức cùng lực tận, để chỉ còn đưa bàn tay lên và kêu lớn “Lạy Chúa, xin cứu lấy con, con sắp chết mất”. Có lẽ người ấy từng chiến đấu với một trọng trách nào đó cho đến khi kiệt sức, cho đến khi cuối cùng, người ấy chỉ còn có thể kêu cứu một sức mạnh không phải là sức lực riêng mình. Có lẽ người ấy từng khổ tâm nhọc sức để đạt được điều kiện vẫn ám ảnh mình, để thấy cái lý tưởng ấy cứ lùi xa dần cho đến khi thất vọng hoàn toàn. Không ai chịu đến với Chúa Cứu Thế bằng áp lực của hoàn cảnh, nhưng có nhiều người phải đến bằng con đường đó, và cả khi chúng ta đến với Ngài như thế, Ngài cũng chẳng bao giờ để chúng ta ra về tay không.

GIÁ PHẢI TRẢ ĐỂ CHỮA BỆNH (Mc 5,30-34)

Đoạn sách này có nói với chúng ta về ba hạng người.

1/ Chúa Giêsu. Nó cho ta biết giá trị phải trả để chữa bệnh. Mỗi lần Chúa Giêsu chữa lành cho một người, có cái gì đó ra khỏi Ngài. Đây là một định luật phổ quát cho đời sống. Chúng ta sẽ chẳng làm nên chuyện gì lớn lao, nếu không sẵn sàng đặt một cái gì của chính bản thân, chính đời sống và chính tâm hồn chúng ta vào đó. Không một nhạc sĩ nào có thể chơi đàn thật hay nếu chỉ trình tấu khúc nhạc với một kỹ thuật hoàn hảo, ngoài ra chẳng có thêm gì nữa. Sự trình tâú chẳng có gì là vĩ đại nếu cuối cùng nhạc sĩ không kiệt lực vì đã dốc đổ chính bản thân mình. Một kịch sĩ sẽ chẳng bao giờ thể hiện trình diễn cách xuất sắc, nếu anh chỉ lập lại các câu nói cho đúng, làm những động tác phải lẽ, như một người máy. Khi anh khóc trên sân khấu, nước mắt anh ta phải là nước mắt thật, các cảm xúc phải là cảm xúc thật, phải có một cái gì từ chính người anh ta tuôn đổ vào đó khi diễn xuất. Không có một nhà truyền giáo nào giảng một bài giảng có hồn, nếu người ấy không bước xuống khỏi toà giảng với cảm giác đã có một cái gì đó trong người mình như bị vắt cạn, vắt kiệt đi.

Nếu chúng ta sẵn sàng trợ giúp người khác, chúng ta cũng phải sẵn sàng chịu hao tốn, chịu mất đi một điều gì đó của bản thân ta. Mọi sự đều do thái độ của chúng ta đối với tha nhân. Mathew Arnold, nhà phê bình văn học nổi tiếng có lần đã nói về giới trung lưu “Hãy nhìn giới ấy mà xem, nhìn quần áo họ mặc, sách báo họ đọc và cái tạo thành các ý tưởng của họ, liệu có khoản tiền nào bù trừ nổi cho việc họ trở thành người như thế chăng?”. Ý của câu nói ấy có thể đúng, có thể không và vấn đề chính là lòng khinh ghét đã phát sinh. Ông đã nhìn những người này như một thứ đáng ghê tởm; và không một ai nhìn con người theo cách đó lại có thể giúp đỡ họ được.

Mặt khác, hãy nhớ xem tâm tình của Môsê khi thấy dân Israel đúc một con bò vàng lúc ông đang ở trên đỉnh núi. Hãy nhớ lại ông đã xin Chúa xoá tên ông khỏi sổ trường sinh, miễn sao dân được tha tội. Hãy nhớ lại, Phaolô đã nói thà ông chịu hư mất, miễn sao cả thế giới ngoại đạo đang hư mất kia được cứu.

Chỗ vĩ đại của Chúa Giêsu là Ngài sẵn sàng trả giá để chữa lành cho người khác, và giá ấy là một phần sự sống của Ngài bị tiêu hao. Chúng ta chỉ thật sự noi dấu chân Chúa khi phải sẵn sàng chịu hao phí vì kẻ khác, chẳng những là của cải vật chất mà cả đến sức lực, linh hồn nữa.

2/ Các môn đệ. Tại đây chúng ta thâý cách sống động về giới hạn của điều vẫn được gọi là lương tri. Các môn đệ của Chúa có quan điểm theo lương tri. Đi giữa một đám đông như thế làm sao Chúa Giêsu tránh khỏi bị chèn ép, đụng chạm? Đó là cách nhìn mọi sự việc bằng cảm giác. Ở đây đã nổi bật sự kiện lạ lùng và đau lòng là họ chẳng hề nhận thấy hay nhận thức được rằng khi chữa bệnh cho người ta, Chúa Giêsu đã phải trả giá nào đó.

Một trong những tấn thảm kịch ở đời là sự không nhạy cảm của tâm trí con người. Chúng ta thường chẳng nhận biết chút gì về chuyện người khác đang trải qua. Có lẽ bản thân ta chưa hề kinh nghiệm gì về việc đó, nên ta chẳng bao giờ nghĩ một ai đó đã phải trả một giá như thế nào. Có thể một việc gì đó đã đến quá dễ dàng cho ta, nên chẳng bao giờ ta hay biết rằng người khác phải nỗ lực đến mức nào đó mới có thể có được như thế. Chính vì thế lắm khi chúng ta gây tổn thương trầm trọng cho những người mà ta yêu mến. Người ta có thể cầu nguyện để biết cư xử theo lương tri, nhưng nhiều khi chúng ta phải cầu nguyện để có thể nhạy cảm, hiểu biết sáng suốt để thấy được những điều ẩn kín trong lòng người khác.

3/ Người đàn bà đã được chữa lành. Bài học này cho chúng ta biết về sự xưng tội cất được gánh nặng trên con người. Mọi sự trước đó thật khó biết bao, nhục nhã biết bao. Nhưng sau khi nói hết ra sự thật với Chúa Giêsu, nỗi kinh hoàng run rẩy đều tiêu tan, một đợt sóng thoải mái, nhẹ nhõm tràn vào lòng bà. Sau khi đã xưng nhận tình cảnh đáng thương của mình, người đàn bà đã nhận thấy sự nhân từ, dịu hiền của Chúa.

Xưng tội với Đấng vốn thương cảm với chúng ta như Chúa Giêsu chẳng có gì là khó khăn, nặng nề. Và chỉ một mình Ngài mới ban ơn tha thứ toàn diện, chữa lành kỳ diệu, cưú chuộc tâm linh trọn vẹn và phục hồi nhân phẩm nhanh chóng nhất.

THẤT VỌNG VÀ HY VỌNG (Mc 5,35-39)

Các tập tục về tang chế của người Do Thái rất sinh động, tỉ mỉ, nhưng thật ra mọi điều đó chỉ nhằm tăng thêm cô quạnh của sinh ly tử biệt.

Ngay sau khi có người qua đời, thì tiếng khóc vang lên để mọi người đều hay biết là thần chết vừa hành động. Việc than khóc sẽ tái diễn bên cạnh phần mộ. Những người than khóc vây quanh thi thể người chết, thỉnh cầu từ đôi môi im lặng đó một câu trả lời. Họ đấm ngực, bứt tóc, xé áo mình.

Việc xé áo được thực hiện chiếu theo một số luật lệ và quy tắc. Nó được thi hành trước giây phút cuối cùng, khi xác chết bị che khuất không còn nhìn thấy được nữa. Áo bị xé đến chỗ trái tim, cho đến khi da thịt banh ra nhưng không được xé sâu qua rốn. Với bậc cha mẹ, thì chỗ áo bị xé ở về phía bên trên chỗ quả tim về phía trái, còn đối với những người khác thì xé phía bên mặt. Phụ nữ xé áo trong chỗ riêng tư, sau đó, mặc ngược áo từ sau ra trước, tiếp theo là xé áo ngoài, để da thịt khỏi phơi bày ra. Áo bị xé được mặc luôn suốt ba mươi ngày tiếp theo đó. Sau bảy ngày chiếc áo được may sơ sài lại, sao cho chỗ khâu lại cũng được thấy rõ ràng. Sau ba mươi ngày, chiếc áo được may lại hẳn hoi.

Những kẻ thổi sáo đóng vai trò chính yếu trong tang lễ. Hầu như khắp nơi thuộc thế giới thời cổ từ Roma đến Hy Lạp, Phênixi, ASyri và Do Thái, than khóc bằng tiếng sáo, được kết hợp chặt chẽ với chết chóc và chuyện đau buồn. Luật quy định rằng dù người đàn ông nào nghèo đến đâu chăng nữa khi làm đám tang cho vợ, cũng phải có ít nhất hai người thổi sáo. W. Taylor trong bộ từ điển về “Chúa Cứu Thế và Phúc Âm” do nhà xuất bản Hastinh ấn hành, đã dẫn chứng hai thí dụ thú vị về việc sử dụng phường thổi sáo, cho thấy tập tục ấy đã được phổ biến rộng rãi đến mức độ nào. Trong tang lễ của Claudius, hoàng đế Roma có phường thổi sáo. Năm 67 SCN, khi tin Jotapata thất thủ vào tay quân đội Roma được đưa đến Giêrusalem, sử gia Josephus kể lại rằng: “Hầu hết dân chúng thuê phường thổi sáo để hướng dẫn việc than khóc của họ”.

Tiếng sáo kêu gọi người chết, áo xống bị xé rách, bứt đầu, tạo cho nhà tang thành một nơi khiến ai nấy phải xúc động đau lòng.

Khi có người trong nhà chết, kẻ chịu tang bị cấm làm việc, không xức dầu và không mang giày dép. Cả đến những người nghèo nhất cũng phải nghỉ việc ba ngày. Người ấy không được đi ra ngoài mà mang theo hàng hóa, lệnh cấm làm việc cũng lan cả đến tôi tớ của người ấy. Người ấy ngồi trùm đầu lại, không được cạo râu hoặc làm “Bất cứ việc gì để bản thân được thoải mái, dễ chịu”. Người ấy không được đọc sách luật và ngôn sứ, vì đọc các sách ấy là một niềm vui. Người ấy được đọc sách Gióp, Giêrêmia, Aica. Chỉ được ăn trong nhà mình, phải hoàn toàn kiêng cữ rượu thịt, cũng không được phép rời khỏi thành phố hay làng mình đang ở trong ba mươi ngày. Phong tục không cho phép người ấy ăn tại bàn ăn, phải ngồi bệt trên sàn nhà, dùng một chiếc ghế ngồi làm bàn ăn. Theo phong tục vẫn còn thịnh hành ngày nay, người ấy phải ăn trứng chấm tro với muối.

Cũng có một phong tục kỳ dị. Phải đổ hết mọi thứ nước trong nhà và cả ba nhà bên cạnh ở hai phía, vì người ta cho rằng thần chết gây ra cái chết bằng một lưỡi gươm nhúng trong nước lấy từ nơi gần tầm tay. Cũng có một tập tục rất cảm động, với người chết còn quá trẻ, chưa lập gia đình, thì một lễ cưới được thực hiện như một phần trong tang lễ. Suốt thời gian chịu tang, kẻ cư tang được miễn giữ luật, vì người ấy được kể như đang bị bối rối, bị điên đầu vì nỗi buồn khổ gây ra.

Kẻ chịu tang phải đến hội đường. Khi người ấy bước vào, tất cả sẽ nhìn thẳng mặt anh ta và nói “Đáng chúc phúc Đấng an ủi kẻ bị tang chế”. Sách Kinh của Do Thái giáo, có một bài cầu nguyện đặc biệt dùng trước bữa ăn nhà có tang: “Đáng chúc phúc Chúa là Chúa, là vua toàn cõi vũ trụ, Thiên Chúa của các tổ phụ chúng tôi. Đấng Taọ Hóa, Đấng Cứu Chuộc, Đấng khiến chúng tôi nên thánh, Đấng Thánh của Giacóp. Vua của sự sống, Đấng vốn thánh thiện và làm điều thánh thiện. Thiên Chúa của chân lý, Vị quan tòa chân chính, xét đoán trong sự công chính, Đấng đem linh hồn con người ra phán xét, một mình Ngài cai trị cả vũ trụ, làm việc đó theo ý Ngài và mọi đường lối Ngài đều dẫn đến phán xét, còn chúng tôi là dân Ngài, các tôi tớ của Ngài, trong mọi sự chúng tôi cảm tạ, tán tụng Ngài, Đấng che chở mọi tai họa cho dân Israel, sẽ che chở chúng tôi trong tai họa này và do việc tang chế này sẽ đem đến cho chúng tôi sự sống bình an. Lạy Thiên Chúa chúng tôi, xin an ủi toàn thể kẻ tang chế của Giêrusalem, đang khóc lóc vì nỗi đau buồn của chúng tôi. Xin an ủi họ trong tang chế của họ, khiến họ được vui vẻ trong cơn đau đớn như một người được mẹ mình vỗ về an ủi vậy. Đáng cảm tạ Ngài là Thiên Chúa, là Đấng an ủi của Sion, Đấng sẽ lập lại Giêrusalem.

Bài cầu nguyện ấy có từ trước thời Tân Ước cho nên chúng ta đọc câu chuyện về cô bé gái chết ở đây trong bối cảnh xa xưa, nhằm diễn tả trọn vẹn nỗi đau buồn đó.

CHỖ KHÁC NHAU MÀ ĐỨC TIN TẠO RA (Mc 5,40-43)

Có một điều thật đẹp đẽ ở đây. “Talitha kum” là tiếng Aram, có nghĩa là “Hỡi con gái nhỏ, hãy trỗi dậy”. Làm thế nào câu nói bằng tiếng Aram đó có thể chen vào quyển sách Phúc Âm viết bằng chữ Hy Lạp này? Chỉ có một lý do duy nhất, là Maccô đã nhận phần tài liệu này từ Phêrô. Ngay đến Phêrô, ít nhất, trong lúc sống ngoài xứ Palestine, ông cũng phải nói tiếng Hy Lạp. Nhưng Phêrô đã có mặt chính thức lúc xảy ra sự việc, ông vốn là một trong ba môn đệ thân cận đã được chọn để cùng đi với Chúa Giêsu đến đó. Hẳn ông đã không bao giờ quên được giọng nói của Chúa Giêsu. Trong tâm trí và ký ức ông vẫn nghe vang vọng “Talitha kum” suốt cả cuộc đời. Tình yêu thương, vẻ hiền từ, âu yếm trong câu nói ấy đã ở trong ông mãi mãi, cho nên ông không thể nào suy nghĩ về nó bằng tiếng Hy Lạp, vì ký ức ông chỉ nghe nó bằng giọng nói của Chúa Giêsu, bằng chính lời lẽ mà Chúa Giêsu từng thốt ra.

Đoạn sách này là một câu chuyện của những tương phản.

1/ Có tương phản giữa tuyệt vọng của những kẻ tang chế đang khóc than với niềm hy vọng của Chúa Giêsu. Họ bảo “Còn làm phiền thầy chi nữa? Bây giờ còn ai làm được gì nữa đâu? Chúa Giêsu phán “Đừng sợ, chỉ tin mà thôi”. Một bên là tiếng nói tuyệt vọng, bên kia là tiếng nói hy vọng.

2/ Có tương phản giữa cơn bối rối vô bờ bến của những kẻ than khóc và vẻ thanh thản bình tĩnh của Chúa Giêsu. Họ khóc lóc than vãn, bứt tóc, bứt đầu, xé áo trong cơn bối rối cực độ. Chúa thì hoàn toàn bình thản, tự chủ.

Tại sao có chỗ khác nhau ấy? Do Chúa Giêsu hoàn toàn tin cậy vào Thiên Chúa. Những điều bất hạnh tệ hại nhất con người có thể đối phó cách can đảm và nhẹ nhàng nếu chúng ta đối phó cùng với Thiên Chúa. Chúng cười nhạo Chúa Giêsu vì tưởng rằng niềm vui của Ngài vô căn cứ, và Ngài đã bình thản sai lầm. Nhưng sự kiện quan trọng trong đời sống Kitô hữu là điều xem như hoàn toàn bó tay đối với loài người thì Thiên Chúa làm được, điều mà xét trên lãnh vực con người là việc không hề dám mơ ước đã trở thành hạnh phúc thực sự khi có hiện diện của Chúa. Chúng cười nhạo Ngài, nhưng cười nhạo đó trở nên mối kinh ngạc sững sờ khi nhận biết được điều Thiên Chúa làm. Họ tin tưởng sai lầm. Họ nghĩ Chúa Giêsu thất bại, đứa bé đã vĩnh viễn ra đi. Bây giờ họ sửng sốt khi thấy Chúa Giêsu đã cứu sống, nó bước đi ngay truớc mặt họ. Chẳng có gì bất khả đối diện và chinh phục trong tình yêu Thiên Chúa được thể hiện trong Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.