Chúa Nhật VI Thường Niên - Năm B
MỘT THIÊN CHÚA GIẤU ẨN
Chú giải của Noel Quesson

Có người bị phong hủi đến gặp gỡ Đức Giêsu... và dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người.

Theo lối hành văn Sêmít cổ xưa, mà người ta gọi là “gom kết" lại, thì trang Tin Mừng của Mác-cô trên đây được đóng khung trong hai câu giống nhau. Ở đầu trình thuật ông diễn tả một bước chân của cá nhân. Kết thúc trình thuật, ta thấy nhiều người đến từ khắp nơi.

Đức Giêsu, là chính Thiên Chúa đến gặp gỡ con người. Nhưng con người, cũng phải đến gặp gỡ Thiên Chúa. Lạy Chúa, xin dẫn con đến gặp gỡ Chúa.

Anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch".

Đừng quên chúng ta mới ở chương đầu của Tin Mừng Maccô. Con người đó thật là mạnh dạn, hay anh ta đã có một lòng tin phi thường. Anh ta làm một cử chỉ: thưa gửi vài lời. Đó là những gì mà người ta thường chỉ có thể làm và nói với một mình Thiên Chúa.

Thực tế vào thời đó, bệnh phong hủi vẫn còn là một thứ bệnh không thể chữa trị được. Việc chữa lành người phong hủi là một thứ kỳ công giống như việc phục sinh một người chết. Đó là một trong những "dấu chỉ" của thời Thiên Sai (Mt 11,25; Lc 7,18-22). Thái độ khiêm tốn phủ phục của người phong hủi biểu lộ lòng tin của anh nơi Đức Giêsu. Đúng vậy, có những tình huống mà cách cầu cứu duy nhất là "kêu xin" Thiên Chúa, Đấng làm chủ tất cả, ngay cả những gì con người không thể thực hiện được: "Thưa Ngài, Ngài muốn là Ngài chữa tôi được khỏi bệnh”. Đó là một lời nguyện xin cần được lặp đi lặp lại.

Động lòng thương trước người đó.

Ở đây bản thảo Hy Lạp giữ hai từ: "splagknisteis" có nghĩa là động lòng thương, xốn xao lòng dạ, cảm động đến tận tâm can, và "orgisteis" có nghĩa là "nổi giận". Thiếu gì dịp Maccô đã sử dụng rất chính xác từ "nổi giận" nhưng ở đây thật là khó giải thích: Trường hợp một kinh sư, khó chịu trước kiểu nói trên, có lẽ ông ta đã làm giảm nhẹ ý nghĩa. Nhưng vì cả hai "câu dịch" đều có trong bản thảo, nên suy nghĩ về hai ý nghĩa, tưởng là không vô ích. Tại sao Thánh Thần, Đấng linh hứng Kinh thánh, lại không có thể đi đến mức đó, nghĩa là có thể sử dụng những sai lầm của những người sao chép Kinh thánh để nói với ta? Dù sao, qua hai từ trên, chúng ta cũng nhận thấy một "phản ứng rất nhân bản"! Việc nhập thể của Thiên Chúa thật là "hiện thực", đi tới tình trạng chấp nhận cả những tình cảm của con người tầm thường như thế: xót thương, giận hờn. Lạy Chúa. Xin tạ ơn Chúa vì đã muốn cảm nghiệm những cảm xúc của chúng con và đã bầy tỏ cách công khai những diễn biến tình cảm đó. Nổi giận ... "Thực ra điều đó ý nghĩa gì? Riêng tôi, tôi thấy ở đó phản ứng tự nhiên của Thiên Chúa trước nỗi đau khổ của con người". Đức Giêsu nhìn thấy tận mắt một khuôn mặt đáng thương bị các vết thương mâng mủ làm biến dạng. Và Người không thể chịu nổi điều đó, Người nổi giận. Đừng quên rằng, Đức Giêsu là Chính "Thiên Chúa hiện hình cụ thể". Qua thái độ biểu lộ tính khí trên, Đức Giêsu muốn nói với ta rằng, Thiên Chúa lên án định mệnh khắc nghiệt của con người, luôn bị bệnh tật tác hại trên thân xác. Phẫn nộ, đó cũng là phẫn nộ của biết bao người, nhưng trước "vấn đề sự dữ", họ chỉ biết chống đối mãnh liệt nhất đến nỗi phủ nhận sự hiện diện của Thiên Chúa.

“Động lòng thương". Kiểu nói này ta có thể hiểu ngay. Thực vậy, Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa vô cảm, dửng dưng, nhưng là một Thiên Chúa dễ bị thương tổn một Thiên Chúa cùng chịu khổ với nhưng người đau khổ, một Thiên Chúa mang trên mình những thương tích của chúng ta (Is 53,5). Đấng "làm cho Thiên Chúa hiện diện cụ thể” nói cho ta biết tấm lòng trìu mến của Thiên Chúa đối với bệnh nhân. Vậy khi nào chúng ta mới chấp nhận thế giới này, như thực trạng hiện nay của nó, không thể "hoàn hảo" được? Chỉ có mình Thiên Chúa là Thiên Chúa. Chỉ có mình Thiên Chúa là hoàn hảo. Thế gian không phải là "Chúa”. Thế gian không thể hoàn hảo. Thiên Chúa đã không thể làm khác hơn là tạo dựng một thế gian "không phải là Chúa nếu không Người đã không làm được điều gì cả, và Người có thể sẽ muôn đời cô đơn. Do đó, Người đã quyết định tạo dựng con người, được ghi dấu ấn "hữu hạn", rõ ràng “không phải là Chúa". Và như thế, con người phải gánh chịu những rủi ro về tình trạng sức khỏe suy sụp, với khả năng nguy hiểm trở thành phong hủi, điên khùng, khi các nhiễm thể hoạt động lệch lạc. Cần phải có can đảm nhìn thẳng vào "thế gian này". Nhưng, nếu Thiên Chúa tạo thành một tạo vật mang dấu tích hạn hẹp và bất toàn, thì Người chỉ tạo dựng nó trong chương trình là một ngày kia sẽ ban cho nó sự sống thần thiêng của Người.

Đối với Thiên Chúa, con người chưa hoàn hảo, vì chưa được sống lại, chưa được thần hóa. Và sự dữ tác hại con người; đã làm cho Người "nổi giận", đã khơi dậy "lòng thương xót" của Người. Do đó, Đức Giêsu chữa lành một số người bệnh, như là một "dấu chỉ" báo hiệu ngày cánh chung, lúc đó mọi sự "sẽ được hoàn tất" (Rm 8,18).

Đức Giêsu giơ tay đụng vào anh ta

Chúng ta lại có dịp suy nghĩ đến "bàn tay". Ở đây, đối với một người phong hủi, một người "không ai được sờ động đến", thì cử chỉ của Đức Gìẽsu phải mang một ý nghĩa đặc biệt vì không ai được sờ chạm, ôm ấp, vuốt ve họ bao giờ cả. Luật đã cấm như thế. Ngay cả, khi một ai đó tiến lại sát kề họ, họ cũng phải kêu to lên để người khác lánh xa: "Nhơ! Nhơ!": Thế mà ở đây, Đức Giêsu lại dám phá đổ một điều cấm kỵ nguy hiểm đó: Người đụng chạm đến người phong hủi.

Người bảo: "Tôi muốn, tôi cho anh được khỏi bệnh".

Đức Giêsu cứu chữa, nhờ một "cử chỉ" và "bằng một lời phát biểu: Đó là nguyên lý để cử hành mỗi bí tích. Chúng ta là những tạo vật có thể xác, và chúng ta cần đến những cử chỉ trên thân xác. Khi chịu phép rửa, nước đổ trên trán chúng ta, thì một lời cũng được đọc lên nói rõ ý nghĩa của cử chỉ đó. Trong Bí Tích Thánh Thể, khi bánh ban sự sống chạm đến tay và liên hệ đến thân xác ta; thì đồng thời cũng có một lời đọc nêu lên ý nghĩa: “Mình Thánh Đức Kitô".

Tôi cũng có thể dành một chút thời gian để suy gẫm về lời phát biểu: "Tôi muốn!”. Ở đây, một lần nữa, người dịch đã làm giảm nhẹ ý nghĩa bản văn chính thức bằng tiếng Hy Lạp của Maccô (thật là đáng tiếc!). Người phong hủi đã không nói: "Nếu Ngài muốn điều đó", nhưng là nếu Ngài muốn". Và Đức Giêsu cũng không đáp lại: "Tôi muốn điều đó", mà là "Tôi muốn". Điểm quan trọng muốn đề cao ở đây, không phải là đại danh từ "điều đó", những quyền năng thuộc nguyên ý muốn của Đức Giêsu, nghĩa không nhấn mạnh đến điều mong muốn.

Ngay tức khắc, chứng phong hủi biến đi, và anh ta được khỏi bệnh

Câu nói trên phản lại bối cảnh văn hóa của thời đại, là Maccô lúc đó đang viết Tin Mừng. Đối với một người Do Thái, bệnh phong hủi là một "hình phạt của Thiên Chúa", Đấng đã phạt Mytiam, chị của Môsê (Ds 12,9).

Gêhadi, đầy tớ của Êlisê (2V 5,27), Ôdia, ông vua đầy tham vọng (2Sb 26,16). Bệnh phong hủi là chứng bệnh gây sợ hãi, đến nỗi có người kinh sợ dù chỉ nhìn thấy một vết loang lổ trên tường. Vì thế, sách Lê vi đã dành cả hai chương nói về bệnh này. Chứng bệnh làm cho mặt và tay chân người bệnh thối rữa, chứng tỏ sự khủng khiếp của nó. Người ta coi đó như sức tác hại của ma quỷ. Nói đúng ra, người bị phong hủi không được sống thông hiệp với kẻ khác, bị loại ra khỏi cộng đoàn (Lv 13,1-6). Trong chứng bệnh làm ung thối con người như thế, người ta coi đó là "biểu tượng" của tội lỗi. Như thế, ai mà không bị phong hủi! Và ai sẽ cứu chữa ta khỏi chứng bệnh ác độc đó? Thưa, đó là nhờ sự “tiếp cận" và "lời" của Đức Giêsu. Lạy Chúa Giêsu Kitô, nhờ Mình Chúa xin cứu chữa tâm hồn con người hôm nay. Hiện nay, vẫn còn hàng triệu người trong các nước thuộc thế giới thứ ba mắc bệnh phong hủi.

Và giũa chúng ta trong những xã hội tân tiến, vẫn cần tìm kiếm những bàn tay và những tấm lòng để thực hiện tác động "chữa lành" của Đức Giêsu đối với biết bao người nghèo khó: Đó là những người không có vẻ đẹp và ngoại hình lôi cuốn cái nhìn của kẻ khác, đó là những kẻ bị gạt ra khỏi xã hội chúng ta, những trẻ em khuyết tật, những người mắc bệnh nan y.

Người nghiêm giọng đuổi anh ta đi ngay.

Đó là câu dịch chính xác theo đúng bản văn của Maccô (nhưng ta cũng thấy có kiểu dịch làm giảm nhẹ ý nghĩa: "Người cho anh ta ra về với lời cảnh giác nghiêm trọng"). Nếu tôn trọng bản văn, thì Chúa Giêsu được giới thiệu cho ta ở đây, không phải là hạng người "nhu mì", mà các bức ảnh thuộc thế kỷ trước đã trình bày cho ta, nhưng là một con người đầy cương nghị.

Coi chừng, không được nói gì với ai cả.

Như Đức Giêsu đã truyền cho quỷ phải im lặng, Người cũng đòi buộc kẻ được ơn lạ phải im hơi lặng tiếng, kiểu nói rất mạnh: "không gì hết", "không với một ai cả".

Đó là “bí mật Thiên Sai" nổi tiếng, đã được Maccô lặp đi lặp lại tới 10 lần trong Tin Mừng của ông. Do đó, hầu như Đức Giêsu tránh làm phép lạ, vì thường bị người ta hiểu lầm! Người Do Thái (và cả chúng ta nữa!) dễ mong đợi một Đấng Mêsia theo kiểu trần gian. Từng đám đông tuôn đến với hy vọng rằng, Đức Giêsu có thể mang lại cho họ hạnh phúc đời này, Người có thể giải quyết những vấn đề thuộc sức khỏe, hay khôi phục nền độc lập có tính chính trị. Đúng vậy, đối với Đức Giêsu, làm phép lạ thật là nguy hiểm! Điều đó có thể làm hỏng sứ vụ của Người, hay có thể làm cho người ta hoàn toàn hiểu sai ý nghĩa. Các phép lạ có thể làm cho nhiều người tưởng rằng, Nước Thiên Chúa chỉ bao gồm một thứ hạnh phúc tầm thường. Đúng ra, công cuộc cứu độ thực sự việc cứu rỗi triệt để, mà Đức Giêsu trình bày, chỉ có thể được hiểu tường tận dưới ánh sáng tử nạn và phục sinh của Chúa. Cần phải chờ đợi đến lúc đó để không còn lầm lẫn nữa về bản chất của công cuộc "giải phóng" con người, mà Đức Giêsu chủ động thực hiện! Còn những việc chữa bệnh chỉ là cách loan báo sự sống lại .

Nhưng lo đi trình diện tư tế, và vì anh đã được khỏi bệnh, thì hãy dâng của lễ như ông Môsê đã truyền để làm chứng cho người ta.

Đức Giêsu truyền cho người được ơn lạ phải im lặng, không được lộ chuyện với dân chúng, đồng thời Người cũng trao cho anh trách nhiệm phải đến gặp các tư tế. Đây là việc rất cần thiết, để có thể tái hội nhập vào xã hội. Nhưng hơn nữa, Đức Giêsu còn muốn mở mắt các tư tế ở Giêrusalem là những người sẽ kình chống Người kịch liệt. Cho họ dấu chỉ thiên sai qua việc chữa lành người phong hủi, để họ sẽ không có lý do nào biện minh khi họ kết án Người. (Ga 15,22).

Nhưng vừa ra khỏi đó, anh ta đã vội công bố và tung tin ấy ra; đến nỗi Đức Giêsu không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi vắng vẻ ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người.

Đối với Maccô. “Lời" được công bố trên đây là một thuật ngữ, được ông sử dụng tới 10 lần khác nhau trong Tin Mừng: đó là Phúc Âm, là Tin Mừng. Dù bị Đức Giêsu ngăn cấm, nhưng ta thấy người được cứu chữa, khi đến lượt mình lại trở nên "kẻ cứu độ" người khác. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có công bố Lời Chúa không? Một lần nữa, ta chiêm ngắm tình yêu Đức Giêsu dành cho bầu khí cô tịch, cho những "nơi hoang vắng". Người thực sự là hình ảnh của Thiên Chúa, một Thiên Chúa kín mật, một Thiên Chúa không gây ồn ào, một "Thiên Chúa ẩn giấu”.