,MỤC
LỤC
TOC \o "1-1" \h \z \u
1. Ta là ai trong vụ án mang tên Giêsu.
PAGEREF _Toc66904372 \h 5
2. Ta là ai trong cuộc Thương Khó.
PAGEREF _Toc66904373 \h 9
3. Chọn lựa.
PAGEREF _Toc66904374 \h 14
4. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành.
PAGEREF _Toc66904375 \h 16
5. Con đường Thập Giá.
PAGEREF _Toc66904376 \h 21
6. Vụ án Baraba và Chúa Giêsu.
PAGEREF _Toc66904377 \h 25
7. Thiên Chúa ẩn dấu.
PAGEREF _Toc66904378 \h 27
8. Phêrô.
PAGEREF _Toc66904379 \h 29
9. Vua Bình An – Mc 11,1-10.
PAGEREF _Toc66904380 \h 31
10. Những chiếc lá phất phơ - ViKiNi
PAGEREF _Toc66904381 \h 33
11. Nhận ra trách nhiệm và cầu xin ơn sám hối
PAGEREF _Toc66904382 \h 36
12. Ngã rẽ cuộc đời – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
PAGEREF _Toc66904383 \h 40
13. Nhiệt thành của thập giá.
PAGEREF _Toc66904384 \h 43
14. Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB..
PAGEREF _Toc66904385 \h 47
15. Vương quốc Tình yêu – Thiên Phúc.
PAGEREF _Toc66904386 \h 50
16. Thông cảm với Chúa.
PAGEREF _Toc66904387 \h 53
17. Sự Thương Khó của Chúa.
PAGEREF _Toc66904388 \h 63
18. Suy niệm của AM Trần Bình An.
PAGEREF _Toc66904389 \h 68
19. Từ những nghịch lý.
PAGEREF _Toc66904390 \h 73
20. Sự hy sinh của Chúa cho tội lỗi chúng ta.
PAGEREF _Toc66904391 \h 76
21. Chết vì yêu thương - Lm. Minh Vận, CRM...
PAGEREF _Toc66904392 \h 78
22. Hành trình đau khổ - Trầm Thiên Thu.
PAGEREF _Toc66904393 \h 82
23. Màu xanh hy vọng - Trầm Thiên Thu.
PAGEREF _Toc66904394 \h 91
24. Lễ lá.
PAGEREF _Toc66904395 \h 98
25. Đấng khiêm nhường chính là Ngài
PAGEREF _Toc66904396 \h 100
26. Lừa con chưa ai cưỡi bao giờ.
PAGEREF _Toc66904397 \h 103
27. Giờ chiến thắng vinh quang.
PAGEREF _Toc66904398 \h 106
28. Phần chìm của Thánh Lễ.
PAGEREF _Toc66904399 \h 109
29. Bệnh “hùa theo đám đông”.
PAGEREF _Toc66904400 \h 112
30. Tôi không bán Chúa.
PAGEREF _Toc66904401 \h 115
31. Vác đỡ Thánh Giá Chúa – PM. Cao Huy Hoàng.
PAGEREF _Toc66904402 \h 120
32. Những đổi thay đến ngỡ ngàng.
PAGEREF _Toc66904403 \h 125
33. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
PAGEREF _Toc66904404 \h 130
34. Chúa Nhật Lễ Lá Năm B..
PAGEREF _Toc66904405 \h 141
35. Yêu thương đến cùng.
PAGEREF _Toc66904406 \h 145
36. Lòng người
PAGEREF _Toc66904407 \h 148
37. Con đường nào Đức Kitô đã đi qua?.
PAGEREF _Toc66904408 \h 152
38. Thập giá, tình yêu cứu độ.
PAGEREF _Toc66904409 \h 155
39. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê.
PAGEREF _Toc66904410 \h 158
40. Ông này là ai vậy?.
PAGEREF _Toc66904411 \h 162
41. Xin đừng theo ý con (Mc 11, 1-10).
PAGEREF _Toc66904412 \h 165
42. Sự Thương Khó và Thập Giá của Đức Giêsu.
PAGEREF _Toc66904413 \h 168
43. Cuộc khải hoàn của Người Tôi Trung.
PAGEREF _Toc66904414 \h 171
44. Ai là bạn của tôi?.
PAGEREF _Toc66904415 \h 174
45. Thế thái nhân tình là thế.
PAGEREF _Toc66904416 \h 177
46. Cô đơn – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền.
PAGEREF _Toc66904417 \h 180
47. Hoan hô! Vạn tuế!.
PAGEREF _Toc66904418 \h 183
48. Vâng phục ngay cả chấp nhận cái chết
PAGEREF _Toc66904419 \h 187
49. Cuối đời – Lm. Vũ Đình Tường.
PAGEREF _Toc66904420 \h 191
50. Mặc khải - Lm Vũ Đình Tường.
PAGEREF _Toc66904421 \h 193
51. Niềm vui rực sáng – Lm. Vũ Đình Tường.
PAGEREF _Toc66904422 \h 196
52. Chúa Giêsu lên Giêrusalem..
PAGEREF _Toc66904423 \h 198
53. Thật, Người này là Con Thiên Chúa.
PAGEREF _Toc66904424 \h 202
54. Niềm vui - Thập Giá – và ơn cứu độ.
PAGEREF _Toc66904425 \h 204
55. Tại làm sao Chúa chết?.
PAGEREF _Toc66904426 \h 208
56. Những im lặng sau tiếng hoan hô.
PAGEREF _Toc66904427 \h 212
57. Tình Chúa Tình Người – Lm. Giuse Trần Việt Hùng.
PAGEREF _Toc66904428 \h 217
58. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
PAGEREF _Toc66904429 \h 222
59. Nhân tình thế thái
PAGEREF _Toc66904430 \h 227
60. Những ngã rẽ nguy hiểm..
PAGEREF _Toc66904431 \h 233
61. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
PAGEREF _Toc66904432 \h 238
62. Vâng lời cách sáng suốt và tự nhiên.
PAGEREF _Toc66904433 \h 241
63. Con đường vinh quang và thập giá – Lm Đan Vinh.
PAGEREF _Toc66904434 \h 244
64. Baraba và Đức Giêsu.
PAGEREF _Toc66904435 \h 247
65. Con đường thập giá – Lm. Đam. Trần Quang Hiền.
PAGEREF _Toc66904436 \h 251
66. Suy niệm của Noel Quesson.
PAGEREF _Toc66904437 \h 254
67. Những bất ngờ – Ga 12, 12-16.
PAGEREF _Toc66904438 \h 256
68. Lễ lá.
PAGEREF _Toc66904439 \h 258
69. Cuộc Thương Khó.
PAGEREF _Toc66904440 \h 260
70. Cuộc Thương Khó.
PAGEREF _Toc66904441 \h 262
71. Hoan hô- Đả đảo.
PAGEREF _Toc66904442 \h 265
72. Mối tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu.
PAGEREF _Toc66904443 \h 268
73. Suy Niệm của JKN.
PAGEREF _Toc66904444 \h 269
74. Ơn cứu chuộc.
PAGEREF _Toc66904445 \h 274
75. Thánh giá.
PAGEREF _Toc66904446 \h 278
76. Trung thành với lời tung hô.
PAGEREF _Toc66904447 \h 280
77. Cuộc khổ nạn.
PAGEREF _Toc66904448 \h 282
78. Chết vì yêu.
PAGEREF _Toc66904449 \h 285
79. Chiêm ngắm cây Thập Giá.
PAGEREF _Toc66904450 \h 290
80. Chúa Nhật Lễ Lá.
PAGEREF _Toc66904451 \h 294
81. Tội lỗi của ta.
PAGEREF _Toc66904452 \h 297
82. Đức Giêsu, Mêssia vinh quang và đau khổ.
PAGEREF _Toc66904453 \h 299
83. Thái độ.
PAGEREF _Toc66904454 \h 301
84. Vụ án.
PAGEREF _Toc66904455 \h 303
85. Vào thành.
PAGEREF _Toc66904456 \h 307
86. Chúa Nhật Lễ Lá B..
PAGEREF _Toc66904457 \h 311
87. Bóng tối và niềm tin – Peter Feldmeier.
PAGEREF _Toc66904458 \h 313
88. Qua đau khổ Thánh Giá tới vinh quang Phục Sinh.
PAGEREF _Toc66904459 \h 317
89. Tuần lễ mang lại ơn Cứu độ - Lm Trần Bình Trọng.
PAGEREF _Toc66904460 \h 323
90. Đừng phản bội Chúa bằng tội lỗi.
PAGEREF _Toc66904461 \h 325
91. Thông phần đau khổ với Chúa trên Thập Giá.
PAGEREF _Toc66904462 \h 327
92. Suy niệm của Lm. Jude Sicilano.
PAGEREF _Toc66904463 \h 336
93. Tình yêu hiến tế.
PAGEREF _Toc66904464 \h 342
94. Vạn phúc Đấng ngự đến nhân danh Chúa.
PAGEREF _Toc66904465 \h 345
95. Tin tưởng hay thất vọng – Lm. Minh Nhiên.
PAGEREF _Toc66904466 \h 348
96. Minh họa lời Chúa – Chúa Nhật Lễ Lá năm B..
PAGEREF _Toc66904467 \h 350
97. Con Đường Tình Yêu – Lm. Kiều Công Tùng.
PAGEREF _Toc66904468 \h 358
98. Lời Thánh Kinh ứng nghiệm..
PAGEREF _Toc66904469 \h 362
99. Một chứng nhân trực tiếp – Camille Gagnon.
PAGEREF _Toc66904470 \h 369
100. Chú giải của Noel Quesson.
PAGEREF _Toc66904471 \h 370
101. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
PAGEREF _Toc66904472 \h 377
102. Chú giải của Fiches Dominicales.
PAGEREF _Toc66904473 \h 388
103. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
PAGEREF _Toc66904474 \h 394
104. Chú giải của William Barclay.
PAGEREF _Toc66904475 \h 396
105. Con đường vinh quang và thập giá.
PAGEREF _Toc66904476 \h 401
1. Ta là ai trong vụ án mang tên Giêsu
(Suy niệm của Huệ Minh)
Ta vừa đi lại con đường "vinh quang" ngày xưa Chúa
đã đi. Chúa đã vào thành Giêrusalem một cách hiên ngang, một cách hoành
tráng.
Ta thấy Thánh Matthêu vừa kể lại cho ta kỷ niệm đẹp
đó. Nhiều người trải áo xuống đường, kẻ khác chặt nhành cây trải lối đi:
Kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô! Chúc tụng Đấng
nhân danh Chúa mà đến. Chúc tụng nước Đavit tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan
hô trên các tầng trời!"
Quá đẹp!
Cũng dễ hiểu bởi lẽ phần đông trong cái đám đông
ngày hôm đó là những người được Chúa chữa lành, được Chúa làm phép lạ,
được Chúa cho ăn uống no nê. Ta còn nhớ là sau lần làm phép lạ hóa bánh
ra nhiều thì dân chúng đã muốn tôn vinh Chúa Giêsu lên làm vua và rồi
Chúa phải trốn sang chỗ khác để lánh dân chúng.
Cảnh vinh quang chợt thấy đó để rồi ta bước vào
cảnh bi đát của cuộc đời Chúa Giêsu.
Trên con đường Thánh Giá mà chúng ta vừa đi lại, ta
thấy quá bi đát cho một phận người, cho một cuộc đời. Mới hôm nao được
người ta tôn vinh, chúc tụng, hô hào nào là nhân danh Chúa, nhân danh
Chúa, chúc tụng này chúc tụng nọ... để rồi ngày hôm nay lầm lũi lê bước
mà không phải lê bước trên con đường bằng phẳng mà phải bước từng bước
lên đỉnh đồi.
Phải nói rằng không còn cái nhục nào cho bằng cái
nhục này cả. Người ta có làm thịt một con chó, một con mèo người ta cũng
không làm như thế. Thế nhưng, nghịch một cái ở đây lại là một con người
hẳn hoi nhưng người ta đã hành xử như vậy. Có lẽ không còn một ngôn từ
nào để dành cho con người này nữa.
Trong cái đám đông la ó đóng đinh nó vào thập giá,
đóng đinh nó vào thập giá chắc hẳn cũng là cái đám người mà mới ngày hôm
kia hôm kìa gì đó chúc tụng tôn vinh. Cũng dễ hiểu và dễ lý giải chứ
không khó lắm. Cũng chi do lòng dạ con người bất nhất nó mới ra như thế.
Nhìn lại lịch sử cứu độ ta thấy rõ nét về những con
người như thế này. Khi được Thiên Chúa ban cho ơn lành thì nhiệt thành
theo Chúa. Thế nhưng khi cơm đủ no, áo đủ ấm thì lại đi thờ thần khác,
thần ngoại bang và cứ ngỡ rằng họ là đấng cứu độ đời mình chứ không phải
Thiên Chúa.
Những biệt phái, luật sĩ và đám dông dân Do Thái
cũng vậy. Họ tưởng nghĩ rằng Đấng Cứu Độ trần gian đến trong thế gian
này với dáng vẻ quang lâm oai phong lẫm liệt chứ nào nhục nhã như thế
này.
Điều nghi ngờ này không phải chỉ mới ngày hôm nay
trên con đường lên núi Sọ nhưng nó xảy đến từ cái ngày Đấng Cứu Độ trần
gian cất tiếng khóc chào đời. Người ta không thể nào tin nổi Hài Nhi ấy.
Trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng cũng thế, người ta vẫn coi
thường và vẫn xem đây là người con của ông phó mộc Giuse, có Mẹ là Maria
thôi.
Đơn giản và dễ hiểu bởi lẽ họ không tin nên họ hành
xử như thế đối với cái con người ra pháp trường hôm nay. Không phải ra
theo kiểu bình thường mà ra theo kiểu kỳ quái không ai hiểu được.
Khi có dịp, ta xem lại bộ phim này ta hình dung ra
phần nào phần tủi nhục mà Chúa Giêsu phải chịu trước đám đông dân chúng.
Thấy vậy để rồi ta rất dễ suy ra đời ta. Đời ta cũng có khi ở trong cái
đám đông đấy và cũng có khi là một trong những môn đệ nhiệt thành của
Chúa Giêsu ấy.
Trong vụ án giết cái người vô tội mang tên Giêsu
đó, ta là ai ắt hẳn ta là người biện phân rõ hơn ai hết.
Ta có phải là một Philatô sẵn sàng rửa tay vô trách
nhiệm trên những chuyện bất công hay không?
Ta có phải là Hêrôđê vì muốn hưởng lợi danh nên
muốn giết cái ông Giêsu hay không?
Ta có phải là những môn đệ thân tín cùng chấm chén
với Thầy nay lại bỏ Thầy ra đi biền biệt chăng?
Ta có phải là Phêrô đã can đảm chối Thầy mình đến 3
lần khi gà chưa kịp gáy lần thứ 2 chăng?
Hay tệ hơn ta có phải là đệ tử ruột mang tên Giuđa
đã cam tâm bán Thầy mình với cái giá quá bèo siêu khuyết mãi 30 đồng bạc
không?
Ta là ai trong cái đám đông được chữa lành bệnh,
được làm phép lạ, được cho ăn no nê... Nay lại hùa theo đẻ giết Chúa.
Có thể ta cũng sẽ chối bây bây rằng ta không bao
giờ làm những chuyện đó. Ta có thể chối người đời được nhưng với Thiên
Chúa ta không thể nào chối được.
Ngày hôm nay, bước vào Tuần Thánh, ta cùng bước
theo Chúa Giêsu trên con đường khổ nạn. Ta đừng bước nhanh nhưng hãy
bước chầm chậm và nhất là để lòng ta lắng xuống để ta nhìn thấy rõ hơn
cái khuôn mặt của ta trong vụ án mang tên Giêsu.
Xin Chúa cho ta chìm lắng tâm hồn trong tuần này
để rồi ta đối diện với ta, ta đối diện với Chúa để ta nhìn rõ khuôn mặt
của ta hơn. Và, ta cũng nên nhớ rằng luôn luôn có một ánh mắt chạnh
thương của Chúa Giêsu trên con đường khổ giá luôn nhìn đến đám đông luôn
luôn tung hô giết Ngài.
Xin cho ánh mắt của ta chạm đến ánh mắt của Chúa
và lòng ta chạm lòng của Chúa cách mật thiết hơn trong tuần Thánh này.
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin Mừng (Mc 14: 1;15: 1-39): Trong tuần thánh
và đặc biệt trong Lễ Lá này! Chúng ta làm sống động lại cuộc đời của
Chúa Giêsu. Và chúng ta cùng với Chúa Giêsu đi vào cuộc thương khó, như
chính là nguồn ơn cứu độ cho nhân loại.
Thời gian nó đi mãi, nó không chờ ai hết.
Ngày hôm nay, chúng ta bước vào Chúa Nhật Lễ Lá.
Để cái Lễ Lá này đưa chúng ta vào tuần thánh.
Có thể nói: đây là tuần quan trọng nhất của suốt
năm Phụng Vụ. Cũng như Chúa Nhật Phục Sinh chính là đỉnh của các Chúa
Nhật.
Trong tuần thánh và đặc biệt trong Lễ Lá này! Chúng
ta làm sống động lại cuộc đời của Chúa Giêsu. Và chúng ta cùng với Chúa
Giêsu đi vào cuộc thương khó, như chính là nguồn ơn cứu độ cho nhân
loại. Mỗi người chúng ta, cũng như người dân do Thái ngày xưa cũng đi
vào đền Giêrusalem, tay cầm lá để rước Chúa Giêsu. Chúng ta sống lại sự
kiện của Chúa Giêsu, chúng ta cùng đi vào Giêrusalem với Ngài.
Và hôm nay cùng với Giáo Hội, chúng ta lắng nghe
lại bài tường thuật Khổ Nạn của Chúa Giêsu. Sự kiện này là một sự kiện
lịch sử, sự kiện xảy ra trong 1 lịch sử của thế giới.
Để phản bác việc Chúa Giêsu lên Giêrusalem chịu
khổ hình. Thì có một phong trào, người ta dựa vào quyển tiểu thuyết Bí
Mật Da Vinci. Để rồi, người ta cố gắng người ta làm một cái phim để mà
gây hoang mang, cũng như đánh mất đi ý nghĩa, cũng như niềm tin, nền
tảng vào sự xuất hiện của Chúa Giêsu, cũng như Kitô giáo. Và họ coi Kitô
giáo như là một chuyện tưởng tượng thôi!
Và rồi sự kiện này chúng ta cử hành là một sự kiện
lịch sử. Không chỉ dựa vào các sách Tin Mừng dựa vào các sử gia; ở ngoài
Kitô giáo, chúng ta cũng thấy được cái sự kiện này. Sự kiện này đã diễn
ra trong lịch sử của thế giới, và đặc biệt thế giới của Do Thái.
Khi đặt niềm tin vào lịch sử như thế! để chúng ta
mới thấy niềm tin vào Đức Kitô của mỗi người chúng ta, niềm tin ấy không
phải là một niềm tin vu vơ, không phải là một niềm tin vớ vẩn nhưng làm
một niềm tin đích thực có thật chứ không phải là niềm tin tưởng tượng.
Nếu chỉ dừng lại ở cái chuyện đi theo Chúa Giêsu vào Giêrusalem, như một
viễn tượng của lịch sử thì không cần Kitô giáo.
Và rồi chúng ta bước đi trong tuần thánh này, khi
chúng ta nghe lại cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu là chúng ta làm cho
biến cố lịch sử đó trở nên không chỉ là bên ngoài mà là chúng ta nội tâm
hóa cái biến cố lịch sử đó, trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Nói
cách khác là chúng ta nội tâm hóa biến cố Lịch sử đó!
Khi chúng ta nghe lại cuộc trình thuật về cuộc Khổ
Nạn của Chúa Giêsu. Chúng ta nhìn thấy hình ảnh khuôn mặt của Philatô,
Phêrô, Giuđa và đặc biệt của dân chúng. Và qua hình ảnh Philatô, Phêrô,
Giuđa và của dân chúng này. Chúng ta khám phá ra khuôn mặt của chúng ta
trong đó, để chúng ta sống cái đời sống đức tin của chúng ta trong đó!
Có nghĩa rằng khi khám phá ra như vậy, chúng ta
thấy được khuôn mặt của tham lam, của gian ác, của chối từ, của độc ác,
của những người đó thấp thoáng đâu đó, cũng có khuôn mặt của mỗi người
chúng ta trong đó! Chúng ta không ngừng lại biến cố đó như một biến cố
Lịch sử, mà nội tâm hóa để trở thành thực tại sống động trong cuộc đời
của mỗi người chúng ta.
Chúng ta đọc Cuộc Thương Khó, chúng ta xem các
phim không phải với thái độ bàng quan của chúng ta. Suy nghĩ, chúng ta
coi coi có dính dáng tới đời của chúng ta hay không? Có ảnh hưởng đời
của chúng ta hay không?
Tiếp cận với sự phẫn nộ những người lên án Chúa
Giêsu, sự phản bội của Giuđa. Chúng ta không dừng lại ở sự bực bội nhưng
nó có liên quan tới thái độ sống đức tin của chúng ta. Khi tiếp cận sự
thương khó, mà nếu như không có tác động, thì chúng ta cảm thấy nó rất
là vô cảm.
Và rồi khi xem phim với tất cả những cái kỹ thuật
làm cho nhiều người chảy nước mắt nhưng mà liệu rằng cái dòng nước mắt
đó có thay đổi gì tâm tư của người ta hay không?
Và đặc biệt với cái phim Cuộc thương khó Chúa
Giêsu, nó không phải như những phim khác, người ta xem xong rồi người ta
ra về, nhưng xem xong cái cuộc thương khó của Chúa Giêsu nhiều người còn
nán lại. Bởi lẽ họ còn đánh đọng những cái tâm tư, hình ảnh và tình cảm
của những người nhân vật trong đó và xem phim này họ lặng lẽ ra về trong
sâu lắng.
Thế nhưng mà, cái tác động tình cảm nó không có
dừng lại ở bên ngoài bằng những giọt nước mắt, bằng những lời nuối tiếc,
nhưng nó phải đi sâu vào trong tâm hồn của người môn đệ, của người đi
theo Chúa Giêsu.
Và rồi mỗi người Kitô Hữu chúng ta được mời gọi:
gọi là hội nhập vào cái Cuộc Thương Khó đó! Và rồi, làm sao để mà hội
nhập được, nếu như chúng ta không suy nghĩ và chúng ta không nghiên cứu,
chúng ta không nhìn ở bên dưới của những hành động của những con người
đó!
Chúng ta thấy trong Cuộc Thương Khó của Chúa
Giêsu:
Một Philatô vô cảm: Ông ta đã rửa
tay với cái chết của Chúa Giêsu. Dẫu rằng, biết rằng Chúa Giêsu vô tội.
Vợ của ông ta cũng ra khuyên, ông ta đừng nhúng tay vào, vì đây là người
công chính. Ông biết rằng, ông có thể tha đuợc Chúa Giêsu, thế nhưng ông
đã không chịu được cái sức ép của dân chúng, của áp lực, của cộng
đồng...để rồi ông sợ mất ghế, sợ mất quyền lợi, và ông đã rửa tay để cho
Chúa Giêsu đi vào một cái chết.
Và rồi Chúng ta thử coi, cái bóng dáng của Philatô
đó, có trong cuộc đời của chúng ta hay không? Khi chỉ vì tiền, quyền,
lợi; chúng ta không dám nói ra sự thật. Chúng ta không chiến đấu với sự
thật, chúng ta không sống với sự thật, với những người xung quanh chúng
ta.
Với Giuda, chúng ta thấy: dấu hiệu
của tình yêu. Giuda đã biến đổi thành dấu hiệu của sự phản bội.
Chúng ta xem coi chúng ta có phản bội vợ chồng của
chúng ta chúng ta có phản bội cha mẹ của chúng ta chúng ta có thể phản
bội anh chị em chúng ta hay không có thể chỉ vài 30 ngàn đồng bạc, 3
triệu đồng bạc 30 triệu thậm chí 3 tỷ bạc. Chúng ta có can đảm bán đứt
cái tình nghĩa vợ chồng bạn bè họ hàng của chúng ta hay không?
Có đó chứ? Không nói ra thôi chứ! Nhưng mà có!
Nhưng mà chúng ta có nhìn ra hình ảnh của chúng ta trong cái sự buôn bán
đó hay không? Dám bán đứng thầy mình hay không?
Và với Phêrô chúng ta nhìn thấy đó
là một con người rất là mạnh dạn: Ai bỏ Thầy chứ tôi đây không bỏ Thầy!
Nhưng mà chỉ cần vài tiếng đồng hồ sau đó, đứng trước mặt của một đứa tớ
gái thôi! một đứa tớ gái chỉ cần hắn giọng thôi Phêrô đã chấp nhận từ bỏ
cái lời tuyên xưng đức tin của mình, về thầy mình và chấp nhận khước từ
thầy, chối thầy.
Chúng ta cũng vậy, nhiều lần nhiều lúc khi ra khỏi
nhà thờ. Lời tuyên xưng đức tin của chúng ta chưa khô họng. Nhưng, cũng
chỉ vì những giá trị của trần gian chúng ta đã can đảm chối từ tuyên
xưng đức tin. Bởi vì nếu tuyên xưng Đức tin, chúng ta không dám buôn
gian bán lận, nói hành, nói xấu, hạ nhục người khác. Chúng ta đã chối bỏ
Thiên Chúa một cách rất là dễ dàng! Chúng ta chối bỏ anh chị em chúng ta
một cách rất là nhẹ nhàng!
Và ngày hôm nay, chúng ta cùng tham dự vào Cuộc
Khổ Nạn của Chúa Giêsu, không phải là tham dự bằng một cái cách bàng
quan nhưng tham dự bằng cái cung cách hội nhập. Khóc lóc, ỉ ôi, sướt
mướt đó cũng chỉ là cái thái độ bên ngoài thôi.
Nhưng điều Chúa cần nơi chúng ta, và chúng ta cần
đó là chúng ta khám phá ra chính mình nơi vụ án Chúa Giêsu. Chúng Ta
khám phá ra khuôn mặt của Giuda, của Phêrô, của Hêrôđê, của những người
dân chúng hùng hổ đòi đóng đinh người vô tội, thì chúng ta mới cảm thấy
tội lỗi và chúng ta Sám Hối. Có như thế chúng ta mới thay đổi cuộc đời
của mình.
Và rồi trong cái cao điểm của tuần thánh: Ước gì
chúng ta không cử hành tuần thánh như một nghi thức, như một hoài niệm
biến cố Lịch sử, mà chúng ta sống lại cái Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu
trong chính cuộc đời của mình: bằng Sám Hối, bằng sự trở về với Thiên
Chúa là vua, là Chúa tình yêu của đời chúng ta. Amen.
(Suy niệm của Lm. Vũ Phan Long, OFM)
Tin Mừng (Mc 14: 1; 15: 1-39): Với Chúa nhật hôm
nay, bắt đầu tuần lễ trọng đại nhất của năm phụng vụ, đó là “Tuần
thánh”. Phụng vụ hôm nay mở ra với việc tưởng niệm Đức Giêsu đi vào
thành Giêrusalem.
Với Chúa nhật hôm nay, bắt đầu tuần lễ trọng đại
nhất của năm phụng vụ, đó là “Tuần thánh”. Phụng vụ hôm nay mở ra với
việc tưởng niệm Đức Giêsu đi vào thành Giêrusalem. Cả ba Tin mừng Nhất
lãm đều kể rằng Đức Giêsu đi vào Thành thánh trên lưng một con lừa. Điều
này nhắc nhớ đến sấm ngôn Dcr 9,9-10: Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia mà
Dân Chúa vẫn trông mong; Người đến cách khiêm tốn. Tuy nhiên hình ảnh
Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa cũng có thể gợi nhớ đến hình ảnh Salômôn
ngồi trên lưng con la cái để đi đến nơi được phong vương. Đức Giêsu đi
lừa là hình ảnh quét sạch thời đại của những con người đi ngựa (bởi vì
tất cả các vua kế tiếp Salômôn đều dùng ngựa, là con vật chính Salômôn
đã du nhập từ Ai Cập và Cơ-vê: x. 1V 10,26-29): vậy Đức Giêsu là Đấng
Mêsia tái lập triều đại Đavít.
Ngoài ra Maccô còn nói đến một “con lừa con được
cột”. Nhận xét này quy chiếu về St 49,11. Ở đoạn văn Sáng thế này, chi
tiết “con lừa được cột” gợi lên sự giàu sang và phồn vinh của thời đại
thiên sai: chỉ có thứ cây quý (cây nho) mới được tuyển mà cột con lừa.
Trong các Tin mừng Nhất lãm, chi tiết này liên hệ đến con lừa con của
Đấng Mêsia, xuất thân từ dòng họ Giuđa, dòng họ luôn làm chủ vương
trượng (St 49,10). Cả điểm này cũng nêu lên một hình ảnh vương giả về
Đức Giêsu. Cuối cùng Đức Giêsu đã được dân chúng tung hô như một “vị
vua”. Danh hiệu này sẽ được nhắm tới như điểm nòng cốt trong cả ba Tin
mừng Nhất lãm (x. Mt 27,36; Mc 15,26; Lc 23,28).
Con lừa của Đức Giêsu lại “chưa ai cỡi bao giờ”.
Chi tiết này nêu bật tư cách linh thánh của Đấng ngồi trên lưng lừa:
Người đúng là Đấng được Thiên Chúa sai phái đến, là “Đấng ngự đến nhân
danh Chúa”, là chính “vị Chúa tể đi vào Thánh điện của Người” (Ml 3,1;
x. 11,3.11).
Vậy việc Đức Giêsu vào Thành Giêrusalem chính là
hành vi Đức Giêsu long trọng tiến vào Thành trong tư cách là vua người
Do Thái cho dù không phải là vua để thống trị, nhưng là vua để phục vụ
và hiến mạng sống để cứu chuộc nhân loại.
Hiểu như thế, chúng ta có điểm tựa vững chắc để
hiểu bài Thương khó.
Một trong những điểm nổi bật và làm rơi nước mắt
của bao nhiêu người khi xem bộ phim về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu đó là
cảnh bạo lực.
Người Do Thái dùng bạo lực một cách khủng khiếp đối
với Đức Giêsu. Họ bắt Ngài phải vác thập giá. Họ đánh đòn Ngài. Họ khạc
nhổ vào mặt Ngài. Họ bắt Ngài đội mạo gai. Họ đóng đinh chân tay Ngài
vào thập giá. Họ còn lấy lưỡi gươm đâm thấu cạnh sườn Ngài thấu cả trái
tim. Người Do thái thời bấy giờ quả thật là quá tàn nhẫn với Đức Giêsu
Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Xem cảnh bạo lực đó, có lẽ không ai
không trách móc người Do thái sao họ lại làm như thế với Đức Giêsu?
Nhưng nếu để ý thì chúng ta vẫn thấy những cảnh bảo lực người ta gây nên
cho Đức Giêsu vẫn được tái diễn lại nơi các Tông đồ và các môn đệ của
Ngài suốt hơn 2000 năm qua. Và ngày hôm nay, bạo lực vẫn còn tái diễn
lại trong các gia đình, nơi học đường, nơi mỗi môi trường sống của xã
hội hôm nay.
Thật vậy, trong số các Tông đồ, chỉ có Thánh Gioan
bị bỏ vào vạt dầu sôi không chết, còn 11 vị khác đều chịu chết vì đạo,
nghĩa là các Ngài đã phải chịu cảnh bạo lực trước khi chết. Rồi suốt
2000 năm qua, vô vàn vô số các kitô hữu đã phải chịu nhục hình vì Chúa.
Chỉ riêng ở Việt Nam chúng ta, với gần 300 năm bách hại đạo, có khoảng
150 ngàn kitô hữu chịu chết tử vì đạo, trong số đó đã có 117 vị thánh đã
được phong hiển thánh và 1 vị được phong chân phước. Sau đây là hình khổ
mà các vị tử đạo Việt Nam phải chịu: 1 vị chịu bá đao, tức là bị lý hình
dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho đủ 100 miếng; 4 vị
chịu lăng trì, tức là bị chặt chân chặt tay trước khi chém đầu; 6 vị
chịu thiêu sinh, tức là bị thiêu sống; 75 vị chịu xử trảm, tức là bị
chém đầu; 22 vị chịu xử giảo, tức là bị tròng dây vào cổ và bị lý hình
kéo hai đầu dây cho đến chết; 9 vị chịu chết rủ tù, tức là bị tra tấn,
hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục
trong tù.
Ngày hôm nay, người ta vẫn dùng bạo lực để bạch hại
các kitô hữu đây đó trên thế giới. Người ta không chỉ dùng bạo lực đối
với các kitô hữu mà người ta còn dùng bạo lực để giải quyết mọi vấn đề
giữa con người với nhau trong gia đình, nơi trường học, nơi các cơ quan
công quyền và nơi mọi môi trường sống.
Trước hết, bạo lực trong gia đình:
Theo thống kê của Vụ Gia đình (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) Việt Nam
cho thấy trong 5 năm trở lại đây, số vụ bạo lực gia đình được ghi nhận
khoảng 20.000 vụ/năm. Chỉ riêng trong năm 2015 có 31 phụ nữ, 7 trẻ em bị
người thân giết hại. Số liệu báo cáo của các tổ chức phi chính phủ năm
2014 cũng cho thấy cứ 2-3 ngày lại có một người bị giết liên quan đến
bạo lực gia đình, mà nạn nhân đa phần là phụ nữ và trẻ em (theo
www.rfa.org). Xin nêu lên một số vụ nổi cộm như: Bố tẩm xăng đốt hai con
gái tại Hải Phòng; con giết cha tại Đăk Nông; giết chồng để đi theo
người tình tại Lâm Đồng; đâm chồng 18 nhát rồi vứt xác xuống sông tại
Thái Nguyên; cha giết 2 con rồi tự sát tại Nam Định; chồng đánh vợ gẫy 8
xương sườn, chấn thương sọ não tại Hạ Long (Theo phununews.vn).
Thứ hai, bạo lực ở học đường: Theo số
liệu thống kê đầu năm 2015 của Bộ GD&ĐT, trong một năm học, toàn quốc
xảy ra khoảng 1.600 vụ học sinh đánh nhau ở cả trong và ngoài phạm vi
nhà trường, tương đương khoảng 5 vụ đánh nhau trong một ngày. Nguyên
nhân xẩy ra bạo lực có đôi khi không đáng là gì. Chẳng hạn: Vì viết sai
chính tả, một học sinh lớp 1 bị cô giáo đánh tím mặt; vì thiếu 5 nghìn
đồng “nộp tô”, một nam sinh cấp 2 bị đánh hội đồng dã man; 6 nam sinh bị
giáo viên đánh chỉ vì một cái ghế gãy; 6 nữ sinh lớp 9 Trường THCS Quỳnh
Long đánh 2 nữ sinh Trường THCS Quỳnh Thuận, Quỳnh Lưu, Nghệ An bằng
dép, tát và đối phương dùng chân đạp liên tiếp vào người đối phương như
phim hành động (theo dantri.com).
Thứ ba, bạo lực tại các đồn công an:
Những năm gần đây người ta thường đồng hóa công an với côn đồ. Bởi vì,
công an giả dạng côn đồ hay côn đồ được công an bảo kê để đi đánh người
dân. Mặt khác, nhiều người dân được mời đến trụ sở công an, rồi bị đánh
cho đến trọng thương, thậm chí bị đánh cho đến chết: Vụ 5 công an dùng
nhục hình gây chết người ở Phú Yên; Nam Sinh Tu Ngọc Thạch (14 tuổi, học
sinh lớp 9) bị công an đánh chết tại trụ sở công an xã Vạn Long, huyện
Vạn Ninh, Tỉnh Khánh Hòa…
Ngoài ra, bạo lực còn xảy ra nơi mọi môi
trường chúng ta đang sống: trên đường đi, nơi làm việc, nơi quán
ăn nhậu, nơi quán cà phê…Chẳng hạn như: Bảo vệ dân phố sát hại bé trai 6
tuổi ở Sài Gòn; nam thanh niên sát hại người tình tại Royal City - Hà
Nội; bé trai 6 tuổi tử vong với nhiều vết thương trên người ở Quảng
Bình; nam thanh niên bị đâm chết khi đi dự đám cưới tại Nghĩa Đàn, Nghệ
An; nam thanh niên giết người vì đèn pha xe mấy dõi vào mặt ở Nghĩa đàn…
(theo kenh14.vn).
Chúng ta phải có thái độ nào trước bạo lực?
Chúng ta hãy học gương của các Tông đồ, các thánh Tử đạo và đặc biệt
gương của Đức Giêsu, các Ngài không bao giờ chủ trương bạo lực, các Ngài
còn lên án bạo lực và khi đứng trước bạo lực mà con người gây ra cho các
Ngài, các Ngài vẫn bình tĩnh và chấp nhận theo thánh ý Thiên Chúa. Với
Đức Giêsu, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Ngài đã cầu nguyện rằng:
“Lạy Cha, xin cất cho con khỏi chén đắng này, nhưng đừng theo ý con một
làm theo ý Cha”. Thái độ của Đức Giêsu trước bạo lực cũng được diễn tả
trong bài đọc I hôm nay: Người tôi tớ đau khổ ở đây chính là Ngài; Ngài
chấp nhận sự bách hại, tra tấn, phỉ nhổ, cô đơn; Ngài nhịn nhục chịu
đựng, không dùng bạo lực chống lại bạo lực; đặc biệt, Ngài tin tưởng phó
thác vào Thiên Chúa là Đấng sẽ đến giải thoát mình.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có chủ trương
bạo lực không? Hãy xét lại thái độ sống của chúng ta đối với những người
thân trong gia đình, với bà con làng xóm láng giềng, với bạn bè và đồng
nghiệp nơi chúng ta làm việc và với mọi người chúng ta gặp gỡ. Có khi
nào chúng ta dùng bạo lực để giải quyết các vấn đề không? Chồng có dùng
bạo lực đối với vợ không? Vợ có dùng bạo lực đối với chồng không? Cha mẹ
có dùng bạo lực với con cái không? Con cái có dùng bạo lực đối với cha
mẹ không? Anh chị em có dùng bạo lực đối với nhau không?
Hãy quyết tâm: Không được gây ra bạo lực;
không được dùng bạo lực để chống lại bạo lực; hãy xây dựng sự hòa thuận
trong gia đình và các mối tương quan bằng cách sống hiền lành và khiêm
nhường.
Thánh Phanxico Salesio có bẩm tính rất nóng nảy,
họ hàng bè bạn ai cũng biết thế …
Một hôm, có người đến Toà Giám Mục Annecy để
thăm thánh nhân. Trong câu chuyện trao đổi hai bên, ông ta nhiều lần lớn
tiếng cãi vã, đấm bàn đấm ghế, chỉ trích phê bình và mắng nhiếc thánh
nhân thậm tệ. Thế nhưng, thánh Phanxicô vẫn cứ ngồi nghe cách thinh
lặng, thỉnh thoảng lại nhã nhặn mời ông khách xơi trà, hút thuốc. Trước
những câu nói nặng nề xấc láo, thánh nhân vẫn đáp lại bằng những lời lẽ
hết sức dịu dàng, khiến ông khách qúy bắt đầu cảm thấy thẹn thùng rồi từ
từ rút lui.
Người anh của thánh nhân ngồi ở phòng sau chăm
chú theo dõi câu chuyện hai bên. Khi người khách vừa ra khỏi cổng, ông
phóng ngay ra phòng thánh nhân và lạ thay…. Phanxicô vẫn tươi cười bình
tĩnh! Ông liền nói:
- Nè, chú Phanxicô, xưa nay chú tính nóng như
lửa, sao độ này lại hiền từ nhịn nhục đến thế? Tôi ở phòng sau nghe lão
ta nói mà sốt ruột lộn gan, muốn nhào ra đánh một trận cho vỡ mặt hắn
ra. Ðồ lếu láo mất dạy!
- Anh à, ai cũng có máu Adong cả. Em cũng bực
tức xung giận lắm, nhưng em cố gắng theo gương Chúa Giêsu, hiền lành và
khiêm nhường trong lòng. Cứ mỗi dịp như vừa rồi, em lại tập thêm được
một chút ít bằng cách tự bảo: này hỡi Phanxicô, hãy đậy kỹ vung, đừng
mở, đừng nói gì ráo! Cuối cùng em thấy rằng: lấy một giọt mật, bắt được
cả bầy ruồi; chứ lấy cả thùng giấm, chẳng tóm được một con. (Trích:
chuyện ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận kể)
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường xin uốn
lòng chúng con nên giống Chúa.
(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng (Mc 14: 1;15: 1-39): Hôm nay chúng ta
bước vào Tuần Thánh, kỷ niệm cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu
Kitô. Đây là những ngày cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu.
Hôm nay chúng ta bước vào Tuần Thánh, kỷ niệm cuộc
Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô. Đây là những ngày cuối cùng của
cuộc đời Chúa Giêsu. Tất cả những việc làm của Chúa Giêsu trong Tuần
Thánh đều diễn tả tình yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta: Ngài lập bí
tích Thánh Thể là bí tích yêu thương, Ngài hiến trọn thân xác mình làm
của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Ngài còn dùng cái chết nhục nhã trên thập
giá để cứu chuộc chúng ta, một hành động diễn tả tình yêu đến tột cùng.
Nhưng sau cái chết nhục nhã trên thập giá, Ngài sẽ sống lại vinh quang
để đem lại cho chúng ta sự sống mới và bảo đảm phúc trường sinh.
Tuần Thánh được khai mạc bằng nghi thức làm phép lá
và rước lá. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chắc hẳn có người ngạc nhiên trước
những lời căn dặn của Ðức Giêsu với hai môn đệ: "Các anh vào làng trước
mặt kia. Tới nơi sẽ thấy ngay một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ đang
cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và đem nó về đây. Nếu có ai bảo tại sao
các anh làm như vậy thì cứ nói là Chúa cần đến nó và Người sẽ gởi lại
ngay" (câu 2-3). Mọi việc đã diễn ra đúng lời Chúa dặn. Tưởng như một
phép lạ. Thực ra không phải là phép lạ gì cả, mà là chính Ðức Giêsu đã
kín đáo thu xếp trước với người thân của Ngài trong làng: đến ngày đó,
tại địa điểm đó, họ hãy để sẵn hai con lừa, sẽ có hai môn đệ của Ngài
đến dắt đi, mật khẩu để nhận ra nhau là một câu hỏi và một câu trả lời
đã quy ước sẵn.
Chúa Giêsu muốn dùng con lừa để vào thành
Giêrusalem, vì Ngài không muốn người ta hiểu lầm Ngài là một nhà giải
phóng quân sự hay chính trị. Ngài muốn người ta hiểu rằng Ngài là một vị
vua hòa bình, hiền từ và khiêm tốn. Vua chinh chiến thì cỡi ngựa, còn
vua hòa bình thì cỡi lừa.
Chúa đã chuẩn bị như thế nhưng xem ra nhiều người
đã không hiểu ý của Ngài: Ngay các môn đệ cũng "lấy áo choàng của mình
trải lên lưng nó", dân chúng thì cũng "chặt nhành chặt lá ngoài đồng mà
rải. Người đi trước kẻ theo sau reo hò vang dậy" (câu 7-9). Sự hồ hởi
của họ có lẽ xuất phát từ ý tưởng giải phóng: hôm nay ngày giải phóng đã
đến rồi, vị Anh Hùng đã xuất hiện!
Quả thật, đây không phải là một vị vua có tính cách
chính trị, nhưng là một vị vua hòa bình. Chính vì vậy, Giáo Hội cho
chúng ta đọc bài Thương Khó trong ngày lễ lá hôm nay. Một vị vua đến
không bằng vũ lực, nhưng bằng cây Thánh Giá. Cây Thánh Giá là hình ảnh
của con đường Thánh Giá. Con đường Thánh Giá là con đường đau khổ. Con
đường đau khổ giúp chúng ta chế ngự nết xấu và nâng cao tâm hồn.
Đau khổ diệt trừ những độc ác tột độ của con người
tội lỗi và tình dục. Đau khổ dứt chúng ta khỏi những xúi giục của thế
gian. Đau khổ kích thích chúng ta sống bằng lòng cậy trông, nâng chúng
ta lên cao khỏi những vật tầm thường chóng qua, gắn chặt đôi mắt và trái
tim chúng ta vào cõi trời. Đau khổ là nhà giáo dục tuyệt hảo, đau khổ
làm cho con người thêm cao thượng, lột bỏ tính vị kỷ, làm cho con người
trưởng thành, đưa con người vào cư ngụ trong những miền cao vượt khỏi
trần gian, đau khổ cho con người cơ hội để luyện tập những nhân đức cao
đẹp nhất và thực hành những nhân đức đó một cách anh hùng.
Thánh Augustin nói: “Nếu Thiên Chúa luôn luôn để
cho bạn được thịnh vượng, ban cho bạn dồi dào mọi của cải mà bạn chẳng
phải chịu một khổ cực, một phiền phức, một âu lo nào ở đời tạm này, thì
bạn sẽ cho những lợi ích vật chất đó là của quí giá nhất Thiên Chúa ban
cho các tôi tớ của Người, và bạn sẽ chẳng còn ước mong từ nơi Chúa những
sự lành gì nữa. Vì thế, ở đời này Chúa pha vào những của cải dịu ngọt
độc hại này những chua xót cay đắng, để chúng ta biết tìm những của cải
dịu ngọt bổ ích khác”. Nhiệm vụ của đau khổ là phát sinh nơi ta sự siêu
thoát.
Vậy thì càng quí chuộng sự trong trắng của lương
tâm, càng khát khao sự tinh tuyền hoàn hảo làm cho linh hồn được thấm
nhuần ơn Chúa, càng ước vọng sự trong trắng tinh tuyền vì là điều kiện
để sống thân mật với Chúa, thì ta càng ưa chuộng và mến yêu đau khổ. Cha
Olivain đã viết: “Không bao giờ quyến luyến với Thiên Chúa mà không
quyến luyến với Thánh Giá. Nếu tôi không quyến luyến Thánh Giá, đó là vì
tôi còn yêu cái khác với cái Chúa Giêsu yêu, mà nếu tôi yêu cái khác với
cái Chúa Giêsu yêu thì tôi cũng chẳng yêu gì Chúa Giêsu nữa.” Do đó, đời
sống hưởng thụ không thể dẫn đến sự siêu thoát.
Thánh Cyprianô nói: “Đau khổ chắp cánh cho tôi bay
thẳng về trời”. Các nhà tư tưởng và tâm lý học đều thú nhận rằng một đời
sống uỷ mị, một đời sống hưởng thụ mặc dầu chính đáng không thể đi đôi
với một lý tưởng cao đẹp. Hơn nữa, những dễ chịu của đời sống, sự thoát
khỏi mọi lo lắng vật chất, rồi tiện nghi, không đem lại nghị lực và
thường thường đưa đến chỗ buông tuồng bừa bãi.
Và một văn sĩ trứ danh người Anh đã viết: “Tồn tại
nghĩa là vật lộn, vật lộn là đau khổ và gây ra đau khổ”. Luật tiến hoá
này bao gồm cả thế giới vật chất, thế giới tinh thần và xã hội, và những
ai hoảng sợ cái tính cách có vẻ tàn bạo đó, và muốn huỷ bỏ chiến đấu và
kết quả của nó là đau khổ, thì thật ra họ muốn, và sửa soạn cho sự suy
tàn của xã hội. Một thời kỳ quá thịnh vượng về vật chất thường kết thúc
bằng sự suy kém về đức tính và lụi bại về luân lý.
Con đường Thánh Giá, con đường đau khổ: đó là tất
cả những gì Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta hôm nay. Chúng ta hãy dùng
tuần lễ này để sống với Chúa Giêsu bằng việc suy niệm sự thương khó của
Ngài để biết theo gương Ngài đi theo con đường Ngài đã chỉ vẽ: ”Nếu ai
muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Đồng
thời chúng ta hãy vui vẻ đón nhận mọi đau khổ trong đời sống hằng ngày
với mục đích thông hiệp vào sự thương khó của Chúa Giêsu để mang ơn cứu
rỗi cho chính chúng ta và cho nhiều người khác. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang -
Joshepus Quang Nguyễn)
Trong Bài Thương Khó, Thánh Máccô viết: “Vì muốn
chiều lòng đám đông, ông Phi-la-tô phóng thích tên Ba-ra-ba, truyền đánh
đòn Đức Giê-su, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá”. Vậy
Baraba là ai? Theo thánh Mátthêu Baraba là một phạm nhân khét tiếng (Mt
27,16), thánh Máccô lại cho rằng Baraba là một tên phiến loạn (Mc 15,7)
và thánh Gioan gọi là một tên trộm cướp (Ga 18,40). Từ những chứng cứ
trên, ta có thể nói rằng rằng Baraba là một phạm nhân chính trị, một
chiến sĩ tham gia vào cuộc chiến dành độc lập cho dân tộc Israel và có
lẽ đã giết chết nhiều quân Rôma trong một cuộc nổi dậy. Vì thế bị quân
Rôma bắt giữ và lên án. Hiểu như thế thì Baraba là biểu tượng giải phóng
dân tộc bằng đường lối quen thuộc, đó là đường lối của bạo lực và gươm
giáo. Và như vậy, khi người Do Thái đòi thả Baraba mà đóng đinh Giêsu là
họ đã phủ nhận niềm hy vọng về Nước Trời mà Đức Giêsu loan báo là tình
thương, phục vụ và tha thứ để rồi đặt tất cả mọi cư xử bằng bạo lực.
Vụ án đó hôm nay vẫn diễn ra trong tâm hồn chúng
ta, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cùng đi với Người trên nẻo tình thương
và những giá trị Tin Mừng, nhưng có những lúc chúng ta thấy nẻo đướng ấy
xa xôi quá, những thực tại xã hội này rất gần gũi và hấp dẫn nhiều vì
thế đã nhiều lần chúng ta chối Chúa Giêsu và đòi đóng đinh giá trị Tin
Mừng, cho nên chúng ta buông mình cho những đam mê tội lỗi. Cụ thể, xã
hội này mà Chúa còn bảo thật thà, xã hội này mà Chúa bảo chớ gian dối,
hay xã hội này mà Chúa cấm phá thai... Những thứ này ai ai cũng làm được
mà, tại sao người công giáo lại không?!
Lạy Chúa Giêsu, xin tha lỗi cho chúng con bởi vì
tuy mang danh Kitô hữu nhưng có lúc đã phủ nhận những gì Ngài loan báo,
xin cho chúng con được lớn lên trong niềm xác tín rằng: đường thập giá,
đường Chúa đi là đường hy vọng bình an và đầy tình thương.
Lạy Chúa Giêsu, xin tha lỗi cho chúng con vì con
hèn nhát lắm, xin cho chúng con một tâm hồn đại độ biết cho đi mà không
cần tính toán, biết chiến đấu mà không ngại thương đau, biết làm việc mà
không tìm an nghỉ, biết tiêu hao chính mình cho tha nhân mà không đợi
một phần thưởng nào khác hơn là chính Chúa vì Chúa là hy vọng của chúng
con.
Lạy Chúa Giêsu, xin tha lỗi cho chúng con vì
chúng con ích kỷ lắm, trên cây thập giá này, Chúa đã đi cho đến tận cùng
nẻo đường của một Thiên Chúa muốn hủy mình ra không để thánh ý của Cha
và hạnh phúc của nhân loại trở thành tất cả lẽ sống của đời Chúa. Xin
Chúa dạy cho chúng con cũng được chia sẻ thập giá của Chúa bằng cách mỗi
ngày chúng con biết ra khỏi chính mình con để mở lòng ra với Thiên Chúa
và với anh chị em con qua việc yêu thương, phục vụ và tha thứ. Amen.
Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem giữa lúc dư luận
đang xôn xao bàn tán về Ngài: Ngài có phải là Đấng Thiên Sai, Đấng sẽ
đến hay không? Dân chúng phần đông, vì những tình cảm nhất thời, chứ
không phải vì lòng say mê, muốn tìm hiểu sự thật. Còn bọn Biệt phái thì
tức giận, bởi vì họ không muốn để Ngài xóa bỏ mất niềm hy vọng vào một
Đấng Thiên Sai. Và lần này, Chúa Giêsu chính thức lên tiếng tranh luận.
Lời của Ngài như một lưỡi dao sắc bén. Ta đã nói
với các ngươi rằng Ta là Con Thiên Chúa, trước khi có Abraham, thì đã có
Ta. Phải chăng đây là một lời nói phạm thượng, không thể nào tha thứ. Vì
vậy họ đã lượm đá để ném Ngài, nhưng Ngài đã ẩn mình đi.
Bịt tai, hò hét, xách động và đập phá, phải chăng
đó là cách thức con người thường hành động khi không muốn nghe. Đây
không còn là một vấn đề thuần túy về hiểu biết, nhưng là vấn đề chọn lựa
và yêu thương.
Chúng tôi không muốn ông ấy cai trị chúng tôi. Đây
cũng là điều thường xảy ra trong dòng thời gian, phản ảnh cho sự cứng
lòng của con người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Chúng tôi không muốn ông
ấy cai rị chúng tôi trong lãnh vực chính trị cũng như quân sự, trong
lãnh vực kinh tế cũng như tài chánh, trên phim ảnh sách báo, cũng như
trên truyền thanh và truyền hình.
Có người lại thầm nghĩ nếu như bây giờ Chúa Giêsu
trở lại, hẵn Ngài sẽ dẹp tan những biến động của thời đại. Thiết tưởng
lời ước mơ này chỉ lả một cái gì ấu trĩ, và thiếu nến tảng. Bởi vì Chúa
Giêsu chỉ trở lại vào ngày tận cùng của trời và đất. Tuy nhiên, mặc dù
bây giờ Ngài có trở lại chăng nữa, thì người ta vẫn cứ ném đá Ngài như
thường. Lập trường của con người vẫn không có gì thay đổi: Chúng tôi
không muốn ông ấy cai trị chúng tôi!
Chúa Giêsu đã ẩn mình đi không phải vì sợ hãi,
nhưng vì giờ Ngài chưa đến. Thực ra, Ngài không cần phải ẩn mình đi, vì
quyền năng của Ngài có thể lập tức vô hiệu hóa những viên đá của những
kẻ phẫn nộ.
Chiến thuật của Chúa Giêsu hoàn toàn khác với chiến
thuật của chúng ta. Ngài không cưỡng bức, không ép buộc một ai. Ngài
không xuồng khỏi thập giá để mọi người phải tin vào Ngài. Thiên Chúa
luôn tôn trọng sự tự do của con người. Và Ngài chỉ chấp nhận sự cho đi,
sự dâng hiến một cách tự nguyện. Chiến thật ấy, ngày hôm nay Ngài vẫn
còn áp dụng. Ngài mãi mãi vẫn là một vị Thiên Chúa ẩn dấu. Những sự dữ
xảy ra và dường như Ngài đã chẳng can thiệp. Không phải là như vậy. Ngài
muốn tôn trọng sự tự do của con người và mong ước con người phục vụ Ngài
trong tin yêu.
Lạy Thiên Chúa ẩn dấu, Nếu Ngài còn thinh lặng,
nếu Ngài còn là Đấng vô hình, xin hãy củng cố niềm tin nhỏ bé và yếu
đuối của con, đừng để vì thế mà con tuyệt vọng và mất đi lòng cậy trông.
Bài tường thuật sự thương khó Chúa Giêsu, tự bản
chất đã chứa đựng rất nhiều điều đáng cho chúng ta suy gẫm. Bởi đó, phải
đọc trong tinh thần cầu nguyện, để sống lại những chặng đường Chúa Giêsu
đã đi qua, để những khổ đau của Chúa thấm vào tâm hồn chúng ta, cũng như
hãy mở rộng cõi lòng để đón nhận sứ điệp của Chúa. Trong một vài phút
ngắn ngủi này, chúng ta dừng lại ở kinh nghiệm khác thường của Phêrô, vị
tông đồ vừa tự phụ, vừa yếu đuối lại vừa sám hối ăn năn.
Qua những giờ phút cuối cùng của Chúa Giêsu, chúng
ta nhận thấy nơi Phêrô có những mâu thuẫn. Một đàng ông nhất quyết trung
thành với Chúa và tìm mọi cách để bảo vệ Ngài. Đàng khác ông không nghĩ
tới mưu chước cám dỗ bất ngờ ập xuống một cách dữ dội, vì quá tin tưởng
vào sức riêng, nên thay vì vâng lời Chúa, thì ông lại phản đối lại lời
Ngài. Thực vậy Chúa báo trước cho ông hay các môn đệ sẽ lìa bỏ Chúa,
nhưng ông lại cho đó là chuyện khó tin, không thể xảy ra được. Chúa còn
nói thêm rằng: Chính ông sẽ chối bỏ Ngài trước khi gà gáy. Lẽ ra ông
phải lo sợ, phải cầu xin cho khỏi sa ngã, thì ông lại phản ứng một cách
mạnh mẽ và hết sức tự tin. Ông cảm thấy như không có gì lay chuyển nổi
tình yêu của ông đối với Chúa, nên ông không thể nào chấp nhận lời tiên
báo rằng ông sẽ sa ngã, ông sẽ phản bội. Cuối cùng khi Chúa dặn ông phải
tỉnh thức và cầu nguyện thì ông lại ngủ vùi, cho dù tận đáy lòng, ông
vẫn một mực tin tưởng vào mình.
Từ những vấp ngã ấy, ông đã rút ra một kinh nghiệm
đau thương, được phảng phất qua lời khuyên nhủ sau đây: Anh em hãy sống
tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, kẻ thù của anh em, như sư tử gầm thét
rảo quanh tìm mồi cắn xé.
Kẻ thù ồn ào và gào thét đã tấn công vào Phêrô, đó
là đám đông đi bắt Chúa và tìm mọi cách để tỏ lộ sự căm phẫn đối với
Ngài. Phêrô lo sợ mà không biết mình lo sợ. Vì không biết mình nên ông
đã không thấy rõ sự yếu đuối của mình, do đó ông đã liều lĩnh theo Chúa
xa xa, đến dinh thầy cả thượng phẩm, ông cả dám mon men đến gần dịp tội.
Ông tưởng rằng sự việc rồi cũng kết thúc êm đẹp như bao lần Chúa đã chấm
dứt những hành vi gây hấn của bọn biệt phái. Ông chờ đợi mà không đề
phòng, cho nên đã sa ngã chỉ vì một câu hỏi của người đàn bà. Ông bối
rối, ông sợ hãi và ông đã chối bỏ Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, điều đáng cho chúng ta suy nghĩ đó là
Phêrô đã hối hận. Tiếng gà gáy làm cho ông nhớ lại lời tiên báo của Chúa
Giêsu. Ở đây, vẻ cao quý của Phêrô là lòng khiêm nhường, thành thực và
tin tưởng dù đã sa ngã.
Ông khiêm nhường vì nhận ngay mình có tội mà không
cần phân tích lỗi lầm để tìm cớ chữa mình. Ông thành thực vì không quanh
co trong việc nhìn nhận một lỗi lầm đã nghịch lại lời cam kết với Chúa.
Ông tin tướng vì cảm nhận rằng nhờ nhận lỗi mình một cách thành thật,
ông được Chúa khoan dung tha thứ. Ông khóc vì cảm động. Và đối với một
người khí phách như ông, thì đó có lẽ là cách duy nhất để xin lỗi.
Phêrô sám hối, đã được Chúa tha thứ và hơn thế nữa
còn được Chúa đặt làm đầu Giáo Hội. Chính vì thế, chúng ta hãy tin tưởng
chạy đến với Chúa, dù tội lỗi chúng ta có nặng nề tới đâu, nếu chúng ta
biết sám hối ăn năn, chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa tha thứ.
Đâu là mục đích của việc Chúa vào thành Giêrusalem
một cách long trọng trong ngày hôm nay?
Mục đích thứ nhất là để ứng nghiệm
lời tiên tri đã nói trước trong Cựu Ước. Thực vậy như nhiều lần chúng ta
đã tìm hiểu, Cựu Ước là hình bóng, còn Tân Ước là thực tại. Cựu Ước thì
chuẩn bị, còn Tân Ước thì thực hành. Tất cả dòng lịch sử của Cựu Ước đều
hướng tới cao điểm, đó là Đức Kitô. Tất cả mọi sự việc trong cuộc đời
của Ngài từ lúc sinh ra cho đến khi chết và sống lại đều đã được Cựu Ước
tiên báo và đã xảy ra rất phù hợp với lời Kinh Thánh. Điều đó chứng tỏ
Ngài thực là Con Thiên Chúa, là Đấng phải đến để cứu độ nhân loại. Hôm
nay khi nhìn thấy Chúa long trọng tiến vào thành, chúng ta không khỏi
nhớ đến lời tiên tri Giacaria đã nói: Hỡi thiếu nữ Sion hãyvui mừng vì
này Vua ngươi đến với ngươi, Ngài hiền từ và khiêm hạ, cỡi trên lưng lừa
con.
Mục đích thứ hai là để chúng ta thấy
Ngài là Đấng Cứu thế. Thực vậy, việc Chúa đi vào thành là một việc nguy
hiểm vì đi vào chỗ chết. Ngài biết rõ giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái
đang căm thù Ngài, muốn hãm hại và tiêu diệt Ngài, nhưng Ngài vẫn cứ đi.
Dân chúng thì tung hô tán tụng Ngài. Thái độ này càng làm cho bọn biện
phái phẫn uất, họ đã thưa cùng Chúa Giêsu: Xin Thầy bảo dân chúng im đi.
Nhưng Chúa chỉ trả lời: Nếu họ im đi thì đất đá sẽ lên tiếng. Chúa công
khai chấp nhận lời dân chúng chúc tụng, và bằng lòng với những lời chúc
tụng ấy.
Sau cùng, mục đích thứ ba
là để chúng ta nhận ra Ngài là một vị vua hoà bình. Trên đường vào thành
thánh, dân chúng trải áo, cầm lành lá trong tay và tung hô Chúa Giêsu là
Con Vua Đavít. Họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua
của họ. Nhiều lần họ muốn tôn Ngài lên làm vua. Hôm nay họ được dịp làm
việc đó. Nhưng trong thâm tâm, họ chỉ nghĩ đến một vị vua trong phạm vi
xã hội và chính trị, đến để giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách nô lệ
của đế quốc Lamã.
Thế nhưng Chúa Giêsu cho thấy điều quan trọng hơn
hết, đó là Ngài làm vua trong cõi lòng của họ và muốn chiếm hữu tâm hồn
của họ. Hiệu quả mà Ngài đem đến, đó là sự bình an. Chúa cưỡi trên lưng
lừa, đó là dấu chỉ của vua hoà bình. Cả cuộc đời trần thế của Chúa đã
chứng minh điều ấy. Thay vì bạo động, Ngài đã dùng phương pháp tốt đẹp
nhất đó là tình yêu nhân từ của Ngài. Sức mạnh vũ khí của người Do Thái
đã không quật ngã được Lamã, trái lại đã khiến họ bị huỷ diệt và đền thờ
Giêrusalem bị tàn phá vào năm 70. Nhưng Chúa Giêsu đã đến với họ và chỉ
sau mấy mươi năm đã cảm hoá, để rồi Tin Mừng được rao giảng trên toàn
lãnh thổ Lamã. Đế quốc Lamã bị tan rã không phải vì sức mạnh của binh
đội, nhưng chính vì đạo đức của họ đã bị suy đồi, và không chòn nữa.
Đúng như lời Napoléon đã nói: Alexandre, César và cả ta nữa, đã dựng nên
nhiều đế quốc bằng vũ lực. Nhưng những đế quốc đó ngày nay không còn
nữa. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã thiết lập vương quốc Ngài trong tình
thương, và ngày nay, vương quốc đó vẫn lớn mạnh. Hằng triệu người vẫn
sẵn sàng chịu chết vì Ngài.
Đức Kitô là Đấng cứu thế, là Vua hoà bình. Ngày hôm
nay, Ngài muốn chúng ta tuyên xưng lại hai danh hiệu ấy. Hãy mở rộng cửa
tâm hồn để đón mừng Ngài ngự đến.
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây
Nhà Trên Đá’)
Tôi đang nhìn thấy những chiếc lá phất phơ trên tay
những cụ già đầu tóc bạc phơ đến tay những bé thơ còn măng sữa, trên tay
những mái đầu xanh cường tráng đến tay những mái tóc rủ liễu yếu đào tơ.
Những chiếc lá này bao nhiêu năm đã phất phơ, vật
vờ, xơ xác, tung lên, nhào xuống, quay cuồng theo chiều gió bão táp,
thật tội nghiệp!
Hôm nay, dân Do thái đã reo hò vang dậy: Hoan hô,
chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa, chúc tụng triều đại đang tới,
triều đại vua David tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời với một
rừng lá giương cao phất phơ, vùng vẫy như trên đỉnh gió hú.
Cơn lốc ầm ầm đó không do khí trời mà do khí người
bị dồn ép bao nhiêu năm, nay được dịp bùng lên: Dịp Đức Giêsu vào thành
Giêrusalem khác thường, Ngài ngồi trên lừa con, như Salomon ngồi trên
lừa của cha là David để vào thành Sion làm vua (1V. 1, 33). Dân chúng
tưởng triều đại David đã vùng dậy, vinh quang của Israel đã đến rồi,
không còn nô lệ, không còn khổ dịch ô nhục nữa, không còn chết nữa.
Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa cho dòng dõi David lên ngai vương quyền
kiên vững đến muôn đời (2Sm. 12). “Thiên Chúa ban quyền xét xử cho vua,
và cho hoàng tử đức công minh … Ngài thống trị từ biển này qua biển
khác, từ sông cả đến mút cùng cõi đất! … Vua chúa Tarsis, Saba sẽ đem
triều cống lại chầu, vua chúa hết thảy sẽ bái lậy Ngài, tất cả muôn dân
sẽ làm tôi Ngài” (Tv. 72, 1. 8. 10-11).
Nhưng than ôi, giấc mộng vàng muôn thuở chóng tan
như mây khói. Họ chẳng thấy Ngài ra tay thực hiện chi cả, chỉ thấy Ngài
xua đuổi con buôn đang đem lại giàu sang phú quý cho đền thánh. Ngài lại
bị các thượng tế, kinh sư, thủ lãnh tra hỏi. Ngài bảo của Xêda trả cho
Xêda, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa, dân còn gì sống đây! Đế quốc đã
bóc lột hết, lấy đâu mà trả Thiên Chúa. Ngài lại loan báo những điều
quái gở: Đền thờ sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào. Mặt trời mặt
trăng không còn chiếu sáng, tinh tú sẽ rơi xuống kinh hoàng (Mc. 11,
13). Tận thế rồi! Họ còn mong ở Ngài gì nữa! Họ tuyệt vọng, xa tránh
Ngài, Ngài xúc phạm đến đền thờ, xúc phạm đến trời đất. Ghê gớm hơn nữa
Ngài là thứ gì, đã dám cho mình là có trước Abraham và xưng mình là
Thiên Chúa. Tội tầy trời! Không thể tha thứ. Toàn quyền Philatô chỉ treo
hình hoàng đế Xêda trong khuôn viên đền thờ, dân đã nổi loạn chiến đấu
với quân Rôma, dù phải đóng đinh họ vẫn bất chấp, huống chi thanh niên
con bác thợ mộc dám xưng mình là Thiên Chúa tại đền thờ trong tuần đại
lễ của toàn dân. Ghê gớm kinh khủng! cho nên đành tha tướng cướp Baraba
giết người còn hơn tha Giêsu. Thế là họ la hét: “Đóng đinh nó đi, đóng
đinh nó đi”.
Ôi lạy Cha, xin tha cho họ vì họ lầm chẳng biết!
Họ như những chiếc lá phất phơ, vật vờ ray rứt,
tung lên, nhào xuống giữa phong ba bão táp, những cơn cuồng phong dục
vọng đam mê mù quáng đang bùng dậy trong lòng họ, trong lòng dân, trong
lòng trần thế, xô đẩy vùi dập nhân thế xuống sâu trong lòng ham hố,
giành giựt, mơ ước vinh quang bụi trần.
Ôi lạy Chúa, xin thương xót con. Đời là bể khổ,
giòng đời cuồn cuộn trôi dạt, không biết trôi về đâu. Bao nhiêu thuyết …
duy tâm, duy vật, duy dân, duy tân … tương đối, biến dịch, biến hóa
chẳng bao giờ thấy chỗ thủy chung. Chẳng thấy cùng đích, chẳng bao giờ
thấy nền tảng vững vàng, rõ ràng, luôn luôn là giả thuyết mơ hồ, mò mẫm,
tối tăm, tịch diệt cuộc đời, thật khủng khiếp sống trong cảnh bể khổ
trần ai như thế. Chẳng lạ gì, họ đã giải quyết, đã xử lý Ngài bằng đóng
đinh thập giá, treo Ngài trên đỉnh gió hú: “Trong bóng tối bao phủ, mặt
trời tối đi” (Lc. 23, 44-45) “Đất rung đá vỡ, mồ mả lật tung” (Mt. 27,
52).
Ôi lạy Ngài, ai bảo Ngài không ở lại thiên đường,
nơi ánh sáng vinh quang, nơi chân lý ngàn đời, nơi hằng hữu trường tồn,
nơi bất biến, bất diệt, nơi thỏa mãn mọi giấc mơ. Ai xui Ngài xuống cõi
u minh trần tục, cõi tịch diệt đắng cay, mang thân phận nô lệ phàm nhân.
Ai xui Ngài tự hạ sống giữa sói rừng, chúng cấu xé Ngài, bắt Ngài phải
tùng phục cho đến chết, chết trên thập giá (Pl. 2, 6-11).
Lạy Ngài, xin thương xót chúng con, xin muôn vàn
thương xót! Chúng con chỉ còn trông cậy vào lòng thương xót vô lượng vô
biên của Ngài. Chính vì lòng thương xót vô lượng vô biên mà Ngài đến thế
gian, dầu bất cứ giá nào, dầu phải thí mạng sống Ngài cũng đến cứu sống
chúng con. Cho chúng con được hằng sống, được tồn tại bền vững trong ánh
sáng phục sinh vinh phúc của Ngài. Chúng con xin trọn đời cảm tạ Ngài.
Amen.
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Anh chị em thân mến,
Hôm nay chúng ta tưởng niệm cuộc vinh quang của
Chúa chúng ta năm xưa, khi Người tiến vào thành thánh Giêrusalem. Đồng
thời chúng ta sống lại tâm tình của các trẻ em xưa tung hô vinh quang
của Đức Chúa của mình: “Hoan hô Con Vua David, hoan hô trên các tầng
trời. Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, hoan hô trên các tầng trời”.
Mặc lấy tâm tình của các trẻ em Dothái chứ đừng mặc
lấy tâm tình của người Dothái xưa. Vì chính họ cũng có mặt và tham gia
vào cuộc rước trọng đại của Chúa, nhưng sau đó họ phản bội dữ dội. Sự
phản bội lớn gấp nhiêu lần lời tung hô. Mặc lấy tâm tình của trẻ con,
chúng ta hãy khiêm cung bái thờ Đức Chúa uy nghi, Chúa chúng ta. Còn xua
đi hình ảnh người Dothái xưa để ta biết xua đi chính sự dữ còn ngự trị
đâu đó trong tâm hồn mình.
Với hai hình ảnh: Một là sự đơn sơ của trẻ con, hai
là sự bội phản một cách lạ lùng của người lớn, tôi mời anh chị em hãy tự
vấn chính mình xem, ai phải chịu trách nhiệm về cái chết bi thương của
Chúa, để rồi từ sự nhận ra trách nhiệm, ta sám hối thật lòng để thanh
tẩy tâm hồn, để có cái nhìn mới mà nhận ra Chúa đang hiện diện trong đời
ta, nơi môi trường ta sống.
1. Trách nhiệm cái chết của Chúa Giêsu thuộc về
ai?
Dù cái chết của Chúa Giêsu là cái chết bị gây nên
một cách quá độc ác, quá tàn nhẫn, nhưng người Kitô hữu không thể quy
trách nhiệm cho người Dothái, vì chính Chúa Giêsu đã tha thứ cho họ (Lc
23, 34). Thánh Phêrô cũng đã từng coi hành vi thủ tiêu này là do họ
“không biết” (Cv 3, 17).
Chính Hội Thánh cũng đã tuyên bố tại Công đồng
Vatican II: “Không thể quy trách nhiệm một cách hàm hồ những tội ác đã
phạm trong khi Đức Kitô bị khổ nạn cho hết mọi người Dothái thời đó,
cũng như cho người Dothái thời nay” (Tuyên ngôn về liên lạc giữa Hội
Thánh với các tôn giáo ngoài Kitô giáo - số 4).
Bởi vậy, thay vì quy trách nhiệm cho dân tộc
Dothái, đúng hơn chúng ta phải nói rằng: Mọi kẻ tội lỗi là thủ phạm gây
ra cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Vì tội lỗi, mỗi Kitô hữu đã xúc phạm đến
chính Chúa Kitô, nên Hội Thánh không ngần ngại quy cho chính các Kitô
hữu trách nhiệm nặng nề nhất đối với những gì mà Chúa Giêsu phải chịu:
“Chúng ta phải coi những kẻ sa ngã đi lại trong tội lỗi, là những người
đã phạm lỗi tày trời ấy. Bởi lẽ, chính tội ác của chúng ta đã làm Đức
Giêsu Kitô phải chịu khổ hình thập giá, thì chắc chắn rằng những ai chìm
đắm trong gian tà cũng ‘tự tay đóng đinh Con Thiên Chúa vào thập giá một
lần nữa, và đã công khai sĩ nhục Người’ (Dt 6,6). Và phải nhìn nhận
rằng, tội ác của chúng ta trong trường hợp này nặng hơn tội của người
Dothái. Vì theo thánh Phaolô, ‘nếu họ đã được biết vua vinh hiển, họ đã
chẳng đóng đinh Người vào thập giá’ (1Cr 2, 8)… Không phải quỷ dữ đã
đóng đinh Người trên thập giá; chính bạn cùng với chúng đã đóng đinh
Người vào thập giá; và còn đang đóng đinh Người nữa, khi bạn thích thú
trong thói xấu và tội lỗi” (GLCG số 598).
2. Sám hối để thanh tẩy chính mình
Tại một vùng của nước Pháp, dân chúng có tập tục
rất lạ. Đó là vào sáng sớm Chúa Nhật Phục sinh khi hồi chuông đầu tiên
của nhà thờ vang lên, tất cả mọi người đều trổi dậy chạy ra giếng làng
để rửa mặt với giòng nước mát lạnh.
Nhiều bạn trẻ không hiểu vì sao lại chạy ra giếng
rửa mặt, trong khi ngày nay gia đình nào cũng có các vòi nước trong nhà.
Lúc ấy các cụ già giải thích: Đó là hình thức cầu
nguyện bằng hành động, qua đó dân làng cầu xin Thiên Chúa ban cho họ đôi
mắt đức tin mới, để họ thấy Chúa Giêsu Phục sinh đang hiện diện sống
động giữa họ.
Cũng thế, ta rất cần một đôi mắt đức tin mới để
nhận biết Thiên Chúa. Tự đánh thức tâm hồn mình bằng việc ăn năn, sám
hội tội lỗi của bản thân, chính lá lúc chúng ta mang cặp mắt mới để nhận
ra con người hèn hạ của chính mình.
Những người đồng hương của Chúa, vì mang con mắt cũ
kỹ, con mắt định kiến, thiển cận và hẹp hòi, đã không nhận ra Chúa
Giêsu. Họ không nhận ra Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Họ không tin Người là
một tiên tri, lại càng không thể tin Người là Đấng Cứu Thế, và chắc chắn
họ chẳng ngờ mình là đồng hương với chính Con Thiên Chúa. Vì thiếu cặp
mắt mới, cặp mắt của yêu thương, đón nhận, thiếu cặp mắt của đức tin, mà
chỉ mang cặp mắt của lòng ghanh ghét, ích kỷ như thế, họ đã giết Chúa.
Đóng đinh Chúa vào thánh giá, họ nghĩ rằng mình đã chiến thắng Chúa
Giêsu, như chiến thắng một kẻ thù không đội trời chung với họ. Đấng Cứu
Chuộc họ, lại bị chính họ giết chết, vì thế người Dothái trở thành kẻ
bất hạnh vì mãi mãi vẫn tách biệt ơn cứu độ, và xa cách vô cùng với Đấng
Cứu độ mình, Đấng mà lẽ ra, họ chính là những người đầu tiên được diễm
phúc lãnh nhận.
Chúng ta hãy thật lòng nhìn nhận tội của mình để
mặc lấy cặp mắt mới của đức tin mà trung thành thờ lạy Chúa. Ta xin Chúa
hãy loại bỏ những gì là định kiến, là thiển cận, hẹp hòi nơi tâm hồn ta.
Xin Người ban cho ta cặp mắt mới, không phải cặp mắt trên gương mặt của
mỗi người, nhưng là cặp mắt của lòng tin, để nhờ ánh sáng đức tin soi
chiếu, ta nhận ra Chúa đang hiện diện giữa cuộc đời ta, hiện diện nơi
anh em của ta.
Anh chị em thân mến,
Giờ đây, khi đã hiểu được trách nhiệm của mình
trong cái chết của Chúa và tỏ lòng thành muốn ăn tội, anh chị em và tôi
thành tâm dâng lời cầu nguyện, xin Chúa rộng lòng khoan thứ cho chúng
ta:
Lạy Chúa, như thánh Phaolô trên đường về Đamas,
Xin cho con trở nên mù lòa vì ánh sáng chói chan
của Chúa,
Để nhớ biết mình mù lòa, con được sáng mắt.
Xin cho con cặp mắt mới, để nhâïn ra ánh sáng
của Chúa,
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
Bởi đó là ánh sáng phá tan bóng tối trong con,
Và đòi buộc con phải hoán cải tâm hồn mình.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong đui mù,
Đừng ở lại trong đen tối của ánh mắt ích kỷ,
ghen tương,
Nhưng xin cho con khiêm tốn,
Nhận ra sự tối của chính mình,
Mà mở lòng đón lấy những tia sáng của thánh ý
Chúa,
Những tia sáng của những tấm lòng tốt quanh con,
Để con vươn lên tiến về phía Chúa.
Xin cho con tìm chân lý,
Để chân lý sẽ giải thoát nội tâm của con.
Vì nếu được giải thoát, con sẽ bình an trong
Chúa. Amen.
Thánh lễ hôm nay rất ý nghĩa cho giới trẻ. Trong
ngày Lễ Lá, biết bao thanh thiếu niên ra đón mừng Chúa. Cả một bầu khí
trẻ trung, hăng say, kính mến. Sự trẻ trung bột phát qua việc cầm cành
lá, qua lời tung hô đón chào Chúa. Thật là một bầu khí cuồng nhiệt. Giới
trẻ Do thái lúc ấy biểu lộ lòng kính mến thật hồn nhiên, thật dễ thương.
Không khác gì giới trẻ chúng ta hôm nay.
Nhưng thanh lễ hôm nay cũng khiến ta phải suy nghĩ
không ít vì những biến cố quá trái ngược. Chúa vừa vinh hiển vào thành
chưa được bao lâu đã phải tủi nhục chết trên thập giá. Tại cổng thành có
biết bao người ra chào đón tung ho, nhưng trên Núi Sọ chẳng còn mấy
người theo Chúa. Từ chúa nhật Lễ Lá đến thứ Sáu tuần thánh thời gian
không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến
Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ đường, đi ngang,
về tắt. Tại sao thế? Ta hãy lần theo dấu vết của những người bỏ cuộc để
nhận diện những ngã rẽ cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu.
Ngã rẽ của Giuđa. Giuđa là môn đệ
trung tín theo Chúa trong suot 3 năm Chúa đi rao giảng. Ông còn được
Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quan trọng: nắm giữ tài chánh. Ngày
Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông vắng mặt.
Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ đuoi theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng
gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con
đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn
nữa ông bán Chúa để lấy tiền.
Ngã rẽ của Phêrô. Phêrô là môn đệ rất
thân thiết của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi
người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá chắc chắn
ông ở bên Chúa. Nhưng ngày thứ sáu tuan thánh, không thấy ông đâu. Ông
đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng và hưởng thụ. Lười biếng vì khi
vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy
mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét
xử Chúa thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng
thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa.
Ngã rẽ của đám đông. Hàng vạn người
đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người
reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ
chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười. Đám đông đã rẽ sang
lối nào? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám
đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười
Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án.
Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán
Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Nhưng người ta thay lòng đổi dạ do tác
động của tiền bạc, của hưởng thụ, của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy
hiểm.
Những gì đã xảy ra cho Giuđa, cho Phêrô và cho đám
đông năm xưa vẫn có thể xảy ra cho ta hôm nay. Làm sao để ta luôn đi
trên đường theo Chúa và trung thành với Chúa? Thưa hãy Sống Lời Chúa.
Năm nay (2005), Hội đồng Giám mục Việt nam đề nghị chúng ta hãy lấy Lời
Chua làm kim chỉ nam. Trong thư chung năm 2005, HĐGM đã nhắn nhủ riêng
các bạn trẻ:
“Các bạn trẻ sẽ là chủ nhân của tương lai, là niềm
hy vọng của Giáo Hội. Trước bao nhiêu khuynh hướng, trào lưu và thần
tượng của thời đại, các bạn không được phép sai lầm khi lựa chọn tiêu
chuẩn hướng dẫn hành động. Lời Chúa là Ánh Sáng duy nhất giúp các bạn
trong sự lựa chọn có tính quyết định này” (Thư chung 2005, 9).
Thật là trùng hợp. Ngay lúc này đây, khi giới trẻ
Hà nội đang họp nhau tại Nhà thờ Lớn này, thì tại quảng trường thánh
Phêrô, Rôma, Đức Thánh Cha Bênêđíchtô cũng đang gặp gỡ giới trẻ Rôma,
Italia. Và Đức Thánh Cha cũng khuyên nhủ các bạn trẻ hãy siêng nang đọc,
học hỏi, suy niệm Lời Chúa để thực hành trong đời sống. Lời Chúa sẽ
hướng dẫn các bạn biết sáng suốt trước những chọn lựa trong đời sống.
Lời Chúa sẽ soi sáng cho các bạn trong những lúc bóng tối vây phủ. Lời
Chúa sẽ ban sức mạnh khi các bạn cảm thấy yếu mệt. Lời Chúa sẽ hướng dẫn
các bạn biết lối quay về nếu lỡ lạc đường. Lời Chúa sẽ biến các bạn trở
thành chứng nhân cho Chúa trong xã hội hôm nay. Vì Lời Chúa sẽ ấp u,
nuôi dưỡng để các bạn lớn lên trong tình thương yêu. Cảm nghiệm được
tình yêu thương của Chúa, các bạn sẽ biết đáp lại. Và sẽ trung thành với
Chúa cho đến cùng.
Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con trong tình
thương của Chúa. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý CHIA SẺ
1- Trong ba loại ngã rẽ, bạn thấy ngã nào nguy hiểm
nhất?
2- Bản thân bạn có kinh nghiệm gì với những cám dỗ
này? Bạn đã chống trả ra sao? Bạn đã thành công hay thất bại trong cuộc
chiến đấu chống những cơn cám dỗ kể trên?
3- Đối với bạn, Kinh Thánh có quan trọng không?
4- Câu nào trong Kinh Thánh đánh động bạn nhất?
5- Phải đọc Kinh Thánh thế nào mới có kết quả?
(Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm)
Tuần Thánh bắt đầu với Chúa nhật Lễ Lá và Phụng vụ
Lễ Lá lại tiến hành với hai nhịp tương phản. Bắt đầu là cử hành việc
Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua, được dân chúng
đón tiếp trọng thể, ngập tràn tiếng reo vui. Rồi ngay sau đó trong Thánh
Lễ, thay cho bài Tin Mừng lại là bài tường thuật cuộc thương khó của
Chúa, cuộc thương khó đầy máu và nước mắt. Hội Thánh có ý gì khi liên
kết hai sự kiện tương phản này? Tại sao không đợi đến Thứ Sáu Tuần Thánh
để công bố bài thương khó mà phải đọc ngay từ Chúa nhật Lễ Lá? Đã hẳn có
nhiều ý nghĩa phong phú hàm chứa ở đây cần được khai triển. Một trong
những nội dung đáng quan tâm là Hội Thánh muốn làm nổi bật đường lối cứu
thế của Chúa Giêsu và mời gọi con cái mình bước theo Thầy.
Khi kể lại việc Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ
Giê-ru-sa-lem, thánh Gioan ghi nhận: “Các môn đệ của Người nhớ lại lời
đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt thành lo việc Nhà Chúa mà tôi đây
phải thiệt thân” (Ga 2,17). Một số Kitô hữu đã liên kết từ “nhiệt thành”
ở đây – cũng như việc Chúa Giêsu được đón rước trọng thể vào thành
Giêrusalem trong tư cách một vị vua – với phong trào chính trị được gọi
là “Nhiệt Thành-zelos” thời bấy giờ. Ngoài ra người ta còn kết nối sự
kiện này với lời các thượng tế tố cáo Chúa Giêsu trước tòa Philatô: “Ai
xưng mình là vua thì chống lại Cêsarê” (Ga 19,12). Tất cả để dẫn đến kết
luận Chúa Giêsu là nhà cách mạng chính trị.
Phong trào chính trị có tên gọi “Nhiệt Thành” được
khơi nguồn từ ông Mattathias, cha của anh em nhà Macabê. Vào thời đó,
vua Antiôkô cưỡng bức người Do Thái phải chối đạo và tế thần trên bàn
thờ, nhưng ông Mattathias tuyên bố: “Chúng tôi sẽ không tuân theo lệnh
vua mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi để xiêu bên phải, vẹo bên trái”
(1 Mac 2,22). Và khi có một người Do Thái tiến ra tế thần trên bàn thờ
theo chỉ dụ của nhà vua, thì sách Macabê kể lại: “Ông Mattathias bừng
lửa nhiệt thành… ông nhào tới hạ sát hắn ngay tại bàn thờ. Ông cũng giết
luôn viên chức của vua có nhiệm vụ cưỡng bức người Do Thái tế thần, rồi
ông phá đổ bàn thờ”. Sau đó sách Macabê kết luận: “Ông bừng lửa nhiệt
thành đối với Lề Luật giống như ông Pinêát trong vụ Dimri, con của Xalu”
(2,23-26). Kể từ lúc đó, từ ngữ “nhiệt thành-zelos” trở thành khẩu hiệu
diễn tả quyết tâm dùng sức mạnh và bạo lực để bảo vệ đức tin, bảo vệ Lề
Luật.
Vào thời Chúa Giêsu, không ít người Do Thái đi theo
phong trào này, chủ trương dùng bạo lực để xua đuổi đế quốc Rôma, giành
lại chủ quyền và độc lập của dân tộc. Dựa vào một số chi tiết trong các
sách Tin Mừng, người ta cũng nhìn Chúa Giêsu như một nhà cách mạng chủ
trương dùng bạo lực để xây dựng một vương quốc chính trị. Đồng thời, dọc
dài lịch sử Giáo Hội, hình ảnh Chúa Giêsu như một nhà cách mạng cũng
được vận dụng để biện minh cho việc sử dụng bạo lực nhằm xây dựng một
thế giới tốt đẹp hơn.
Thế nhưng đây có thực sự là ý hướng của Chúa Giêsu?
Khi suy niệm về việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem cách trọng thể, Đức
Bênêđictô XVI trả lời: “Không. Làm cách mạng bằng bạo lực, nhân danh
Thiên Chúa để giết người, đó không phải là đường lối của Chúa. Lòng
nhiệt thành của Người đối với vương quốc Thiên Chúa được thể hiện bằng
cách thức hoàn toàn khác”.
Trong ngày Lễ Lá, hình ảnh Chúa Giêsu cỡi trên lưng
lừa tiến vào Giêrusalem làm dội lại lời tiên tri Zacaria: “Nào thiếu nữ
Sion, hãy vui mừng hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo
hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng chính
trực, Đấng toàn thắng; khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn
còn theo mẹ” (9,9). Vào thời tiên tri Zacaria cũng như vào thời Chúa
Giêsu, con ngựa mới là biểu tượng của sức mạnh, còn lừa là phương tiện
của người nghèo. Vì thế hình ảnh Vua Giêsu ngồi trên lưng lừa diễn tả
một vị vua hoàn toàn khác. Người là vua của hòa bình, vua của người
nghèo, vị vua đơn sơ và khiêm tốn.
Cũng lúc ấy, chúng ta khám phá lý do tại sao Phụng
vụ Lễ Lá được bắt đầu bằng việc tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành
Giêrusalem trong vinh quang, rồi được tiếp nối bằng việc công bố bài
thương khó. Để thấy rõ hơn chân dung của vị vua hòa bình. Để thấy rõ hơn
ý nghĩa của “sự nhiệt thành”, không phải thứ nhiệt thành của bạo lực
nhằm xây dựng một vương quốc trần thế, nhưng là sự nhiệt thành của Thập
Giá, nhiệt thành của tình yêu tự hiến trọn vẹn.
Sự nhiệt thành ấy cũng chất vấn cách nhìn và cách
sống của người môn đệ Chúa Giêsu ở mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh.
Có những lúc người môn đệ Chúa cũng bị cám dỗ sử dụng bạo lực để gọi là
phục vụ Nước Chúa. Nếu chưa phải là những hành động bạo lực thì cũng là
những lời nói và ứng xử bạo lực. Dù là hành động hay lời nói thì gốc rễ
vẫn là sự căm thù chất chứa trong tâm hồn, đôi khi được ẩn giấu dưới lớp
áo nhiệt thành, và sự căm thù ấy đã dẫn đến biết bao hậu quả tai hại cho
chính Hội Thánh của Chúa. “Chúng ta đã biết quá rõ những hậu quả tàn ác
của thứ bạo lực với động cơ tôn giáo. Bạo lực không xây dựng vương quốc
Thiên Chúa, vương quốc của nhân tính. Ngược lại, bạo lực là khí cụ ưa
thích của tên phản-Kitô, cho dù nó núp bóng tôn giáo. Nó không phục vụ
nhân loại mà phục vụ sự phi nhân” (Benedict XVI, Jesus of Nazareth, tome
II, 15).
“Chúa Giêsu đã thiết lập tiêu chuẩn đánh giá lòng
nhiệt thành chân chính, đó là lòng nhiệt thành của tình yêu tự hiến, và
sự nhiệt thành này phải trở nên mục tiêu của đời sống Kitô hữu”. Suy tư
này của Đức Bênêđictô XVI đáng cho mỗi người Kitô hữu ghi nhớ để soi
sáng lời nói và hành động của mình. Nhất là trong Tuần Thánh, khi đi
đàng Thánh Giá, khi ôn lại những chặng đường trong cuộc khổ nạn của Chúa
chúng ta.
THIÊN CHÚA MANG DIỆN MẠO CỦA MỘT THỦ LÃNH HIỀN
HÒA
Sự kiện Đức Giêsu long trọng tiến vào Giê-ru-sa-lem
được các Phúc Âm nhất lãm, kể cả Phúc Âm Gio-an, đồng loạt thuật lại; và
sự kiện này luôn được phụng vụ gắn liền với cuộc tử nạn mà Người sẽ phải
chịu tại đó. Tuy nhiên, theo ý kiến của nhiều nhà kinh thánh học, thì
các chi tiết của cuộc đón rước Chúa vào thành thánh, như được mô tả, lại
phù hợp với lễ Lều cử hành vào tháng 09 dương lịch, hơn là những ngày
trước lễ Vượt Qua (xem bình giải Mt 21 trong Lời Chúa cho mọi người).
Điều này cho thấy, đối với các tác giả sách Tin Mừng, diện mạo Đức Giêsu
trong sự kiện này có ý nghĩa rất lớn đối với cuộc thương khó và cái chết
mà Người sẽ phải chịu sau này.
“Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu
ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ”. Tôi
không rõ, trong văn hóa Do Thái, hình ảnh một thủ lãnh cưỡi trên lưng
lừa con nói lên điều gì đặc biệt. Căn cứ vào trích đoạn từ ngôn sứ
Da-ca-ri-a (Dcr 9,9-10), thì rõ ràng hai thuộc tính hiền hậu và khiêm
tốn được đề cao, đối kháng với hình ảnh cao ngạo, chinh phục và thống
trị của các danh tướng trên lưng chiến mã. Mỗi khi đọc các bài tường
thuật thương khó, tôi vẫn thấy khó chịu khi Phi-la-tô diễu cợt cái diện
mạo nực cười của phạm nhân ‘vua’ đứng trước mặt ông: “Vậy ông là vua
sao?.. Đây là vua các người… Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các ngươi
sao?.. tấm bảng đó ghi: ‘Giêsu Na-da-rét, vua dân Do Thái” (Ga 18,37;
19,14.15.19). Đối với một quan chức Rô-ma đầy quyền lực như ông thì suy
nghĩ như vậy cũng phải thôi: đã là vua thì phải khác, không thể chấp
nhận cái diện mạo kỳ cục này: thủ lãnh cưỡi lừa! Trước những người Do
Thái hay cao ngạo về diện mạo đấng Ki-tô vẻ vang mà họ mong đợi, quan
tổng trấn không ngừng hạ nhục: “Các ngươi muốn ta phóng thích ai cho các
người đây: Ba-ra-ba hay Giêsu, cũng gọi là Ki-tô?" (Mt 27,17.22) Thế
nhưng xem ra cái hình ảnh ‘thủ lãnh cưỡi lừa’ này lại thích hợp với câu
tung hô ‘Hô-san-na!’ theo nghĩa ‘hãy cứu chúng tôi!’ hơn (xem bình giải:
idem): đương nhiên ‘cứu chúng tôi’ có thể bằng quyền lực thống trị như
bất kỳ lãnh tụ nào khác, hay ‘cứu chúng tôi’ bằng lòng từ bi và thương
xót của “Đức Vua đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa”.
Quyền lực của thập giá chính là quyền lực của lòng
từ bi thương xót! Nếu ai ai cũng đều, tự nguyên hay bị ép buộc, cúi rạp
trước quyền lực thống trị và tung hô “Hô-san-na” (vạn vạn tuế), thì chỉ
Ki-tô hữu mới biết nhảy mừng hô vang “Hô-san-na” (hãy cứu chúng tôi)
trước thập giá cứu độ. Đối với họ, Đấng cưỡi trên ‘lưng lừa con, là con
của một con vật chở đồ” chắc chắn còn vẻ vang hơn các anh hùng cái thế
chễm chệ cưỡi trên lưng chiến mã bách chiến bách thắng, là vì chỉ mình
Ngài mới là niềm vui mừng và hy vọng cho thân phận yếu hèn triền miên
của họ. Căn bản là vì Thiên Chúa họ tôn thờ, bây giờ và mãi mãi, vẫn
luôn là vị Thiên Chúa của từ nhân và xót thương, một Thiên Chúa cứu độ
gánh lấy tội lỗi của gian trần.
Người Do Thái thời đó, kể cả các môn đệ thâm tín
nhất của Đức Giêsu, khi đối diện với cuộc khổ nạn Người chịu, đã không
thể đứng vững (chứ chưa nói là tiếp tục hò reo mừng rỡ) vì sự hiền hậu
quá mực khiêm hạ của khổ nạn và thập giá Người chịu. Tín hữu mọi thời
cũng sẽ như thế thôi nếu chỉ tung hô “hô-san-na – vạn vạn tuế!” mà không
biết đến “hô-san-na – hãy cứu chúng tôi!” phát đi từ đáy lòng, trong ý
thức con người tội lỗi và yếu hèn tột cùng của mình. Tự bản thân, Phê-rô
đã phải học biết “Hô-san-na” qua nhận thức đó; chính ông, bất chấp bao
nhiệt tình và thiện chí, cũng vẫn chỉ là một người mỏng giòn dễ sa ngã.
Ngược lại Giu-đa thì không, anh không thể chấp nhận tội lỗi của mình nên
đã ‘ném số bạc vào đền thờ và ra đi thắt cổ’ (Mt 27,5).
Từ suy tư trên, tôi nghiệm ra một điều thật quan
trọng; trong suốt mùa chay, Hội Thánh kêu gọi Ki-tô hữu chúng ta nhìn
vào thân phận tro bụi của mình (cả về thể chất lẫn tinh thần) là hoàn
toàn có lý. Tình trạng sa ngã và phạm tội, mà ta đã phát hiện ra cách
rất cụ thể nơi mình trong suốt thời gian này, không được làm ta ngắt
tiếng hò reo “Hô-san-na – hãy cứu chúng tôi!”, nhưng phải giúp ta phát
hiện ra nội dung Tin Mừng hơn của lời tung hô ấy trong vui sướng nhảy
mừng. Chỉ lúc đó, phải, chỉ khi ấy đối với mỗi chúng ta Đức Giêsu quả
thực là “Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa”, một Thiên Chúa đầy thương xót
và cứu độ. Chính hôm nay ta phải nghe được lời giới thiệu: “Kìa Đức Vua
của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con,
là con của một con vật chở đồ” thật tràn trề hy vọng và an ủi biết bao!
Lạy Thiên Chúa từ nhân, xin cho cặp mắt con
không ngừng chiêm ngưỡng diện mạo ‘Con Người hiền hậu ngồi trên lưng
lừa’. Xin cho cuộc sống Ki-tô hữu - tu sĩ - linh mục của con, nhất là
trong những ngày tháng còn lại, sẽ chỉ là một nhảy mừng hy vọng với lời
hô vang ‘Hô-san-na – cứu chúng con!’ kéo dài. Xin cho các lỗi lầm con đã
phạm trong suốt quá khứ cuộc đời càng thúc giục con đi đón Người cách
phấn khởi và hân hoan hơn. Amen.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Ngày 15-4-1996, linh mục George Parker, giám
quản xứ thánh Giuse thuộc giáo phận Norwich ở Connecticut Hoa Kỳ, đã trả
lại số tiền 5.000 đôla của nghị sĩ Christopher J.Dodd giúp cho trường
học của giáo xứ. Cha Parker làm thế để phản đối nghị sĩ Dodd mang danh
Công giáo, nhưng lại liên tục bỏ phiếu ủng hộ các dự luật phá thai. Cha
Parker gọi số tiền của Dodd là "số tiền vấy máu hài nhi vô tội". Người
không ngần ngại gọi Dodd là "môn đệ của thần chết".
Việc làm của cha khiến nhiều người cảm kích, dân
chúng đã gởi về giúp trường học 61.000 đôla. Nhiều tổ chức bênh vực sự
sống, và nhiều cơ quan truyền thông bày tỏ sự ngưỡng mộ ngài.
Trớ trêu thay không một linh mục nào trong giáo
phận Norwich bênh vực hành động kiên cường ấy. Không ai dám công khai
phê phán việc làm của nghị sĩ Dodd. Đau đớn hơn nữa, chính đức cha
Daniel A. Hart vì áp lực của nghị sĩ Dodd đã cho ngài ngưng việc coi xứ.
Đến nước này ngài chỉ biết xin về hưu. Đức Cha Hart viết thư cho ngài
như sau: "Tôi rất tiếc là cha đã xin về hưu với tâm trạng bị xử bất
công. Tôi cầu nguyện cho sự đau khổ này sẽ kết hợp cha với Đức Kitô một
cách trọn vẹn hơn, nhờ Người mà cha tìm được niềm vui".
****
Câu chuyện trên đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ tâm
trạng của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Thánh Gioan viết: "Sắp
đến lễ Vượt Qua, rất nhiều người đi Giêrusalem... Họ đang tìm Đức Giêsu
và hỏi han nhau: "Chắc ông ấy chẳng đến dự lễ đâu!" Còn bọn tư tế và
Biệt phái đã ra lệnh: Bất cứ ai biết ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ
đến bắt" (Ga.11,55-57). Vậy Đức Giêsu vào thành Giêrusalem với tâm trạng
của một kẻ bị truy nã, một kẻ có tên trong sổ bìa đen.
Nhưng Người vẫn công khai vào thành, không một chút
sợ hãi. Người cỡi trên lưng lừa con để thực hiện lời tiên tri Dacaria:
"Này Vua ngươi đến, đầy vẻ dịu dàng, cỡi lừa, lừa con của lừa mẹ"
(Dcr.9,9). Đức Giêsu muốn chứng tỏ Người là Đấng Mêsia, Vị cứu tinh, Vua
hiền từ: Một Vị vua chiến thắng bằng cái chết trên thập giá, khác với
chiến thắng bằng vũ lực của các vua trần thế ngồi trên lưng ngựa.
Dân chúng trải áo, lấy lá lót đường, hoan hô chúc
tụng Người như một vị vua chiến thắng, Đấng cứu tinh của dân tộc, đuổi
lũ quân Rôma ra khỏi vùng Palestina, xô nhào chúng ra biển, tái lập
vương quyền vua Đavít. Trái lại, Đức Giêsu đã cưỡi con vật hiền lành,
tiến vào Giêrusalem, hành động này đã đi ngược lại quan niệm của họ, nên
không lạ gì họ đã hùa theo nhóm Biệt phái, kết án tử hình cho Người chỉ
vài ngày sau đó.
Cha Parker đã không chấp nhận thỏa hiệp với thế
gian, với tội lỗi. Người đã giữ đúng vai trò tiên tri, chấp nhận lội
ngược dòng, cho dù phải chịu khổ đau và bị bỏ rơi để nên giống Thầy
Giêsu.
Đức Giêsu không xua quân đi giao chiến với các dân
tộc. Nhưng đã qui tụ mọi người chiến đấu với nghèo đói, bất công và thù
hận.
Đức Giêsu không đến để kết án và hủy diệt kẻ khác.
Nhưng đã thứ tha và băng bó những vết thương tâm hồn.
Đức Giêsu không ngồi trên ngai vàng để dân chúng
hầu hạ. Nhưng đã quì xuống rửa chân cho các thần dân.
Đức Giêsu không đến để thiết lập một vương quốc
trần gian tạm bợ, Người đến để xây dựng một vương quốc vĩnh hằng, vương
quốc tình yêu ngay trong lòng mọi người.
****
Lạy Chúa, người đời đón rước Chúa vào thành
Giêrusalem, để rồi lại kết án Chúa ngay trong thành thánh. Xin cho chúng
con đừng bao giờ thỏa hiệp với thế gian, nhưng cho chúng con can đảm
theo Chúa đến chiều thứ Sáu Tuần Thánh, để được sống lại với Chúa trong
đêm Phục Sinh khải hoàn. Amen.
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Hôm nay chúng ta bước vào Tuần thánh, kỷ niệm cuộc
tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Tuần thánh được khai mạc bằng
nghi thức làm phép lá và cuộc rước lá. Đây là những ngày cuối cùng của
cuộc đời Chúa Giêsu. Tất cả những việc làm của Chúa Giêsu trong tuần
thánh này đều diễn tả tình yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta: Ngài lập
bí tích Thánh thể là bí tích yêu đương, Ngài hiến trọn thân xác mình làm
của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Ngài còn dùng cái chết nhục nhã trên thập
giá để cứu chuộc chúng ta, một hành động diễn tả tình yêu đến tột cùng.
Nhưng sau cái chết nhục nhã trên thập giá, Ngài sẽ sống lại vinh quang
để đem lại cho chúng ta sự sống mới và bảo đảm phúc trường sinh.
Hôm nay là Chúa nhật Lễ Lá và Thương Khó, chúng ta
bước vào những ngày mà nỗi khổ đau của Đức Giêsu lên đến cực điểm. Đây
chắc chắn phải là những ngày cuộc đời làm sáng tỏ hơn hết tình yêu Chúa
đối với chúng ta. Chính Ngài đã chẳng nhói: “Bằng chứng lớn lao nhất của
tình yêu đối với bạn hữu là chết cho bạn sao”? Ngài đã chết cho chúng ta
và chết trên thập giá! Chúng ta có thấu hiểu mầu nhiệm của tình yêu này
không? Lời Chúa tiên báo: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi mặt đất, Ta sẽ
kéo mọi sự lên cùng Ta” có hấp dẫn được tâm hồn chúng ta không?
Chúng ta hãy dùng tuần lễ này để thông cảm với Đức
Giêsu bằng việc suy niệm sự thương khó của Ngài để biết theo gương Ngài
đi theo con đường Ngài đã chỉ vẽ: đường thập giá: “:Nếu ai muốn theo Ta,
hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Đồng thời chúng ta
hãy vui vẻ đón nhận mọi đau khổ trong đời sống hằng ngày để thông hiệp
vào sự thương khó còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Ngài nơi chúng ta
để đem lại ơn cứu độ cho chúng ta và nhiều người khác.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Is 50, 4-7)
Ngôn sứ Isaia có 4 bài ca về Người Tôi Tớ đau khổ.
Bài ca hôm nay là bài ca thứ ba. Người tôi tớ Thiên Chúa này là một tôi
tớ nào đó, được Isaia diễn tả với những đặc tính sau đây:
a) Người tôi tớ Thiên Chúa luôn trung thành với
nhiệm vụ được giao phó nên đã chấp nhận tất cả: sự bách hại, tra tấn,
phỉ nhổ, cô đơn.
b) Người tôi tớ nhẫn nhục chịu đựng, không dùng bạo
lực chống bạo lực.
c) Người tôi tớ tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa
là Đấng sẽ đến giải thoát mình.
+ Bài đọc 2: Pl 2, 6-11.
Chúa Giêsu đươc coi như người Tôi tớ mà Isaia đã
loan báo trước. Nơi Người có hai sự tương phản rõ rệt: sự tự hạ phi
thường và chiến thắng vinh quang. Theo thánh Phaolô, Đức Giêsu có thể là
một Đấng Messia chiến thắng buộc mọi người phải nhận uy quyền của mình.
Thế nhưng, Ngài lại muốn hạ mình làm một người tôi tớ, hạ mình đến tận
cùng để phục vụ. Những ai càng hạ mình càng được nâng lên, sự hạ mình
khiêm tốn của Chúa Giêsu đã được đền đáp: Thiên Chúa đã tôn Ngài lên làm
Đức Chúa của muôn loài muôn vật.
+ Bài Tin Mừng: Mt 26,14-27,66
Chúng ta có bốn bài tường thuật cuộc thương khó của
Đức Giêsu trong Tin Mừng của bốn thánh ký. Mỗi bài tường thuật đều có bố
cục giống nhau nhưng mỗi tác giả chú trọng vào một ý làm cho nó nổi bật
lên:
. Marcô chú trọng vào mục đích truyền giáo.
. Luca nhấn mạnh vào tình thương yêu của Chúa.
. Gioan làm nổi bật sự tự do chấp nhận của Chúa,
đồng thời cũng nói lên vương quyền của Ngài.
. Matthêu trình bầy đầy đủ hơn cả. Bài thưong khó
này được coi như bài giáo lý dành cho những người Do thái để họ biết Đức
Giêsu là ai.
Bài tường thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu là
một bằng chứng hùng hồn về tình yêu của Ngài đối với chúng ta; đồng thời
cũng là một thiên anh hùng ca về lòng cam đảm và tinh thần hy sinh chịu
đựng, cũng như thái độ khoan dung thứ tha của Ngài. Suy niệm cuộc thương
khó của Chúa sẽ giúp chúng ta biết can đảm đón nhận mọi gian nan thử
thách trong cuộc sống để góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Ngài.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA. Cùng đau khổ với
Chúa
1. Nói về đau khổ
Đau khổ có mặt trên mặt đất này ngay sau khi tổ
tông Adong Evà phạm tội ăn trái cấm. Thiên Chúa đã ra án phạt cho ông bà
phải chịu đau khổ và sau cùng phải chết, và hậu quả bi đát này còn
truyền lại cho con cháu ông bà (x. St 3,14-18).
Đức Giêsu vì đã muốn trở nên con người như chúng ta
nên cũng trở nên con cháu Adong Evà, và nếu đã là con cháu ông bà thì
phải chịu đau khổ như chúng ta, bởi vì Ngài đã trở nên người phàm như
chúng ta, chỉ trừ tội lỗi.
Có hai thứ đau khổ: đau khổ vật chất và đau khổ
tinh thần. Thường người ta cho vật chất hay thể xác là đau đớn, còn đau
đớn tinh thần là đau khổ. Tuy nhiên, đau đớn và đau khổ có sự tương quan
với nhau: đau đớn có thể đưa đến đau khổ và ngược lại, đau khổ có thể
đưa đến đau đớn, hoặc vừa đau đớn vừa đau khổ.
Con người ta ở đời dù lớn, dù nhỏ, thế nào cũng đã
phải chịu đau đớn hay đau khổ hơn một lần. Đứa trẻ dù mới sinh ra cũng
phải chịu đau đớn, mặc dầu chưa biết đau khổ là gì, vì thế:
Vừa sinh ra sao đà khóc chóe,
Trần có vui sao chẳng cười khì.
(Cao bá Quát)
Thiên Chúa không chủ ý dựng nên các đau khổ cho
loài người, nhưng đấy là hình phạt bất đắc dĩ theo sự công bình của
Chúa. Ngoài ra, không phải mọi tai họa, mọi sự đau khổ đều do Chúa gửi
đến, mà do chính con người độc ác đã tạo ra cho nhau. Gần đây người ta
phân tích nguyên nhân đau khổ loài người thì được biết:
. 85% đau khổ là do người làm khổ người.
. 5% là do thiên tai như mưa, gió, lũ lụt, động
đất…
. 10% là do ngẫu nhiên.
Nếu người yêu người, người thực hiện tình người thì
85% đau khổ sẽ không còn, chỉ còn 15% do thiên tai và ngẫu nhiên. Và 15%
đau khổ này, khi loài người thương yêu nhau, san sẻ cho nhau, yên ủi
giúp đỡ nhau thì coi như đau khổ không đáng kể.
2. Ý nghĩa của đau khổ
Đứng trước thực tại của đau khổ, không ai có thể
phủ nhận được. Ai cũng phải chấp nhận sự hiện hữu của nó. Nhưng trước
những đau khổ ấy, mỗi người, mỗi tôn phái có một chủ trương riêng, một
cái nhìn đặc thù và gán cho đau khổ một ý nghĩa riêng.
a) Các chủ trương trước đau khổ
* Thiên Chúa giáo:
Theo nhiều bản kinh, nhất là kinh Lạy Nữ vương, thì
đời người được coi như là chốn lưu đầy, là vũng khóc lóc, là thung lũng
đầy nước mắt. Nhưng đấy chỉ là lời kinh của người Công giáo đặt ra, có
khi là của bậc thánh nhân khả kính, chí như trong bộ sách Phúc âm, không
hề thấy nói đời là bể khổ. Chỉ thấy cuộc đời của Chúa Cứu thế này đầy
những đau khổ...
Còn trong những lời Chúa Giêsu giảng dạy, nhiều lần
Ngài muốn cho người ta hiểu và tin trên mặt đất này chỉ là tạm gửi trong
một khoảng thời gian dự bị, thời sau mới là sung sướng hay đau khổ, và
cũng là yên ủi những ai lâm vào hoàn cảnh nghèo nàn trên mặt đất này vẫn
đầy đau khổ, nhưng cần phải phân biệt những thứ giả dối qua đi không hẳn
là đau khổ hay là hạnh phúc cho thực.
* Phật giáo.
Đức Thích Ca đã tìm ra nguyên nhân của các đau khổ
là: sinh, lão, bệnh, tử. Ngài đã giác ngộ và giúp cho chúng sinh giải
thoát khỏi đau khổ. Phật giáo cho đời là bể khổ “bọt trong bể khổ, bèo
đầu bến mê”. Một số thi sĩ nước ta bị ảnh hưởng yếm thế của Phật giáo,
nên các tác phẩm đề có phảng phất ý tưởng bi quan, coi đời chỉ là bể
khổ, là bến mê, là ảo ảnh, là vô thường...
Đức Thích Ca nói với năm thầy Sa-môn trước kia đã
tu luyện cùng ngài ở Khổ hạnh Lâm: ”Này các thầy Sa-môn, đây là phép mầu
về sự khổ: sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, cái gì
không ưa mà phải hợp là khổ, cái gì muốn mà không được là khổ” (trích
trong kinh Mahavagga, theo bản dịch của Phạm Quỳnh, Phật giáo đại quan,
Nam phong tùng thư, tr 47). Đó là diệu đế thứ nhất nói về vạn sự ở đời
là khổ, trong Tứ diệu đế là căn bản tinh hoa của Phật giáo. Chính phật
Tổ cũng dạy: ”Nước mắt chúng sinh trong ba nghìn thế giới, đem chứa tích
lại còn nhiều hơn nước trong bốn bể”(Lm Bửu Dưỡng, Vấn đề đau khổ, Đa
minh, 1966, tr 55-56).
* Phái Khắc kỷ
Phái này chủ trương triết thuyết về con người hùng.
Họ coi như đời không có đau khổ, và nếu phải đau khổ thì cứ cắn răng mà
chịu, không hề than khóc, cứ phớt tỉnh đi, coi như không đau khổ vậy.
Những người theo phái này đều là những con người dạn dầy với đau khổ, họ
không để cho đau khổ chi phối họ, và ngược lại, họ còn muốn chi phối đau
khổ.
Người ta kể: Zénon de Cittium, thuộc phái Khắc kỷ,
bị bắt làm nô lệ. Anh chàng nô lệ này thuyết cho ông chủ về chủ trương
của phái mình trước đau khổ: coi như không đau đớn gì. Ông chủ bèn sai
đầy tớ lấy hai thanh tre buộc vào sợi dây ngắn, quấn vào ống chân của
Zénon mà vặn xem có đau không. Zénon không tỏ ra chút đau đớn, cứ vui
cười. Ông chủ lại bảo người đầy tớ phải xoắn cho chặt, cho mạnh. Zénon
cứ bình tĩnh và nói với người đầy tớ ấy rằng:
- Xoắn vừa chứ kẻo gẫy ống chân đấy.
Thấy mình bị trêu chọc, tên đầy tớ lấy hết sức vặn
gẫy đôi chân của Zénon ra. Nhưng Zénon không tỏ ra đau đớn mà chỉ bình
tĩnh nói:
- Tôi đã bảo kia mà! Vặn mạnh quá làm gẫy đôi ống
chân ra rồi!
* Theo quan niệm người đời
Mọi người không phủ nhận đau khổ và cũng cảm thấy
khiếp sợ đau khổ, không muốn chịu nhưng lại coi đau khổ là phương tiện
cần thiết để đạt tới đích cao vời. Ai muốn tới mục đích thì cần phải
dùng những phương tiện để đạt tới mục đích đó. Ví dụ:
Trời đất sinh ta âu hữu ý
Khách tài tình nên trải vị gian truân,
Một mai gặp hội phong vân.
(Cao bá Quát)
hoặc:
Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử?
(Không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con)
Kinh Thánh cũng nói: ”Lửa thử vàng, gian nan thử
người nhân đức”. Chính gian nan tự nó không có ý nghĩa gì, nhưng nó là
phương tiện để tô luyện ta nên tốt hơn. Cũng như giống cúc “Camomile” có
đặc tính kỳ lạ này: càng bị giẫm, bị đè lên bao nhiêu nó càng lớn nhanh
bấy nhiêu (Chuyện lạ quốc tế, tr 108). Cũng một lẽ: chiếc lò xo bị nhận
xuống ít thì bật lên nhẹ, còn nếu bị nhận xuống nhiều thì bật lên càng
mạnh. Càng bị thử thách, con người càng hăng hái tiên lên. Đấy là luật
bù trừ ở đời.
3. Mục đích của đau khổ
Chúng ta phải khẳng định rằng đau khổ không phải là
cứu cánh mà chỉ là phương tiện, là điều kiện “sine qua non” để đi tới
mục đích, cũng như học hành vất vả là điều kiện để thi đỗ, để thành
người thông thái; hoặc muốn được nhiều hoa trái thì buộc phải cắt tỉa.
Việc cắt tỉa không phải là mục đích nhưng chỉ là phương tiện để cây sinh
được nhiều hoa trái.
Đau khổ còn là một mầu nhiệm. Đau khổ được đức tin
đặt vào trong ý định của Thiên Chúa, trở thành một thử thách cao qúi,
Thiên Chúa dành cho những tôi tớ Ngài tín nhiệm. Đức Giêsu đã tuyên bố
điều luật khẩn thiết này: ”Quả thật, Ta bảo chúng con, nếu hạt lúa rơi
xuống đất không mục đi thì cứ trơ trơ một mình, nhưng nếu mục đi, nó sẽ
sinh ra nhiều hạt”. Như thế đau khổ có ý nghĩa cao qúi của nó, giúp ta
gắn bó với Chúa và giúp ta lập nhiều công phúc.
4. Thái độ của ta trước đau khổ
Chúng ta có thái độ nào trước đau khổ? Đương đầu
với nó hay trốn chạy? Chiến thắng hay đầu hàng? Về vấn đề này, ông Phạm
công Thiện có ý kiến: ”Đối với con người tầm thường, sự đau khổ và hạnh
phúc chống đối nhau như hai kẻ thù không đội trời chung (và hẳn chạy
theo hạnh phúc mà trốn đau khổ). Đối với con người khác thường, đau khổ
và hạnh phúc hợp tác với nhau”.
(Phạm công Thiện, Ý thức mới trong văn nghệ triết
học, 1965).
a) Thái độ tiêu cực
Nhiều người khiếp sợ đau khổ, khi thấy đau khổ thì
tìm cách lẩn trốn. Nhưng trốn thế nào được, vì đau khổ đi theo con người
như hình với bóng. Bóng mặt trời khi ta cong lưng chạy xuôi, nó chạy
trước chận lối ta đi. Nếu ta quay đầu đi ngược lại phía mặt trời, bóng
đen liền nhường bước cho ta đi trước, và lui về phía sau. Các sự trái
ngược trên đời cũng thế. Nếu ta cong lưng chạy trốn, chúng nó càng chặn
lối ta đi. Nếu ta làm mặt hiền hòa, bình tĩnh đón nhận, chúng nó sẽ mất
hết sức mạnh làm hại ta.
b) Thái độ tích cực
Tình yêu làm cho đau khổ mất hết vẻ man rợ của nó.
Tình yêu cũng làm cho đau khổ thành nguồn an ủi và sức mạnh. Vì tình yêu
Chúa, chúng ta hãy sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh đau khổ trong cuộc
sống, hãy biến những đau khổ ấy thành những hạt ngọc dâng lên Chúa.
Không có một hy sinh nào trở nên vô ích nếu trong đó đã có tình yêu
Chúa.
Ta nghĩ thế nào về hạt cát? Hạt cát có lợi hay có
hại cho ta? Phải chấp nhận nó hay phủi nó đi vì nó vô ích? Phải phân
biệt:
. Nếu hạt cát rơi vào mắt ta, chắc chắn ta phải tìm
cách phủi đi ngay vì nó làm ta đau khổ.
. Nếu hạt cát đó lại rơi vào miệng con sò thì sao?
Con sò sẽ tiết ra một chất nhờn bao bọc lấy hạt cát và sẽ biến nó thành
hạt ngọc. Vì thế người ta hay tìm sò hến để kiếm ngọc.
Chúng ta hãy cùng chia sẻ với Chúa Giêsu những sự
đau đớn của Ngài. Đời sống của ta phải trở nên Chúa Kitô chịu đóng đinh:
chính nhờ cây thánh giá mà Chúa đã cứu chuộc cả nhân loại. Chúng ta hãy
cùng cộng tác với Ngài để cứu chuộc nhân loại. Công cuộc cứu chuộc đó
được thực hiện trong việc thuận theo thánh ý Chúa.
Trong một trang rất hay của cuốn sách “La Prìere de
toutes les heures”, cha Charles khi suy niệm về tiếng AMEN đã trình bầy
cùng một ý tưởng ấy, tuy một cách khác nhau nhưng rực rỡ hơn:
“Một hôm gặp những người lấy một trang giấy lớn để
viết, một trang giấy trắng tinh. Mãi cuối trang, thay vì chữ ký, họ chỉ
viết một chữ AMEN. Và rồi họ chuyển đời họ đến Chúa. Chúa Quan phòng bắt
đầu viết lên trên chữ Amen đã viết trước ấy câu chuyện dài và đau thương
của cả một đời người. Các tang tóc xếp đặt từng hàng, có ghi rõ ngày
tháng và tiếng Amen đón nhận tất cả, đã cất đi được cái vị độc, đắng cay
của những ngày ấy. Chúa cũng ghi trên trang giấy những niềm hoan hỉ lành
mạnh, kèm thêm cả giờ khắc được hưởng, làm những trạm nghỉ trong một
cuộc hành trình. Thay vì khước từ và quên lãng, hoặc chúi đầu ngủ mê
trong những hoan lạc ấy, tâm hồn ngoan ngoãn cùng vui hưởng với Chúa và
vì Chúa, bởi họ đã đọc lời giải khát.
“Thưa Amen trước với hết mọi mệnh lệnh của Chúa.
Amen với những thất bại bất ngờ, với những vu khống trường kỳ, với những
hiểu lầm hằng ngày khiến ta bực bội. Amen khi xe lửa chạy quá sớm hay
quá chậm trễ. Amen khi trời nắng hay trời mưa, khi mất ngủ, khi nhọc
mệt, khi nắng hạn hay rét cóng: Amen đối với những bạn bè khó nết đầy
tật xấu và điên khùng. Amen đối với những người bà con già nua mà tuổi
tác làm cho họ trở nên ích kỷ và quạu cọ. Thưa Amen vui vẻ nếu có thể
được, và luôn thưa cách thành thực can đảm”.
(Charles SJ, La Prìere de toutes les heures, tr
135-136)
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu được cả bốn
thánh sử kể lại, mỗi người một ý hướng riêng, một chủ đích
riêng. Chúng ta thường muốn phối hợp cả bốn thánh sử lại để
có một bản duy nhất, đầy đủ mọi chi tiết. Làm như thế, chúng
ta không hiểu được ý hướng và chủ đích của mỗi tác giả.
Hôm nay, chúng ta được mời gọi đi vào cuộc
tử nạn của Chúa Giêsu với thánh Máccô.
Trình thuật của thánh Máccô ngắn gọn hơn
các thánh sử khác. Máccô nhấn mạnh đến những nhục nhã và
thống khổ của Chúa Giêsu hơn tất cả những trình thuật khác.
Máccô không sợ phơi bày hình ảnh của một Chúa Giêsu bị nhục
mạ, bị chối từ và bị ruồng bỏ…
Chúng ta hãy đọc lại từ từ… Chúng ta sẽ
thấy rằng Máccô có dụng ý làm nổi bật vai trò cứu thế của
Chúa Giêsu.
Nơi Máccô, chúng ta thấy hình ảnh của một
con người đau khổ đến tột độ, nhưng Ngài vẫn hiên ngang tuyên bố
khi Caipha, Thầy Thượng Tế hỏi Ngài: “Ông có phải là Đấng
Kitô, Con của Đấng đáng chúc tụng không?” Ngài tuyên bố: “Phải,
chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng
Toàn Năng, và ngự giá mây trời mà đến”.
Một lời tuyên bố long trọng giữa Hội Đồng Do
Thái. Ngài biết rõ họ sẽ dùng chính lời của Ngài để buộc
tội Ngài, nhưng Ngài vẫn hiên ngang, không rụt rè e ngại. Lời
tuyên bố long trọng này, không ai chấp nhận và đã trở thành án
tử hình cho Ngài, nhưng đó chính là vinh quang. Án tử hình đó
thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Sau đó, Máccô chỉ nói ngắn gọn: “họ
khạc nhổ vào Người, bịt mắt Người lại, vừa đánh đấm Người”.
Ngài đã trở thành nạn nhân của hận thù,
của sự dã man của con người. Để cứu con người, Ngài đã trở
thành nạn nhân của con người. Trong số đó có chúng ta không?
Trong đêm đó… Phêrô chối Thầy, các môn đệ đều
bỏ Thầy…
Chúa Giêsu đi vào cuộc tử nạn một mình…
“Linh hồn Thầy buồn đến chết được!”
Chúng ta có cảm thấy nghẹn ngào khi nghe
tiếng nói đau thương này không?
“Buồn đến chết được!” Nỗi buồn như
một làn sóng ào ạt trên tâm hồn Ngài, đến nỗi Ngài phải thốt
lên một lời than thở não nuột như thế.
Chúng ta làm sao đo được chiều kích của một
tâm hồn đang phải vật lộn với cả khối tội ác khổng lồ của
thế gian?
Ba người đã nghe tiếng than đó là Phêrô,
Giacôbê và Gioan. Nhưng họ có hiểu không? Chúng ta có hiểu không?
Chắc họ cũng như chúng ta… Họ ngủ hết…
Chúng ta cũng ngủ hay vô tình. Vô can!
Ngài đi xa hơn một chút, sấp mình xuống
đất và cầu nguyện …
Ngài chỉ còn một nơi nương tựa: Đó là Chúa Cha.
“Lạy Cha…xin cất chén này xa Con…”
Ngài sợ chén Cha trao. Ngài sợ đến nỗi phải van xin, như bệnh
nhân ung thư vừa được bác sĩ cho biết là không còn hy vọng.
Dưới ánh trăng lạnh của Tuần lễ Vượt Qua,
Chúa Giêsu đối mặt với cơn thủy triều đau đớn… Trước mắt Ngài,
hình ảnh cây thập giá đang hiện rõ… Phải đi tới cùng, không
thể lùi bước: “Chính vì giờ này mà Con đến”. “Nhưng xin
đừng làm theo ý con muốn, mà làm theo ý Cha muốn”.
Sự vâng phục can đảm không thể tưởng được!
Vâng phục trong cơn sợ hãi lạnh người! Sự vâng phục tuyệt đối
này đã đưa Ngài đi thật xa, đến sự bỏ mình, chấp nhận tất cả
nhục hình và cái chết thống khổ.
Những khổ hình bên ngoài chỉ là dấu hiệu
của một khổ hình đáng sợ hơn là cuộc khổ hình trong tâm hồn.
Ngài gánh chịu tất cả khối tội ác của con người.
Đau khổ của Chúa Giêsu là một vực thẳm không
ai dò thấu… Chúng ta cũng không thể hiểu với khả năng của con
người. Chúng ta chỉ có thể hiểu được phần nào dưới ánh sáng
của Thánh Thần Tình Yêu mà thôi. Xin Ngài dẫn đưa chúng ta vào
sâu trong mầu nhiệm đau thương này để thấy rằng chúng ta được
“yêu đến tận cùng”.
Các thánh như Anphongsô, thánh Gioan Thánh
Giá… khuyến khích chúng ta năng suy gẫm cuộc tử nạn của Chúa
để nhờ đó yêu mến Chúa hơn.
Philatô, một viên chức cao cấp của Rôma, sau
khi tỏ ra hết sức ngay thẳng đã đầu hàng. Ông sợ cho chiếc ghế
của ông và đứng trước áp lực của đám dân hò hét, ông đã
nhượng bộ. Ông trao cho lính Rôma hành hình Chúa Giêsu, người mà
ông cho là vô tội: “Ông ấy đã làm gì gian ác?”
Đứng trước lợi lộc trần gian, chúng ta có lẽ cũng như Philatô
thôi. Chúng ta cũng có thể bỏ quên lương tâm, bỏ quên công bằng,
bác ái, bỏ quên cả phẩm chất thiêng liêng của chúng ta. Đừng
vội lên án những con người yếu đuối, hãy nhìn vào con người
thật của chúng ta. Hãy lên án chính mình trước.
Hành hình xong, bọn lính lại tiếp tục một
trò chơi “lính tráng”, là tôn vinh Vua Do Thái. Họ biến
Ngài thành một ông vua hề, để nhạo cười, lăng nhục Ngài. Vô
tình, chắc hẳn là vô tình, bọn lính đã tôn vinh Chúa Giêsu với
tước hiệu vua dân Do Thái. Dân Do Thái đã tố cáo Ngài là
vua dân Do Thái. Philatô lặp đi lặp lại tước hiệu này hai lần.
Bảng án ghi rõ: “Vua người Do Thái”. Khi Ngài đang chịu
treo trên thập giá, các thượng tế, kinh sư cũng nhạo cười Ngài
với tước hiệu vua đó: “Ông Kitô, Vua Israel”.
Vô tình hay hữu ý, họ đã tôn vinh Ngài là
Vua. Thánh Maccô không vô tình khi viết lại điều này, vì đối với
Maccô hay với chúng ta, Chúa Giêsu chịu chết với tước hiệu là
vua trên hết các vua. Vương quyền của Ngài không phải như
vương quyền nhỏ bé, mong manh của các vua trần thế. Vương quyền
Ngài là vương quyền bất diệt, vương quyền của sự thật và sự
sống. Ngài chấp nhận chết đau thương như thế vì Ngài phải chinh
phục lại giang sơn của Ngài đã rơi vào tay “đầu mục thế
gian”.
Hôm nay, chúng ta lên đồi Canvê với Ngài để
nhìn Ngài chết.
Chúng ta nghĩ gì?
Cái chết nhục nhã của Ngài có ý nghĩa gì
với chúng ta hôm nay?
Chúng ta ở đâu khi Ngài “buồn đến chết
được”?
Chúng ta ở đâu khi Ngài bị đánh đòn, nhục
mạ không thương xót? Khi Ngài bị bỏ rơi trên thập giá? Khi Ngài
bị ngạo nghễ chà đạp?
Giờ đây, khi sống lại với Ngài những giờ
phút đau thương tột đỉnh của Ngài, chúng ta có cảm thấy thương
Ngài hơn không? Chúng ta có cảm thấy trách nhiệm của chúng ta
không? Vì chúng ta mà Ngài đã trở nên “thân sâu bọ”, chịu
đựng tất cả sự tàn ác dã man của con người.
Chúng ta vẫn ung dung chơi đùa vô tư, vẫn yêu
mến tội lỗi của mình sao? Chúng ta hãy nhìn về “Đấng đã
yêu thương chúng ta và đã liều mạng cho chúng ta”.
Hãy tạ ơn Ngài mà thôi; vì chính nhờ Ngài mà
chúng ta nhận được sự sống, chính nhờ Ngài mà chúng ta tìm
thấy hy vọng được hạnh phúc. Cuộc sống hôm nay của chúng ta sẽ
tươi đẹp hơn và chúng ta sẽ không sợ hãi trước cuộc sống và
gánh nặng của nó.
Cuộc sống của chúng ta hôm nay sẽ là Chúa
Kitô, mà là Chúa Kitô chịu đóng đinh như thánh Phaolô đã nói. Nhờ
vậy, chúng ta sẽ can đảm hơn, hy sinh hơn.
Hôm nay, chúng ta đã tung hô Chúa và đón tiếp
Ngài nồng nhiệt như dân Do Thái xưa, và sẽ yêu mến Ngài chân
thành hơn, sâu đậm hơn, vì Ngài chẳng những chết cho chúng ta
mà còn trở nên của ăn ban sự sống đời đời cho chúng ta nữa.
Hãy tiếp tục sống với ngày những ngày sống
trần gian đầy lao nhọc này và làm cho Ngài được yêu thương hơn.
Đức Vua Tình Yêu
Buổi sáng một ngày nọ, Chúa Giêsu lên đường về Giê
rusalem, có rất đông thiên thần tháp tùng ca ngợi tình thương của Chúa
đối với nhân loại. Các thánh ký đã thuật lại cuộc đón tiếp tưng bừng, mà
hết mọi người đều say sưa hoan hô Chúa: “Vạn tuế Đức Hoàng Đế, nhân danh
Chúa đến với chúng ta! Hoan hô Thái Tử của Đavít.” Tuy bề ngoài chẳng có
gì tỏ ra xứng với một cuộc tung hô khải hoàn như thế. Chúa đến, cưỡi
trên một con lừa nhỏ. Chẳng có gì lộng lẫy. Nhưng chính Thánh ý Thiên
Chúa đã muốn rằng, trong ngày hôm đó, tất cả các tâm hồn đều phải dâng
cho Chúa Con một niềm tin kính huy hoàng.
Tại Bêtania, nơi Mẹ lưu ngụ, Mẹ nhìn thấy tất cả
quang cảnh tưng bừng ấy, và nghe tiếng Thiên Chúa nói tỏ cho mọi người
tham dự đều nghe hiểu được: “Cha đã tôn vinh Con rồi, Cha sẽ còn tôn
vinh Con nữa.”
Thiên Chúa cũng muốn cuộc khải hoàn này có một tầm
mức rộng rãi khác thường. Chúa sai Đức Tổng Thần Micae đem tin đó xuống
u ngục. Tại đây, các thánh được xem thấy những gì diễn biến tại
Giêrusalem, và các ngài hát lên nhiều ca vịnh, mừng Chúa Cứu Chuộc chiến
thắng tội lỗi, sự chết và hỏa ngục. Ngoài ra, tất cả những người đã biết
Chúa Giêsu bất cứ cách nào, không những ở Palestina, mà cả ở Ai Cập hay
các nơi khác, đều được Thiên Chúa ban cho một ánh sáng, làm họ hân hoan
và tăng thêm niềm tin và nhân đức của họ. Chúa cũng không để cho ngày
vui đó phải nhuốm màu tăm tối cái chết: không một ai chết trong ngày đó.
Chúa cũng không cho phép ma quỷ, thu được một lợi lộc nào trong suốt
thời gian khải hoàn ấy: Chúng bị xô xuống vực sâu hỏa ngục hết thảy.
(Văn Hải, Maria Agrêđa, Từ Tabôrê đến rước lá, Thần Đô Huyền Nhiệm)
Giây phút đăng quang tưng bừng, rộn ràng niềm vui
quá ngắn ngùi, Bài Tin Mừng thứ nhất diễn tả một thoáng huy hoàng Đức
Vua Tình Yêu lên ngôi, chỉ sôi nổi diễn ra vài giờ rồi chấm hết. Rồi bài
Thương Khó tiếp theo sau, Đức Vua Tình Yêu lẻ loi, cô đơn, chịu khổ
hình, đau đớn và chết nhục nhã trên cây thập tự, diễn tả sứ vụ đã hoàn
thành, cũng là thời điểm Đức Vua Tình Yêu chiến thắng sự dữ, hận thù,
tội lỗi và cái chết.
Đức Vua bị bỏ rơi
Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào
thấy ai, Đức Vua hoàn toàn cô đơn, lẻ loi trước cuộc khổ nạn khốc liệt.
Hàng vạn người đã tưng bừng chào đón Đức Vua cưỡi lừa vào Thành Thánh,
hàng ngàn người đã được ăn bánh no nê, hàng trăm người được chữa lành
bệnh, tật nguyền, hàng chục người chết sống lại, nay đang ở đâu, khi Đức
Vua khủng hoảng trước sự dữ?
Dân chúng bạc bẽo bày đàn chạy theo thói thực dụng
đã đành, còn ba môn đệ thân tín thì lại thản nhiên chiều theo bản năng,
vô tư ngù vùi, mặc cho Thầy Giêsu kịch liệt chống trả cám dỗ, đến nỗi
máu và mồ hôi toát ra giữa đêm khuya lạnh giá trong vườn Cây Dầu. Phải
chăng vì xác thịt quá nặng nề, vì tình nghĩa dành cho Thầy còn quá hời
hợt, nông cạn, xốc nổi, nên trò mới dửng dưng bỏ rơi Thầy lúc ngặt
nghèo? Mặc lời mời gọi khẩn khoản của Đức Giêsu với ba mộn đệ như rơi
vào hư vô, không một tiếng hồi âm. “Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy
cầu nguyện.” Lần hai, rồi lần ba cũng hoài công, vô vọng.
Đức Giêsu càng thấm thía nỗi cô đơn sầu não hơn
nữa, khi quân dữ xông đến bắt Người, các môn đệ sợ hãi bỏ Thầy chạy
trốn, hoặc sau đó, ba lần Phêrô công khai chối Thầy. Còn gì đau đớn hơn
khi bị người thân cận yêu thương nhất phản bội? “Chúa quay lại nhìn ông,
ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: “Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã
chối Thầy ba lần.” (Lc 22, 61) Cái nhìn độ lượng, nhân từ, xót xa, lẫn
khiển trách, đã thức tỉnh Phêrô quay về.
Thân bằng quyến thuộc đều bỏ rơi Người trong cơn
nguy khó. Chính vì Vâng phục, Đức Giêsu phải chịu đựng nỗi cô đơn, sự bỏ
rơi lạnh lùng đến vô cảm của thế gian. Người chỉ còn duy nhất trông cậy,
cầu nguyện, tha thiết khấn xin Thiên Chúa Cha: “Abba Cha ơi, Cha làm
được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn,
mà làm điều Cha muốn.”
Nỗi cô đơn dày vò lên đến đỉnh điểm, khi Đức Giêsu
hấp hối trên thập giá đã thảng thốt: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của
con, sao Ngài bỏ rơi con?”
Thánh Phaolô vô cùng ca ngợi và vinh danh nhân đức
Vâng Lời của Đức Giêsu. Nhờ vậy, mà nhân loại mới được trở nên công
chính và được cứu rỗi khỏi sự chết: “Thật vậy, cũng như vì một người duy
nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ
một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thanh
người công chính.” (Rm 5, 19)
“Trinh khiết là chết cho nhục dục, vâng phục là
chết cho ý riêng.” (Đườnmg Hy Vọng, số 402)
Đức Vua chịu nhục hình
Không chỉ chịu đòn roi, khổ hình hành hạ thể xác,
Đức Vua Tình Yêu còn chịu đựng những lời phỉ báng, khinh miệt, những lời
vu oan cáo vạ tày trời! Nhưng đau đớn hơn cả là hành vi ác ý bẻ cong,
cắt xén, chụp mũ, xuyên tạc Lời Hằng Sống: "Chúng tôi có nghe ông ấy
nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày,
tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!" (Mc 14, 58)
“Hãy nói tiên tri đi!”
Chịu nhiều cực hình tra tấn nhục nhã ê chề vẫn chưa
hết, Đức Vua còn bị liệt vào hạng người còn hèn mạt, tồi tệ, đáng khinh
hơn cả phạm nhân Barbara cướp của giết người. Đáng đóng đinh vào thập
giá. Nhưng gương mặt mới hôm nào hân hoan rạng rỡ chào đón Đức Giêsu vào
Thành Giêrusalem, nay bừng bừng sát khí, đồng thanh phản bội lập đi lập
lại: “Đóng đinh nó vào thập giá!”
Gánh hết tội lỗi thế gian, Đức Giêsu cam chịu khổ
hình, đền thay cho tội nhân mọi thời, mọi nơi. Thánh Phaolô khẳng định
một sự thật kinh thiên động địa:“Chẳng vậy, Người đã phải chịu khổ hình
nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành. Nhưng nay, vào kỳ kết thúc
thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng
việc hiến tế chính mình.” (Dt 9, 26)
“Thương tích của Chúa Kitô dạy ta cái gì? Những
thương tích đó dạy rằng: Đời là một cuộc chiến, ngày cánh chung, chúng
ta cũng được sống lại như Ngài đã sống lại. Nếu đời ta không có thập
giá, tất cũng không có mồ táng trống không. Nếu không có ngày Thứ Sáu
thụ nạn, tất không có Chúa Nhật Phục Sinh. Không có vành gai, tất không
có hào quang ánh sáng. Nếu ta không cùng khổ với Ngài, tất ta không được
cùng Ngài sống lại.” (ĐHY Fulton Sheen, Trên Đỉnh Cao Thập Giá)
“Trong giờ tử nạn, Chúa đem theo những Tông đồ Ngài
yêu thương riêng: Phêrô, Gioan, Giacôbê. Con sợ Chúa thương không?”
(Đường Hy Vọng, số 699)
Đức Vua chịu đóng đinh
Cơn cuồng nộ của dân chúng vẫn còn chưa chịu chấm
dứt, khi Đức Giêsu đã bị đóng đinh vào thập giá. Kẻ qua người lại tiếp
tục ra rả chửi rủa, khinh miệt, nhục mạ phỉ nhổ, xỏ xiên, khích bác, dè
bửu, mạt sát Đức Vua.
Sự dữ tưởng như chiến thắng. Ma quỷ hả hê, hí hửng,
tưởng chừng tiêu diệt được đạo lý, sự thật và sự sống. Nhưng không phải
vậy, Tình Yêu đã khải hoàn, Đức Vua Tình Yêu đã hoàn toàn chiến thắng
thế gian, ma quỷ và xác thịt, khi Người toàn tâm toàn ý vâng phục Thánh
Ý Thiên Chúa Cha. Sẵn lòng làm hạt lúa chết đi, để trổ sinh hoa trái cứu
độ cả nhân loại.
Hướng về Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh, Thánh
Phaolô khuyên nhủ hãy cởi bỏ gánh nặng trần thế, lo toan sự đời, ham hố
vinh hoa, phú quý và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy
trong cuộc đua dành cho tín hữu: “Chính Người đã khước từ niềm vui dành
cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay
đang ngự bên hữu Thiên Chúa.” (Dt 12, 2)
“Đau khổ không những giúp con can đảm, nhẫn nại,
nhưng còn có giá trị cứu chuộc rất lớn lao, nếu con hiệp với sự thương
khó Chúa Giêsu.” (Đường Hy Vọng, số 706)
Lạy Chúa Giêsu Chịu Đóng Đinh, xin cảm hóa chúng
con, biết ăn ăn, sám hối, canh tân, trở nên khiêm hạ, vâng phục Thánh Ý
Chúa, dẫu có chịu cô đơn, hành hạ, nhục hình và thậm chí chịu tử nạn vì
sáng danh Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria Sầu Bi, khấn xin Mẹ dẫn dắt chúng
con đồng hành với Mẹ trong cuộc thương khó tới tận đỉnh đồi Canvê. Xin
Mẹ cầu bầu cho chúng con biết bỏ mọi lưu luyến thế gian, từ bỏ cả bản
thân, mà vác Thánh Giá theo Chúa cho trọn. Amen.
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu xem chừng tràn ngập
những nghịch lý khó hiểu dưới con mắt thế gian. Không riêng gì với những
người ngoài Ki tô giáo, mà có thể cả những tín hữu, con chiên của Chúa
cũng cảm nhận như thế.
1. Nghịch lý từ quần chúng.
Sau khi tưng bừng hoan hỉ đón chào Chúa Giêsu vào
thành Giêrusalem như vị minh quân đáng kính, tái hiện lại hình ảnh vua
Salomon cưỡi con la cái của vua Đavit xuống Ghi khôn (1V 1, 38), dân
chúng Israel lại sớm hùa theo các thầy thượng tế, Biệt Phái, quay lưng
trở cờ lên án, kết tội Chúa và thậm chí còn quá khích, đòi đóng đinh
Người.
Một sự phản bội trắng trợn đầy kịch tính và đau xót
vô cùng. Nhớ lại một thuở dân chúng đã từng mê say, háo hức đi theo
Chúa, vì thấy Người đầy quyền năng, giảng dạy, chữa bệnh, trừ quỷ, nuôi
ăn… Nay Chúa bị bắt, bị tra khảo, đánh đập, bị lăng nhục, thì quần chúng
quay ra phỉ nhổ, khinh miệt và tố cáo. Dĩ nhiên họ chịu tác động từ các
thầy thượng tế, Biết Phái cùng đồng bọn thù hằn với Đấng Cửu Thế.
Từ nghịch lý này gợi lên tính phù vân của quyền lực
và vinh quang nay còn mai mất, chứng tỏ lòng dạ con người dễ thay đổi,
bất trung, dễ dàng phản bội, lấy oán báo ân.
Từ nghịch lý này, tưởng chừng như bóng tồi đã che
khuất hoàn toàn ánh sáng. Sự ác đã thắng thế trên thế gian. Nhưng làm
sao thế gian biết được rằng sự tột cùng của cái ác lại nảy sinh ra Tình
Yêu vĩ đại. Đó là chính Chúa Giêsu đã tự nguyện nhập thế, gánh hết tội
lỗi, cứu rỗi mọi người, "Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi đất,
tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi" (Ga 12, 32).
2. Nghịch lý từ tình nghĩa thầy trò.
Người môn đệ được giao tay hòm chìa khóa, lại tráo
trở, phản phúc, âm mưu, cùng đồng lõa với giới lãnh đạo tôn giáo đã
thoái hóa, biến chất, để bán đứng Thầy mình, lấy 30 đồng bạc. Phải chăng
Chúa đã lầm lẫn, không biết tuyển chọn kỹ càng các môn đệ, mới để Giuđa
Iscariot cùng đồng hành suốt 3 năm?
Còn thêm một môn đệ nữa, cũng được Chúa Giêsu tin
cậy, ưu ái, đã chối bỏ Chúa trước mặt đám gia nhân 3 lần trước khi gà
gáy 2 lần. Mặc dù ông Phêrô đã được Chúa cảnh báo trước đó không lâu,
cũng như ông đã từng thề thốt trung thành với Người. May thay ông còn
kịp sám hối, ăn năn trở lại, vì còn tin cậy vào lòng Thương Xót của
Chúa.
Từ nghịch lý này chứng minh lòng tham, lòng ham mê
của cải vật chất, ham mê hưởng lạc, lòng bất trung, bất nghĩa, có thể
xuất hiện ở bất cứ nơi đâu, bất cứ người nào, cho dù phải bán đi, hay
gây đổ máu cả người thân, một khi xa lìa Chúa, đánh mất đi mối hiệp
thông sâu xa và bền vững.
Từ nghịch lý này, cũng minh chứng cái bản năng sinh
tồn còn mạnh mẽ hơn cả tình nghĩa thầy trò. Cái thói tham sống sợ chết
có lẽ đã nằm trong gien di truyền của loài thọ tạo. Thế mà Chúa lại dạy:
“Ai qúy mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở
đời này, thì sẽ giữ lại được.” (Ga 12, 25) Người đã hé mở cho thế gian
biết đâu là hơn thiệt.
3. Nghịch lý từ công lý thế gian
Từ dinh thầy cả Caipha, sang dinh Hêrôđê, đến dinh
tổng trấn Philatô, chẳng có bản án chính thức nào có thể buộc tội Chúa
Giêsu. Đến nỗi quan tổng trấn Philatô thấy Người quá oan ức, chẳng có
tội tình gì, đã toan tha bổng, nhưng chính cánh quần chúng tự phát cứ
một mực đồng thanh la lên, đòi đóng đinh Chúa Giêsu.
Ôi! công lý của thế gian là thế đó, nó uốn cong
theo sức mạnh quyền lực và tài lực, nó chỉ răm rắp thỏa mãn cái dã tâm
của nhà cầm quyền, hay tập thể lãnh đạo nào đó. Chính nghịch lý này
khiến cho con người bao đời luôn luôn đói khát tìm kiếm sự thật và công
lý. Điều chỉ có ở Đấng Thiên Sai mà thôi. Chính Chúa Giêsu đã công khai
công bố: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Chỉ đến
với Người, con người mới nhận được Công lý thật.
Lạy Chúa Giê su, mầu nhiệm cuộc Khổ Nạn còn biết
bao điều kỳ diệu, mà con chưa thể khám phá và hiểu thấu đáo. Xin cho con
được hiệp thông phần nào, qua những khó nhọc, đau khổ hằng ngày, hầu con
được ơn cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria từ bi nhân ái, xin chỉ dạy con ý
nghĩa sự đau khổ, cho con sẵn lòng chấp nhận, hầu ăn năn sám hối tội
lỗi, lánh xa dịp tội. Biết sống trung thành với Chúa luôn mãi. Amen.
(Mc. 11:1-10) (Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)
Nhìn vào lịch sử Việt Nam chúng ta thấy: Lê Lai là
vị anh hung đã chết cho Lê Lợi và được kể vào hàng “Tôi trung hưng
quốc”. Hai bà Trưng thuộc hạng “yếu liễu đào tơ”, đã báo thù chồng và
cứu được nước, được kể là “nữ tướng anh hùng”. Anh phải sống nhắc lại
đôi vợ chồng bị giòng nước cuốn đi, bà vợ đã sẵn sang xuôi tay theo
giòng nước cuốn, để cho chồng được sống vì đoàn con, được kể là “một mối
tình trọn nghĩa”. Cuộc di cư năm 1975, nhiều người cha, người mẹ đã hy
sinh lấy máu mình cho con bú để cứu sống con. Maximien Kolbe đã hy sinh
cuộc đời cho bạn bè, để về nuôi vợ mọn con thơ.
Hình ảnh Chúa Kitô treo trên thập giá quá quen đối
với chúng ta, đôi khi nhìn ngắm Người qua dấu Thánh Giá, qua tác phẩm
điêu khắc, Chúa như con chuồn chuồn dẫy chết. Nhưng đó là một hiện tượng
lịch sử đã diễn tiến và trôi theo thời gian vào dĩ vãng. Thực ra Chúa
Giêsu trên thánh giá trong mùa này đang sống động trong tâm tư mỗi
người: Một hy sinh vô cùng vượt mọi hy sinh chẳng những cứu quốc, cứu
bạn, cứu con… mà còn cứu cả linh hồn mình, cứu cả đời mình.
Trong thời cựu ước, của lễ hy sinh đền tội là con
chiên con bò sát tế. Trong thời Chúa Giêsu thì chính xác thịt Thiên Chúa
lấy làm sinh lễ cúu sống muôn dân “Đấng xóa tội trần gian” (Jn.1:29).
Đồi Golgotha là bàn thờ. Thánh Giá là gỗ củi hy sinh, xác hồn Chúa Giêsu
là sinh lễ. Thiên Chúa đã trở nên con chiên thục tội treo trên Thánh
Giá. Chúa bị đánh nát (như giã dò cho nhiễn), máu và nước tuôn đổ lai
láng, Người hoi hóp như một con vật bị chọc huyết, Chúa chết cho ai tin
vào ơn cứu chuộc của Ngài. Chúa đứng ra hứng chịu sự thịnh nộ của Chúa
Cha, Chúa bị đánh nát như đứa con, Chúa chịu để ta được an toàn. Thánh
Phêrô viết:”Anh em biết rằng chẳng phải bởi vật hay hư nát như vàng bạc
mà anh chị em được khỏi tội, khỏi sự ăn ở không ra gì của tội nguyên tổ
truyền lại mà do bảo huyết Chúa Kitô, máu con chiên Thiên Chúa vô tội”
(I Pet. 1:18-19).
Rất mong anh chị em suy niệm sự hy sinh cao cả của
Chúa cho chúng ta, vì chúng ta, để sống xứng đáng đáp đền ơn cứu sống
của Chúa.
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội hoàn
vũ mừng kính mầu nhiệm Chúa Kitô khải hoàn vào Thành Thánh Jerusalem,
giữa đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp các ngả đường đua nhau tuốn về,
nhiều người trải áo mình trên đường, những người khác lấy cành lá lót
lối đi. Chúa Kitô như Vua Vinh Hiển khiêm nhu cỡi trên lưng lừa, uy
nghiêm tiến đi, ai nấy tay cầm cành lá, kẻ đi trước, người theo sau, vây
quanh Chúa, tỏ niềm hân hoan vui sướng, miệng không ngừng tung hô ca
ngợi như say mê: "Vạn tuế! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Hoan hô
trên các tầng trời!".
Tất cả đều tạo nên một quang cảnh tưng bừng náo
nhiệt và hân hoan chưa từng có trong thành Jerusalem; đồng thời, nó cũng
biểu lộ được tấm lòng sùng mộ chân thành của người dân đơn sơ chất phác
thời bấy giờ. Mọi việc này xảy ra là để làm trọn lời Chúa dùng miệng
tiên tri phán xưa rằng: "Các ngươi hãy bảo cho các thiếu nữ Sion rằng:
Kià Vua ngươi nhân ái đến cùng ngươi, Người ngồi trên lưng lừa mẹ và lừa
con. Các ngươi đừng sợ!". Trước sự kiện này, đã khiến một số các người
biệt phái phát ghen, nên họ đã thưa với Chúa: "Thưa Thầy, xin hãy mắng
các môn đệ Ngài im đi". Chúa đáp lại: "Ta bảo cho các ông biết, nếu họ
làm thinh, thì những viên đá này sẽ la lên".
I. NHỮNG LÝ DO LÒNG SÙNG MỘ VỤ LỢI
Chúng ta vừa tái diễn cuộc khải hoàn Chúa Kitô vào
Thành Thánh. Chúa như Vua Nhân Từ được toàn dân tung hô, ca ngợi và mến
phục, vì họ đã từng được lãnh nhận biết bao ơn phúc Ngài ban; được chứng
kiến biết bao phép lạ Ngài thực hiện: Ngài đã làm cho kẻ què đi được, kẻ
điếc nghe được, người mù được thấy, người phong cùi được lành sạch,
người đã chết được sống lại, kẻ bị quỉ ma ám được khu trừ... Biết bao
bệnh nhân đủ các chứng bệnh, được chữa khỏi do lời quyền năng của Ngài;
rồi biết bao người đã được ăn bánh, ăn cá no nê do phép lạ Ngài làm từ
vài ba cái bánh và mấy con cá. Người ta còn được nghe những giáo lý cao
siêu mới lạ, những lời giáo huấn đầy khôn ngoan phát ra từ môi miệng
Ngài. Những giáo huấn đầy thiên duyên đó đã lôi cuốn họ từng đoàn lũ đi
theo và say mê nghe Ngài giảng, đến bỏ cả công ăn việc làm từ ngày nọ
sang ngày kia. Hôm nay, được dịp họ bày tỏ lòng cảm phục, kính mến và
sùng mộ đó cách công khai và tập thể, đến nỗi làm cho các nhà hữu trách
phải phát ghen. Thế là họ đã quyết tâm thực hiện điều họ đã bàn định, là
nhất định tiêu diệt Ngài.
II. MỘT TRANG TÌNH SỬ ĐẪM MÁU
Thật là vô ơn bội nghĩa! Chỉ vài hôm sau, cũng
chính Vua Kitô ấy, giờ đây lại bị điệu đi như một tội nhân trọng phạm,
bị kết án tử hình, đầu đội mạo gai, vai vác thập giá, mình khoác áo đỏ,
thân hình tiều tuỵ nhọc mệt, mặt vấy đầy máu, thất thểu, bước đi giữa
những tên lính luôn buông ra những lời chế diễu, nhạo báng và khinh dể.
Theo sau, cũng chính đoàn lũ dân ấy, trước kia đã tung hô Ngài, bây giờ
đã bị mua chuộc, bị xách động, luôn hô hoán, gào thét: "Nó đáng chết!
Đóng đanh nó vào thập giá! Đóng đanh nó vào thập giá!" Tất cả đều tạo
nên một sự huyên náo, hỗn loạn, một tập thể lộng ngôn, phạm thượng, phản
nghịch Thiên Chúa, một sự vong ân bội nghĩa xúc phạm đến chính Đấng là
Tình Yêu Thương, đã từng ban muôn ơn phúc cho họ, vì thương yêu họ.
Hôm nay, chúng ta cử hành nghi lễ Chúa khải hoàn
vào Thành Thánh, để mở đầu Tuần Thánh, một tuần lễ diễn lại trang tình
sử đẫm máu của Chúa Cứu Thế, giúp chúng ta hồi tưởng và suy niệm tấm
lòng Chúa yêu thương chúng ta, Người đã vui lòng lãnh nhận mọi cực hình
và án chết bất công trên thập giá, đền tạ phép công bình Thiên Chúa thay
cho chúng ta, để chúng ta được Ơn Cứu Độ.
III. ĐỂ ĐỀN ĐÁP TÌNH CHÚA YÊU THƯƠNG
Để đáp lại lòng Chúa yêu thương, chúng ta hãy trung
thành với Đức Tin và tình yêu mến Chúa, được thể hiện trong đời sống
chứng nhân hằng ngày của chúng ta như các tôi trung con thảo của Người.
Năm 1900, cuộc cách mạng của đảng cộng sản tại
Trung Hoa đã tàn sát không biết bao nhiêu người Công Giáo. Bộ đội cách
mạng đã chiếm giữ một ngôi Trường Truyền Giáo, rồi khóa tất cả các cửa
ra vào, chỉ mở một cửa chính. Trên mặt đất trước lối cửa chính đó, đặt
một tượng Chúa Tử Nạn. Ai đi ra mà đạp lên tượng Chúa thì được trả tự
do, còn ai không dám đạp lên mà đi vòng qua thì bị bắn chết tại chỗ. Bảy
học sinh đầu tiên đi ra đạp lên tượng Chúa đều được thả tự do. Học sinh
thứ 8 là một em bé 12 tuổi, khi đi ra em đã bái qùi trước tượng Chúa,
rồi cung kính đi vòng qua, thì lập tức em bị bắn chết. Sau đó, tất cả
100 học sinh còn lại, đều theo gương em bé đó và tất cả đã tỏ ra anh
dũng được chết vì trung thành với tình yêu mến Chúa. Chừng 30 ngàn người
Công Giáo Trung Hoa đã chọn cái chết hơn là chối bỏ Chúa trong năm 1900
ấy. Tại Việt Nam dưới thời bách hại Đạo Công Giáo của các vua Minh Mạng,
Thiệu Trị, Tự Đức cũng đã có chừng hơn 100 ngàn vị Anh Hùng Tử Đạo như
thế. Trong số đó cũng có bé gái Lucia Liễu mới 12 tuổi, Phaolô Đạm 10
tuổi, Gioan Túc 9 tuổi, nêu gương trung kiên như em bé 12 tuổi người
Trung Hoa kia... Cha ông chúng ta là các vị Tử Đạo, đã can đảm từ khước
tất cả những lời dụ dỗ đường mật của vua quan, để trung thành với Đức
Tin và lòng kính mến Chúa, sẵn sàng chịu chết để chứng minh lòng trung
thành và yêu mến ấy; còn chúng ta, chúng ta cần có thái độ nào, để xứng
danh là con cháu của các ngài?
Kết Luận
Là những con cái ngoan thảo của Chúa và Giáo Hội,
chúng ta hãy lợi dụng những ngày linh thiêng của Tuần Thánh, tham dự các
nghi lễ, tưởng nhớ và suy ngắm Trang Tình Sử Đẫm Máu, Chúa đã chịu chết
và yêu thương chúng ta.
Chúng ta hãy noi theo mẫu gương trung kiên anh dũng
của Tiền Nhân Việt Nam chúng ta, trung thành với Đức Tin, để đáp lại
lòng Chúa yêu thương chúng ta, bằng chính cuộc sống hằng ngày, làm chứng
nhân cho Chúa qua nếp sống thánh thiện của mỗi người chúng ta. Nếu cần,
chúng ta cũng hãy anh dũng chấp nhận mọi cực hình, sẵn sàng lãnh nhận cả
cái chết, để minh chứng lòng trung thành với Đức Tin và đền đáp phần nào
lòng Chúa yêu thương chúng ta.
Người ta thường nói: “Khổ ải trần gian” hoặc “Đời
là bể khổ”. Vâng, “biển khổ” chứ không phải “sông khổ” hoặc “ao khổ”.
Điều đó cho thấy kiếp người không ngừng nối tiếp đau khổ, là một hành
trình đau khổ triền miên. Có lẽ do vậy mà khi sinh ra không ai cười, ai
cũng “cất tiếng khóc chào đời”. Biết chấp nhận thì có thể “hóa giải” đau
khổ thành niềm vui, nếu không thì càng chồng chất thêm đau khổ mà thôi.
Hơn 2000 năm trước, Thích Ca Mâu Ni là người sống
trong cung vàng điện ngọc, nhưng ông đã “giác ngộ” sau khi nhìn thấy
những cảnh khổ của kiếp người, thế nên ông quyết ngồi thiền dưới gốc bồ
đề để tu thân và “tâm niệm” Tứ Diệu Đế: Sinh là khổ, Bệnh là khổ, Lão là
khổ, và Khổ là khổ. Ông đã siêu thoát và được người ta tôn vinh là Đức
Phật. Muốn thoát đau khổ không gì hơn là đi xuyên qua đau khổ. Chúa
Giêsu cưỡi lừa vào thành Giêrusalem, được người ta tung hô khi tay họ
cầm lá thiên tuế chào đón. Nhưng đó cũng là lúc Ngài khởi đầu “hành
trình đau khổ”.
TÔI TỚ ĐAU KHỔ
Ngôn sứ Isaia nhiều lần tiên báo về “người tôi tớ
đau khổ”. Ông cảm thấy Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho ông nói năng như
một người môn đệ, để ông biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Ông
xác nhận: “Sáng sáng Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một
người môn đệ” (Is 50:4). Ông cho biết thêm: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã
mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is
50:5).
Ngôn sứ Isaia “không cưỡng lại” và “không thoái
lui” dù ông phải “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta
giật râu” và “không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ” (Is 50:6). Ông
tin mình “có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ”, vì thế, ông “không hổ
thẹn” mà cứ “trơ mặt ra như đá”. Thế nên ông biết mình sẽ “không phải
thẹn thùng” (Is 50:7). Ông là hình ảnh của Đức Kitô, con người của đau
khổ, khởi đầu “hành trình đau khổ” từ Giêrusalem, ngay khi được người ta
cầm những cành thiên tuế tung hô là vua.
Tác giả Thánh vịnh mô tả về tình trạng chịu nhục
nhã ê chề:
Thấy con ai cũng chê cười
Lắc đầu, bĩu mỏ, buông lời mỉa mai:
“Nó trông cậy Đức Chúa Trời
Cứ để mặc Người giải cứu nó đi!” (Tv 22:8-9)
Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ không chỉ bị khiêu khích, bị
đau khổ về tinh thần mà còn bị đau khổ về thể lý:
Quanh con bầy chó bao chặt chẽ
Bọn ác nhân vây bủa trong ngoài
Chúng đâm con thủng chân tay
Xương con đếm được vắn dài, chúng xem (Tv
22:17-18)
Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ bị đau khổ đến tận cùng, nhưng
vẫn luôn trông cậy vào Thiên Chúa:
Áo mặc ngoài chúng đem chia chác
Còn áo trong cũng bắt thăm luôn
Chúa là sức mạnh con nương
Cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa! (Tv
22:19-20)
Đồng thời vẫn muốn tôn vinh Thiên Chúa trong chính
những đau khổ của mình:
Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa
Cho anh em tất cả được hay
Và trong đại hội dân Ngài
Con xin dâng tiến một bài tán dương (Tv
22:23)
Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ luôn trung tín với Thiên Chúa,
tự động viên mình và khuyến khích người khác: “Hỡi những ai kính sợ Đức
Chúa, hãy ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Gia-cóp, nào hãy tôn
vinh Người! Dòng dõi Ítraen tất cả, nào một dạ khiếp oai!” (Tv 22:24).
CHẤP NHẬN ĐAU KHỔ
Thánh Phaolô vừa phân tích vừa xác định: “Đức Giêsu
Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị
ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy
thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2:6).
Đạo cũng như đời, người quyền cao chức trọng có mấy ai dám “vi hành” để
hiểu rõ cảnh khổ của người dân?
Trong tác phẩm Authority: Its Use and Abuse (*)
có kể một số “điểm son” của Đức cố GM Irumpen, GP Palakkad (Ấn Độ), đáng
để chúng ta noi gương: Mỗi Chúa nhật, ngài đến một giáo xứ nào đó mà
không báo trước, ngồi tòa giải tội khoảng 15-20 phút, dâng lễ, giảng lễ,
dạy giáo lý, và chuyện trò với giáo dân và linh mục quản xứ; ngài không
bao giờ cho phép người ta tổ chức tiếp tân chào mừng ngài tại các giáo
xứ. Và tại tòa giám mục hay ở bất cứ nơi đâu mà ngài ghé thăm, ngài
không nhận bất cứ sự biệt đãi nào dành cho mình; ngài cho rằng sự hào
nhoáng bên ngoài (kiểu như đoàn xe đưa rước trong những dịp đặc biệt)
không phải là chứng nhân Tin Mừng mà là chứng nhân của văn hóa thế tục;
hằng ngày ngài dành thời gian từ 9 giờ đến 12 giờ để tiếp bất cứ ai đến
gặp, không cần hẹn trước; ngài không bao giờ nghỉ trưa; ngài chỉ dự
những lễ kỷ niệm chịu chức hay khấn dòng nếu những lễ ấy tổ chức ở nhà
thờ chính tòa; ngài không tổ chức mừng ngày kỷ niệm thụ phong giám mục
của mình. Năm nào ngài cũng mừng lễ bổn mạng, dịp các linh mục tĩnh tâm
tháng vào ngày 19-3. Linh mục đoàn cùng nâng cốc chúc mừng và nhâm nhi
chút bánh ngọt; ngài không đưa lên bảng thông tin giáo phận các tin về
hoạt động hay đi lại của ngài trong giáo phận, mà chỉ thông tin cho mọi
người biết trước về những trường hợp ngài phải ra ngoài giáo phận quá
một ngày, chẳng hạn khi ngài sắp đi dự họp Hội Đồng Giám Mục,...; ngài
không bao giờ đi nước ngoài, trừ phi đó là bổn phận bắt buộc như về Rôma
dịp Ad limina. Ngài không bao giờ đi nước ngoài để quyên tiền. Ngài nói
rằng các nhu cầu căn bản của giáo phận cần phải được gánh vác bởi chính
giáo dân trong giáo phận; không bao giờ có chuyện “phạt treo”, chẳng hạn
không cấp giấy chứng chỉ hôn phối vì người ta chưa đóng góp quĩ; ngài
luôn ăn mặc giản dị, ăn chay trường, và chẳng ai thấy hình ảnh của ngài
trên báo chí; ngài hưu trí tại nhà hưu của các linh mục cao niên. Cuộc
đời ngài thật đơn giản, tất cả đồ đạc xếp gọn trong một chuyến xe nhỏ;
giáo phận tặng ngài một ô tô dịp ngài về hưu, nhưng ngài không nhận, chỉ
muốn được trợ cấp hưu bổng đúng theo mức hưu dưỡng như các linh mục khác
trong giáo phận; ngài không muốn xin viện trợ từ bên ngoài để xây các
nhà thờ to lớn. Nếu ai dâng hiến đất, ngài sẽ xây một nhà thờ vừa phải
với sự hỗ trợ của chính các giáo dân địa phương; văn phòng của ngài là
một gian phòng nhỏ trong một ngôi nhà cũ kỹ, không có bất cứ món trang
trí nào; ngài là một chứng nhân Tin Mừng, sống điều ngài rao giảng, cách
sống của ngài cho thấy rõ quyền bính là để phục vụ.
Tại Việt Nam có gương sáng của Đức cố GM
Cassaigne (người Pháp, quen gọi cha Sanh, nguyên giám mục GP Saigon), vị
tông đồ của người cùi. Ngài cũng đã từng rong ruổi khắp khu dân cư nghèo
để thấy rõ thực tế, cửa tòa giám mục cũng luôn rộng mở đón tiếp mọi
người.
Những chứng nhân như vậy thật đáng khâm phục vì
đúng là những mục tử của Chúa, dám quên mình vì đoàn chiên.
Chúa Giêsu không chỉ là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ mà còn
là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ-Khiêm-Nhường: “Ngài lại còn hạ mình, vâng lời
cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:7). Cái
chết của Ngài khác thường là “chết trên thập giá”, loại khổ hình nhục
nhã nhất thời đó. Chính vì Ngài chịu đau khổ đến tột cùng mà “Thiên Chúa
đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh
hiệu” (Pl 2:9), danh hiệu ấy cao cả và quyền năng đến nỗi “khi vừa nghe
danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật
phải bái quỳ” (Pl 2:10). Để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở
miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2:11).
Trong cuộc sống, không ai muốn đau khổ, nghĩa là ai
cũng muốn sống sung sướng, muốn tận hưởng niềm hạnh phúc – tận hưởng
bằng mọi cách và càng nhiều càng tốt. Vì thế mà con người miệt mài đêm
ngày đi tìm hạnh phúc. Đau khổ luôn là điều bí ẩn đối với cuộc sống.
Thậm chí những người chấp nhận đau khổ có thể bị coi là “ngu xuẩn”, là
“dại dột”, là “điên khùng”.
Bất kỳ ở quốc gia nào, một bị cáo đứng trước vành
móng ngựa cũng có luật sư bào chữa. Trong Giáo hội Công giáo, trước khi
phong thánh cho ai thì cũng có 2 “phe”, một phe đưa ra các điều tốt và
một phe đưa ra các điều xấu – được gọi là “luật sư của quỷ”, phe luật sư
này sẽ đưa ra mọi thứ “bất lợi” cho ứng viên đến khi “chịu thua” mới
thôi. Chẳng hạn trường hợp của Chân phước GH Gioan XXIII,
luật-sư-của-quỷ đã hết cách nên đành “tố cáo” Gioan XXIII hồi nhỏ hay
chơi diều.
Còn Chúa Giêsu, khi bị xét xử, dù không ai thấy
Ngài có tội gì ngoài “tội làm điều tốt”, không hề có luật sư bào chữa.
Phúc âm theo thánh sử Mác-cô ghi rõ rằng vừa tảng sáng, các thượng tế đã
họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng. Sau
đó, họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô. Ông Philatô
hỏi Ngài: “Ông là vua dân Do Thái sao?” (Mc 15:2a). Chúa Giêsu trả lời:
“Đúng như ngài nói đó” (Mc 15:2b). “Đúng như ngài nói đó”, một câu nói
đơn giản mà thâm thúy và khiêm nhường. Chúa Giêsu không hề tự nhận là
Vua-dân-Do-Thái mà tại người ta nói vậy. Ngài chỉ tự nhận” là
Con-Số-Không: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không
có chỗ tựa đầu” (Mt 8:20; Lc 9:58) và “Tôi đến không phải để được người
ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn
người” (Mc 10:45).
Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, nên ông
Philatô lại hỏi: “Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết
bao nhiêu tội!” (Mc 10:4). Nhưng Đức Giêsu không trả lời gì nữa, khiến
ông Philatô phải ngạc nhiên. Người hiểu thì không cần giải thích, người
không hiểu thì giải thích cũng vô ích.
Vào mỗi dịp lễ lớn, ông Philatô thường phóng thích
cho dân một người tù, tuỳ ý họ xin. Khi ấy có tử tù “khét tiếng” Baraba
đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi
dậy. Đám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ.
Ông Philatô hỏi: “Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Do
Thái không?” (Mc 10:9). Ông thừa biết chỉ vì ghen tị mà các thượng tế
nộp Ngài. Nhưng các thượng tế xách động đám đông đòi ông Philatô phóng
thích Baraba. Bị áp lực mạnh nên ông Philatô lại hỏi: “Vậy ta phải xử
thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do Thái?”. Họ la lên: “Đóng
đinh nó vào thập giá!” (Mc 10:13). Ông Philatô muốn tha Chúa Giêsu vì
thấy Ngài vô tội, nhưng ông ta hèn nhát và sợ mất chức quyền, ông cù
cưa: “Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?” (Mc 10:14a). Nhưng họ càng
la to: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Mc 10:14b).
Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Philatô phóng
thích Baraba và truyền đánh đòn Đức Giêsu, rồi trao Ngài cho họ đóng
đinh vào thập giá. Lính điệu Đức Giêsu vào bên trong dinh tổng trấn, và
tập trung cả cơ đội lại. Chúng khoác cho Ngài một tấm áo điều, và kết
một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Ngài, rồi mỉa mai: “Vạn tuế đức
vua dân Do Thái!” (Mc 10:18). Chúng lấy cây sậy đập lên đầu Ngài, khạc
nhổ vào Ngài. Chế giễu chán, chúng lột áo điều ra, và cho Ngài mặc áo
lại như trước. Vải dính vào những vết thương sẽ rất đau đớn khi bị giật
áo ra. Cảnh tượng thật hãi hùng!
Thường thì các tử tội được ân huệ sau cùng, nhưng
Chúa Giêsu không hề được ân huệ cuối cùng nào, có chăng chỉ là chút giấm
chua. Bị hành hạ đủ kiểu, thương tích đầy mình, thế mà Ngài còn phải tự
vác thập giá đi lên đồi. Lúc ấy, có một người tên Simôn (gốc Kyrênê, từ
miền quê lên) đi ngang qua đó. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Đức Giêsu.
Tới Gôngôtha, nghĩa là Đồi Sọ, chúng trao rượu pha mộc dược cho Ngài,
nhưng Ngài không uống. Chúng đè Ngài xuống và đóng đinh vào thập giá,
rồi đem áo Ngài ra bắt thăm mà chia nhau. Lúc chúng đóng đinh Người là
giờ thứ ba (khoảng 9 giờ sáng).
Cùng bị đóng đinh với Ngài là hai tên cướp. Ngài bị
liệt vào hạng những tên phạm pháp. Kẻ qua người lại đều nhục mạ Ngài,
vừa lắc đầu vừa nói: “Ê, mi là kẻ phá Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây
lại được, có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!” (Mc
10:29-30). Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Ngài như vậy, và kháo
nhau: “Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình”. Rồi họ thách thức:
“Ông Kitô vua Ít-ra-en, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng
ta thấy và tin” (Mc 10:31-32). Thậm chí cả một tên cùng chịu đóng đinh
với Ngài cũng không biết thân mà còn nhục mạ Ngài.
Bóng tối bao phủ khắp mặt đất từ giờ thứ sáu đến
giờ thứ chín (khoảng 12 giờ tới 15 giờ). Một hiện tượng thiên nhiên bất
thường, vô cùng kỳ lạ. Vào giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng:
“Ê-lôi, Ê-lôi, la-ma-xa-bác-tha-ni!” – nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa, Thiên
Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 10:34). Nghe vậy, một vài người
đứng đó liền nói: “Kìa hắn kêu cứu ông Êlia”. Có kẻ chạy đi lấy một
miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người
uống mà nói: “Để xem ông Êlia có đến đem hắn xuống không”.
Đức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở.
Bức màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Lại
một sự kiện lạ lùng nữa. Chính viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức
Giêsu, thấy Ngài tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, người này là Con
Thiên Chúa” (Mc 10:39). Thế là hoàn tất hành-trình-đau-khổ. Người không
tin thì đó là thất bại ê chề của Đức Kitô, nhưng họ lầm to. Đối với
những người tin Ngài thì đó là Ơn Cứu Độ. Giáo hội cùng chịu Đại Tang,
không chỉ là quốc tang mà còn là thế giới tang!
Lạy Chúa, chúng con thành tâm sám hối và xin lỗi
Chúa, xin thương xót và tha thứ. Xin cảm tạ Chúa Cha đã ban Đấng Cứu Thế
cho chúng con. Chúng con thật may mắn và hạnh phúc vì được tận hưởng
Lòng Thương Xót vô biên qua cái chết của Đức Kitô. Xin giúp chúng con
can đảm sống xứng đáng với Ơn Cứu Độ, kiên trì đi trọn hành trình đau
khổ và làm chứng nhân của Lòng Chúa Thương Xót, để chúng con cũng được
cùng phục sinh với Chúa Con. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu
Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
********
(*) Authority: Its
Use and Abuse (Sử dụng và Lạm dụng quyền bính), sách của LM C.P. Varkey
(NXB The Bombay Saint Paul Society, 1999).
Hy vọng là khởi đầu ước mơ, là đường dẫn tới mục
đích. Hy vọng rất cần cho cuộc sống. Có bốn ý tưởng hay đối với cuộc
sống: Nhìn lại phía sau để rút kinh nghiệm, nhìn lên phía trước để có hy
vọng, nhìn ra xung quanh để thấy thực tế, nhìn vào nội tâm để thấy chính
mình.
Màu xanh tượng trưng cho niềm hy vọng. Lễ Lá là
khởi đầu Tuần Thánh, khởi đầu khoảng buồn thương vô tận, đầy tang tác và
chết chóc, nhưng màu xanh của lá cho chúng ta niềm hy vọng tràn trề: Đức
Kitô phục sinh.
Trước lễ Vượt Qua một tuần, Chúa Giêsu cưỡi một con
lừa nhỏ vào Thành Giêrusalem, có các môn đệ lội bộ theo sau. Thánh Gioan
nói rõ: “Dân chúng lũ lượt tuôn đến mừng lễ. Thoạt nghe tin Đức Giêsu
tới Giêrusalem, họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò: Hoan
hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua
Ít-ra-en!” (Ga 12:12-13).
Buồn để rồi vui. Buồn càng nhiều, vui càng rộn rã.
Cũng vậy, đau khổ để rồi hạnh phúc. Đau khổ càng nhiều, hạnh phúc càng
lớn. Đó là sự tất yếu, và cũng là Thánh Ý Thiên Chúa mầu nhiệm.
Trình thuật Is 50:4-7 là phần đầu của bài thứ ba
trong số các Bài Ca Người Tôi Trung. Đó là nói về đau khổ của Người Tôi
Trung – Người Tôi Tớ Đau Khổ: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói
năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt
sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe
như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi,
tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người ta
đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng
nhiếc phỉ nhổ”. Những động thái đó không phải là miễn cưỡng, nhưng là tự
nguyện – vì yêu thương và thương xót những người mà Người Tôi Trung quý
mến. Kẻ được yêu đó là chính mỗi tội nhân chúng ta.
Đau khổ lắm. Đau khổ đến tột cùng. Phàm ngôn không
đủ lời để diễn tả. Nhưng dù đau khổ tới đâu, Người Tôi Trung vẫn một
lòng tín thành và tín thác: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì
thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình
sẽ không phải thẹn thùng”. Chẳng ai muốn khổ, chẳng ai mong sầu, nhưng
có đau khổ mới biết thương người khác. Nếu chưa đau khổ, người ta không
thể hình dung ra đau khổ thế nào. Chưa đi tù thì không thể hiểu hết cảnh
tù đày, chưa hiểu hết nghĩa của sự tự do. Bị tù là bị khổ.
Có lẽ chúng ta nghe Kinh Thánh kể hoặc nghe nói về
cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu nhiều lần rồi, hầu như thuộc lòng, nhưng có
thể nói rằng vẫn có chút gì đó “mơ hồ” nếu chưa xem phim “The Passion of
Christ” (Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu) của đạo diễn Mel Gibson (1). Xem
cảnh quân lính đánh đập Chúa Giêsu rất dã man, khó có ai có thể tưởng
tượng được như vậy. Mel Gibson có trí óc rất tinh tế. Giỏi thật!
Khi gặp đau khổ, người kiêu ngạo thì nguyền rủa –
nguyền rủa người khác, trách móc đất trời, và vùng vẫy như con giun bị
đạp; còn người khiêm nhường thì cam chịu, tủi thân, có trách thì chỉ
trách mình mà thôi: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng
chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa
mai: Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào!”
(Tv 22:7-9). Buồn lắm, buồn đến chết được!
Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí. Chuỗi buồn này
tiếp chuỗi sầu khác. Nước mắt không chỉ mặn, mà còn chua và cay. Cô đơn
và lạc loài, thế mà đau khổ cứ tiếp tục chồng lên đau khổ: “Quanh con
bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con
thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài
ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm
luôn. Chúa là sức mạnh con nương, cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa!”
(Tv 22:17-20). Đó là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Dù là Con Yêu Dấu
của Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn phải chịu đau khổ đến tột cùng để làm
trọn sứ vụ cứu độ chúng sinh. Chắc chắn không một phàm nhân nào phải
chịu đau khổ như Ngài. Nhân tính nơi Ngài cũng phải chịu đựng lắm, cả
tinh thần và thể lý, chúng ta không thể tưởng tượng được. Ngay cả những
người chịu đóng đinh trong lễ hội Cutud (Philippines) chỉ là một phần
nhỏ so với Con Người Giêsu mà thôi, chưa thấm vào đâu!
Dù cô đơn, lạc loài, nhục nhã, đau khổ, nhưng Người
Tôi Trung vẫn quyết vì Danh Chúa. Hình ảnh này đã và đang được thể hiện
nơi các vị tử đạo. Một lần hứa là trọn trăm năm, trước sau như một,
không gì có thể lay chuyển: “Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh
em tất cả được hay, và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài
tán dương” (Tv 22:23).
Thánh Phaolô cho chúng ta biết về sự tự nguyện của
Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không
nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã
hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm
nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến
nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:6-8). Sự tự nguyện
luôn cao cả, quý giá, đáng khâm phục, đáng noi gương. Dù là loại tình
yêu nào thì cũng phải tiết ra “chất” hy sinh, nếu không có sự hy sinh
thì không đáng gọi là tình yêu. Hy sinh cao nhất là “dám chết” vì người
khác. Thật vậy, khi nói về tình yêu, Chúa Giêsu đã xác định: “Không có
tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì
bạn hữu của mình” (Ga 15:13).
Đức Giêsu Kitô đã nêu gương để chúng ta noi theo.
Thánh Phaolô giải thích và kết luận: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu
tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như
vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi
âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài
phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2:9-11).
Thật lạ, chuỗi đau khổ bắt đầu chính từ khoảnh khắc
hiển hách. Trình thuật Mc 14:1-15 như một đoạn phim sống động, cho chúng
ta thấy rõ điều đó: Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các
thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu bắt Đức Giêsu và giết đi, vì họ
nói: “Đừng làm vào chính ngày lễ, kẻo dân chúng náo động”. Họ muốn giết
Ngài trước ngày lễ, nhưng không thể: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại
thiên”.
Lúc đó, ngay tại nhà ông Simon Cùi ở làng Bêtania.
Giữa lúc Đức Giêsu dùng bữa, có một phụ nữ đến với chiếc bình bạch ngọc
đựng dầu thơm cam tùng (2) nguyên chất, thứ đắt tiền. Cô đập ra, đổ dầu
thơm trên đầu Người. Chắc hẳn cô biết mình tội lỗi, nhưng cô không có ý
“mua chuộc” hoặc “lấy lòng” Chúa Giêsu. Không biết cô có biết Đức Giêsu
là Con Thiên Chúa hay không, nhưng cô thực sự tâm phục khẩu phục Con
Người thánh thiện và cao cả này. Cô tin nên cô mới “ngồi lì” để xin Ngài
thương xót. Niềm hy vọng của cô rất lớn, rất cao, rất rộng, rất sâu.
Đám bạn của ông Simon Cùi biết rõ cô nàng này, thế
nên có vài người lấy làm bực tức và xì xầm: “Phí dầu thơm như thế để làm
gì? Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người
nghèo”. Ra cái điều nhân đức lắm. Bảo là thương người nghèo hay tiếc
của? Họ hy vọng điều gì? Chúng ta cũng thường có động thái này khi muốn
chứng tỏ “bản lĩnh đạo đức” của mình, nhưng ngày nay “phong cách” của
chúng ta tinh vi hơn thời xưa. Thử “nhìn” các thành viên trong hội này
hoặc đoàn nọ mà xem. Chẳng oan uổng chi mô!
Tức trong lòng chưa đủ, họ còn thốt ra lời họ gắt
gỏng với cô. Lòng ghen tức của con người kinh khủng, thật đáng sợ! Nhưng
Đức Giêsu ôn tồn bảo họ: “Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô
ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng
có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được!
Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu! Điều gì làm được thì cô đã làm: cô đã
lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng. Tôi bảo thật các
ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ thì nơi đó
việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô”. Chúa Giêsu không
thích nói nhiều, nhưng lúc này Ngài phải nói “dài hơi” một chút để những
người có “óc bã đậu” (dốt thật hoặc cố chấp) có thể hiểu.
Nữ tội nhân này bị chúng ta khinh miệt và ghét bỏ,
nhưng Chúa Giêsu đã làm cho cô hãnh diện: “Hễ Tin Mừng được loan báo đến
đâu trong khắp thiên hạ thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại
để nhớ tới cô”.
Điều gì sẽ đến rồi sẽ đến. Thánh sử Mác-cô kể ngắn
gọn sang một cảnh khác: “Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, một người trong Nhóm Mười
Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. Nghe hắn nói, họ rất mừng
và hứa cho tiền. Giu-đa liền tìm cách nộp Người sao cho tiện” (Mc
14:10-11). Vì mê tiền, ông Giu-đa đã “đi đêm” với bọn bất lương. Ông
cũng có cách hy vọng riêng: Có tiền tiêu xài hoặc làm việc gì đó. Tiền
dù rất “bạc bẽo” nhưng nó có ma lực cực mạnh, khó có thể cưỡng lại, và
Thánh Phaolô đã xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn
tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin
và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 6:10). Lơ là một thoáng là
chết chắc – bất kỳ ai!
Rồi đến hôm đó là ngày thứ nhất trong tuần Bánh
Không Men, ngày sát tế Chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Đức Giêsu:
“Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”. Người sai
hai môn đệ đi, và dặn họ vào thành, sẽ có một người mang vò nước đón gặp
họ, và bảo họ cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào thì họ vào theo
và hỏi chủ nhà xem phòng dành cho Ngài ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ ở
đâu. Chúa Giêsu cho biết rằng chính ông ấy sẽ chỉ cho một phòng rộng rãi
trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng, và họ có nhiệm vụ dọn tiệc.
Chiều đến, Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai cùng tới.
Đang khi dùng bữa, Người nói: “Thầy bảo thật anh em, có người trong anh
em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy”. Tá hỏa tam tinh.
Giòi trong xương giòi ra thật ư? Đáng sợ thật! Kẻ thù thì dễ thấy mà đề
phòng, người thân thiết thì biết họ trở tay lúc nào mà đề phòng? Rất
nguy hiểm. Quả thật, bạn bè và người thân đôi khi còn đáng sợ hơn kẻ
thù!
Và rồi sau Bữa Tiệc Ly, qua việc chỉ điểm của ông
Giu-đa, bọn thủ ác đã tra tay bắt Chúa Giêsu. Thấy chướng mắt, ông Phêrô
có sẵn gươm liền tuốt ra, vung chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế. Hú
hồn! Có lẽ Phêrô chỉ hoảng mà chém đại thôi, chứ cũng đang run thí mồ!
Nhưng rồi Chúa Giêsu bảo ông cất gươm, rồi Ngài chữa lành tai cho nạn
nhân. Thế mà chúng vẫn cứng lòng tin, không chịu sám hối, vẫn quyết bắt
giết Con Thiên Chúa!
Đoạn phim buồn chưa khép lại ở “khoảng tối” này, và
còn một “khoảng đen” khác, nhưng cuối cùng sẽ là “vùng sáng” huy hoàng.
Màu xanh hy vọng vẫn tươi sắc xanh biếc...
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết chấp
nhận đau khổ với lòng tự nguyện, vì yêu Chúa, vì thương người, vì muốn
cứu các linh hồn và để đền tội chính mình. Xin ban thêm lòng can đảm để
chúng con đủ sức duy trì niềm hy vọng vào Danh Đức Giêsu Kitô cho tới
hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu
độ chúng con. Amen.
***
(1) Phim lồng tiếng
Việt:
https://www.youtube.com/watch?v=YthiJ07xRAs
(2) Cam tùng (tên
khoa học là Nardostachys) là một chi thực vật thuộc họ Kim Ngân. Chi này
gồm hai loại có thể gọi là cam tùng hoặc cam tùng hương, được sử dụng để
chiết xuất lấy tinh dầu màu hổ phách, mùi rất thơm.
Tại một ngôi nhà thờ nọ ở Tây Ban Nha có một cây
thập giá được rất nhiều người tôn sùng. Đó là tượng chịu nạn tha tội:
Chúa Giêsu bị đóng đinh tay trái, còn tay phải của Ngài thì thõng xuống.
Truyền thuyết kể lại: Có một người tội lỗi tìm
đến với cha xứ. Tuy ông đã xưng thú mọi tội lỗi với lòng sám hối, nhưng
cha xứ lưỡng lự không biết có nên tha cho ông hay không, vì thấy ông
phạm quá nhiều tội. Sau cùng, cha nghiêm giọng nói:
- Tôi ban bí tích Giải tội cho ông, nhưng trong
tương lai ông phải cố gắng sửa mình.
Ông hứa với cha xứ, nhưng vì yếu đuối ông lại sa
ngã và một thời gian sau lại tìm đến tòa cáo giải. Lần này thì cha xứ
nói với ông bằng một giọng nghiêm khắc:
- Tôi ban bí tích Giải tội cho ông lần này là
lần cuối cùng đấy. Ông đã nghe thấy chưa.
Vài tháng trôi qua và ông lại đến quỳ dưới chân
cha xứ và năn nỉ:
- Con thực lòng ăn năn, xin cha tha tội cho con
một lần nữa.
Cha xứ đáp:
- Đừng đùa giỡn với Chúa. Tôi không ban bí tích
Giải tội cho ông nữa đâu.
Khi nói thế, cha bỗng nghe thấy có tiếng nấc
nghẹn ngào. Rồi từ trên thập giá, cánh tay phải của Chúa từ từ hạ xuống
và ban phép giải tội cho người tín hữu thành tâm sám hối. Và Ngài nói
với vị linh mục:
- Chính Ta đổ máu ra để cứu chuộc ông ấy chứ
không phải là con.
Và cũng từ ngày đó, cánh tay phải của Chúa thõng
xuống trong tư thế ban phép tha tội.
Chính Ta đã đổ máu ra để cứu chuộc con.
Lời ấy chính Chúa Giêsu muốn nói với mỗi người chúng ta trong tuần thánh
này. Thực vậy, Chúa Giêsu đã tự đồng hóa mình với người tôi tớ đau khổ
của Đức Giavê. Thập giá trước mắt người đời là dấu chỉ của tủi nhục và
thất bại, là hình phạt được dành cho bọn nô lệ và phản loạn. Thế nhưng,
Thiên Chúa đã biến đổi nó thành dấu chỉ của tình thương, của ơn cứu độ
và của sự tha thứ. Khi tuyệt đối trung thành với thánh ý Chúa Cha bằng
cách chấp nhận thập giá, như lời thánh Phaolô đã viết:
- Đức Kitô đã vâng phục cho đến chết và chết trên
thập giá.
Ngài đã dạy cho chúng ta biết ý nghĩa và giá trị
cứu độ của đau khổ. Con đường Đức Kitô đã đi qua là con đường của đau
khổ, của thập giá, của khiêm nhu, của thất bại, con đường ấy không đưa
chúng ta vào ngõ cụt, nhưng dẫn chúng ta tới vinh quang phục sinh.
Là người môn đệ của Chúa, chúng ta cũng không có
một con đường nào khác ngoài con đường thập giá, tức là chấp nhận những
khổ đau trong cuộc sống như lời Ngài đã phán:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá
mình mà theo Ta.
Mỗi khổ đau, mỗi hy sinh chúng ta vui lòng chịu vì
lòng yêu mến Chúa sẽ là một góp phần nhỏ bé vào thập giá Đức Kitô để đền
bù tội lỗi, cũng như để thu tích công nghiệp cho chính bản thân của
mình. Và như thế, đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về
vinh quang và thập giá là đường dẫn tới vinh quang phục sinh.
(Suy niệm của John W. Martens - Văn Hào SDB chuyển
ngữ) (John W. Martens: Giáo sư trợ giảng môn Thần học tại Đại học St.
Thomas, Thánh Phaolo, Minnesota)
“Ngài đã khiêm nhường tự hạ - vâng phục cho
đến chết, và chết trên Thập giá” (Pl 2,8)
Tin Mừng Mát-thêu giới thiệu Chúa Nhật lễ Lá với
bài Tin Mừng chứa nhiều trình thuật mang đậm những lời tiên báo của các
Ngôn sứ thời Cựu Ước. Những trình thuật đó mô tả Đức Giêsu như là người
được Thiên Chúa hứa ban, Đấng sẽ đến để thiết lập Vương Quốc Nước Trời.
Mát-thêu trình bày lời Ngôn sứ trong Dacaria 9,9 để mô tả việc Chúa
Giêsu tiến vào Giêrusalem: “Nào Thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ. Hỡi
Thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò. Vì kìa Đức Vua của ngươi đang
đến với ngươi. Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Năng, Khiêm Tốn ngồi
trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ”. Mát-thêu đã không nói
về dáng vẻ oai phong của một vị tướng quân theo phong cách Do Thái hay
Hy Lạp, nhưng ngài chỉ nêu lên 2 phẩm tính căn bản nơi Đức Giêsu, và đó
cũng là tâm điểm của lời Ngôn sứ “Vị Vua khiêm tốn và vị vua tiến vào
Thành Thánh trên lưng của một con lừa.
Đây là lời tiên tri xem ra có vẻ khập khiễng, bởi
vì khiêm tốn không phải là bản chất của các vua chúa. Các ông vua thường
tiến vào thành bằng những chiến xa có ngựa kéo với long bào lộng lẫy và
đầy uy lực. Sự khiêm tốn của Đức Giêsu không phải để trình diễn, nhưng
đây là chính ý định của Ngài khi tiến vào Giêrusalem, và hiểu rộng hơn,
khi Ngài đến trần gian mang lấy kiếp người. Một con ngựa chiến biểu thị
cho chiến tranh, ngược lại một con lừa gợi đến viễn ảnh hòa bình. Dẫu
sao, Dacaria cũng tiên báo về một vị vua “oai hùng và chiến thắng”.
“Oai hùng và chiến thắng” dường như là những lời
xưng tụng trên môi miệng đám đông khi Chúa vào Giêrusalem. Người ta hoan
hô Ngài, gào lớn tiếng “Hosanna con Vua Đavit, chúc tụng Đấng nhân danh
Chúa ngự đến, hoan hô trên các tầng trời”. Chúa Giêsu biết rằng lời tung
hô từ đám đông không đem lại chiến thắng và vinh quang. Ngài biết mình
là ai, và Ngài phải thực hiện sứ mạng cứu thế như thế nào. Vì thế, Ngài
nhận ra rằng: việc cưỡi lừa vào Giêrusalem, thực hiện lời Ngôn Sứ
Dacaria đòi phải có một phong thái khiêm tốn, không màng quyền lực,
không gây tàn phá, hận thù hay chiến tranh để cho hoạch định cứu chuộc
của Chúa Cha được thực hiện qua đau khổ của chính Ngài. Cuộc hành trình
tiến vào Giêrusalem, với đám đông tung hô bên đường, phải thấm đượm cay
đắng, đan xen ngọt ngào. Ngài biết những gì đang xảy ra, và Ngài biết
con đường trước mắt sẽ như thế nào?
Câu hỏi được đặt ra là có khi nào Đức Giêsu thực
hiện trọn vẹn lời Ngôn Sứ nói về sự khiêm hạ và tự nguyện nơi Ngài khi
Ngài không còn một chọn lựa nào khác để xây dựng Vương Quốc Nước Trời?
Có khi nào việc Ngài biết trước những biến cố sẽ xảy ra, làm giảm đi giá
trị của việc tự hiến nơi Ngài? Như Thánh Phaolo đã nói trong thư gửi
Giáo đoàn Philipphê, Đức Giêsu “đã tự hạ” bằng cách mang lấy thân phận
loài người, bằng việc Ngài đã “biến mình ra không” và chọn cuộc sống làm
người rất thấp hèn. Hơn nữa, trong tư cách là một phàm nhân, Ngài đã
“trở nên vâng phục cho đến chết – và chết trên Thập giá”. Khi tiến vào
Giêrusalem và đón nhận cái chết, Đức Giêsu đã thể hiện sự khiêm tốn, sự
vâng phục một cách tự nguyện.
Lẽ dĩ nhiên, chúng ta có thể lý giải rằng cuộc
thương khó của Đức Giêsu là do sự trở mặt của đám đông. Dân chúng thay
đổi thái độ hoàn toàn, từ việc tung hô chào đón một con người mà họ kỳ
vọng sẽ là một ông vua, biến trở thành thái độ chống đối, đòi kết án và
loại trừ Ngài. Tuy nhiên, chính Đức Giêsu biết những điều đã, đang và sẽ
xảy ra. Ngài cũng nắm bắt được những gì xảy đến cho dân chúng và cả
những người lính hành quyết Roma, để cả họ cũng được cứu độ. Đó là lý do
Ngài đã trở nên tự hạ, và tự hạ để thương xót cả những con người đã mỉa
mai và kình chống Ngài.
Một điều cũng quan trọng, không phải mọi người đã
quay lại phản bội Chúa Giêsu, cho dù nhiều người không thể hiểu được
nguyên do tại sao Ngài tự nguyện hiến mình cho đến chết. Nhiều người vẫn
theo Chúa đến tận chân Thập giá, cho dù những người khác lại bội phản và
chối từ Ngài. Sự khiêm hạ và vâng phục nơi Đức Giêsu là quà tặng được
trao ban cho chúng ta, cho mọi người và cho cả những ai không chấp nhận,
lúc đó hay ngay bây giờ.
Dấu ấn đậm nét nhất khi nhìn vào bản tính Thiên
Chúa, chính là Vương Quốc Ngài được xây dựng trên thân xác mong manh của
Người Con. Vương quốc đó được trao hiến cho kiếp người, và vinh quang từ
Vương Quốc đó đã bị cất giấu đi nơi chính Người Con này. Thiên Chúa đến
với chúng ta bằng sự khiêm hạ, không bằng sức mạnh, để dạy chúng ta biết
rằng tình yêu vị kỷ là chính bản tính của Thiên Chúa. Một Đức Giêsu uy
quyền và chiến thắng không phải là một Đức Kitô dương oai thị võ, nhưng
là một Đấng rất khiêm hạ. Khiêm hạ không phải là con đường Đức Giêsu
muốn một mình dấn bước đến Giệtsêmani, nhưng là con đường Ngài đã chọn
để vác Thập giá trong vâng phục đến nơi mà chúng ta cần Ngài đi đến.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Trong trình thuật Đức Giêsu vào Giê-ru-sa-lem với
tư cách đấng Mê-si-a, cả bốn Phúc Âm đều ghi nhận chi tiết mượn lừa và
cỡi lừa; thậm chí có tác giả như Mác-cô và Luca còn xác định chi tiết
hơn: Người cỡi lên ‘con lừa con chưa ai cỡi bao giờ’. Hình ảnh Đức Giêsu
khải hoàn tiến vào thành thánh ngồi trên lưng lừa thật ấn tượng; ấn
tượng không phải vì vẻ uy nghi bề ngoài (điển hình như bức tranh
Na-pô-nê-ôn oai phong trên lưng ngựa chiến vượt qua rặng núi Alpes của
Jacques-Louis David), nhưng vì một một nét gì đó êm đềm và sâu sắc đến
khó tả.
Tác giả Mát-thêu đã hé cho thấy ý nghĩa của cảnh
tượng đó, khi trích dẫn lời ngôn sứ Da-ca-ri-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy
vui mừng hoan hỷ!... Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi; Người
là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một
con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dcr 9:9). Các nhà chú giải Kinh Thánh đưa
ra những giải thích quen thuộc, như “Các ngôn sứ đã loan báo một vị vua
hiền hòa, đến viếng thăm dân, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, như người
dân đơn sơ hiền hòa, thay vì ngồi trên lưng ngựa như vị tướng quân”
(Christian Community Bible). Thực ra nói như thế ta vẫn chưa giải thích
được gì, hoặc có nếu có thì cũng mới chỉ cho thấy hình tượng bên ngoài
như một lối trình bày trước quần chúng (theo kiểu thường thấy nơi các
diễn viên).
Tra cứu Cựu Ước, tôi được biết đối với người Do
Thái, trong đời thường việc cỡi lừa chẳng có một ý nghĩa gì lớn. Cho tới
thời Sa-lô-mom, các tổ phụ, các vua, các quan án hay mọi người giầu có,
vị vọng cũng đều cỡi lừa cả (Tl 10,3; 1,14; 1Sm 25,23). Lừa đồng thời
cũng từng là phương tiện chuyên chở phổ thông của cả vùng Pa-lét-tin
thời đó. Phải đến thời hậu Sa-lô-môn sau khi ngựa chiến được du nhập,
lừa mới trở thành biểu tượng của thời bình, cũng như ngựa là biểu tượng
của thời chiến. “Kìa đức Vua đến với ngươi, hiền hòa trên lưng lừa!”.
Đức Giêsu tự giới thiệu mình với đám quần chúng Do Thái như vị Con Người
của đời thường, của hòa bình, khác xa với quan niệm chính trị về một
đấng Mê-si-a chinh chiến đánh đuổi ngoại xâm được các thượng tế và luật
sĩ truyền bá. Sau này, trước mặt tổng trấn Phi-la-tô của chính quyền
Rô-ma, Người cũng sẽ thẳng thừng tuyên bố cùng một nội dung đó (Ga
18,36-38).
Đối với những ai am tường Cựu Ước hơn, khi nhắc tới
chi tiết ‘Vua ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con
của một con vật chở đồ’ chắc hẳn sẽ gợi nhớ hai giai thoại; A-bra-ham
sát tế I-xa-ác, và con lừa cái của ông Bi-lơ-am. Câu chuyện sách Sáng
thế chương 22 thuật: “Ông Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy
tớ và con ông là I-xa-ác. Ông bổ củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu… rồi
lên đường tới nơi Thiên Chúa bảo… Sang ngày thứ ba, ngước mắt lên,
Áp-ra-ham thấy nơi đó ở đàng xa, ông bảo đầy tớ: “Các anh ở lại đây với
con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia làm việc thờ phượng, rồi sẽ
trở lại với các anh”… Ông Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt của lễ toàn
thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả
hai cùng đi…” I-xa-ác trước khi bị cha mình sát tế, đã vác củi thay con
lừa mang nặng. Còn sách Dân số chương 22 thì kể câu chuyện Bi-lơ-am,
thầy sấm của dân Ma-đi-an, cỡi con lừa cái của mình chạy trốn cơn thịnh
nộ của Thiên Chúa. Ba lần con lừa ‘thấy thần sứ của Đức Chúa đứng trên
đường, gươm trần trong tay…’ và nó đã tìm cách tránh đường. Sau cùng
thần sứ nói với Bi-lơ-am: “Con lừa cái thấy Ta, thì nó đã tránh mặt ta
tới ba lần. Giả thử nó không tránh mặt Ta, thì chắc chắn Ta đã giết chết
ngươi, còn nó thì Ta đã để cho sống…” Một con lừa gợi nhớ hy tế vâng
phục, con kia nhắc nhở tha thứ khỏi cơn thịnh nộ!
Như vậy cảnh tượng Đức Giêsu khải hoàn tiến vào
Giê-ru-sa-lem cỡi trên lưng lừa không đơn thuần chỉ là một hình ảnh gây
ấn tượng. Nếu Hy tế Thập giá là cả một mạc khải vĩ đại về Thiên Chúa
tình yêu và cứu độ, thì hình ảnh ‘cỡi lừa’ này chính là một phần của mạc
khải đó (cũng như hình ảnh con rắn đồng trong Ga 3,14-18). Nó nói lên
một Thiên Chúa hiền hòa, không kết án, không luận phạt; nó là hình ảnh
rất Do Thái về một đấng Mê-si-a hiền hòa và xót thương, cứu vớt và tha
thứ; một đấng Mê-si-a, ‘Đấng ngự đến nhân danh Chúa’ phải là như thế,
không thể nào khác được!
Lạy Đấng Mê-si-a hiền hòa cỡi trên lưng lừa con,
ai có thể mở miệng tung hô và đón nhận Người cách nhiệt tình nhất nếu
không phải là những người tội lỗi thấp hèn? Nếu con không biết tung hô
lòng từ bi nhân hậu Chúa, biểu lộ cách rực rỡ nơi mầu nhiệm Thập Giá,
thì y như Chúa nói: “sỏi đá cũng sẽ kêu lên!” Xin cho tâm hồn con không
bị trai cứng còn hơn cả sỏi đá tới độ không biết mở miệng lớn tiếng ca
tụng tình thương cứu độ Người đã thực hiện trên thập giá vì yêu con!
Amen.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Đức Giêsu gọi giờ tử nạn là giờ Người được tôn
vinh: "Giờ đây, Con Người được tôn vinh" (Ga 13, 31).
Vinh quang ở đâu mà chỉ thấy bị bắt bớ, xét xử, bị
vu cáo đủ điều, rồi lại bị kết án, bị đòn vọt, bị vác thập giá và cuối
cùng là cái chết thảm thương ô nhục trên đồi Canvê!
Vậy vinh quang của Chúa Giêsu ở đâu? Vì sao Chúa
Giêsu gọi đây là giờ Người được tôn vinh?
Đối với người không am hiểu, cái chết của Chúa
Giêsu trên thập giá là một thất bại não nề; nhưng suy cho kỹ, cái chết
đó là một chiến thắng rất oanh liệt và vinh quang.
Đây là nơi Chúa Giêsu chiến thắng sự hận thù bằng
lòng bao dung.
Đối diện với cuộc kết án bất công, đứng trước những
thượng tế, kỳ mục muốn huỷ diệt mình cho bằng được, đối diện với đám
đông cuồng nộ đòi đóng đinh kết liễu đời mình, trước những kẻ chế giễu
nhạo cười với bao lời thách thức, đứng trước đội quân hành quyết dã man
tàn bạo... Chúa Giêsu vẫn không may may oán hận! Người chiến thắng sự
hận thù bằng lòng bao dung vô bờ bến. Người nhìn họ với ánh mắt thương
xót, vẫn yêu họ bằng trái tim khoan nhân... Rồi vì sợ Chúa Cha đánh phạt
họ vì tội lỗi ngất trời của họ, Người tha thiết cầu xin Chúa Cha tha thứ
cho những kẻ gây đau khổ và kết án tử cho Người: "Lạy Cha, xin tha cho
họ vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23, 34). Đó là tâm tình đẹp nhất,
cao thượng nhất trên cõi đời nầy.
Đây là nơi Chúa Giêsu chiến thắng tính khiếp nhược
và lòng tham sinh uý tử bằng sự dũng cảm rất cao cường.
Là người ai không sợ chết. Chính Chúa Giêsu cũng đã
trải qua những giờ phút kinh hoàng trước viễn ảnh cái chết đau thương
sắp đến khi cầu nguyện trong vườn Dầu, thế nhưng Người không bị khuất
phục bởi cái chết. Người đã chổi dậy để dũng cảm đương đầu với nó. Người
đã chấp nhận chết cách can trường và đã huỷ diệt sự chết để hồi sinh.
Đây là nơi Chúa Giêsu chiến thắng đau đớn thể xác
và đau khổ tinh thần.
Là người ai cũng sợ khổ và tìm cách lánh thoát khổ
đau. Nhưng Chúa Giêsu đã đón nhận những cực hình đau thương khủng khiếp
nhất cách can đảm phi thường. Qua thập giá, Ngài đã hoàn toàn chiến
thắng tính khiếp nhược của phận người.
* * *
Qua cách thức Chúa Giêsu đương đầu với cuộc khổ
nạn, ta thấy không một thách thức nào làm cho Người lùi bước; không một
đe doạ nào làm cho Người khiếp sợ; không một sỉ nhục nào làm cho Người
nổi giận hay mất bình an; không hận thù nào tiêu huỷ được lòng bao dung
vô bờ bến của Người...
Người thắng được bản năng tham sinh úy tử; Người
vượt lên trên nỗi sợ mọi thứ khổ đau; Người thắng được lòng hận thù có
thể bùng lên khi bản thân mình bị sỉ nhục và bị đối xử rất dã man và tàn
ác... Trong cuộc khổ nạn của mình, Đức Giêsu chiến thắng hoàn toàn bản
thân mình, vượt qua các thách thức từ mọi phía để hoàn thành mỹ mãn sứ
mạng Chúa Cha đã trao ban.
Chiến thắng cả thiên hạ không bằng chiến thắng
chính bản thân mình. Chúa Giêsu đã thực sự chiến thắng bản thân mình,
hoàn toàn làm chủ con người mình, bắt thân xác phải vâng phục tinh thần
như chiên ngoan. Oai hùng thay! Vinh quang thay!
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa vô cùng dũng cảm và
hùng mạnh nên đã chiến thắng tử thần và đẩy lùi mọi cuộc tấn công của
nó, xin nâng đỡ chúng con là những kẻ đớn hèn khiếp nhược, đừng để chúng
con chào thua trước tội lỗi cách dễ dàng nhưng giúp chúng con kiên cường
chiến đấu chống lại tội lỗi và thói hư, để mai ngày được khải hoàn vinh
quang như Chúa.
(Suy niệm Chúa nhật Lễ Lá của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Nếu có dịp đi thuyền ra giữa biển khơi, thỉnh
thoảng người ta có thể bắt gặp những chú cá voi hiền hòa dễ thương bơi
lội trong làn nước biếc mênh mông. Tiếc một điều là người ta chỉ có thể
nhìn thấy những tia nước biển do chúng phun lên, hoặc thấy một phần rất
nhỏ của tấm lưng chúng trồi lên mặt nước, còn phần lớn thân thể chúng
chìm trong làn nước biển xanh không ai thấy được. Họa hoằn mới có một
vài chú cá voi cao hứng búng mình lên cao, vượt lên khỏi mặt nước, phô
bày cho người ta thấy cả tấm thân đồ sộ và rực rỡ của chúng dưới ánh
nắng mặt trời. Thấy vậy mọi người rất khoan khoái.
Tôi xin mượn hình ảnh những chú cá voi nầy để minh
họa về Thánh Lễ.
Thánh Lễ chính là cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu kéo
dài trong lịch sử cho đến ngày tận thế (giáo lý công giáo số 1323,
1366,1367). Tuy nhiên, khi đến tham dự Thánh Lễ, giáo dân không thể nhìn
thấy toàn bộ Thánh lễ mà chỉ thấy phần nổi của Thánh Lễ mà thôi, còn
phần chìm của Thánh Lễ, là phần đặc biệt quan trọng, thì không ai nhìn
thấy.
Phần nổi của Thánh Lễ là phần ta có thể nghe và
nhìn thấy khi linh mục cử hành Thánh Lễ trên bàn thờ: giang tay cầu
nguyện, đọc các bài sách thánh, dâng bánh rượu, truyền phép, cho rước
lễ… vân vân….
Vì lần nào tham dự Thánh Lễ cũng chỉ thấy có bấy
nhiêu chuyện nên ta cảm thấy Thánh Lễ sao mà nhạt nhẽo, nhàm chán quá!
Sở dĩ như thế một phần là vì ta chỉ thấy phần nổi của Thánh Lễ mà chưa
thấy phần chìm hết sức thiêng liêng, cao cả, cảm động và đầy ấn tượng
của Thánh Lễ.
Nên nhớ rằng: phần chìm và phần nổi của chú cá voi
là hai phần không thể tách lìa của cùng một thân thể, thì phần nổi và
phần chìm của Thánh Lễ là hai phần không thể tách lìa của một hiến tế
duy nhất của Đức Ki-tô.
Làm sao thấy được, hiểu được phần chìm của
Thánh Lễ?
Qua bài thương khó hôm nay, thánh sử Mác-cô phác
họa cho chúng ta thấy tường tận diễn tiến của Thánh Lễ, tức là của hy tế
thập giá của Chúa Giêsu. Đây chính là phần chìm của Thánh Lễ mà không
mấy người để ý đến.
Tôi xin dựa vào tường thuật của thánh Mác-cô để tóm
lược những giai đoạn chính của Thánh Lễ như sau:
Khởi đầu, Chúa Giêsu và các môn đệ ăn bữa tối trước
ngày chịu nạn. Đây cũng chính là lúc Chúa Giêsu thiết lập Thánh Lễ trong
phòng tiệc ly. (Mác-cô 14,22-25)
Sau đó, Chúa Giêsu vào cầu nguyện thống thiết trong
vườn Dầu, chấp nhận uống chén đắng theo ý Chúa Cha. Tiếp đó, quân lính
đến bắt Chúa Giêsu (Mc 14, 46), áp giải Người ra trước Thượng Hội Đồng
để chịu vu cáo, chịu khạc nhổ vào mặt, chịu đánh đấm túi bụi (Mác cô 14,
65) rồi bị đưa ra trước tòa Phi-la-tô (15,2). Bị dân Do-thái kết án dữ
dội, Phi-la-tô cho đánh đòn rồi trao Chúa Giêsu cho họ đem đi đóng đinh.
(15, 15) Thế rồi, dù sức tàn lực kiệt, Chúa Giêsu phải vác thập giá lên
đồi Gôn-gô-ta, chịu đóng đinh vào thập giá, chịu chế giễu nhạo cười và
cuối cùng tắt thở trên thập giá.
Thánh Lễ là thế đó! Phần chìm của Thánh Lễ là thế
đó! Nếu chúng ta hiểu rằng chính lúc phần nổi của Thánh Lễ được cử hành
trên bàn thờ bởi các linh mục của Hội Thánh thì cũng là lúc phần chìm
của Thánh Lễ là cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đang diễn tiến song hành để
đem lại ơn tha tội cho nhân loại, thì chúng ta sẽ quý trọng Thánh Lễ
biết bao, sẽ siêng năng và sốt sắng tham dự Thánh Lễ biết chừng nào!
Nào, mời cộng đoàn chứng kiến cách thiêng liêng
Thánh Lễ của Chúa Giêsu qua bài thương khó được công bố trong ngày Lễ Lá
hôm nay. Đó là bài Thương Khó trích từ Tin Mừng Mác-cô, chương 14 và
15).
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Khi làm sai một điều gì đó, người ta thường biện
minh rằng: "Người ta làm sao, tôi làm vậy. Người ta làm bậy, tôi làm
theo".
Câu nói này không hẳn là lời nói cho vui mà dường
như là căn bệnh của xã hội qua mọi thời đại. Một cách đơn giản, mỗi khi
dừng trước đèn đỏ mà có một người vượt lên trước, thì y như rằng sẽ có
rất nhiều người vượt lên theo. Lúc này người ta không để ý đến đèn chỉ
dẫn mà chạy theo đám đông. Đám đông làm bậy, tôi làm theo.
Người ta kể rằng: có một cậu bé đang đi trên lề
đường bỗng dừng lại, ngửa mặt lên trời. Có vị giáo sư đi tới, thấy thế
cũng ngạc nhiên dừng lại, ngước mắt nhìn theo. Rồi một bà đứng tuổi đi
ngang qua cũng làm y như vậy; một người, rồi một người nữa… Lúc cậu bé
cúi xuống, quay qua quay lại, ngạc nhiên khi thấy cả chục người đứng
chung quanh mình đều ngửa mặt nhìn trời. Cậu thành thực hỏi: "Ủa! Các
ông các bà cũng bị chảy máu cam như cháu sao?".
Đây là căn bệnh "hùa theo đám đông". Đám đông làm
mình cũng làm. Sự làm theo đám đông đôi khi bất chấp lề luật, bất chấp
tội lỗi. Dường như người ta nghĩ rằng nhờ đám đông mà dảm bớt tội, hay
giảm bớt trách nhiệm. Những bệnh "hùa theo đám đông này", ta có thể thấy
nhan nhản qua các tội: nam nữ sống "góp gạo thổi cơm chung" nơi khá đông
tầng lớp công nhân và sinh viên xa nhà; chuyện phá thai nơi những bà mẹ
mang con ngoài ý muốn; chuyện buôn gian bán lận để có đồng lời trong
thời buổi cạnh tranh mà nhiều người nói rằng "không gian làm sao có
lời"; chuyện hối lộ và tham nhũng để được việc và giữ được ghế lâu
dài...; Lợi dụng đám đông để người ta phạm tội mà không e ngại, không
xấu hổ và nhất là không còn ý thức đâu là tội. Đám đông làm bậy đã khiến
cho tội trở thành điều bình thường như: nói tục, chửi bậy, nói dối, nói
sai sự thật của người Việt nam hôm nay. Đám đông làm bậy đã làm cho
nhiều trẻ nhỏ và những người kém hiểu biết mất ý thức về sự việc là tội
hay không tội. Họ đã làm theo đám đông mà không còn ý thức về căn tính
sự việc.
Lần giở lại lịch sử cách đây hơn hai ngàn năm, Chúa
Giêsu được hoan nghênh và kết án, được tôn vinh, và tẩy chảy cũng chỉ
một đám đông. Đó chính là đám đông dân thành Giê-ru-sa-lem. Họ đã từng
tung hô Chúa Giêsu. Họ đã từng lấy áo lót đường cho Chúa Giêsu đi qua.
Họ cầm ngành lá vạn tuế để cùng nhau tung hô Chúa là Đấng nhân danh
Thiên Chúa mà đến. Thế nhưng, cũng đám đông đó, chỉ nghe nhóm biệt phái
và thượng tế định tội Chúa Giêsu, họ đã mau chóng quay lưng lại với
người mà họ đã từng tung hô. Những bàn tay cầm cành lá vạn tuế lại được
giơ lên trong tư thế nắm đấm đòi triệt hạ Chúa Giêsu. Những lời tung hô
đầy niềm vui được thay bằng những lời hằn học đầy căm phẫn. Có lẽ có rất
nhiều người trong đám đông đó không hề thù ghét Chúa Giêsu. Có lẽ trong
đám đông đó còn có rất nhiều người đã từng nhận ân nghĩa của Chúa Giêsu.
Thế nhưng, họ đã bị đám đông lôi cuốn vào chuyện gian ác để đòi đóng
đinh người vô tội trên thập tự giá.
Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những người công chính
bị hạ bệ, bị lấy mất thanh danh bởi đám đông đang rỉ tai nhau bỏ vạ, cáo
gian, nói hành, nói xấu...
Dòng đòi hôm nay vẫn còn đó những người bị tước mất
tất cả danh dự, lẫn vật chất vì đám đông hãm hại mà không biết thanh
minh từ đâu.
Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những bất công khi đám
đông cuồng tín bất chấp lề luật toa rập với nhau hãm hại người công
chính.
Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những người công chính
dám bảo vệ chân lý lại bị đám đông tẩy chay theo chủ nghĩa đồng cảm chứ
không đồng thuận.
Dòng đời hôm nay tội lỗi vẫn lan tràn, khi mà đám
đông đã không đủ tỉnh thức để hồi tâm, để dừng lại. Nhưng lại hùa theo
nhau để làm bậy đến mức độ mất ý thức về tội.
Đám đông dân thành Giê-ru-sa-lem đã toa rập với
nhau giết hại người công chính. Có lẽ, họ đã hối hận sau cái chết của
Chúa Giêsu. Có lẽ, họ đã hoảng sợ khi nghe tin Ngài đã từ cõi chết sống
lại. Nhưng đã muộn. Giu-đa đã tự vẫn. Phê-rô xấu hổ. Viên đội trưởng chỉ
thở não nề mà nói "Người này thật là Con Thiên Chúa". Đám đông xôn xao
lo lắng. Tất cả đã muộn khi sự ác chiến thắng. Người công chính đã bị
kết án tử hình.
Là người ky-tô hữu chúng ta phải sống yêu thương.
Tình yêu thương đòi buộc chúng ta đừng làm điều gì có lỗi với lương tâm.
Tình yêu đòi buộc chúng ta vượt trên đám đông, trên dư luận để đừng hùa
theo đám đông mà phải can đảm bảo vệ chân lý, bảo vệ lẽ phải. Tình yêu
đòi buộc chúng ta phải sống trung thực với chính mình, biết tôn trọng sự
thật và can đảm bảo vệ sự thật. Đừng vì sợ hãi mà im lặng để bất công
lan tràn, sự dữ ngự trị.
Xin cho mỗi người chúng ta luôn tỉnh thức trước
sự dữ, luôn có lập trường vững chắc trong cuộc sống. Xin đừng vì nhát
đảm mà làm ngơ trước bất công nhưng luôn can trường bảo vệ chân lý và sự
thật. Amen.
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Cho đến hôm nay, vẫn còn nhiều người tự cho mình là
vô can trong vụ án Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thập tự giá. Trong
số đó, có thể có tôi, có bạn, những người vẫn xưng mình là Kitô hữu,
hoặc hơn thế nữa, những người vẫn đang nhiệt tình tổ chức hoành tráng,
cờ hoa rực rỡ, đón rước linh đình, tung hô vang dội và kêu gọi mọi người
hãy cất tiếng: “Hoan hô con Vua Đavit. Chúc tụng Vua Israel, Đấng nhân
danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời”.
Hai mặt thiện ác trong mỗi con người tưởng như là
luôn lẩn tránh nhau, đối nghịch nhau, thì lại song hành cách đồng thuận
trong tâm hồn khi con người bị thần dữ thống trị. Thần dữ Satan có phép
biến những gì mà một người cho là chân lý, thành công cụ phục vụ cho mưu
đồ gian ác của chúng, khi người ấy nhận tất cả về mình những gì mình có:
học thức, hiểu biết, tài năng, và nhất là đức tin. Đó là trường hợp của
những luật sĩ, biệt phái, kinh sư… Họ vẫn nghĩ rằng đức tin của họ là do
sự hiểu biết siêu phàm hoặc do tài năng mà họ có được. Đối với họ, đức
tin của họ không được soi dẫn bởi Thánh Thần, mà là bởi cái tôi chủ quan
và mù quáng của họ. Bởi vậy, họ không thể chấp nhận một Đức Giêsu Kitô,
Con Thiên Chúa đến cứu chuộc trần gian, khi hiểu biết của họ vẫn chưa
chịu nhường chỗ cho sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Họ dựa theo suy luận
thấp bé mà cứ tưởng cao siêu của họ để định dạng, định hình một Đấng Cứu
Thế có thể thỏa mãn những nhu cầu của họ. Vì thế, có thể hôm nay họ hoan
hô Chúa Giêsu, nhưng ngày mai họ đả đảo dẫn tới cái chết của Con Thiên
chúa.
Có thể chúng ta đã lên án họ, rằng chính họ chủ mưu
trong vụ án Đức Giê-su vô tội bị lãnh án tử hình nhục nhã nhất lịch sử
nhân loại. Còn chúng ta, nghĩ rằng mình vô can sao? Trong khi, mỗi chúng
ta, có thể còn kinh khủng hơn họ nữa: nếu họ “hôm qua hoan hô ngày nay
đả đảo”, thì hãy coi chừng mỗi chúng ta, vừa hoan hô vừa đả đảo, hoặc
hoan hô theo cách đả đảo ngay chính trong cách thể hiện niềm tin của
mình.
Quả thật, chúng ta đã từng có suy nghĩ rằng: tôi
không tố cáo kết án Chúa Giêsu, tôi không bán Chúa Giêsu, không nộp Ngài
cho thế quyền, không đánh đập Ngài, không sỉ nhục ngài, không đội mão
gai cho Ngài, không quất vào ngài khi Ngài té ngã, không đóng đinh Ngài…
Chính người Do Thái đã làm tất cả những điều tệ hại ấy, và ấy là chuyện
đã rồi của hai ngàn năm trước. Chúng tôi vô can. Nếu nghĩ như thế, thì
việc cùng đoàn người rước Chúa Giê-su vào thành thánh cách long trọng
với lời tung hô vạn tuế hôm nay, và việc nghe lại trang thương khó đẫm
máu của Chúa Giêsu, sẽ không mang lại ý nghĩa, lợi ích gì cho đời sống
đức tin của chúng ta cả.
Phụng Vụ dẫn chúng ta vào tuần thương khó của Đức
Giê-su, để chúng ta có cơ hội hiểu rằng: không phải Đức Giê-su đi đường
thương khó hai ngàn năm trước mà Ngài còn đang đi đường thương khó ngay
hôm nay, ngay lúc nầy….
Bao lâu tôi không chịu thương khó, thì bấy lâu,
Chúa Giê-su còn phải chịu thương khó vì phần rỗi của tôi.
Bao lâu tôi còn sống trong vũng lầy tội lỗi, thì
bấy lâu, Chúa Giê-su còn có lý do để tiếp tục vác Thánh Giá lên Calvê và
chịu chết.
Bao lâu tôi còn vô tâm không màng đến hay bất cần
đến cái chết của Đấng Vô Tội, thì bấy lâu, tiếng kêu tha thiết của Chúa
Giêsu từ thánh giá vẫn còn vang lên và vọng xa cho tới tân cõi lòng
mình: “Ta khát”. Tôi, bạn, cả chúng ta, không thể là những người đứng
ngoài cuộc trong vụ án Thập Tự Giá nầy.
Vì thế, không thể nghĩ rằng: tôi không tố cáo Chúa
Giêsu, tôi chỉ bất bình với những lời dạy nghe chói tai, những yêu cầu
từ bỏ nghe có vẻ bất thường làm đảo lộn cuộc sống trần gian đang đầy thú
vị của tôi. Hoặc, tôi là Ki-tô hữu mà, tôi không hề tố cáo Chúa Giêsu,
chỉ là tôi chưa sống đúng như Lời Ngài dạy, vì đời còn dài, có vội chi
mà phải nhốt mình trong cái khung chờ chết. Nhớ vào dịp Tết, có người
nhận được lộc xuân, anh ta mở ra đọc: “Của Cesar trả cho Cesar. Của
Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Anh ta đưa cho ông hội đồng đọc và hỏi:
“Nói gì thế?”. Ông hội đồng giải thích: “Chúa bảo đừng có tham lam của
thế gian, lo trở về với Chúa”. Anh ta lẩm nhẩm: “Thời buổi nầy, không
tham sao sống nổi. Chúng nó hối lộ tham nhũng nhan nhản đầy dẫy kia, ai
làm gì được chúng nó”. Ra đến chỗ giữ xe, anh ta vò nát lộc xuân, vất
xuống đất, thản nhiên về. Không phải là chúng ta đang tố cáo Chúa Giêsu
nói và dạy những điều sai trái đấy sao?
Cũng không thể nghĩ rằng: tôi không bán Chúa Giêsu
ba mươi đồng bạc, tôi chỉ đem thời gian, tài năng, tiền bạc và sức lực
của tôi để đổi lấy cho tôi một cuộc sống thoải mái theo bản năng con
người, hoặc thiết thực hơn, tôi chỉ ham theo cho hết cuốn phim tình cảm
hay, hay đã lỡ hẹn với bạn bè, mà không thể đến nhà thờ dâng lễ, rồi
thành thói quen, bỏ cả lễ, quên cả Chúa. Ngày nào, Giáo xứ chưa có linh
mục, chưa có nhà thờ, ai nấy khát khao mong mỏi… đến lúc có cha ngon
lành, có nhà thờ to lớn xinh đẹp rồi, thì việc của cha là sáng chiều làm
lễ, việc của giáo dân là sáng ngủ cho đã giấc, chiều xem phim, hát
karaoke, nhậu nhẹt… chẳng màng! Nếu ngày xưa Giuđa đã xem ba mươi đồng
bạc có giá trị và cần thiết hơn là tánh mạng của Chúa Giê-su, thì rõ
ràng hôm nay, không phải là chúng ta cũng đã từng xem các thực tại chóng
qua kia lại có giá trị hơn một thánh lễ, hơn một Thánh Thể Chúa Giê-su
đó sao?
Càng không thể nói rằng tôi không hề bắt Chúa Giêsu
phải vác Thánh Giá, không hề đội mão gai cho Ngài, cũng không sỉ nhục
Ngài, đóng đinh Ngài… trong khi ngôi nhà tâm linh của chúng ta đã lún,
nghiêng theo chiều bất chính hoặc đã đổ sập, nát vụn thành một đống
hoang tàn.
Vâng, không thể nói:
Tôi không hề bắt Chúa Giêsu vác Thánh Giá, tôi chỉ
nhường phần khó nhọc cho anh em và chọn cho mình phần nhẹ nhàng thong
thả.
Tôi không hề đánh đập Chúa Giêsu, tôi chỉ làm ngơ
trước những bạo lực của luật rừng đàn áp những người vô tội.
Tôi không hề sỉ nhục Chúa Giêsu, tôi chỉ ngại lên
tiếng bênh vực cho công lý, lại còn đồng tình với những lời đàm tiếu
rằng dại chi mà chiến đấu cho công lý để phải mất chức, thiệt thân, còn
bị phát lưu, tù đày, hay bị cách ly khống chế.
Tôi không hề đóng đinh Chúa Giêsu, tôi chỉ làm
thinh vô tình trước bao cái chết oan uổng của ngàn ngàn thai nhi bé nhỏ,
trước cái chết của những thanh thiếu niên sa đọa vì hút chích, trước
những cái chết của những thiếu nữ bán hoa lỡ lầm, trước cái chết của
những người nghèo khổ không tiền chạy chữa, và trước cả cái chết muôn
đời của một tập đoàn không tin, còn chống lại Thiên Chúa, trong khi tôi
có thể góp một phần của mình vào công cuộc cấp cứu.
Cuộc sống bất chính trong ‘con người tưởng như là
công chính’ của mỗi chúng ta đang là lời chứng hùng hồn rằng chúng ta là
những người vừa hoan hô vừa đả đảo Chúa Giêsu. Chính chúng ta tiếp diễn
vụ án Đức Giêsu ngay hôm nay, trong lúc nầy. Chính chúng ta đang xử Chúa
Giêsu theo luật rừng của những con người hoang dã, không phải vì ngu
muội do thiếu ánh sáng văn minh của Thiên Chúa, nhưng ngu muội do kiêu
căng, cố tình tôn vinh sự hiểu biết, khôn ngoan, tài năng, trí tuệ của
mình lớn hơn sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Đức Giêsu vô tội “như con chiên hiền lành” bị đem
đi giết để chết thay đoàn chiên có tội, là chúng ta, được cứu sống.
Tuần thương khó mời gọi mỗi chúng ta nhận ra mình
là can phạm, nếu không nói là chủ mưu, trong vụ án Đức Giêsu bị đóng
đinh và chết trên thập giá. Đồng thời, cũng mời gọi chúng ta thành tâm
sám hối tội lỗi để được hưởng ơn khoan hồng vô lượng. Hơn thế nữa, Chúa
Giêsu còn mời gọi chúng ta tham dự vào đường thương khó của Chúa, vào
cuộc tử nạn của Chúa bằng cách sống đời sống công chính - đời sống đòi
hỏi khước từ những quyến rũ của những thực tại phù vân, đòi hỏi đóng
đinh tính xác thịt mình, đòi hỏi chấp nhận đau khổ, chấp nhận hiến thân,
hy sinh vì phần rỗi của mình và của người khác.
Hãy cùng chết với Chúa Giêsu để được cùng Người
phục sinh vinh hiển.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con không vô can trong vụ
án đóng đinh Chúa. Đời sống bất chính của chúng con với biết bao tội lỗi
đã hình thành bản án tử hình Người Vô Tội. Xin cho chúng con biết trân
quí ơn Cứu Chuộc nơi Thánh Giá Chúa, để biết thành tâm sám hối, biết cải
thiện đời sống, và biết cùng Ngài vác Thánh Giá mình mỗi ngày mà theo
Chúa, với niềm hy vọng, niềm tin tưởng Phục Sinh với Ngài. Amen!
Vào Tuần Thánh với Lễ Lá, bài Thương khó đã kể lại
cho chúng ta nghe về Con Một Thiên Chúa mang thân phận con người với tên
Giêsu. Ngài đã cô đơn đổ mồ hôi máu trong Vườn Cây Dầu như bị bỏ rơi,
chấp nhận hóa thân mình nên thần lương cho nhân loại, bị chính môn đệ
phản bội nộp thầy cho quân dữ, bị đứng trước vành móng ngựa, nghe bản
cáo trạng hàm oan, rồi lại nghe tuyên án tử hình, chịu vác thập giá,
đánh đòn, đội mão gai, té ngã trên đường lên Núi Sọ, và cuối cùng, chịu
đóng đinh và chết thật.
Đó là cái giá phải trả để chuộc lại tội bội phản
của tổ tông loài người. Cụ thể hơn, chỉ có hy tế thập giá của Chúa Giêsu
mới là lễ dâng đẹp ý Thiên Chúa Cha, để nhờ án tử hình của Chúa Giêsu mà
Thiên Chúa Cha xóa đi bản án tử hình đời đời cho con người.
Tham dự vào cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu với lòng
biết ơn Người đã mang lại cho chúng ta niềm hy vọng được tham dự vào
cuộc sống vĩnh cửu của Thiên Chúa, nhờ lòng khoan dung tha thứ của Thiên
Chúa Cha.
Có người đặt vấn đề khá thời sự rằng: Chúa Giêsu đã
chịu thương khó, đã chết và sống lại hai ngàn năm rồi. Chúng ta đang
nghe việc thuật lại như một chuyện kể, một cổ tích. Làm sao chúng ta có
thể lại bước đi trên Đường Thương Khó với Chúa Giêsu nữa?!? Thật mơ hồ.
Tôi đồng ý với bạn rằng: chúng ta không tận mắt
thấy Chúa Giêsu đổ mồ hôi máu trong đêm Vườn Dầu. Nhưng thiết tưởng,
chúng ta có thể thấy rất cụ thể từng nếp nhăn cằn cỗi trên khuôn mặt của
những Chủ Chiên ngày qua ngày phải đối phó với bầy quân dữ của Satan
đang rình mò cắn xé Giáo Hội là Thân Thể Chúa Giêsu Kitô. Xin đừng nghĩ
là các Chủ Chiên đang vô tư, vô tình, vô cảm trước những bức bách mang
tính chủ trương và toàn diện đang xảy ra trong và cho Giáo Hội địa
phương của mình. Nhưng nên nghĩ là các Ngài đang đổ mồ hôi máu mà thưa
với Chúa Cha rằng: “Lạy Cha nếu có thể được, thì xin cho con khỏi uống
chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, một theo ý Cha mà thôi”.
Những chủ chiên ấy, không chỉ là những Giám Mục,
Linh Mục, mà cụ thể hơn là bạn, là tôi, là tất cả những người làm ông
bà, cha mẹ, anh chị đang mang trong mình trọng trách bảo vệ Đức Tin cho
những thành viên non trẻ của mình trước những trận cuồng phong duy vật,
vô thần, vô cảm, vô nhân đạo, vô lương tâm, vô luân lý.
Một người bạn tôi, đã từng là Đại Chủng Sinh
Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt, từng Giáo Lý Viên dự tòng và hôn nhân nhiều
năm liền tại Giáo Xứ của mình, hôm nay, thầy lại đành bó tay, đành cắn
răng chờ xem người con rể tương lai vốn con nhà Cộng Sản kia định liệu
thế nào cho số phận con gái mình khi đã trót “ăn cơm trước kẻng”: có thể
là nó chịu theo Đạo để cưới vợ, cũng có thể là nó bảo Đạo ai nấy giữ,
rồi cũng có thể là nó xúi dại con gái mình phá cái thai ấy đi. Thật là
đau khổ! Thế rồi, đúng là nhà ông sui của thầy đã ép thằng nhỏ phải bắt
con gái thầy phá thai. Hai vợ chồng thầy đau khổ lắm. Đêm đêm bên ngọn
đèn dầu thầm thĩ kêu van xin Chúa sáng soi cho con gái mình biết đường
mà tuân giữ lề luật của Chúa.
Tôi vẫn nghĩ là sự chọn lựa để bảo vệ Đức Tin, để
trung thành với lề luật Chúa, để tuân hành thánh ý Chúa cũng làm cho
người yêu mến Chúa đến phải đổ mồ hôi máu như Chúa vậy.
Một cha giải tội cho một hối nhân thường xuyên,
lần nào xưng tội cũng bấy nhiêu tội tày trời ấy, có khi còn nặng nề hơn.
Cha vừa nghe tội vừa khẩn khoản tha thiết kêu xin lòng thương xót Chúa
đến độ vã cả mồ hôi, lạnh ớn người ngay trong Tòa Giải Tội.
Những người đau đầu nhất, đang đổ mồ hôi máu nhất
hiện nay có phải là những Giám Mục, Linh Mục, những chủ chiên đang “lựa
chiều bẻ lái” cho con chiên của mình một cách ứng xử Công Giáo nhất
trước tình trạng thế quyền quá lộng quyền đối với Sự Sống con người hiện
nay. Nếu con người thời bây giờ biết rằng: vài chục năm trước đã có chủ
trương phá thai cách toàn diện, cấp quốc gia như thế, thì hẳn đã không
thể còn có chính họ hiện diện trên đời ngày hôm nay để chủ trương phá
thai nữa. Là những người bảo vệ Đức Tin Công Giáo, làm chứng cho Chân Lý
của Thiên Chúa, nối tiếp công cuộc Sáng Tạo và Cứu Rỗi của Thiên Chúa,
không đổ mồ hôi máu được sao?
Cũng vậy, chúng ta không thấy cảnh Chúa Giêsu bị
bắt bớ, không tham dự phiên tòa xét xử Chúa Giêsu, không thấy những vết
bầm tím trên thân mình Chúa Giêsu khi bị quân dữ đánh đòn, không thấy
Chúa Giêsu vác thập giá, ngã lên ngã xuống trên đường lên đồi cao chịu
chết, hoặc nếu có thấy, thì thiết tưởng, cũng chỉ là thấy qua những bản
vẽ do các họa sĩ.
Thế nhưng chúng ta có thể thấy được tận mắt các tín
hữu của Chúa đang bị bắt bớ giam cầm tra tấn khắp nơi nơi đấy chứ? Nhất
là, trong thời đại truyền thông nầy, thì tin tức về những chuyện bắt oan
các tín hữu, bỏ tù gian, ném đá giấu tay, hay mượn tay người gây thương
tích cho các Linh Mục trên đường Mục Vụ đều có thể truyền đi nhanh như
chớp, làm sao mà lấy “thúng úp voi được”? Ấy vậy, những chuyện “quả
tang”, “công khai” tra tấn những người theo Chúa Kitô trong Giáo Hội
Chúa Kitô đang diễn ra hàng ngày khắp nơi và cả trên đất nước chúng ta,
mà chúng ta nói rằng chúng ta không tham dự được với Thập Giá Chúa Kitô
sao?
Tại nơi chúng ta đang sống, Chúa Giêsu vẫn đang bị
bán đứng với giá 30 đồng bạc, có khi ít hơn chỉ vài đồng, hoặc chỉ cần
là sự đổi chác một chỗ ngồi, chỗ đứng cho vinh thân phì gia. Chúa Giêsu
vẫn đang chịu bao lời phỉ báng, bôi nhọ, hạ nhục. Chúa Giêsu vẫn đang bị
bắt bớ giam cầm, đánh đập tra tấn, đổ máu và cả mất mạng nữa. Vâng cuộc
Thương Khó Chúa Giêsu đang hiển hiện nơi các tín hữu Chúa.
Như vậy, tín hữu Công Giáo Việt Nam vào cuộc Thương
Khó với Chúa Giêsu không chỉ là những giờ ngắm rằng, ngắm đứng, ngắm quì
sốt sắng đến rơi lệ, không chỉ là những vành khăn tang trắng xóa quấn
trên đầu suốt Tuần Thánh, không chỉ là những cử hành Phụng Vụ long trọng
trong Thánh Đường, không chỉ là những việc chay tịnh sám hối chỉ với
Chúa, mà thiết tưởng còn phải cụ thể hơn là: khẩn cấp nhận ra và tham dự
vào nỗi lo, niềm đau của các chủ chiên, của các tín hữu khắp nơi trên
đất nước.
Là con cái trong nhà, xin dâng những hy sinh và vác
đỡ Thánh Giá cho cha mẹ mình trong việc lo cái ăn, cái mặc, cái học và
nhất là trong việc bảo vệ đời sống Đức Tin trước những nguy cơ. Là con
chiên trong một đoàn chiên Giáo Hội, xin dâng những hy sinh và vác đỡ
Thánh Giá cho những Chủ Chiên, những tín hữu đang gặp bức bách, giam
cầm, tra tấn. Là tín hữu Công Giáo trong xã hội, xin dâng những hy sinh
và chia sẻ niềm đau thương của mọi người, niềm đau do gian ác, bất công,
đàn áp, niềm đau của bệnh hoạn tật nguyền, niềm đau của những mảnh đời
nghiệt ngã không ai giống ai…
Đang viết bài này, tôi nhận được cú điện thoại
của chị H, có người chồng 15 năm bại liệt, mọi sinh hoạt tại chỗ, con
trai lớn cột sống dính khớp 9 năm nay cũng nằm luôn một chỗ cho chị H.
lo lắng, con trai thứ có vợ tận Cà Mau, con gái út vừa đi học đi làm ở
Sàigòn, nhà mái tôn rách nát. Mùa mưa tới rồi, chẳng biết tính sao? Tôi
có thể trả lời rằng trong cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu đâu thấy có
cảnh bại liệt hay dính khớp cột sống để từ chối một cảm thông được
không?
Tôi bỗng nghe tiếng lòng nhắc bảo: xin đừng vừa sốt
sắng tham dự Phụng Vụ cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu lại vừa dửng dưng
vô tâm trước cảnh thương khó của biết bao người.
Lạy Chúa, Thánh Phanxicô đã thưa: “Xin cho con
biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”. Xin cho chúng con cũng
nhận ra Chúa Giêsu đang đau buồn, thương tích, bị nhục mạ, bắt bớ, giam
cầm, đánh đập nơi những anh chị em chúng con, và cho chúng con nhiệt
tình vác đỡ Thánh Giá của anh em, như vác đỡ Thánh Giá Chúa Giêsu vậy.
Amen.
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)
Sau 40 ngày Mùa Chay, hôm nay, cùng với Giáo Hội,
chúng ta bước vào Tuần Thánh là tuần cao điểm của năm Phụng Vụ, bởi vì
đây là tuần cả Giáo Hội sống lại mầu nhiệm thương khó, tử nạn và phục
sinh của Đức Giêsu cách đặc biệt.
Tin Mừng hôm nay trình thuật cuộc thương khó của
Đức Giêsu, khởi đi từ việc Ngài tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng
hoan hô vang lừng của dân chúng.
Tuy nhiên, sự tung hô, tôn vinh ấy chẳng được bao
lâu, thì Ngài đã phải chết. Nguyên nhân chính dẫn đến sự kiện đau lòng
này chính là những sự đổi thay của lòng người!
1. Những đổi thay của lòng người
Ca dao Việt Nam có câu: “Dò sông, dò biển dễ dò.
Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng!”. Chính vì lòng dạ con người như
thế, nên người xưa, nhất là những người quân tử thường hay dùng người:
cho ở xa để đem lòng trung, cho ở gần để đem lòng kính, sai làm nhiều
việc để xem cái tài, hỏi lúc vội vàng để xem cái trí, hẹn cho ngặt ngày
để xem có tín, ủy cho tiền của để xem có nhân, giao cho việc nguy biến
để xem có tiết, cho đánh chén say sưa để xem cử chỉ, cho ở chỗ phiền tạp
để xem thần sắc. Xem người đại khái như vậy, thì họa mới có thể biết
được người!
Đức Giêsu cũng đã biết rõ lòng dạ con người nham
hiểm, khó lường…, nên Ngài đã tìm mọi cách với hy vọng những gì mắt
thấy, tai nghe, sẽ làm cho người môn đệ cũng như mọi người hướng thiện
và sống tốt. Nhưng ai ngờ, do những tác động ngoại cảnh làm cho lòng
người đổi thay theo, vì thế, cuộc thương khó của Đức Giêsu ngày càng leo
thang!
Người đổi thay đầu tiên được kể đến, chính là
Giuđa. Ông là người Đức Giêsu yêu thương và tuyển chọn. Ngài
cũng đã dạy dỗ ông nhiều điều, nhất là những bài học về từ bỏ, thanh
thoát. Hơn nữa, còn tín nhiệm và trao cho ông chức vụ quản lý của Nhóm
Mười Hai.
Tuy nhiên, thay vì coi đồng tiền là tôi tớ, là
phương tiện, thì đằng này, ông đã coi nó là ông chủ, là mục đích. Vì
thế, chính đồng tiền đã đè bẹp ông, khiến lòng dạ ông đổi thay. Chỉ với
30 đồng bạc, ông đã chấp nhận đánh đổi vị trí của mình: từ chỗ là môn
đệ, thành kẻ phản bội khi bán Thầy của mình bằng cái hôn giả tạo và với
giá rẻ mạt. Ôi một sự đổi thay đến đau điếng!
Thứ đến là sự thay đổi của Tông đồ trưởng
Phêrô. Đức Giêsu rất thương Phêrô, bởi lẽ ông là một con người
bộc trực, nhưng thẳng thắn, chân thành. Điều này lý giải cho việc tại
sao Ngài thường đem ông và hai môn đệ khác đi riêng với mình để mặc khải
cho ông những sự kiện quan trọng.
Khi ưu ái ông cách đặc biệt như vậy, ấy là vì Ngài
muốn ông mục kích tận mắt và thấy tỏ tường quy luật: “Qua đau khổ mới
tới vinh quang”. Hơn nữa, khi đưa ông vào trong mối tương quan thân tình
với Ngài như vậy, đó là để có dịp tập cho ông những đức tính cần có của
người lãnh đạo.
Tuy nhiên, sự hèn nhát, sợ hãi, đã làm tê liệt ngọn
lửa mến nơi ông. Sự trung thành đã không còn nữa. Ông đã sẵn sàng chối
Thầy của mình trước toán lính quèn đang sưởi khi chúng gặng hỏi thân thế
và mối liên hệ giữa ông với Đức Giêsu. Ôi lại một sự đổi thay khó
hiểu!!!
Tiếp theo là sự đổi thay của đám đông.
Đám đông này là những người thụ ơn Đức Giêsu. Họ là những người đã được
Ngài chữa bệnh, trừ quỷ, dạy dỗ, cho ăn no nê…. Vì thế, khi nghe tin Đức
Giêsu vào thành, họ đã tuôn đến như thác lũ và vang tiếng tung hô dạy cả
một vùng trời! “Hoan hô Con Vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà
đến”.
Tuy nhên, sẵn trong lòng sự hưởng thụ, nên họ đã vẽ
lên trong tâm tưởng một Đức Giêsu theo ý của họ: Ngài phải là vua thống
trị và giải thoát bằng quyền uy cũng như đem lại cho họ sự giàu có vượt
trội! Nhưng khi Đức Giêsu không đáp ứng điều họ mong muốn, thế là đám
dân này đã đi vào vết xe đổ vô ơn của tổ tiên họ nơi sa mạc khi xưa. Vì
thế, họ đã coi Ngài như một kẻ xa lạ, là tội đồ của dân tộc, và, họ đã
không ngần ngại đả đảo Ngài tới cùng “Đem đi! Đóng đinh nó vào thập
giá”. Ôi một sự đổi thay đến xót xa!
Cuối cùng là sự đổi thay của quan tổng trấn
Philatô. Ông là một vị quan toàn quyền Rôma thời bấy giờ. Lẽ ra,
ông phải là người cầm cân nảy mực, bênh vực người nghèo và bảo vệ công
lý.
Thế nhưng, trước sức ép của đám đông, trước sự tấn
công của các Thượng tế, Biệt phái…, ông đã không nghe theo tiếng Lương
Tâm mách bảo, nhưng đã trở thành kẻ đê hèn đến độ thuận theo cái ác để
trù dập, loại trừ sự thiện và chấp nhận để “Lẽ phải thuộc về kẻ mạnh”.
Ôi một sự đổi thay đầy nhục nhã!
Như vậy, qua các cuộc đổi thay của lòng người, ta
nhận thấy một mẫu số chung, đó là:
“Chút lợi danh, tính toan mưu kế
Mà lãng quên chữ nghĩa, chữ nhân”.
Và:
“Vẫn chạy theo sa hoa, hào nhoáng.
Người sang kết bạn, kẻ khó quay lưng”.
2. Những đổi thay của chính chúng ta
Đọc và lắng nghe bài thương khó của Đức Giêsu hôm
nay, nhiều người chúng ta không khỏi bức xúc trước thái độ đổi thay của
lòng người thời Đức Giêsu!
Tuy nhiên, trải qua suốt dọc dài lịch sử nhân loại,
những thái độ đó lại nhan nhản nơi xã hội hôm nay!
Nhưng điều đáng nói hơn cả, đó là những thái độ ấy
lại đang hiển hiện lên thật rõ nét ngay nơi mỗi người chúng ta.
Thật vậy, nhiều khi chính tôi chứ không ai khác!
Hình ảnh một Giuđa ham tiền, hám bạc, phản bội lại hiện lên trong tâm
hồn tôi khi tôi vẫn còn ham hố và bất chấp, để sẵn sàng chạy đua trên
cuộc đua kiếm tiền bằng mọi cách. Vì thế, nhiều lúc tôi đã “đánh lận con
đen” để ngụy biện cho hành vi đen tối của mình.
Nhiều khi chính tôi chứ không ai khác! Một Phêrô
thời hiện đại với đầy đủ sự hèn nhát, ham sống, sợ chết, đang ẩn hiện
trong con người tôi khi tôi không dám can đảm tuyên xưng niềm tin nơi
môi trường sống của mình. Tôi cũng đã thất trung với Chúa khi không
trung tín giữ giao ước với Ngài.
Nhiều khi chính tôi chứ không phải ai khác! Khi
hình ảnh và lựa chọn của đám đông xưa kia cũng chính là lựa chọn của tôi
hôm nay. Thật vậy, đã biết bao lần, tôi theo và tin Chúa chỉ vì cái
bụng, nên: “Khi vui thì vỗ tay vào, gian nan hoạn nạn thì lìa nhau ra”.
Đã có lúc, tôi tạo ra một vị Thiên Chúa theo ý
mình, để rồi yêu cầu Ngài phải đáp ứng đúng như yêu sách mà tôi đã đặt
ra! Khi không đạt được, tôi đã sẵn sàng bỏ Chúa để đi tìm đến với một vị
thần nào đó…! Những lúc như thế, tôi thuộc hạng người “ba phải”.
Nhiều khi chính tôi chứ không phải ai khác! Khi
hình ảnh và thái độ hèn nhát của quan Philatô đang ẩn hiện trong con
người tôi, khi tôi sợ không dám bảo vệ cho sự thật, công lý. Không dám
đứng về phía người nghèo để bênh vực họ. Nhiều khi tôi đã hùa theo “hiệu
ứng đám đông” mà quên đi lẽ công bằng, tình yêu thương, bác ái với anh
chị em. Có những lúc tôi đã nhắm mắt để nói “có” thành “không” và nói
“không” thành “có”, nhằm vu vạ cáo gian cho anh chị em tôi. Những lúc
như thế, tôi thật hèn nhát, vì tôi thuộc dạng người “sợ tiếng chửi, ăn
mày tiếng khen…”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy bước
vào Tuần Thánh và đi theo Chúa trên con đường khổ nạn với tâm tình của
Mẹ Maria; của người môn đệ Đức Giêsu yêu mến; của các Phụ nữ Giêrusalem;
của ông Simong; bà Veronica và ông Giuse Arimathia….
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa tha thứ tội lỗi cho
chúng con và ban ơn giúp sức, để chúng con trung thành đi theo Chúa đến
cùng trên đường thương khó, ngõ hầu chúng con cùng chết với Chúa để được
cùng Ngài sống lại trong vinh quang. Amen.
Chủ Đề: Người Tôi Tớ của Thiên Chúa đi vào
con đường chịu nạn
I. Dẫn vào Thánh lễ
(Như lời dẫn nhập in trong sách lễ Rôma)
Anh chị em thân mến. Từ đầu mùa chay chúng ta đã
dùng việc hãm mình đền tội và công việc bác ái chuẩn bị tâm hồn chúng
ta, thì hôm nay chúng ta tụ họp để cùng với toàn thể Hội Thánh khai mạc
mầu nhiệm vượt qua của Chúa chúng ta, nghĩa là cuộc khổ nạn và sự phục
sinh của Người. Để thực hiện điều đó, chính Người đã tiến vào thành
Giêrusalem. Bởi vậy, với tất cả lòng tôn kính sùng mộ tưởng nhó đến việc
Người vào thành mang lại ơn cứu độ, chúng ta hãy bước theo Chúa, để nhờ
ơn thánh, chúng ta được tham dự vào thập giá, chúng ta cũng được dự phần
vào sự phục sinh và sự sống.
II. Lời Chúa
1. Bài Tin Mừng lúc kiệu lá: Mc 11,1-10
Việc Đức Giêsu vào thành Giêrusalem tuy có phần
long trọng (dân chúng đón rước, tung hô...) nhưng không phải là một cuộc
biểu dương chính trị, trái lại nhằm cho biết Đức Giêsu là người như thế
nào:
Đức Giêsu rất coi trọng việc này, cho nên đích thân
Ngài thu xếp từng chi tiết cho cuộc vào thành (thu xếp trước với chủ
lừa, dặn dò kỹ hai môn đệ về đường đi nước bước và lời ăn tiếng nói).
Nhưng mọi sự chuẩn bị đều được tiến hành trong âm
thầm kín đáo (những lời đối đáp giữa môn đệ với chủ lừa giống như trao
đổi mật hiệu với nhau).
Đức Giêsu chọn cởi lừa chứ không cởi ngựa.
Lời chúc tụng của dân chúng có tính cách tôn giáo
hơn là chính trị ("Hoan hô Đấng nhân danh Chúa mà đến", "Hoan hô trên
các tầng trời")
Như thế, Đức Giêsu muốn cho người ta biết Ngài là
vua nhưng là một vị vua cứu nhân độ thế, hiền hòa, khiêm tốn.
2. Bài đọc Cựu Ước: Is 50,4-7
Đây là bài ca thư ba về Người Tôi Tớ trong sách
Isaia.
Người Tôi Tớ nâng đỡ kẻ nhọc nhằn.
Người Tôi Tớ luôn thức tỉnh đón nghe và thi hành ý
Chúa.
Người Tôi Tớ nhẫn nhục chịu đựng những đau khổ hành
hạ.
3. Đáp ca: Tv 21
Tâm tình của người công chính bị bách hại:
Than thở với Chúa về những sự hành hạ mình phải
chịu
Đồng thời bày tỏ lòng trông cậy vững vàng vào Chúa
và vẫn chúc tụng Ngài.
4. Bài Thánh Thư: Pl 2,6-11
Thánh Phaolô vẽ 2 con đường của Đức Giêsu:
Con đường hạ mình: dù là Con Thiên Chúa, nhưng Đức
Giêsu đã tự ý hạ mình đến mức tột cùng (làm thân tôi đòi, chết, chết
trên thập giá)
Con đường được tôn vinh: Ngài càng hạ mình thì
Thiên Chúa càng nâng Ngài lên cao đến tột cùng (danh Ngài trổi vượt mọi
danh hiệu, mọi loài trên trời, dưới đất và trong địa ngục đều phải tôn
thờ Ngài).
5. Bài Thương khó: Mc 14,1-15, 47
Diễn tiến cuộc chịu nạn của Đức Giêsu đều giống
nhau trong 4 quyển Tin Mừng. Nhưng Mác cô nhấn mạnh một số ý lớn:
a/ Đức Giêsu "bị trao nộp": Động từ này được dùng 9
lần trong bài tường thuật. Tác nhân trao nộp Đức Giêsu là: Giuđa (nộp
Đức Giêsu cho các thượng tế), các Thượng tế (nộp Đức Giêsu cho Philatô),
Philatô (nộp Ngài cho quân lính). Nhưng đàng sau và chủ động nhất là
chính Thiên Chúa đã trao nộp Con mình cho loài người. Phần Đức Giêsu,
Ngài cũng tự trao nộp mình.
Lý do trao nộp cũng khác nhau: vì tiền (Giuđa), vì
lòng ganh ghét (các Thượng tế), vì mị dân (Philatô), và vì yêu thương
(Chúa Cha, Đức Giêsu).
b/ Đức Giêsu là "Con Thiên Chúa": Tin Mừng Mc diễn
tiến theo sơ đồ từ từ hé lộ về con người Đức Giêsu: Ngài là người - là
Kitô (Messia) - Con Thiên Chúa (Câu đầu tiên của tác phẩm vạch rõ sơ đồ
này. Mc 1,1: "Tin Mừng Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa". Mặc khải cao nhất
về Đức Giêsu là tư cách Con Thiên Chúa của Ngài. Mặc khải này được thốt
ra khi Ngài tắt thở: "Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu,
thấy Người tắt thở như vậy liền nói "Quả thật, người này là Con Thiên
Chúa" (15,39).
III. Gợi ý giảng
* 1. Chúa chọn con lừa
Nhiều độc giả Tin Mừng rất ngạc nhiên trước những
lời căn dặn của Đức Giêsu với hai môn đệ mà Ngài sai vào thành trước:
"Các anh vào làng trước mặt kia. Tới noi sẽ thấy ngay một con lừa con
chưa ai cởi bao giờ đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và đem nó về
đây. Nếu có ai bảo tại sao các anh làm như vậy thì cứ nói là Chúa cần
đến nó và Người sẽ gởi lại đây ngay" (các câu 2-3). Mọi việc đã diễn ra
đúng lời Chúa dặn. Tưởng như một phép lạ. Thực ra không phải là phép lạ
gì cả, mà là chính Đức Giêsu đã kín đáo thu xếp trước với người thân của
Ngài trong làng: đến ngày đó, tại địa điểm đó, họ hãy để sẵn hai con
lừa, sẽ có hai môn đệ của Ngài đến dắt đi, mật khẩu để nhận ra nhau là
một câu hỏi và một câu trả lời đã quy ước sẵn.
Tại sao Đức Giêsu phải đích thân thu xếp các chi
tiết cho chuyến vào thành Giêrusalem lần này? Thưa có hai lý do:
1/ Sự việc diễn ra "mấy ngày trước lễ Vượt Qua" (c
1). Lễ này kỷ niệm việc dân Do Thái được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai
Cập, cho nên mỗi lần mừng lễ này, ý tưởng giải phóng luôn hiện lên trong
đầu dân chúng, nhất là khi đất nước đang nằm dưới ách thống trị của
ngoại bang. Chính vì thế, viên Tổng trấn Rôma bình thường vẫn an tâm ở
tổng hành dinh của ông tại Syria, nhưng gần đến lễ Vượt Qua thì phải đến
Giêrusalem để có thể trực tiếp chỉ đạo nếu có xảy ra nổi loạn. Trong bầu
khí nhạy cảm đó, Đức Giêsu phải kín đáo thu xếp để đừng ai biết trước
chuyến vào thành của Ngài.
2/ Mọi chi tiết mà Đức Giêsu đích thân thu xếp đều
liên hệ đến con lừa. Tại sao? Vì Ngài không muốn người ta hiểu lầm Ngài
là một nhà giải phóng quân sự hay chính trị. Ngài muốn người ta hiểu
rằng Ngài là một vị vua hòa bình, hiền từ và khiêm tốn. Vua chinh chiến
thì cỡi ngựa, còn vua hòa bình thì cỡi lừa.
Tuy nhiên xem ra không ai hiểu đúng ý Chúa: các môn
đệ "lấy áo choàng của mình trải lên lưng nó", dân chúng thì cũng "chặt
nhành chặt lá ngoài đồng mà rải. Người đi trước kẻ theo sau reo hò vang
dậy" (các câu 7-9). Sự hồ hỡi của họ có lẽ xuất phát từ ý tưởng giải
phóng: Hôm nay ngày giải phóng đã đến rồi, vị Anh hùng đã xuất hiện! Tóm
lại mọi người đều nghĩ rằng hôm nay Đức Giêsu bắt đầu cuộc khởi nghĩa.
***
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay bắt đầu Tuần Thánh. Chúng
ta có thể dùng đoạn Tin Mừng này để soi sáng ý nghĩa những sự việc sẽ
xảy ra trong Tuần Thánh:
Tại sao các Thượng Tế Do Thái tìm bắt Đức Giêsu?
Thưa vì họ tưởng rằng Ngài là một chính khách nguy hiểm. Tin Mừng thứ tư
ghi nhận rằng ngay cả trước biến cố này, các vị lãnh đạo ấy đã tính đến
khả năng sức thu hút quần chúng của Đức Giêsu sẽ dẫn đến sự đàn áp của
quân Rôma: "Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông
ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá huỷ cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta"
(Ga 11,48).
Tại sao Giuđa nộp Đức Giêsu cho các Thượng Tế?
Nhiều chuyên gia Thánh Kinh cho rằng đó là do một tính toán chính trị:
Hắn vẫn nghĩ Đức Giêsu là một người có khả năng làm một cuộc đảo chánh.
Nhưng Giuđa chờ mãi mà không thấy Đức Giêsu làm gì nên hắn nộp Đức Giêsu
như dồn Ngài vào chân tường: hy vọng khi đã bị bắt thì Đức Giêsu bó buộc
phải ra tay hành động.
Tại sao dân chúng hùa theo các Thượng Tế đòi giết
Đức Giêsu? Đó là phản ứng thất vọng của những người đã từng hy vọng quá
nhiều: Họ hy vọng Đức Giêsu giải phóng đất nước nhưng khi Ngài không làm
vậy thì họ thất vọng và trừng trị Ngài.
***
Hôm nay chúng ta cũng tay cầm lá, miệng tung hô Đức
Giêsu. Nhưng chúng ta coi Ngài là ai và mong gì nơi Ngài?
Nếu chúng ta coi Đức Giêsu là một vị vua uy quyền,
chúng ta sẽ như các lãnh tụ Do Thái tìm cách trừ khử Ngài khi cảm thấy
uy quyền ấy đe dọa đến quyền tự do của chúng ta.
Nếu chúng ta coi Ngài là một vị vua giúp chúng ta
chiến thắng thù địch, chúng ta sẽ như quần chúng hôm ấy chán bỏ Ngài khi
Ngài không giúp chúng ta đạt được mục đích ấy.
Nếu chúng ta coi Ngài là một thứ ô dù cho chúng ta
núp bóng, chúng ta sẽ như các môn đệ bỏ Ngài mà chạy trốn khi ước vọng
của chúng ta không thành.
Đức Giêsu là một vị vua hòa bình, hiền từ và khiêm
tốn. Đi theo Ngài có lẽ chúng ta sẽ không được hưởng đặc quyền đặc lợi,
nhưng tâm hồn chúng ta sẽ luôn được bình an.
* 2. Con đường dẫn đến vinh quang
Trong bài Thánh Thư, Thánh Phaolô ngầm so sánh Ađam
và Đức Giêsu.
Ađam đã muốn "dành cho được ngang hàng với Thiên
Chúa". Nhưng kết quả chỉ là thấy mình trần truồng xấu hổ và bị đuổi khỏi
hạnh phúc địa đàng.
Còn Đức Giêsu thì vâng lời Thiên Chúa mà hạ mình
xuống đến mức tột cùng. Kết quả là được nâng lên tới mức tột cùng.
Tự nhiên, chúng ta theo con đường của Ađam: tìm
cách khẳng định mình, tưởng rằng làm thế thì giá trị của mình sẽ được
nâng cao. Nhưng chúng ta quên rằng chúng ta là do Thiên Chúa tạo dựng,
vì thế chúng ta có giá trị hay không, được nâng cao hay không là do
Thiên Chúa chứ không do chúng ta. Con đường tốt nhất là vâng lời Thiên
Chúa, đi theo sự chỉ dẫn của Ngài, rồi Ngài sẽ nâng chúng ta lên đúng
theo ý Ngài muốn.
* 3. Trao nộp Đức Giêsu
Bài Tin Mừng theo thánh Mác cô cho thấy mọi người
đều trao nộp Đức Giêsu, nhưng vì những động cơ khác nhau (xin xem lại
phần giải thích phía trên).
Suy nghĩ thêm, ta còn thấy có những cách trao khác
nhau:
Trao cái này để đổi lấy cái kia (như Giuđa,
Philatô): cách trao vụ lợi
Trao cho người khác cái mình muốn bỏ (các Thượng
tế): cách trao ác độc.
Trao cho người khác cái mình rất quý (Chúa Cha):
cách trao yêu thương.
Trao chính mình (Đức Giêsu): yêu thương tột cùng.
Chúng ta hãy suy gẫm về những cách trao của mình và
về cách mình trao Đức Giêsu cho người khác.
* 4. Cách chịu đau khổ là thước đo nhân phẩm
Một điều hiển nhiên là cuộc đời ngập tràn đau khổ.
Giáo lý đạo Phật dạy "Đời là bể khổ". Nhiều người đã tìm nhiều cách để
tránh khổ và diệt khổ. Nhưng có lẽ cái khổ sẽ không bao giờ tránh hết và
diệt hết được.
Đức Giêsu không tránh khổ, không diệt khổ. Ngài
"vác" lấy đau khổ (thập giá), và Ngài dạy môn đệ mình "Ai muốn theo Ta,
hãy vác thập giá mình mà theo".
Nino Salveneschi có suy nghĩ này: "Thật lạ khi
người ta có thể tính toán chính xác về sức nặng có thể chất lên một
chiếc xe, một chiếc tàu hay một chiếc máy bay... nhưng không tính nổi
sức nặng có thể chất lên vai con người. Xét cho cùng, càng có thể vác
nặng bao nhiêu thì càng có giá trị bấy nhiêu" (Savoir souffrir)
* 5. Phêrô chối Thầy
Việc ông Phêrô chối Thầy gợi cho chúng ta nhiều suy
nghĩ:
- Ông là người nhiệt tình nhất với Đức Giêsu, thế
mà cuối cùng cũng chối Chúa. Nghĩa là bất cứ ai cũng yếu đuối và cũng có
thể sa ngã nặng nề. Hơn nữa, Phêrô sa ngã vì ông không biết ông yếu, ông
luôn tưởng mình mạnh.
- Lý do khiến Phêrô chối Chúa là vì ông sợ bị liên
lụy. Nếu những người hỏi ông không phải là những người của vị Thượng Tế
đang xét xử Đức Giêsu thì chắc Phêrô vẫn mạnh dạn nhìn nhận mình là môn
đệ Đức Giêsu. Nhưng vì họ là người của Thượng Tế nên ông phải chối, kẻo
họ báo cáo với Thượng tế rồi Thượng Tế cũng bắt ông luôn.
Phêrô đã dám theo Đức Giêsu suốt 3 năm khi Ngài đi
rao giảng, khi Ngài làm phép lạ... Trong thời gian đó không phải là
Phêrô không cực khổ, nhưng ông có thể chịu được. Nhưng hôm nay ông chối
vì chuyện hôm nay không chỉ là vấn đề cực khổ, mà là vấn đề an toàn của
sinh mạng. Ông chấp nhận từ bỏ và hy sinh, nhưng chỉ từ bỏ và hy sinh
đến một giới hạn nào đó thôi.
Có lẽ cũng có những giới hạn mà chúng ta đặt ra -
tuy một cách vô ý thức - cho việc chúng ta theo Chúa, việc chúng ta từ
bỏ, việc chúng ta hy sinh.
* 6. Vương quốc Tình yêu
Ngày 15-4-1996, linh mục George Parker, giám quản
xứ thánh Giuse thuộc giáo phận Norwich ở Connecticut Hoa Kỳ, đã trả lại
số tiền 5.000 đôla của nghị sĩ Christopher J.Dodd giúp cho trường học
của giáo xứ. Cha Parker làm thế để phản đối nghị sĩ Dodd mang danh Công
giáo, nhưng lại liên tục bỏ phiếu ủng hộ các dự luật phá thai. Cha
Parker gọi số tiền của Dodd là "số tiền vấy máu hài nhi vô tội". Người
không ngần ngại gọi Dodd là "môn đệ của thần chết".
Việc làm của cha khiến nhiều người cảm kích, dân
chúng đã gởi về giúp trường học 61.000 đôla. Nhiều tổ chức bênh vực sự
sống, và nhiều cơ quan truyền thông bày tỏ sự ngưỡng mộ ngài.
Trớ trêu thay không một linh mục nào trong giáo
phận Norwich bênh vực hành động kiên cường ấy. Không ai dám công khai
phê phán việc làm của nghị sĩ Dodd. Đau đớn hơn nữa, chính đức cha
Daniel A. Hart vì áp lực của nghị sĩ Dodd đã cho ngài ngưng việc coi xứ.
Đến nước này ngài chỉ biết xin về hưu. Đức Cha Hart viết thư cho ngài
như sau: "Tôi rất tiếc là cha đã xin về hưu với tâm trạng bị xử bất
công. Tôi cầu nguyện cho sự đau khổ này sẽ kết hợp cha với Đức Kitô một
cách trọn vẹn hơn, nhờ Người mà cha tìm được niềm vui".
***
Câu chuyện trên đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ tâm
trạng của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Thánh Gioan viết: "Sắp
đến lễ Vượt Qua, rất nhiều người đi Giêrusalem... Họ đang tìm Đức Giêsu
và hỏi han nhau: "Chắc ông ấy chẳng đến dự lễ đâu!" Còn bọn tư tế và
Biệt phái đã ra lệnh: Bất cứ ai biết ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ
đến bắt" (Ga.11,55-57). Vậy Đức Giêsu vào thành Giêrusalem với tâm trạng
của một kẻ bị truy nã, một kẻ có tên trong sổ bìa đen.
Nhưng Người vẫn công khai vào thành, không một chút
sợ hãi. Người cỡi trên lưng lừa con để thực hiện lời tiên tri Dacaria:
"Này Vua ngươi đến, đầy vẻ dịu dàng, cỡi lừa, lừa con của lừa mẹ"
(Dcr.9,9). Đức Giêsu muốn chứng tỏ Người là Đấng Mêsia, Vị cứu tinh, Vua
hiền từ: Một Vị vua chiến thắng bằng cái chết trên thập giá, khác với
chiến thắng bằng vũ lực của các vua trần thế ngồi trên lưng ngựa.
Dân chúng trải áo, lấy lá lót đường, hoan hô chúc
tụng Người như một vị vua chiến thắng, Đấng cứu tinh của dân tộc, đuổi
lũ quân Rôma ra khỏi vùng Palestina, xô nhào chúng ra biển, tái lập
vương quyền vua Đavít. Trái lại, Đức Giêsu đã cưỡi con vật hiền lành,
tiến vào Giêrusalem, hành động này đã đi ngược lại quan niệm của họ, nên
không lạ gì họ đã hùa theo nhóm Biệt phái, kết án tử hình cho Người chỉ
vài ngày sau đó.
Cha Parker đã không chấp nhận thỏa hiệp với thế
gian, với tội lỗi. Người đã giữ đúng vai trò tiên tri, chấp nhận lội
ngược dòng, cho dù phải chịu khổ đau và bị bỏ rơi để nên giống Thầy
Giêsu.
Đức Giêsu không xua quân đi giao chiến với các dân
tộc. Nhưng đã qui tụ mọi người chiến đấu với nghèo đói, bất công và thù
hận.
Đức Giêsu không đến để kết án và hủy diệt kẻ khác.
Nhưng đã thứ tha và băng bó những vết thương tâm hồn.
Đức Giêsu không ngồi trên ngai vàng để dân chúng
hầu hạ. Nhưng đã quì xuống rửa chân cho các thần dân.
Đức Giêsu không đến để thiết lập một vương quốc
trần gian tạm bợ, Người đến để xây dựng một vương quốc vĩnh hằng, vương
quốc tình yêu ngay trong lòng mọi người.
***
Lạy Chúa, người đời đón rước Chúa vào thành
Giêrusalem, để rồi lại kết án Chúa ngay trong thành thánh. Xin cho chúng
con đừng bao giờ thỏa hiệp với thế gian, nhưng cho chúng con can đảm
theo Chúa đến chiều thứ Sáu Tuần Thánh, để được sống lại với Chúa trong
đêm Phục Sinh khải hoàn. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
IV. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay bước vào Tuần
Thánh, Hội thánh mời gọi các Kitô hữu bước theo Đức Giêsu trên đường
thập giá, để được phục sinh với Người trong cuộc sống mới. Chúng ta hãy
tha thiết nguyện xin:
Đức Giêsu đã khải hoàn vào thành Giêrusalem không
phải để biểu dương uy quyền / mà là để bày tỏ lòng yêu thương và nhân
lành / Xin cho các vị chủ chăn trong Hội thánh / biết noi gương Người để
phục vụ mọi người trong khiêm tốn và hiền lành.
Đức Giêsu đã đến trần gian không phải để thống trị
/ nhưng để phục vụ mọi người / Xin cho các vị có chức quyền trong xã hội
/ biết lo cho công ích và quan tâm giúp đỡ mọi người.
Đức Giêsu đã phục vụ mọi người cho đến chết và chết
trên thập giá / Xin cho tất cả những ai đang phải đau khổ trong tâm hồn
hay thể xác / vì đã phục vụ mọi người / được luôn can đảm và vững tin
nơi tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã chịu chết và sống lại để đem hạnh phúc
thật cho mọi người / Xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta đừng bao
giờ trở nên gánh nặng và thập giá cho anh chị em mình.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Đức Giêsu Con
Chúa phải đi qua đường thập giá mới vào được vinh quang. Xin cho mỗi
người chúng con luôn noi theo đường lối của Người, để làm vinh danh
Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
V. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Đức Giêsu đã hiến mình làm lễ
vật tình yêu nên đã thiết lập Nước Thiên Chúa. Xin cho Nước Thiên Chúa
mau trị đến nhờ những hy sinh của chúng ta.
VI. Giải tán
Chúng ta đã bắt đầu tuần lễ trọng đại nhất của năm
phụng vụ. Chúng ta hãy sống tuần này một cách hết sức sốt sắng trong tâm
tình kết hợp với Đức Giêsu, với Đức Mẹ và với toàn thể Hội Thánh. Hãy
cùng chết với Đức Giêsu để được cùng sống lại với Ngài.
Chúng ta đã theo Chúa Giêsu đi qua các chặng đường
của mùa chay. Hôm nay, chúng ta hãy theo Chúa vào thành Giêrusalem để
hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài.
Chúa nhật lễ lá, kỷ niệm việc Chúa Giêsu vào
Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng kéo nhau nghênh đón Chúa Giêsu cách
long trọng. Hôm nay, họ làm cử chỉ rất đẹp đối với Chúa nhưng thứ sáu
tới đây chính họ là người đòi giết Chúa, hô hào đòi đóng đinh Chúa. Hôm
nay họ tung hô nhưng thứ sáu họ lại chế nhạo, kết án Chúa. Vào thành
Giêrusalem lần này, dân chúng trải áo choàng trên đường, trải những
nhánh lá cây trên đường để Chúa đi qua. Tay cầm cành lá, miệng họ tung
hô Chúa: "Hoan hô con vua Đavit, chúc tụng Đấng nhân danh Thiên Chúa mà
đến". Người người nồng nhiệt hò la, Chúa Giêsu thinh lặng chấp nhận để
họ đón rước và tung hô như thế. Ngài là một vị Vua nhưng khiêm hạ ngồi
trên lưng lừa con. Ngài không phải là vị vua như dân Do Thái mong đợi,
không như họ nghĩ là vua phần xác, chỉ đến để giải phóng dân tộc họ khỏi
ách đô hộ Rôma. Nhưng Ngài là vua trong lòng của họ, đem đến tình yêu
thương và hòa bình.
Đi vào bầu khí cầu nguyện trong cử hành phụng vụ
ngày lễ hôm nay, chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu khi nghe các bài tường
thuật về cuộc khổ nạn của Ngài. Cuộc khổ nạn diễn ra vào ngày thứ sáu
sau Chúa nhật Lễ Lá, nghĩa là chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô Chúa
Giêsu, dân Do Thái lại chống đối, hò la đòi giết Chúa. Ngài đã bị bắt,
bị trói và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng
trấn Philatô, bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án, bị vác thập giá và
cuối cùng bị treo chết trên núi Sọ như một tên trọng tội.
Suy gẫm về cảnh tượng này, chúng ta có thể tự vấn
lòng mình, nếu chúng ta là người đương thời thì chúng ta không tham gia
hay không liên quan gì đến vụ án cái chết của Chúa Giêsu không? Chắc gì
chúng ta như ông Simon Kyrênê vác đỡ thập giá Chúa Giêsu?! Chắc gì chúng
ta không đứng về phía dân chúng hô hào tham gia đòi giết Chúa Giêsu,
không là Phêrô hay nhóm các môn đệ trốn chạy hay là Philatô kết án người
vô tội hoặc là toán quân lính đánh đòn Chúa Giêsu. Kinh nghiệm con người
cũng cho thấy, chúng ta dễ dàng đứng về phe mạnh thế, không dám lên
tiếng bênh vực cho kẻ yếu thế, can đảm bênh vực công lý và dễ dàng trung
thành với Chúa trên môi miệng nhưng lại dễ dàng phản bội Chúa khi gặp
nghịch cảnh.
Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của
Chúa Giêsu là một hành động tội ác của những người Do Thái và Rôma thời
bấy giờ. Những người Do Thái này đã từng kêu gào đóng đinh Chúa Giêsu
vào thập giá. Các quân lính Rôma đã đánh đập, tra tấn và giết Chúa Giêsu
trên cây thập giá. Nhưng dưới cái nhìn của những người có đức tin thì
quả thật cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một mầu nhiệm. Không
mầu nhiệm sao được vì một cách nào đó người có niềm tin cũng tự thấy
mình có tham gia vào việc đóng đinh Chúa Giêsu. Trong kinh Tin kính,
chúng ta tuyên xưng rằng "Chúa Giêsu đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để
cứu độ chúng ta". Thế nên cho dù sống trong thời đại này thì tội lỗi,
tật xấu của chúng ta cũng là nguyên nhân tham gia vào việc đóng đinh
Chúa Giêsu vào thập giá. Thế nên, bước vào tuần thương khó là dịp chúng
ta suy niệm về thập giá của Chúa Giêsu. Nhìn vào thánh giá Chúa Giêsu để
thấy những ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm tình yêu đó, nhìn vào thánh giá
ta thấy đau khổ bên ngoài và tình yêu Thiên Chúa bên trong, sự chết của
con người và sự sống lại của Thiên Chúa, bóng tối tội lỗi của trần gian
và ánh bình minh cứu độ, sự ích kỷ của chúng ta và sự hy sinh của Thiên
Chúa, sự kiêu căng của chúng ta và sự khiêm tốn của Thiên Chúa, sự bất
lực của con người và sức mạnh vô song của Thiên Chúa, sự thù hận của con
người và sự tha thứ của Thiên Chúa, sự hèn hạ của ta và sự cao cả của
Thiên Chúa. Nhìn vào thánh giá ta thấy nhân tính và thiên tính của Chúa
Giêsu Kitô.
Việc suy niệm này còn giúp chúng ta nghĩ đến những
đau khổ mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống của mình. Khi chúng ta đón
nhận những đau khổ trong cuộc sống như là thập giá của Chúa Giêsu trao
cho thì đó là cách chúng ta đang đi theo con đường mà Chúa Giêsu đã đi
qua và đã làm nên chiến thắng. Con đường thập giá là đau khổ nhưng khi
cùng với Chúa ta bước đi thì đau khổ sẽ thành thánh giá và nó sẽ dẫn
chúng ta vào vinh quang với Người. Chắc chắn Chúa Giêsu sẽ không bao giờ
bỏ rơi chúng ta và Người cũng không bao giờ để chúng ta phải chịu đau
khổ quá sức mình. Chúng ta hãy kết hiệp đau khổ của mình với đau khổ của
Chúa Giêsu thì chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: "Những gian nan thử
thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức"(Cl
1, 24). Thiên Chúa cho phép chúng ta kết hiệp đau khổ của chúng ta với
đau khổ của Ngài, và vì thế trở nên những người cộng tác với Ngài trong
việc đem lại ơn cứu độ cho mọi người. Đây là dấu chỉ đích thật cho phẩm
giá cao cả của con người. Khi suy niệm về mầu nhiệm đau khổ của Chúa
Kitô, chúng ta kín múc được một sức mạnh từ việc nhận thức chúng ta được
kết hiệp với Ngài trong một cách thức mầu nhiệm.
Trong Tuần Thánh này, chúng ta hãy kết hiệp những
hy sinh của chúng ta vào với những khổ đau của Chúa Giêsu, hầu nhờ đó
chúng ta sẽ được nếm thử niềm vui Phục sinh, là niềm vui sẽ không bao
giờ bị tàn úa.
Lạy Chúa Giêsu, chỉ có Chúa mới có thể đem lại
sức sống và sự thiện hảo đến cho con người. Xin giúp chúng con luôn biết
tín thác vào Chúa, trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Amen.
"Đây là máu Thầy, máu giao ước đổ ra vì muôn
người" (Mc 14, 24).
Một trong những cảnh làm tôi khó quên trong phim
‘Titanic’ là cảnh Rose và Jack cùng đeo một tấm ván lênh đênh trên mặt
biển, nhưng vì tấm ván quá nhỏ không thể "cõng" nỗi sức nặng của hai
người. Nên Jack chấp nhận hy sinh để cho người yêu được sống. Anh buông
tay khỏi tấm ván và chìm nhanh vào trong biển lạnh trong sự đau đớn của
Rose. Jack đã làm một nghĩa cử rất anh hùng mà đến chết Rose cũng thể
quên được.
Đó là một chuyện tình rất đẹp, vượt trên mọi ngăn
cản của thế lực, của bạc tiền.
Phải chăng đây chính là hình ảnh của tình yêu Thiên
Chúa dành cho nhân loại - một tình yêu cao cả đến hy sinh mạng sống vì
người mình yêu?
Ngày nay người ta thích nói về tình yêu, nhưng ít
ai dám hành động cho tình yêu. Nếu đó là một nhận xét đúng thì thật sự
chúng ta đã đến gần sự chết hơn là sự sống. Nhưng may thay đó là chuyện
của con người. Thiên Chúa không bao giờ làm như vậy. Ngài đã nói về tình
yêu và Ngài cũng dám hành động cho điều mình nói. Mà hành động của Ngài
chẳng tầm thường nếu không nói là vượt xa những gì con người có thể hiểu
được. Ngài đã chọn cái chết đau thương để cho nhân loại được sống. Chỉ
có Ngài dám làm như vậy và dầu chỉ một lần thì đủ có giá trị ngàn đời.
Chúng ta đừng nghỉ rằng Đức Giêsu dùng quyền năng
Thiên Chúa của mình đề trong cuộc khổ nạn Người không phải đau đớn. Giả
Đức Giêsu làm như thế thì Ngài chỉ là tên lừa bịp và việc Ngài làm chẳng
có giá trị. Mà nếu nại đến quyền năng Thiên Chúa thì hà tất phải sử dụng
cuộc khổ nạn này để bị mang tiếng là dối gian. Còn nhiều cách khác vẹn
toàn kỳ mỹ hơn, và cũng chẳng cần phải đổ máu dù là máu giả. Nơi Thiên
Chúa không bao giờ có sự gian dối, nơi Ngài luôn luôn là có. Điều duy
nhất của Ngài trong tất cả mọi hành động là để chứng tỏ lòng yêu thương
của Ngài dành cho nhân loại. Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu không phải là
một thước phim với những kỷ xảo nhưng là một sự thật. sự thật của một
Thiên Chúa yêu thương đến cùng.
Hình ảnh của tiên tri Isaia chính là tiên trưng của
Đức Giêsu chịu đau khổ - một sự thật đã được báo trước từ rất lâu trong
Cựư Ước. "Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta
giật râu, không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ, trơ mặt như đá và
không phải thẹn thùng" (Is 50,6-7). Đó là những hình khổ mà Đức Giêsu đã
không được bọn lính bỏ xót một một chi tiết nào. Thế nhưng chính trên
thập giá Ngài lại van nài Chúa Cha tha tội cho những kẽ đã giết mình.
Vậy, "hãy xem đó thì rõ biết Chúa yêu thương ta là dường nào. Hãy xem đó
thì rõ biết tội ta gớm ghiết là dường nào" (Chặng Đàng Thánh Giá). Trong
suốt cuộc hành trình khổ nạn ta không hề thấy bất cứ một thái độ thù
hằn, hay chống đối, hoặc chỉ là một lời bào chữa, với những người làm
khổ mình. Một mực chấp nhận như chính Ngài là một tội nhân. "Nước tôi
không thuộc thế gian này, bởi nếu nước tôi thuộc về thế gian này thì
những người của tôi đã đến chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do
thái. Nhưng thực ra nước tôi không thuộc chốn này" (x. Ga 18,36). Như
vậy, ngài đã khẳng định mục đích của việc Ngài làm không nhằm cuộc sống
vinh hoa thế tục nhưng nhằm chuộc về cho Thiên Chúa những linh hồn. Ngài
yêu thương ngay cả kẻ giết mình. Một tình yêu chẳng còn tình yêu nào lớn
hơn.
Có thể chúng ta thấy Thiên Chúa rất dạy khờ. Đâu
cần phải dùng đến con đường quá đau đớn để cứu con người? Nhưng chính
khi Ngài được treo lên là lúc tình yêu của Ngài được tỏ lộ rõ ràng nhất.
Chính lúc Ngài chết là chính lúc sự sống của những tội nhân chúng ta
được bắt đầu.
Truyện kể rằng: có hai người thổ dân Nam phi rất
ghét nhau. Ngày kia một trong hai người gặp đứa con gái nhỏ của kẻ thù
mình trong rừng. Tên ấy liền bắt cô bé, lấy dao chặt hai ngón tay rồi
thả ra. Cô bé vừa chạy về vừa khóc, bàn tay máu chảy ròng ròng. Còn tên
hung thủ vừa đi vừa la lớn: "Trả được thù rồi".
Ngày qua tháng lụn, thấm thoát mười mấy năm, cô
gái đã có chồng con. Một hôm có một tên ăn mày tới xin ăn. Người đàn bà
nhận ra đó là kẻ chặt tay mình, vội vàng trở vào nhà biểu đầy tớ đem sữa
bánh ra cho ăn. Khi kẻ kia ăn no rồi, người đàn bà đưa bàn tay cụt ra
cho hắn coi và nói: "Tôi cũng đã trả được thù rồi". Tên ăn mày xúc động
khóc ngất.
Qua câu chuyện cho chúng ta thấy, người đàn bà, nạn
nhân của sự trả thù đã dùng tình thương để xoá bỏ hận thù. Không những
tha thứ mà bà con lấy lòng bao dung để thương xót người đã hại mình.
Nhìn vào người đàn bà ta dễ dàng nhận ra một tấm lòng thật vĩ đại về
thái độ đối xử với kẻ thù. Nhưng so với thái độ của Chúa Giêsu thi không
bằng hạt cát ngoài sa mạc, như giọt nước giữa biển đông. Vì bà này bị
chính kẻ thù của mình ra tay bắt hại. Còn Chúa Giêsu bị chính những
người thân yêu nhất phản bội. Người học trò nhiệt tình được coi như
trưởng nhóm lại phản bội ngay trong lúc Thầy mình buồn rầu nhất. Người
môn đệ chính mình lựa chon lại đem bán mình với 30 đồng, chỉ bằng một
phần mười giá trị chai dầu thơm lúc bấy giờ. Thật đau khổ và xót xa khi
người ta vừa mới tung hô mình như một vị vua thì lại nhiệt liệt ủng hộ
những người bắt bớ mình. Trước khi bước vào tuần khổ nạn Đức Giêsu đã
gặp phải những thái độ làm cho Ngài rất đau buồn:
1. Thái độ của Phêrô
Khi nói đến việc chay trốn, thì không ai trong
chúng ta lại nghĩ đến Phêrô, môn đệ được Chúa chọn lên đứng đầu trong
các môn đệ và làm đầu Hội Thánh. Mới ngày nào ông tuyên xưng: "Thầy là
Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Rồi ông còn xác tín: "Bỏ Thầy con
biết theo ai, vì Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời". Mạnh hơn
nữa, ông còn vỗ ngực xưng tên: "Dù tất cả anh mọi người bỏ Thầy, nhưng
"thằng này" dứt khoát không bỏ thầy". Vả lại, ông lại thể hiện là người
nhiệt tình nhất với Đức Giêsu, thế mà cuối cùng cũng chối Chúa. Nghĩa là
bất cứ ai cũng yếu đuối và cũng có thể sa ngã nặng nề. Hay nói đúng hơn
không ai trong chúng ta là người cho mình là mạnh mẽ được, vì ai cũng có
thẻ sa ngã. Chính Phêrô cũng đã bị vấp vào lỗi này vì ông không biết ông
yếu, ông luôn tưởng mình mạnh, nên ông đã sa ngã
Lý do thứ hai khiến Phêrô chối Chúa là vì ông sợ bị
liên lụy. Nếu những người hỏi ông không phải là những người của vị
Thượng Tế đang xét xử Đức Giêsu thì chắc Phêrô vẫn mạnh dạn nhìn nhận
mình là môn đệ Đức Giêsu. Nhưng vì họ là người của Thượng Tế nên ông
phải chối, kẻo họ báo cáo với Thượng tế rồi Thượng Tế cũng bắt ông luôn.
Chứng tỏ Phêrô dám hy sinh theo Chúa, nhưng ông không hoàn toàn từ bỏ
hết, mà ông chỉ đi theo với một giới hạn nào đó. Vì vậy khi cần đền mạng
sống thì ông quá lo sợ, sợ đến nỗi quên mất thầy mình, chỉ còn biết chối
để chạy thoát thân.
2. Thái độ của dân chúng
CG đã tiên đoán trước số phận của mình khi nhiều
lần nói cho các môn đệ hay, đặc biệt qua dụ ngôn " Ông chủ vườn nho và
các tá điền". Các tá điền đã giết và hành hạ các gia nhân của chủ, khi
họ được sai đến để thu hoa lợi cho chủ. Cuối cùng, chủ đích thân sai con
một của mình đến và nghĩ rằng các tá điền sẽ nể. Nhưng chẳng những họ
không nể, mà còn giết luôn. Ý nói về số phận của các ngôn sứ và của Chúa
Giêsu. Kết cục quả là bi thảm. Buồn thay cho Chúa. Buồn thay nhân tình
thế thái, lòng người hiểm độc.
Hãy nhìn ngắm lại những gì mà con người đã đối xử
với Chúa:Mới hôm nào, dân chúng hoan hô, rải áo xuống đường, cầm cành lá
tung hô vạn tuế con vua Đa- vít (Giống như hình ảnh chúng ta rước lá vào
nhà thờ hôm nay). Vậy mà hôm nay họ lại trở mặt cách đột ngột: Một hai
đòi giết, đòi đóng đinh Chúa cho bằng được.
3. Thái độ của Giuđa
Buồn hơn hết, chính là hành hộng trơ trẽn của
Giuđa, môn đệ được Chúa chọn và theo Chúa những 3 năm, cùng Chúa chia sẻ
vui buồn với Chúa. Vậy mà nhẫn tâm bán Chúa chỉ với 30 đồng bạc. Nham
nhở hơn, hắn còn muốn lừa Chúa bằng một cái hốn giả dối nhằm chỉ điểm
cho bọn lính bắt Chúa.Nhiều chuyên gia Thánh Kinh cho rằng đó là do một
tính toán chính trị: Hắn vẫn nghĩ Đức Giêsu là một người có khả năng làm
một cuộc đảo chánh. Nhưng Giuđa chờ mãi mà không thấy Đức Giêsu làm gì
nên hắn nộp Đức Giêsu như dồn Ngài vào chân tường: hy vọng khi đã bị bắt
thì Đức Giêsu bó buộc phải ra tay hành động. Cho dù như thế nào đi nữa
thì Đức Giêsu cũng rất đau khổ vì thái độ của người học trò mình coi
danh vọng là điểm tựa, coi vật chất lớn hơn tình thầy trò.
4. Thái độ của chúng ta trong tuần Thánh này
Cũng là môn đệ của Thầy Giêsu, đòi hỏi của thánh
giá đã và sẽ tiếp tục không khước từ chúng ta. Theo Chúa giữa lúc Chúa
được tung hô, chẳng khó gì. Nhưng tiếp tục theo Chúa, ở lại với Chúa
giữa lúc Chúa bị loại trừ, bị bách hại là một thách thức lớn. Càng dấn
bước theo Chúa bao nhiêu, đòi hỏi sự hy sinh càng dữ dội bấy nhiêu. Ta
hãy nhìn lên Đức Maria, nhìn mẫu gương của tông đồ Gioan, mà hiến dâng
tình yêu, hiến dâng lòng trung thành của mình.
Nếu đã có lần nào ta va vấp trong cuộc đời, thì hãy
nhìn mẫu gương của mười tông đồ còn lại, là những người đã từng khiếp
đảm trốn chạy, nhưng cũng đã lấy lại niềm tin để tiếp tục sống trung
thành. Những tấm gương ấy sẽ tạo thêm nghị lực để ta đủ sức đứng lên làm
lại những gì đã mất. Mẫu gương trung thành của Đức Mẹ, của các thánh
tông đồ, của nhiều chứng nhân khác trong Hội Thánh... sẽ là động lực để
chúng ta hoàn thành những đòi hỏi của thập giá suốt cuộc đời mình cách
trọn vẹn.
Xin Chúa cho mỗi người chúng con biết can đảm
phó thác cuộc sống cũng như những đau khổ khó khăn trong cuộc sống, để
Chúa nâng đỡ, và để chúng con thanh thản hầu có thể bước vào tuần thánh
này một cách sốt sắng. Amen.
Anh chị em thân mến,
Nữ bác sĩ Gianna Beretta Molla sinh năm 1922,
qua đời năm 1962, được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2, tôn phong chân
phước năm 1994. Khi mang thai đứa con thứ tư, bác sĩ Molla khám phá ra
mình mang chứng bệnh ác tính đe dọa mạng sống cả hai mẹ con; bà không do
dự một giây. Luôn tin tưởng nơi Thiên Chúa Quan Phòng, bà sẵn sàng dâng
hiến mạng sống để cứu đứa con đang ở trong dạ. Bà nói với bác sĩ: - Nếu
phải chọn lựa giữa tôi và đứa bé, xin đừng do dự, hãy cứu sống đứa bé,
vì tôi muốn như thế! Sáng ngày 21-4-1962, bà sinh một bé gái đặt tên là
Gianna Emanuela. Chỉ một tuần sau, dù được chữa trị khẩn cấp và đau đớn
vô bờ, bác sĩ Gianna đã êm ái trút hơi thở cuối cùng sau khi tha thiết
lập đi lập lại: "Lạy Đức Giêsu, con yêu mến Ngài", ngày 28-4-1962, hưởng
thọ 40 tuổi. Ngày 16-5-2004 bà được nâng lên hàng hiển thánh. Lễ kính
ngày 28. 04 hàng năm.
Bác sĩ Gianna đã đi qua con đường hẹp, con đường hi
sinh mạng sống để cứu lấy chính sự sống của đứa con mình. Qua việc làm
đó, bác sĩ Gianna đã đi chính con đường Đức Kitô lên Giêrusalem để cứu
chuộc nhân loại, nhưng kết thúc buồn thảm trên Núi Sọ. Đây chính là đề
tài mà hội thánh muốn chúng ta cùng suy niệm trong ngày chúa nhật hôm
nay....
a/. Con đường Đức Kitô đi qua, đã được báo
trước:
- Các tiên tri đã loan báo trong Cựu Ước: " Đây là
Người Tôi tớ đau khổ của Ta. Người sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, được suy
tôn đến tột cùng.. Nhiều kẻ sẽ sửng sốt khi nhìn thấy mặt mày Người tan
nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ con người nữa...Chính Người đã
gánh lấy tội lỗi chúng ta. Còn chúng ta lại tưởng Người bị Thiên Chúa
đánh phạt..." (Is. 52, 13 + 53, 4)
- Chính Đức Kitô đã ba lần báo trước cho các môn
đệ: "Chúng ta sẽ lên Giêrusalem; những gì các tiên tri đã báo trước về
Con Người sẽ được hoàn tất. Con Người sẽ bị nộp vào tay dân ngoại, bị
nhục mạ, bị khạc nhổ. Sau khi bị đánh đòn, họ sẽ giết Người, và ngày thứ
ba Người sẽ sống lại..." (Lc 18, 31-33)
- Chính Chúa Giêsu long trọng quả quyết: "đã đến
giờ Con Người được tôn vinh. Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất mà không
hư đi, nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó hư đi, nó sẽ sinh nhiều
hạt khác..." (Gn 12, 23-24). Chúa nói tiếp: "Như Môisen đã treo con rắn
lên trong sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như
vậy, để ai tin vào Người sẽ được sống muôn đời." (Gn 3, 14-15).
Con đường Đức Kitô đi qua, Người đã ý thức và đã
sẵn sàng đi theo vì vâng theo Ý Chúa Cha, nhất là vì yêu thương nhân
loại.
b/. Nhìn lại con đường Đức Kitô đã đi quamà
suy niệm:
Đức Kitô đã khởi đầu con đuờng cứu chuộc nhân loại
bằng con đường vinh quang vào thành Giêrusalem, nhưng lại kết thúc bằng
con đường bi thảm là con đường lên Núi Sọ và chết ở đó. Đây thật là một
con đường đầy gian khổ, không dễ gì thực hiện, nếu Con Thiên Chúa không
vâng lời Chúa Cha và không yêu thương nhân loại...
Ngày hôm nay, Hội thánh cử hành Lễ Lá cùng với Nghi
thức đón rước long trọng, chính là mời gọi chúng ta cùng bước theo Đức
Kitô, để thấy rằng hành trình theo Chúa không dừng lại ở cổng thành
Giêrusalem, với cành lá dừa, áo trải làm thảm lót đường cùng với những
tiếng hoan hô long trời lở đất, nhưng phải kết thúc trên Núi Sọ với thập
giá, với những hình khổ, lời nhục mạ và hai tử tội hai bên.
Chúng ta cùng theo Chúa Kitô, để chứng kiến lòng
con người nhanh chóng thay đổi. Mới hôm chúa nhật, mọi người giơ tay
hoan hô nhiệt liệt; vậy mà mấy ngày sau, chính họ lại giơ tay reo hò, để
kết tội Chúa, để treo Chúa cho được trên thập giá.
Theo Chúa vào thành thì dễ dàng vui vẻ, nhưng theo
Chúa trên đường Núi Sọ thật là buồn thảm. Mỗi người chúng ta phải chọn
lựa con đường theo Chúa. Chính thánh Nữ bác sĩ Gianna Beretta Molla đã
lựa chọn cho mình con đường theo Chúa, và hôm nay trên bàn thờ Bà là mẫu
gương để mọi người kitô hữu cùng soi chung...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Nhân ngày lễ Lá hôm nay, mỗi người chúng ta tự đặt
cho mình câu hỏi: Nếu tôi có mặt trong đoàn kiệu Chúa vào thành
Giêrusalem hôm đó, tôi sẽ là hạng người nào? Tôi có phải là người sẵn
sàng cầm nhành lá hoan hô đón rước Chúa? Hay tôi là người sẽ cùng Chúa
đi lên Núi Sọ? Tôi sẽ là người chối Chúa như Phêrô? Hay tôi là người
phản bội Chúa như Giuda? Tôi có phải là người khi thấy quân lính Lamã
hung dữ, đã bỏ Thầy mà chạy bán mạng? Hay tôi là người hùa với đám đông
kết án Chúa? Hay tôi là những lý hình đánh đập và sĩ nhục Chúa trên đồi
Golgotha? Cuối cùng tôi là hạng người nào trong số các người đó đã đi
theo Chúa?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
Phụng vụ Chúa nhật Lễ Lá hôm nay được mở đầu với
bầu khí hân hoan phấn khởi qua nghi thức rước lá nhằm tưởng nhớ lại việc
Đức Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem. Đám đông dân chúng tung hô
Chúa Giêsu “Hosana, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”. Nhưng liền
sau đó, phụng vụ Lời Chúa lại trình bày cho chúng ta con đường thập giá
và cuộc tử nạn của Chúa Giêsu qua bài thương khó. Giáo hội muốn làm nổi
bật Mầu nhiệm Thập giá trong suốt Tuần thánh để người Kitô hữu xác tín:
Thập giá, tình yêu cứu độ. Thập giá, con đường vinh quang phục sinh.
Sau đây, chúng ta chiêm ngắm cuộc tử nạn của Chúa
Giêsu qua Tin mừng thánh Marcô vào dịp lễ Vượt Qua năm 30; lễ vượt qua
cuối cùng trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Hôm đó, người ta đổ về
Giêrusalem để mừng lễ, nhiều người ngoại quốc cũng đến để chung vui với
người Do Thái vào dịp đại lễ này. Họ chứng kiến một vị ngôn sứ là Chúa
Giêsu bị kết án tử hình đóng đinh thập giá. Người ta tố cáo Ngài với hai
tội danh là phạm thượng “tự xưng mình là Thiên Chúa” và tội phản động
chống lại hoàng đế Rôma “Người này nói dân nổi loạn”. Nhưng trước mắt
toàn dân, quan án Philatô xét xử và xác nhận: Ông Giêsu không có tội, ta
truyền đánh đòn và tha ông.
Các thượng tế, luật sĩ, biệt phái nhất định giết
Đức Giêsu. Họ sách động dân chúng lên án Chúa Giêsu “đóng đinh nó vào
thập giá”. Sau cùng Philatô đã viết bản án “đóng đinh ông Giêsu” và tha
cho tên trộm cướp giết người là Baraba.
Để cứu độ nhân loại, Đức Giêsu đã chấp nhận án tử
hình thập giá, chấp nhận chết để cứu sống nhân loại tội lỗi. Con đường
Đức Giêsu đã đi là con đường thập giá, con đường tử nạn để cứu nhân loại
khỏi tội và đưa con người vào cõi sống muôn đời như lời thánh Phêrô đã
nói: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên
cây thập giá, để một khi đã chết với tội lỗi, chúng ta sống cuộc đời
công chính” (1Pr 2, 24). Vì thế Giáo hội đã hướng nhìn thập giá với niềm
tin:
“Ôi Thập giá, phước lành thế giới,
Nguồn cậy trông cứu rỗi tràn lan”
(Thánh thi kinh trưa Thứ sáu tuần thánh)
Thập giá là đỉnh cao của con đường yêu thương mà
Thiên Chúa đã dành cho nhân loại được thể hiện qua cái chết của Đức
Giêsu Kitô: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu dám chết cho
người mình thương. Đức Giêsu đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn
là tội nhân, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5, 8).
Chúa Giêsu chết trên thập giá: một cái chết yêu
thương, tự nguyện, tha thứ để con người được cứu sống: “Lạy Cha, xin tha
cho chúng vì chúng lầm không biết”. Chỉ khi Chúa chết mới giải quyết
được mọi vấn đề liên quan tới sự kiện Đức Giêsu Kitô “Ngài là ai”? Người
Do Thái thời Chúa Giêsu không thể chấp nhận Ngài là Đấng Messia, bởi
người ta chỉ trông chờ một Đấng Messia có tính cách chính trị để giải
phóng dân Do Thái khỏi đế quốc Rôma. Họ không thể hiểu được “Đấng Cứu
Thế phải chết thay cho muôn người”, “Đấng Messia cứu độ”. Qua cái chết
của Chúa Giêsu, chúng ta tìm được lời giải đáp về căn tính của Đức
Giêsu.
Chính khi Đức Giêsu tắt thở trên thập giá, là lúc
Chúa Giêsu trở nên Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại như lời Ngài đã
nói trước: “Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ
kéo mọi người lên với Tôi”. Chính lúc Chúa chết là lúc Chúa Giêsu toàn
thắng ma quỷ, tội lỗi và sự chết, vì Ngài đã chu toàn sứ mạng cứu độ của
Thiên Chúa Cha. Chính giờ phút Chúa chết là lúc Chúa được Thiên Chúa Cha
tôn vinh.
Chứng kiến Chúa chết trên thập giá, viên sĩ quan
Rôma đâm cạnh sườn Chúa đã phải thốt lên với niềm tin vào Đức Giêsu:
“Ông này quả thật là con Thiên Chúa”. Người trộm bên hữu cùng chịu đóng
đinh đã tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: “Ông Giêsu ơi! Khi Ông vào
nước của Ông, xin nhớ đến tôi… Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở
với Tôi trên thiên đàng” (Lc 23, 42-43).
Dưới chân thập giá nhiều người đã đấm ngực và tuyên
xưng niềm tin vào Đức Giêsu “Ông này quả thật là Con Thiên Chúa”.
Cái chết đầy yêu thương và tha thứ của Chúa Giêsu
đã tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi: Đức Giêsu là ai? Đức Giêsu là Đấng
cứu độ nhân loại và là Thiên Chúa thật.
Bước vào Tuần thánh là bước vào cuộc khổ nạn của
Đức Kitô và cũng là hành trình tiếp cận tình yêu thương vô bờ bến của
Thiên Chúa.
Bước vào Tuần thánh là đi vào cuộc hành trình tiến
lên đỉnh cao phục sinh với Đức Giêsu. Nhưng sẽ chẳng có Đức Giêsu phục
sinh nếu không có Đức Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết. Sẽ chẳng có chiến
thắng vinh quang, nếu không có chiến đấu gian nan và đau khổ tột cùng
trên thập giá. Thật đúng như tục ngữ Hoa Kỳ: “Không có thập giá, không
có triều thiên, không có đau khổ, không có thắng lợi. (No cross, no
crown, no pain, no gain).
Đón nhận khổ giá với sức mạnh của tình yêu là đồng
hành với Đức Kitô trên con đường cứu thoát chính mình và tha nhân. Như
thế, thập giá, tình yêu cứu độ; Thập giá, con đường vinh quang phục
sinh.
Chủ đề: Chúa Giêsu, Người tôi tớ đau khổ của
Thiên Chúa, chịu chết vì sự sống trần gian.
Chết vì người khác là một nghĩa cử anh hùng, cao
quý luôn được người đời tán dương và ca ngợi.
Cha Maximilian Kolbe, Linh mục dòng Thánh
Phanxicô khó khăn, được cả thế giới biết đến vì một nghĩa cử anh hùng.
Bị bắt giam trong nhà tù Auschewitz. Tại đây người ta áp dụng một đạo
luật hết sức tàn nhẫn và bất công: nếu một người trốn trại thì người
khác phải chết thay. Mục đích là để các tù nhân tự coi nhau. Năm đó, một
tù nhân trốn trại, tất cả được gọi xếp hàng chờ tên cai ngục chỉ gọi
tên. Gọi tên ai thì người đó phải chết. Một tù nhân được gọi tên mình,
anh khóc lóc kêu gào vì còn cha mẹ già, vợ và bốn con. Đột nhiên một tù
nhân bước ra khỏi hàng đến trước mặt tên quản trại: “Tôi muốn chết thay
cho người này”. Hắn hết sức kinh ngạc trước hành động anh hùng của người
tù. Hắn gằn giọng: “Mày là ai?” “Là linh mục công giáo”. “Không cần biết
danh tính địa vị, ngu thì chết, vào hàng”. Thế là mười người được dẫn
đi, bị bỏ đói cho đến chết. Cha Maximilian Kolbe là một trong số họ.
Ngày 10 tháng 10 năm 1982, Cha được Đức Giáo
Hoàng J-P. II tôn phong lên hàng các thánh tử đạo. Một người đã chết vì
sự sống của anh chị em mình. Cha thật là hình ảnh của Đức Kitô, Mục tử
nhân lành, sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đoàn chiên: “Ta đến để cho
chiên được sống và được sống dồi dào” (Jn 10, 10).
Câu chuyện cha Maximilian Kolbe mở lối cho chúng ta
vào phụng vụ Lời Chúa hôm nay: Chúa Giêsu, Người Tôi Tớ đau khổ của
Thiên Chúa, chịu nạn, chịu chết vì sự sống trần gian.
Bài đọc I, trích sách Ngôn sứ Isaia, phác họa chân
dung Người Tôi Tớ Chúa:
· Là Người được Chúa huấn luyện để phục vụ lợi ích
cộng đoàn, nhất là những người bé nhỏ, nghèo hèn, bất hạnh: Chúa đã ban
cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ
kẻ nhọc nhằn. Chúa huấn luyện để ngài luôn sống trong tỉnh thức, luôn
sẵn sàng tìm kiếm và đáp trả thánh ý Chúa.
· Là Người ngoan ngoãn dễ dạy, khiêm tốn, hiền lành
như con chiên bị dẫn đi làm thịt, không mở miệng than van, hiền lành
nhẫn nại dạy đường lối Chúa cho kẻ bất lương với châm ngôn: cây lau bị
dập, Người không bẻ gãy, tim đèn còn khói, Người không dập tắt.
· Là Người can đảm cứ đường lối Chúa mà đi, nghĩa
là cương quyết sống trong và bảo vệ chân lý, chứ không phải là hạng
người cuồng tín và liều lĩnh.
Người Tôi Tớ mẫu mực này chỉ có thể đậu lại nơi
Chúa Giêsu, nơi Ngài hội tụ đến mức hoàn hảo các nhân đức mà Ngôn sứ
Isaia diễn tả.
Marcô, trong bài Tin Mừng, ghi lại bản án tuyên đọc
trên Chúa Giêsu. Chủ đích của ngài, không nhằm kê khai những tội trạng
người ta vu khống và gán cho Chúa, nhưng đề cập đến những ân huệ dẫy
tràn trên chúng ta trong cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa:
Ân huệ lớn lao nhất là bí tích Thánh Thể. Trong khi
cử hành lễ Vượt Qua theo truyền thống Do Thái, Chúa Giêsu muốn sống lại
biến cố được giải thoát khỏi kiếp nô lệ Ai-Cập, đồng thời Ngài muốn thực
hiện cho dân mới một lễ Vượt Qua mới mà chiên vượt qua là chính bản thân
Ngài được hiến tế vì chúng ta. Này là Mình Ta, này là Máu Ta, máu giao
ước mới và vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được ơn tha tội,
các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Ân huệ ấy được thực hiện trong
thời gian cho đến tận thế, vì lẽ, mỗi khi bí tích Thánh Thể được cử hành
là mỗi lần ơn cứu độ chúng ta được thực hiện.
Hồng ân sự sống được ban tặng trong sự chết của Đức
Giêsu, Người Tôi Tớ Thiên Chúa. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã thực hiện
kế hoạch của Chúa Cha: “Nơi cạnh sườn của Đấng bị đâm thâu qua, máu và
nước chảy ra, từ đó phát sinh các bí tích của Hội Thánh, để lôi kéo mọi
người đến cùng trái tim rộng mở của Đấng Cứu Thế, thì muôn đời hân hoan
kín múc tận nguồn ơn cứu độ” (kinh tiền tụng lễ Thánh Tâm).
Người kitô hữu không coi thập giá là phương tiện
hành hình tội nhân, mà coi như dấu chỉ của sự bình an, của tình yêu, ơn
tha thứ và sự sống: “Phần tôi, khi nào được giương cao lên khỏi đất, Tôi
sẽ kéo mọi người lên với Tôi” (Ga 12, 32). Do vậy, trong ngày thứ sáu
tuần thánh, chúng ta tôn vinh thập giá của Đấng chịu đóng đinh: “Vinh dự
của chúng ta là thập giá Đức Kitô, nơi Người ơn cứu độ ta, sức sống của
ta và sự phục sinh của ta” (phụng vụ thứ sáu tuần thánh).
Đức Giêsu vì yêu thương đã tự hiến, tự hủy mình ra
không vì chúng ta và vì sự sống trần gian. Thánh Phaolô, trong bài đọc
II, nhìn thấy thập giá trong biến cố Ngôi Lời nhập thể: “Đức Giêsu Kitô,
tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng
với Thiên Chúa...”. Trong sự tự hủy “trở nên người”, Ngài đã kéo chúng
ta lên địa vị làm con Thiên Chúa.
Bạn thân mến,
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta điều
này: Thiên Chúa rất mực yêu thương, rất khôn ngoan lo liệu hết mọi
phương thế để chúng ta được ơn cứu độ và được sống. Chúng ta có thâm tín
rằng: Chúa yêu tôi và Ngài đã chết vì tôi không? Đây là câu trả lời hệ
trọng, vì nó kéo theo cả cuộc đời vào trong tâm tình cảm mến tri ân Đấng
đã yêu thương và chết vì chúng ta là kẻ có tội. Khi anh em còn là tội
nhân thì theo kỳ hẹn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta là những kẻ có tội.
Để cảm tạ và đáp đền lòng Chúa yêu thương, mỗi
người chúng ta cần có lòng sám hối, ăn năn và nhất là sinh hoa quả xứng
với lòng sám hối. Một đời sống phù hợp với Tin Mừng: công bằng, chính
trực, bác ái, yêu thương, nhất là xây dựng tình hiệp thông từ trong gia
đình tới cộng xã hội nơi chung ta cùng chung sống.
Một khi đã được mặc lấy Chúa Giêsu, anh em đừng
theo lối sống xưa kia, con người cũ đã ra hư hốt buông theo những đam mê
lầm lạc. Nếu cuộc đời chúng ta sống tâm tư của Chúa, chắc chắn sẽ có con
người mới, gia đình mới, xã hội mới và một thế giới mới.
Xin Chúa thương chúc lành cho chúng ta trong
ngày Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay. Amen.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Từ trước tới nay, chưa một lần nào Đức Giêsu tìm
cho mình chút vinh quang trần thế. Còn bây giờ, khi cái chết đã gần kề,
Ngài chấp nhận sự tán tụng của đám đông, và chính Ngài cũng muốn ngồi
trên lưng một con lừa để khiêm tốn tiến vào thành thánh.
Nhiều người trải áo hay chặt cành cây rải trên lối
đi. Tiếng hò reo vang dậy. Người ta tung hô Ngài là Đấng Mêsia, là Con
vua Đavít.
Quả thật Ngài là Vua Mêsia, nhưng rồi đây người ta
sẽ biết cách làm vua của Ngài: qua đau khổ và cái chết ô nhục trên thập
giá.
Lễ Lá là một lễ vui, nhưng lại đượm buồn. Ta được
nghe bài thương khó trong thánh lễ.
Tuần thánh đã bắt đầu. Đức Giêsu bước vào những
ngày cuối đời.
Rước lá đi theo Ngài trong vài giờ là điều dễ. Theo
Ngài giữa lúc Ngài được tung hô, chẳng khó gì.
Nhưng tiếp tục theo Ngài và ở lại khi Ngài bị mọi
người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều.
Chúng ta thường cảm thấy mệt khi nghe đọc bài
Thương Khó.
Nếu chúng ta dành thì giờ để suy niệm về cuộc khổ
nạn, ta sẽ thấy lời nói và thái độ của Đức Giêsu có sức nâng đỡ và biến
đổi ta, giúp ta đón nhận mọi gai góc của cuộc sống.
Cần cảm nghiệm những đau noun trên thân xác Chúa,
nhưng đừng quên những nỗi đau sâu kín của trái tim Ngài, và nhất là đừng
quên nhận ra một Tình Yêu, Tình Yêu vô cùng lớn đối với Cha và nhân
loại. Chỉ Tình Yêu mới làm cho khổ đau sinh trái.
Con Thiên Chúa không xa lạ với khổ đau của phận
người. Ngài biết thế nào là bị vu khống, bất công, phản bội, thế nào là
bị nhục nhã, sợ hãi, cô đơn và giết chết.
Ngài không phân tích mầu nhiệm đau khổ, nhưng Ngài
đón lấy đau khổ với rất nhiều tình yêu, và lập tức nó có ý nghĩa.
Bạn có thể thấy mình giống Giuđa, Phêrô hay
Philatô.
Chẳng ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa.
Hãy đi với Đức Giêsu qua từng chặng đường, từ Vườn
Dầu đến tận Núi Sọ.
Đừng theo Chúa như một người lạ quay video cho đám
tang, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì bạn và cho bạn.
Sau khi đã thấm nhuần cuộc Khổ Nạn, bạn sẽ thấy
mình yêu thánh giá của Chúa hơn, mến thánh giá của mình hơn, và kính
trọng thánh giá của người khác hơn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn hãy đọc chương 26 và 27 của Tin Mừng thánh
Matthêu. Điều gì đánh động bạn hơn cả khi nhìn ngắm Đức Giêsu?
Theo ý bạn, Đức Giêsu có thể tránh né cái chết được
không? Tại sao Ngài tự nguyện đón nhận cái chết thập giá?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo
những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác
tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa ngàn lần quảng đại hơn
con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho con dám
liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi
sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho
sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho
con tim con rướm máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người
một lòng theo Chúa.
Suy Niệm
Chúa Nhật Lễ Lá là một lễ vui, nhưng cũng là ngày
tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa. Chúng ta chứng kiến hai đám rước trái
ngược nhau.
Trong ngày Lễ Lá, Đức Giêsu được đón rước vào
thành, giữa tiếng hò reo vang dậy. Ngài như vị Vua Mêsia lẫm liệt trên
lưng lừa, đi trên con đường của những nhành cây xanh mới chặt.
Sau đó ít ngày là đám rước lên núi Sọ. Không có
tiếng tung hô, chỉ có lời kết án. Không có những nhành cây, chỉ có cây
thập giá.
Ngày xưa, có ai tham dự cả hai đám rước đó không?
Chung ta thường mệt mỏi khi nghe bài Thương Khó, và
thấy mình dửng dưng, xa lạ, bàng quan. Thật ra nỗi khổ đau và cái chết
của Chúa là vì tôi, vì yêu mến tôi (x. Gl 2,20).
Cần nghe đọc bài Thương Khó một cách chậm rãi, và
bước theo Chúa qua từng chặng đường. Hãy ở lại với Chúa trong lúc khó
khăn này. Cần cảm nghiệm được nỗi cô đơn của Chúa.
Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Ngài. Họ ngủ say để
mặc Ngài một mình khắc khoải. Giuđa chỉ điểm bắt Ngai bằng một nụ hôn.
Các môn đệ sợ hãi bỏ Ngài mà chạy trốn. Phêrô thề là không hề quen biết
Ngài.
Đức Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ. Họ bị
kích động đòi đóng đinh Ngài. Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên phiến
loạn. Không rõ đám đông Ngài đã nuôi ăn, nay ở đâu?
Đức Giêsu đã đi đến tột cùng của nỗi cô đơn khi
Ngài cảm thấy chính Cha cũng vắng bóng: Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Ngài
bỏ tôi?
Cần cảm nghiệm nỗi đau trên thân xác Chúa.
Khuôn mặt ngời sáng của Con Thiên Chúa làm người
nay bị khạc nhổ, bị tát, bị đánh túi bụi. Đôi mắt với cái nhìn bao dung
ấy nay bị bịt lại để làm một trò chơi trẻ con. Tấm thân đã gánh lấy nỗi
đau của bao người giờ đây được phơi ra cho những trận roi cầy nát. Đôi
bàn tay đã chữa bệnh và chúc lành, nay co quắp và bầm tím vì những mũi
đinh. Đôi bàn chân từng rong ruổi khắp nẻo đường truyền giáo, nay không
đủ sức nâng cả thân mình đang trĩu nặng.
Cần cảm nghiệm nỗi ô nhục của Chúa.
Danh dự và phẩm giá vẫn là điều đáng trọng. Đức
Giêsu bị bắt làm hề, đóng vai Vua dân Do Thái, được mặc cẩm bào, được
đội triều thiên, được cầm vương trượng. Có vị vua nào được bái lạy như
vị vua này không? Đức Giêsu bị lột áo trước khi bị đóng đinh. Con Thiên
Chúa đỏ mặt trước cái nhìn của thế giới!
Cuộc thương khó của Chúa vẫn kéo dài đến tận thế.
Thập giá của Chúa, của tôi, của anh em tôi, là một.
Chúa mời tôi vác thập giá của mình theo Chúa hàng
ngày, và giúp tha nhân vác thập giá của họ.
Ước gì thế giới có thật nhiều Simon Kyrênê.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Giêsu khổ đau như bao người trên mặt đất: bị
xét xử bất công, bị áp bức và hãm hại. Hôm nay, bạn có thấy những người
đang vác thập giá với Chúa trên khắp thế giới không? Họ là ai?
Bạn có nhận ra thập giá của một người trong gia
đình, trong nhóm, trong môi trường sống của bạn không? Bạn đã làm gì để
giúp họ trong mùa Chay này?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, xin
cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các
bạn trẻ đủ sức đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công, xin cho chúng con
can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin cho phụ nữ
và trẻ em được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những
người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền
hoà thắng được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá, xin cho đất
nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ, xin
cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an.
Amen.
42. Sự Thương Khó và Thập Giá
của Đức Giêsu
Nếu dừng lại ở thương khó và thập giá thì là ngõ
cụt đáng sợ hãi và trốn lánh. Nhưng thực tế Đức Giêsu đã vượt qua và đã
mở ra con đường tới sự sống và vinh quang. Bề ngoài xem ra là thất bại
thê thảm nhưng thật sự là chiến thắng vẻ vang.(les plus grandes défaites
sont des plus grandes victoires).
Ai có thể làm được như Đức Giêsu? Vậy không phải là
Người đã chiến thắng sao? Trốn tránh hoặc nhờ bạo lực hoặc nhờ sự can
đảm anh hùng? Bỏ trốn là hèn nhát. Than van, khóc lóc là yếu hèn. Đương
đầu và vượt qua, không khuất phục, vẩn giữ được sự công chính, không làm
hại đối phương, vẫn dịu dàng yêu thương và cuối cùng còn cầu nguyện xin
Thiên Chúa tha thứ cho họ và hứa nếu họ sám hối thì sẽ được sống. Có
phải tuyệt vời không? Ai làm được như Ngưới? Chiến thắng vẻ vang: yêu kẻ
thù.
Người Do thái coi thập giá là gương mù. Người Hy
lạp coi là điên rồ. Thiên Chúa lại dùng làm khôn ngoan và sức mạnh. Đừng
chỉ thấy nơi thương khó và thập giá khốn khổ và sỉ nhục. Hãy suy tư tìm
ý nghĩa tiềm ẩn mà Thiên Chúa thực hiện và muốn chúng ta nhìn thấy: sự
đương đầu can đảm và vượt thắng tất cả.
Động lực là Tình yêu. Tình yêu mới phi thường.
Tin chắc "tà không thắng chính". Công chính cho đến
cùng sẽ chiến thắng dù có bị giết chết cũng sẽ sống lại vinh quang.
Thắng vượt mọi cám dỗ bên trong cũng như bên ngoài là chiến thắng toàn
diện.
Thắng nhân giả hữu lực. Tự thắng giả cường. Thắng
thiên binh vạn mã, nhiều người làm được. Tự thắng thì mấy ai?
Bị khổ và chết vì có tội là ác giả ác báo. Chấp
nhận vì yêu thương là anh dũng. Chỉ tình yêu mới làm nổi. Đức Giêsu đã
chống lại mọi cám dổ cho tới cơn cám dỗ cuối cùng "không làm cứu độ nữa,
vất vả quá, xuống khỏi thập giá làm mỗt nguời bình thường" thôi! ĐG
không sa chước cám dỗ. Người vượt qua trung kiên đến cùng.
Chiến thắng của Đức Giêsu cho thấy ý nghĩa của việc
cứu chuộc. Cứu chuộc là lật lại, đổi lại. Loài người từ thuở ban sơ
không vâng phục Thiên Chúa, chóng lại, phản nghịch cùng Thiên Chúa. Bây
giờ Đức Giêsu đại diện dâng lên Thiên Chúa việc tôn thờ xứng đáng nhất
là hiến tế chính mình làm lễ vật tinh tuyền, không tì ố, không nhiễm một
chút nào tội của loài người, làm con chiên vô nhiễm, Cung kính không
bằng vâng phuc. Vâng lời trọng hơn của lễ. Người đã vâng lời cho đến
chết và chết thập tự. Là con chiên hiền lành bị đem đi giết mà không mở
miệng.
Tất cả mọi khốn khổ Người chịu là tự nguyện để dâng
lên Thiên Chúa sự vâng phục tột đỉnh, chuộc lại sự không vâng phục của
loài người qua mọi thế hệ. Sự vâng phục chuộc sự không vâng phục để ai
theo Người thì chuộc được mạng mình bằng đời sống vâng phục.
Chiến thắng của Đức Giêsu là không thua cuộc truớc
cái xấu nhờ tình yêu, yêu cả kẻ thù. Kể chuyện.
Một người nhờ một tu sĩ cao thâm dẫn đi tìm một vị
thần có thể chỉ cho bí quyết "khỏi đau khổ". Gặp vị thần nầy rồi vị thần
nọ, nghe bí quyết nầy bí quyết nọ chỉ con đường "không đau khổ". Nhưng
chưa chịu. Tới vị thần chịu treo thập giá thì ông nói "'tôi chịu ông
nầy, tôi theo ông nây" vì ông nầy không tránh né mà đương đầu, vuợt qua
và chiến thắng. Chỉ có cách nầy là thực hiện được và hiệu quả. Có chịu
đau khổ mới cảm thông được với người đau khổ, mới giúp được người đau
khổ vượt qua đau khổ. Đau khổ chỉ có thể vượt qua, chiến thắng chứ không
thể tránh khỏi. Không có bí quyết để khỏi đau khổ ngoại trừ bí quyết của
Đức Giêsu. Người không dạy nhưng trải nghiệm trên chính bản thân mình và
kêu gọi đi theo còn hứa luôn ở bên để trợ giúp.
Thập giá là chiến thắng của người công chính can
đảm.
(Suy niệm của Đức ông James M. Reinert – Đan Quang
Tâm dịch)
“Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!
Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta.
Hoan hô trên các tầng trời!”
Cũng như Thánh Máttheu và Thánh Luca, Thánh Máccô
sử dụng lời ngôn sứ của Dacaria mô tả việc Đức Giêsu vào Giêrusalem.
Điều lý thú về lời ngôn sứ này là sự tương phản: “Nào thiếu nữ Xi-on,
hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò!
Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực,
Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn
theo mẹ” (9,9).
Ta có thể hỏi liệu có thể nào vừa khải hoàn và
chiến thắng mà đồng thời vừa khiêm tốn. Bằng cách chọn đi vào Giêrusalem
theo phương cách Người đã làm, Đức Giêsu cho người ta thấy Người thực sự
thuộc loại vua nào. Người khải hoàn nhưng không đắc thắng. Người đã
giảng dạy như một mục tử, chứ không phải như một vị tướng quân. Những ai
nghe Người nói hoặc chứng kiến phép lạ Người làm thì bây giờ được gọi để
làm chứng về các kinh nghiệm của họ. Họ làm chứng bằng cách tuyên xưng
Đức Giêsu là “Con của Đavít”, ca tụng Thiên Chúa Cha đã gửi đến đấng cứu
thế mà người ta mong đợi từ lâu.
Theo Thánh Máccô, Đức Giêsu chắc chắn biết ý nghĩa
của điều Người chuẩn bị làm. Người sai các môn đệ đi tìm con lừa con,
giải thích một cách chi tiết điều sẽ xảy ra. Khi ta đồng hành với Đức
Giêsu và các Tông đồ trong mấy ngày sắp tới, ta sẽ thấy một số hình ảnh
sẽ nhắc nhở ta về sự kiện Đức Giêsu, Con Đavít, đã đến cứu chúng ta và
giải thoát chúng ta.
Điều lý thú cần ghi nhận là, theo các Phúc âm Nhất
lãm, câu truyện thương khó không trực tiếp theo sau việc đi vào thành
Giêrusalem. Trong Phúc âm Máccô có hai chương tách việc vào thành với
trình thuật Bữa Tiệc Ly.
Chương khải hoàn vào Giêrusalem dịu giọng một chút
và lại tập trung vào Sách Ngôn sứ Isaia. Ta nghe về “Người Tôi Trung của
Chúa” – lời tiên tri thứ hai trong ba lời tiên tri của Isaia nói về Đấng
Mêsia. Trong những đoạn này, ta đi đến chỗ nhận biết bản chất đích thực
của Đấng Mêsia – Người xuất hiện không phải như một vị vua vinh quang mà
như người tôi tớ khiêm tốn.
Trong Thư gửi Tín hữu Philípphê, Thánh Phaolô kiện
toàn sự nhận biết đó. Trong “bài thánh ca Philípphê”, ông bảo ta rằng
Đức Giêsu này thực sự là ai và Người đã làm gì cho ta: “…Người lại còn
hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập
tự!” Tất cả đieu này cho ta thấy rằng đây là một phần trong kế hoạch của
Thiên Chúa. Những lời hứa trong Cựu Ước được thành sự và chúng ta trở
thành các nhân chứng. Với tư cách là người làm chứng, ta được kêu gọi
hãy đáp ứng lại.
“Nơi Người, luôn luôn có thể nhận ra dấu chỉ sống
của tình yêu khôn lường và siêu việt đó của Thiên-Chúa-ở-với-chúng-ta,
Đấng mang lấy những thương tích tật bệnh của dân mình, đồng hành với họ,
cứu thoát họ và hợp nhat họ nên một. Trong Người và nhờ Người, có thể
tái khám phá cuộc sống trong xã hội, dù cuộc sống còn đầy mâu thuẫn đối
kháng và nhập nhằng tranh tối trang sánh, như một nơi chan chứa sự sống
và hy vọng: đó là dấu hieu của ân sủng không ngừng được đề nghị ban tặng
cho mọi người, và đó cũng là lời mời gọi hãy vươn đến những hình thức
chia sẻ ngày càng cao hơn và tích cực hơn.
Đức Giêsu Nadarét đã làm cho mối dây liên kết giữa
liên đơi vào bác ái sáng chói trước mặt mọi người, chiếu sáng toàn bộ ý
nghĩa của mối dây liên kết này: “Dưới ánh sáng đức tin, liên đới tìm
cách vượt qua chính nó, mang lấy các chiều kích Kitô giáo cụ thể là trao
ban một cach hoàn toàn vô điều kiện, tha thứ và hoà giải. Lúc ấy, người
gần bên chúng ta không những chỉ là một con người có những quyền lợi và
về cơ bản, bình đẳng với hết mọi người, mà còn là hình ảnh sống động của
Thiên Chúa Cha, đã được máu Đức Giêsu Kitô cứu chuộc và được đặt dưới
tác động trường kỳ của Thánh Thần. Thế nên, phải yêu thương tha nhân,
cho dù đó là kẻ thù, bằng cùng một tình yêu mà Thiên Chúa yêu thương họ;
và chính vì ích lợi của người ấy mà ta hãy sẵn sàng hy sinh, thậm chí hy
sinh đến mức cuối cùng: hy sinh tính mạng vì anh em (x. 1 Ga 3,16)”
(Sách Tóm lược HTXHGH, 196).
Khi nghe trình thuật Thương Khó theo Thánh Mátthêu,
bắt đầu với việc thoả thuận phản bội Đức Giêsu và chấm dứt với việc
Philatô lệnh cho chính quyền canh gác ngôi mộ, ta nhìn các lời tiên tri
trong Cựu Ước dưới một ánh sáng mới. Ta cũng thấy diễn tiến của các biến
cố xoay quanh cuộc thương khó, bắt đầu với trình thuật Bữa Tiệc Ly và
việc thiết lập Bí tích Thánh Thể theo đúng sứ mạng mục vụ của Đức Giêsu.
Người đã đến với chúng ta và đã đề nghị tặng ban một món quà vĩ đại. Nếu
ta chấp nhận món quà đó, ta được mời gọi đáp trả lại Người trong cuộc
thương khó, cái chết và sự phục sinh của Người.
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Có ai đó nói rằng: “Trời mưa rồi, mới biết ai sẽ là
người đưa dù cho bạn. Gặp chuyện rồi, mới biết ai sẽ là người đối đãi
với bạn thật lòng. Có những người chỉ biết thêu hoa trên gấm, chứ không
biết đưa than trong những ngày đông. Lại có những người chỉ biết thêm
dầu vào lửa, chứ không biết đối đãi chân thành”.
Nhiều người vẫn tự hào có đông bạn bè, nhưng người
thật sự hết lòng vì mình liệu có được mấy ai?
Có một người kể rằng vì vấn đề trong làm ăn nên
anh đang cần gấp một số tiền. Anh liền gọi điện cho những bạn bè thân
thiết của anh. Đều được trả lời là không thể giúp với nhiều lý do. Anh
đã dựa vào độ thân thiết mà gọi 9 cuộc điện thoại kêu cứu, nhưng càng
gọi về sau thì càng không có lòng tin. Cho tới cuộc gọi thứ 10 chỉ là
thử vận may mà thôi, thế mà anh lại được một người bạn ít thân thiết sẵn
lòng cho mượn.
Cuối cùng anh kết luận rằng: “Nếu không phải lần
mượn tiền này, tôi còn tưởng rằng mình có rất nhiều bạn bè, bây giờ tôi
mới hiểu thì ra tôi cô đơn đến như vậy!”
Đời người, gặp nhau là do duyên Trời, ấm áp bởi
tình, tan rã bởi thiếu chia sẻ với nhau, tệ hơn là bạn bè nhưng lại chơi
xấu nhau. Đời thị phi là vậy. Con người chỉ nghĩ đến lợi cho bản thân.
Khi chơi với ai có lợi thì thân. Ngược lại khi mối lợi không còn thì
tình thân cũng tan biến. Có khi còn vì bản thân mà đạp đổ danh dự của
nhau...
Chúa Giê-su dường như cũng nếm trải nỗi đau của
chơi xấu, của bỏ rơi nơi các môn đệ. Giu-đa môn đệ được tin tưởng giao
cho làm thủ quỹ thì biển thủ, thì tham lam, cho tới khi có cơ hội lại
bán Thầy với giả rẻ mạt chỉ 30 đồng thôi. Các môn đệ khác thì bỏ mặc
Thầy trong nguy khó. Một mình Thầy cô đơn. Một mình Thầy trải qua cuộc
thương khó. Có chăng Gioan và Phê-rô theo Thầy, nhưng chỉ lén lút đi
trong đêm tối, và rồi khi đối diện với khó khăn, Phê-rô đã chối Thầy đến
3 lần.
Đúng như người ta nói: “Lúc khó khăn mới biết ai là
bạn, khi hoạn nạn mới hiểu bạn là ai!”. Con người ta chỉ một lần sa cơ,
mới biết ai thật lòng, ai quan tâm đến mình nhất. Điều mà thời gian lưu
lại không phải là tài phú, không phải là vẻ đẹp, mà là sự chân thật dành
cho nhau. Hoa nở rồi sẽ tàn, thời gian trôi đi sẽ không quay trở lại.
Lâu ngày không hẳn sẽ sinh tình, nhưng nhất định sẽ thấy được lòng người
chân thành hay chỉ là đãi bôi.
Quang cảnh lễ lá hôm nay cũng tương phản với hình
ảnh thứ sáu tuần thánh nơi dân thành Giê-ru-sa-lem. Hôm nay họ trải lá
lót đường đón Chúa. Ngày mai họ ném đá đòi đóng đinh Chúa. Hôm nay họ
tung hô Chúa là vua, ngày mai họ đóng đinh Ngài vào thập giá. Xem ra
Chúa vẫn cô đơn trong tiếng reo hò của hàng ngàn người dân thành
Giê-ru-sa-lem. Ngày lễ lá họ reo mừng vì thấy Chúa là mối lợi cho dân
tộc. Ngày thứ sáu họ kết án vì muốn lợi dụng Ngài “chết thay cho cả dân
được nhờ”. Chúa vẫn cô đơn trong chính dân tộc của mình và ngay cả nơi
nhóm nhỏ môn đệ thân tín của Ngài.
Hình như hôm nay Chúa vẫn cô đơn trong nhà thờ, vì
người ta đến với Chúa chỉ vì thói quen, vì muốn tìm cái phao cứu mình
khỏi khó khăn?
Hình như hôm nay Chúa vẫn cô đơn trong dòng đời, vì
đâu mấy ai dám hy sinh cho Ngài khi phục vụ giúp đỡ người ốm đau, nghèo
khó hay tật nguyền?
Hình như hôm nay Chúa vẫn cô đơn trong các mái gia
đình, vì còn mấy gia đình vẫn sáng lễ chiều kinh, nhưng họ chỉ dành thời
gian cho công việc và nghỉ ngơi?
Con người hôm nay tính toán với Chúa nên họ cũng
tính toán với nhau. Có bao nhiêu người sống với nhau lấy tình nghĩa làm
đầu? Liệu rằng ở giữa hàng ngàn, hàng vạn người kia có mấy ai là tri kỷ,
mấy ai là người thật lòng đáng cho ta tin tưởng? Có tiền là có tất cả
nhưng có mấy ai đem tiền để mua lấy tình thân? Tình người dường như
không được mua và càng không thể cho không!
Xin Chúa giúp chúng ta biết đi vào tuần thương
khó trong sự hy sinh hãm mình để đồng cảm với Chúa Giê-su. Xin cho chúng
ta cũng đừng bao giờ lấy lợi nhuận để mà cân đo đong đếm tình yêu. Vì
tình yêu luôn phải cho không, biếu không mới là tình yêu đích thực. Ước
gì chúng ta luôn là người môn đệ trung tín với Chúa dầu phải bước đi
trong khổ giá vẫn trung kiên. Amen.
45. Thế thái nhân tình là thế
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Nhân tình thế thái hoặc thế thái nhân tình là những
tình người và thói đời được thể hiện qua thơ ca văn học. Nó phản ánh về
lối sống, về cách ứng xử của người đương thời qua câu thơ bài hát. Nhưng
đáng tiếc chuyện thế thái nhân tình được ghi lại dường như chỉ là những
thói đời thay trắng đổi đen, lừa dối, và lắm thị phi. Nó phản ánh về
những chuyện tiêu cực nhiều hơn là tích cực. Nguyễn Công Trữ ngày xưa
khi nhìn vào đời cũng ngán ngẩm than rằng:
Thế thái nhân tình gớm chết thay
Lạt nồng trông chiếc túi vơi đầy
Tình người dễ phôi pha. Cuộc sống thì bon chen,
tranh dành, đầy khổ ải cũng chì vì lắm bất công.
Hễ không điều lợi, khôn thành dại
Đã có đồng tiền dở cũng hay
Ở trong cuộc đời lắm thị phi ấy con người phải khôn
ngoan chưa đủ mà còn phải khôn ranh, ma mãnh:
Khôn khéo chẳng qua ba tấc lưỡi
Hẳn hoi không hết một bàn tay
Chung quy sự đời vẫn là bạc bẽo và mong manh của
tình người:
Suy ra cho kỹ chi hơn nữa
Bạc quá vôi mà mỏng quá mây.
Nhìn thế thái nhân tình mà ngán ngẩm, cuộc sống quá
khắc nghiệt, lòng người đổi trắng thay đen khiến nhiều khi chúng ta
chẳng dám tin vào một ai. Tình nghĩa hôm qua, hôm nay hóa hận thù, ganh
ghét nhau, hãm hại nhau cũng chỉ vì một chút danh, một chút bổng lộc
trần gian.
Cuộc đời Chúa Giêsu dường như cũng trải qua những
chuyện thế thái nhân tình lắm đổi thay ấy. Mới hôm qua họ no say bổng
lộc Chúa. Họ tung hô Chúa. Họ ca ngợi Chúa. Và hôm sau cũng chính những
con người ấy khi mất bổng lộc, khi không còn thấy Chúa là mối lợi nên đã
quay lưng. Họ dửng dưng trước bất công mà Chúa phải chịu. Họ còn toa rập
với phường gian ác để la hét đòi đóng đinh Ngài vào thập giá.
Đúng như có ai đó đã nói:
Chút lợi danh, tính toan mưu kế
Mà lãng quên chữ nghĩa, chữ nhân
Con người chỉ kết bạn bè với những ai có lợi cho họ
và dường như lại luôn xa lánh những ai không có lợi, và càng bỏ rơi
những ai đang lâm cảnh bi ai. Con người thường tính toán khi giao tiếp,
thường tìm bạn khi có lợi và rời xa nhau khi mối lợi không còn:
Vẫn chạy theo sa hoa, hào nhoáng
Người sang kết bạn, kẻ khó quay lưng
Tính chi li xem có lợi cho mình
Thì miệng mới cười, nói lời nhân ái
Dân thành Giê-ru-sa-lem tính thật chi li. Họ sum
vầy quanh Chúa khi Chúa làm phép lạ. Họ bỏ rơi Chúa khi Ngài chịu đóng
đinh. Họ tung hô Chúa khi muốn Chúa làm vua để tìm mối lợi. Họ kết án
Chúa để Chúa chịu chết thay cho cả dân tộc...
Con người hôm nay cũng tính với Chúa thật chi li.
Họ đến với Chúa tính từng giây. Họ sum vầy bên nhau quanh ly rượu thâu
đêm. Họ bám vào Chúa khi gặp gian nan. Họ rời xa Chúa để tìm kiếm công
danh tiền tài.
Con người hôm nay tính toán với Chúa nên họ cũng
tính toán với nhau. Có bao nhiêu người sống với nhau lấy tình nghĩa làm
đầu? Liệu rằng ở giữa hàng ngàn, hàng vạn người kia có mấy ai là tri kỷ,
mấy ai là người thật lòng đáng cho ta tin tưởng? có tiền là có tất cả
nhưng có mấy ai đem tiền để mua lấy nghĩa nhân? Tình người dường như
không được mua và càng không thể cho không.
Xin Chúa giúp chúng ta biết đi vào tuần thương
khó trong sự hy sinh hãm mình để đồng cảm với Chúa Giêsu. Xin cho chúng
ta cũng đừng bao giờ lấy tình yêu để mà cân đo đong đếm. Vì tình yêu
luôn phải cho không, biếu không mới là tình yêu đích thực. Ước gì chúng
ta luôn là người môn đệ trung tín với Chúa dầu phải bước đi trong khổ
giá vẫn trung kiên. Amen.
Có bao giờ bạn cảm thấy cô đơn khi lạc vào chốn
đông người, nhưng lại xa lạ, tìm một người quen để chào hỏi, để bắt tay
cũng chẳng thấy. Lúc đó có lẽ chúng ta sẽ cảm thấy trống vắng tận cõi
lòng. Đây cũng là ca từ của bài hát “Khi người lớn cô đơn”. Lời hát được
viết như sau:
Thành phố bé thế thôi
Mà tìm hoài chẳng được
Tìm hoài sao chẳng thấy nhau giữa chốn đông
người
Nỗi cô đơn càng dâng cao khi mà giữa phố xá đông
người mà chẳng có ai đó của riêng mình để yêu thương, để chăm sóc, quan
tâm...
Thành phố bé đến thế thôi
Mà tìm hoài không thấy
Chút ấm áp, chút yêu thương riêng mình.
Nỗi cô đơn thật quạnh hiu khi mà ngồi bên ai đó
nhưng cũng xa lạ, không tìm được sự thông cảm, sự chia sẻ giữa tình
người với nhau.
Rồi có những đêm mưa
Nằm nghe câu ca rất xưa
Từ radio phát lên, nghe thật buồn (buồn lắm)
Người lớn cô đơn, tự mình trong bao nghĩ suy
Ngồi bên ai sao thấy riêng tôi quạnh hiu!!!
Người ta nói cô đơn là cho đi mà không có người
nhan, là muốn nhận mà chẳng có ai cho. Tựa như hai bờ sông liền nhau mà
vẫn cách biệt. Thấy nhau mà vẫn ngăn sông cách trở nên chẳng qua lại
được với nhau. Cô đơn bị ngăn cách không phải bởi không gian mà ngăn
cách của coi lòng. Khi con tim xa nhau thì ngồi bên nhau vẫn như xa lạ.
Thế nên, càng gần nhau mà vẫn cách biệt thì nỗi cô
đơn càng cay nghiệt. Càng gần nhau mà không tìm được sự cảm thông thì
nỗi cô đơn càng cay đắng hơn. Có thể nói nỗi cô đơn khi bị chính người
mình yêu thờ ơ trước sự thống khổ của ta có khi còn đau đớn hơn tù đầy,
có khi u ám hơn sự chết, vì đây là nỗi cô đơn của dửng dưng, của sự bỏ
rơi nơi những người ta yêu.
Cô đơn có thể đưa tới sợ hãi và tuyệt vọng. Kinh
nghiệm đau thương này có thể xẩy ra cho con người trong mọi thời đại,
nhất là thế giới hôm nay, một thế giới văn minh có đầy đủ mọi phương
tiện để hưởng thụ, nhưng tình con người lại xa cách nhau. Họ ít quan tâm
đến nhau. Họ sợ liên đới với nhau. Họ chủ trương “Makeno” cho yên thân.
Con người của thời đại văn minh vẫn có thể chết cô đơn trên đống nhung
lụa của mình. Đây là lý do mà con số người tự tử ngày một tăng, tỷ lệ
nghịch với sự phát triển của văn minh nhân loại. Nhân loại càng văn minh
thì càng có lắm kẻ cô đơn.
Chúa Giêsu cũng từng nếm trải sự cô đơn giữa những
người mình thương. Ngài ở cùng các môn đệ nhưng không tìm được sự ủi an.
Một mình vẫn cô đơn trong đêm tối đầy sao! Ngài đã từng ngao ngán nói
rằng: “Các con không thức với Ta một giờ sao!”. Ngài cần các môn đệ chia
sẻ với Ngài trong đêm tối của sự dữ nhưng các ông vẫn tìm cho mình một
cõi đi về trong cơn say của ngủ mê. Nỗi cô đơn ấy đã dâng cao trong
nhiều giờ phút cuối đời Ngài khi bị treo lơ lửng giữa trời và đất, làm
trò cười cho những người xung quanh. Ngài lại còn cảm thấy như bị chính
Chúa Cha bỏ rơi. Ngài đã đi đến tận cùng sự cô đơn của con người.
Nhưng chính trong nỗi cô đơn cùng cực ấy mà Ngài đã
mạc khải cho chúng ta thấy một lối thoát giữa cô đơn là sự tín thác vào
Thiên Chúa. Ngài đã hoàn toàn phó thác nơi Cha: “Lạy Cha, con xin phó
thác nơi Cha”. Chính niềm tín thác ấy đã giúp Ngài vượt qua được nỗi cô
đơn để bình thản đón nhận cái chết cô đơn.
Cuộc đời thật hạnh phúc biết bao nếu cuộc sống mang
đến cho ta những người bạn. Những người bạn để có thể đi bên ta trong
những khó khăn, cầm tay ta trong những lúc thất bại, và có lẽ cuộc đời
sẽ không cô đơn khi mà cuộc sống thật bận rộn nhưng vẫn có người dành
cho ta 3 giây chỉ để nói “xin chào” thật thân thương, hay chỉ gửi một
tin nhắn 3 chữ “chúc bình an” là đủ ấm lòng những con tim đang lạnh giá!
Nhưng nếu cuộc đời có những lúc cô đơn thì đừng bao
giờ tuyệt vọng. Hãy theo gương Chúa Giêsu để tín thac mọi sự cho Thiên
Chúa. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta ngay cả khi người mẹ có
bỏ con thì Chúa vẫn ở bên ta. Ngài có đủ quyền năng để có thể rút ra
điều tốt từ điều xấu. Thiên Chúa chính là thành lũy vững chắc nhất cho
cuộc đời chúng ta.
Xin cho cuộc đời chúng ta đừng bao giờ tuyệt vọng,
nhưng luôn tin tưởng, phó thác cậy trông nơi Chúa trong những gian nguy
của cuộc đời. Amen.
(Suy niệm của Lm Mark Link, SJ)
Chủ đề: "Đời sống mặc khải Ngài là Đấng Thiên
Sai.
Tuy nhiên Ngài là Đấng Thiên Sai đem an bình
chứ không phải vị Thiên Sai mang chinh chiến"
Gilbert Frankau kể lại câu chuyện của một người
bạn ông từng là sĩ quan pháo binh trong Đệ nhất thế chiến. Thời đó không
có rađa để hướng dẫn pháo binh vào đúng mục tiêu. Vô số trái đạn chỉ lăn
lỏng chỏng trên các ngọn đồi và bụi cây tựa như người ta lấy đá ném vào
tấm bia. Thỉnh thoảng, một binh sĩ được lệnh dùng một nhiệt khí cầu bay
trên không để hướng dẫn các tay súng. Anh ta từ cao nói như hét xuống
"Qua bên trái một chút" hoặc "Qua phải một chút!". Anh bạn của Frankau
nói: "Hễ cứ leo lên khí cầu là tôi chet khiếp đi được. Tôi biết rõ mình
trở thành mục tiêu tuyệt hảo cho họng súng quân thù. Chẳng bao giờ tôi
chế ngự được nỗi sợ nhưng tôi cũng chẳng hề để cho nỗi lo sợ giữ tôi nán
lại ở mặt đất".
***
Câu chuyện trên đay sẽ gíup chúng ta hiểu rõ hơn
đoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc.
"Đức Giêsu phải can đảm kinh khủng khi tiến về
Giêrusalem vào dịp lễ Vượt qua đặc bịêt này. Ngài can đảm đến độ không
thể nào tin nổi. Phúc Âm thánh Gioan giai thích cho chúng ta biết như
sau: 'Sắp lễ vượt qua, và rất nhiều người đi Giêrusalem… Họ đang tìm đến
Đức Giêsu và… hỏi han nhau" bạn nghĩ sao? Chắc Ngài chẳng đến dự lễ
đâu!' Bọn tư tế và biệt phái đã ra lệnh: Bất cứ ai biết Đức Giêsu ở đâu
thì phải báo cáo ngay để họ bắt Ngài" (Ga 11, 55-57)
Điều đó khiến chúng ta hồi hộp lo ngại cho việc Đức
Giêsu tiến vào thành Giêrusalem. Ý nghĩa sâu xa đằng sau cách thức Đức
Giêsu tiến vào thành Giêrusalem và cách thức dân chúng chào đón con Ngài
là gì? Để trả lời cho câu hỏi ấy, chúng ta hãy xem lại cách thức Đức
Giêsu tiến vào thành. Phúc Âm thánh Gioan kể lại: "Đức Giêsu tìm thấy
một con lừa và cỡi lên nó, đúng như lời Kinh thánh dạy: Hỡi thành Sion,
đừng sợ, này đây vua ngươi đến, Ngài đang cỡi trên một chú lừa con" (Ga
12, 14-15)
Khi Đức Giêsu tiến vào thành, dân chúng vẫy các
nhành thiên tuế và reo lên: "Hosanna! vạn tuế Đấng nhân danh Chúa mà
đến! Hoan hô vua Irsael" (Ga 12: 13)
Thánh Gioan kết thúc bài mô tả bằng lời phê bình
khác thường như sau: "Lúc đó các môn đệ Đức Giêsu chưa hiểu điều ấy,
nhưng khi Đức Giêsu đã được đưa lên chốn quang vinh, họ mới nhớ lại lời
Thánh Kinh viết điều này về Ngài và chính họ đã thực hiện điều ấy cho
Ngài" (Ga 12: 16)
Vậy ý nghĩa xâu xa đằng sau cách thức Chúa Giêsu
vào thành và cách thức dân chúng vẫy các nhành thiên tuế và hô to lời
"Hosanna" để chào đón Ngài là gì?
Thật là khôi hài, chìa khoá để trả lời câu hỏi này
lại nằm nơi chú lừa Đức Giêsu cỡi. Đối với thế giới hiện nay, con lừa
chẳng phải là một ý niệm hấp dẫn gì! Chúng ta thường nghĩ lừa là một con
vật đần độn.
Gilbert Keith Chesterton đã làm một bài thơ phổ
biến ý niệm này. Trong bài thơ ấy, chú lừa quan sát vẻ xấu xí của mình
và tự nhủ:
"Chắc hẳn ta sinh ra khi mảnh trăng nhuốm máu,
khi cá lượn trên không,
lúc cây rừng cất bước,
và vả mọc trên gai… 'Ôi chiếc đầu kỳ quái, tiếng
kêu ghê tởm,
Đôi tai khác nào đôi cánh lạc loài, dáng đi qủi
quái nhất trong các loài động vật bốn chân…'
"Hỡi lũ điên rồ! ta cũng có "giờ" của ta chứ,
Một giờ thực hiện oanh và êm dịu,
khi bên tai ta vẳng vẳng tiếng hò reo
Và nhành thiên tuế chập chờn trước bước chân ta
đấy"
Và thế là chú lừa ta thốt lên:
"Qúi vị thời nay có lẽ cười nhat tớ
nhưng nên nhớ rằng tớ đã được chọn,
trong tất cả giống thú vật trần gian
để cõng trên mình Đấng Cứu Tinh thế giới".
Mặc dù chúng ta thường nhạo báng giống lừa nhưng
các nhân vật trong Kinh Thánh đã khen ngợi chúng. Lừa là một giống vật
hiền hoà, khác hẳn với loài ngựa là giống vật dành cho chiến tranh
thường chở chiến binh vào chiến địa.
Giacaria đã tiên báo Đấng Mêsia sẽ cỡi lừa tiến vào
Giêrusalem. Giờ đây Đức Giêsu đang thực hiện lời tiên báo ấy của
Giacaria. Làm thế Ngài đã thực hiện hai điều xác quyết: Thứ nhất: Ngài
xác nhận mình là Đấng Mesia của Israel. Thứ hai; Ngài mặc khải cho biết
sứ mệnh thiên sai của Ngài là gì.
Vào thời Chúa Giesu, việc mặc khải này không được
cho là hay ho gì cả bởi nhiều người hiểu rất mơ hồ về sứ mệnh của Đấng
Mêsia. Chẳng hạn, có nhiều người nghĩ rằng sứ mệnh của Đấng Mêsia phần
lớn hệ tại việc đoàn kết dân chúng lại dưới quyền lãnh đạo của Ngài để
đuổi lũ quân Rôma ra khỏi vùng Palestine, đẩy chúng ra ngoài biển. Đức
Giêsu cỡi trên mình con vật hiền lành tiến vào Giêrusalem, hành động này
đã đi ngược lại ý tưởng ấy. Nó mặc khải cho thấy Đấng Mêsia không phải
là ông vua chinh chiến, bắt đám quân đến để ngồi trên ngôi báu và bắt
đám dân bị chinh phục hầu hạ. Ngài đã đến quì gối xuống trên sàn nhà và
rửa chân cho các thần dân của mình.
Đức Giêsu đã không đến để đoàn kết dân chúng sau
lưng mình và đi giao tranh với các dân tộc khác. Ngài đến liên kết họ
lại với nhau sau lưng Ngài để chiến đấu chống lại nghèo khổ, đói khát,
thù hận và tất cả mọi hình thức bat công, Đức Giêsu không đến để kết án
kẻ khác, Ngài đến để tha thứ cho họ, Đức Giêsu không đến để phá đổ những
giấc mơ của quần chúng. Ngài đến để làm cho những giấc mơ đó thành hiện
thực bằng một phương cách lạ lung nhất, không thể tưởng tượng nổi. Đức
Giêsu không đến cưỡng bức quần chúng theo Ngài, Ngài đến để kêu mời họ.
Hôm nay chúng ta đón mừng một Đức Giêsu như thế
đấy. Chính Đức Giêsu đó muốn đi sâu vào tâm hồn chúng ta một cách đặc
biệt trong Tuần Thánh sắp tới. Chính Đức Giêsu như thế đang hiện diện
giữa chúng ta ngay lúc này đây, lúc chúng ta bắt đầu nghi thức phụng vụ
rước lá chung quanh giáo đường.
Vậy chúng ta hãy vui mừng và cùng hát với các tín
hữu khắp mọi nơi:
"Hosanna! Vạn tuế Đấng nhân danh mà Chúa mà đến!
Vạn tuế Đức Vua của Israel!".
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Biến cố chi phối toàn bộ đời sống Kitô hữu, là biến
cố Đức Giêsu chết và phục sinh. Qua biến cố này, Kitô hữu nhận biết Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa, và Đức Giêsu trở thành gương mẫu sống cho mọi
Kitô hữu.
I. Người Tôi Tớ Đau Khổ của Yavê
Bài ca thứ ba về người tôi tớ Yavê trong sách tiên
tri Isaya cho thấy hình ảnh người tôi tớ Yavê, luôn lắng nghe và vâng
phục Thiên Chúa; Ngài đã bị đánh, bị xỉ nhục; tuy nhiên, người tôi tớ
Yavê luôn tin tưởng và trông cậy Thiên Chúa. Hình ảnh người tôi tớ Yavê
được thấy nơi các tiên tri, chẳng hạn như tiên tri Yêrêmia, và hình ảnh
này được thấy thật rõ nét nơi Đức Giêsu.
Đức Giêsu không đi tìm cái chết. Ngài không muốn
chết, và Ngài sợ đau khổ như bất cứ ai khác: “Ngài bắt đầu cảm thấy hãi
hùng xao xuyến. Người nói với các tông đồ: tâm hồn thầy buồn đến chết
được. Anh em ở lại đây mà canh thức” (Mc.14, 33-34). Ngài cầu xin với
Thiên Chúa Cha: “Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa
con. Nhưng xin đừng làm theo điều con muốn, mà làm theo điều Cha muốn”
(Mc.14, 36).
Đức Giêsu đã chia sẻ thân phận con người cho đến
cùng. Ngài chia sẻ sự sợ hãi, chia sẻ nỗi buồn, cả nỗi buồn đến độ muốn
chết được. Đức Giêsu sợ hãi cái chết, vì con người khi đứng trước cái
chết luôn run sợ. Đức Giêsu đã vượt thắng nhờ cầu nguyện và lòng tin
tưởng phó thác. Con người chỉ có thể an bình trước cái chết với một niềm
tin và phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa. Không phó thác cho Thiên Chúa,
Đấng yêu thương mình, con người không thể an bình đón nhận cái chết. Khi
nói như vậy, không có nghĩa những người không là Kitô hữu không thể có
cái chết an bình, trong trường hợp này, Thiên Chúa chính là Đấng Tuyệt
Đối mà họ tin, hoặc ít là, Đấng là chủ lương tâm họ.
II. Đức Giêsu vâng phục cho đến chết
Đức Giêsu không chỉ là người. Ngài là Thiên Chúa
nhập thể. Khi Ngài còn đang sống, không ai dám tin và nhờ đó mà biết
thân phận của Ngài, tuy dù đã có những lần Ngài mặc khải: “Ta và Cha Ta
là một” (Ga.10, 30), “không ai biết Cha trừ Con và những người Con muốn
mặc khải cho” (Mt.11, 27), “ông này phạm thượng. Ai có quyền tha tội
ngoại trừ một Thiên Chúa” (Mc.2, 7), “trước khi có Abraham, đã có Ta”
(Ga.8, 58), “rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng quyền năng
và đến trên mây trời” (Mc.14, 62).
Không những không ai dám tin, kể cả các tông đồ, vì
làm sao các ngài có ý niệm “Thiên Chúa nhập thể” hay “Thiên Chúa làm
người.” Tất cả những điều này hoàn toàn xa lạ với con người. Chỉ sau khi
Ngài phục sinh từ cõi chết, các tông đồ mới dần dần hiểu trọn vẹn về
Ngài: “Khi nào Thần Chân Lý đến, Ngài sẽ dẫn các con vào tất cả sự thật”
(Ga.16, 13). Không có sự trợ giúp của Thiên Chúa, con người không thể
nhận biết về Ngài.
Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, là Đấng thuộc về
Thiên Chúa hoàn toàn đến độ Ngài và Cha là một (Ga.10, 30). Ngài có
quyền tha tội (Mc.2, 7), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha (Mc.14, 62).
Và sau đó tác giả tin mừng theo Yoan viết: “Từ nguyên thủy đã có Lời,
Lời vẫn ở nơi Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa… Lời đã thành xác phàm”
(Ga.1, 1.14). Thánh Phaolô viết: “Đức Giêsu, tuy là thân phận Thiên
Chúa, nhưng không đòi cho được ngang bằng Thiên Chúa” (Pl.2, 6). Ngài
thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn đến độ nói Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài
vẫn khác Cha. Ngài vẫn luôn quy hướng về Cha qua cầu nguyện (Mc.1, 35),
qua việc lấy Ý Thiên Chúa làm của ăn của uống cho Ngài (Ga.4, 34), đến
độ Ngài xịn cho Ý Cha được thể hiện nơi Ngài (Mc.14, 36; Mt.6, 9-10).
Ngài vừa là Thiên Chúa, vừa khác Thiên Chúa: Ngài là Lời Thiên Chúa, là
Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai. Nói một cách nôm na, không thể tách Ngài
khỏi Thiên Chúa. Ngài vừa khác với Thiên Chúa, vừa là một với Thiên
Chúa.
III. Vạn tuế Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà
đến
Phụng vụ hôm nay cho thấy Đức Giêsu vào thành
Yêrusalem và được dân chúng long trọng đón rước như một vị vua, vị vua
được Thiên Chúa xếp đặt và sai gởi tới. Người ta trải áo lót đường, chặt
nhành cây trải lối để vị vua thiên sai đi qua. Dân chúng hôm nay đón
tiếp Ngài vì coi Ngài là Đấng Thiên Sai, nhưng chỉ mấy ngày sau những
người dân này đã xin Philatô đóng đinh Đức Giêsu, vì cho rằng Ngài lộng
ngôn phạm thượng: “dám cho mình là Con Thiên Chúa” (Ga.19,5), dám cho
mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Người Do Thái không thể hiểu tại sao một người lại
có thể là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Thế nên khi phải xử tử Đức
Giêsu, họ hoàn toàn ý thức và cho rằng họ làm đúng hoàn toàn: “Máu hắn
cứ đổ trên đầu chúng tôi và trên con cháu chúng tôi” (Mt.27, 25). Sự
thật về Đức Giêsu vượt quá sức hiểu biết của con người. Chân tính của
Đức Giêsu không ai có thể ngờ được. Dân chúng Do Thái chỉ muốn giết một
tên phạm thượng, vì đối với họ, làm gì có chuyện Thiên Chúa nhập thể.
Chính vì vậy, họ không ngờ rằng họ giết Thiên Chúa.
Đức Giêsu cứ sống như Ngài là. Ngài làm điều phải
làm, nói điều phải nói. Số phận Ngài nằm trong tay của Thiên Chúa tình
yêu. Tuy dù lo lắng xao xuyến như bao người, nhưng cuối cùng Ngài vẫn
phó thác, tin tưởng trông cậy tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Đức Giêsu trở
thành gương và mẫu mực sống cho mọi Kitô hữu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao người công chính phải đau khổ và phải
chết?
2. Tại sao Đức Giêsu, người công chính, bị hành hạ
và phải chết ô nhục trên thập giá như vậy?
3. Xin bạn tìm ba chỗ trong Tin Mừng Máccô Đức
Giêsu loan báo Ngài sẽ bị bắt, bị giết, và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.
Theo bạn, tại sao Đức Giêsu lại thốt lên khi bị treo trên thập giá “Lạy
Cha, sao Cha nỡ bỏ con” khi đã có lúc Ngài biết rõ ngày thứ ba Ngài sẽ
sống lại?
Những người có đức tin mạnh mẽ thích cầu nguyện và
mong được tham dự Thánh Lễ và các bí tích vào những ngày cuối đời. Những
ngày cuối đời của Đức Kitô nơi trần thế Ngài cũng thích đến thánh đường.
Ngài và các tông đồ tiến về đền thờ trong dịp lễ trọng, lễ ‘Bánh Không
men và Vượt Qua’. Hai lễ này xảy ra cùng dịp- ‘Không Men’ vì dân
Israelites dời bỏ đất Ai Cập, đến vùng đất chảy sữa và mật ong Chúa hứa
ban. Họ ra đi trong hấpt ấp, vội vã. Vội vàng đến độ không đủ thời gian
chờ cho bánh lên men trước khi nướng. Vượt Qua còn mang một í nghĩa
trọng đại nữa vì Chúa dùng quyền năng rẽ sóng biển giúp họ vượt qua biển
an toàn. Vượt Qua còn mang í nghĩa siêu nhiênlà vượt qua thời gian nô lệ
tiến đến thời gian làm con cái Chúa, vượt qua bóng tối của sự chết tâm
linh, thiếu tự do tôn giáo, quyền làm người để tiến đến cuộc sống mới tự
do, tương lai huy hoàng.
Những ngày cuối đời của Đức Kitô nơi trần thế Ngài
và các môn đệ biết rõ nhà nước đang tìm cách giết Ngài. Các môn đệ Đức
Kitô biết rõ điều này và các ông đã phản đối việc Đức Kitô về đền thánh
khi các ông nói: Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết
với Thầy. (Ga 10,16)
Đức Kitô còn nói rõ hơn khi người phụ nữ đến xức
dầu chân Ngài bằng chai dầu thơm đắt giá. Một số người ngồi cùng bàn cho
rằng phụ nữ đó kia phí phạm chai dầu đắt giá tốt hơn nên dùng tiền đó bố
thí cho người nghèo khó. Đức Kitô biết họ nghĩ thế Ngài lên tiếng bênh
vực cô ta và nói rõ lí do: “Cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để
chuẩn bị ngày mai táng tôi” (Mc 14,8)
Đức Kitô trong những ngày cuối đời Ngài xem ra có
vẻ bận rộn hơn ngày thường vì còn một số việc Ngài cần làm xong trước
khi bị bắt. Đó là việc chuẩn bị bữa tiệc cuối cùng được biết đến là ‘Bữa
Tiệc Li’. Ngài đã âm thầm chuẩn bị đầy đủ mọi thứ cần thiết cho ngày lễ,
từ nơi chốn đến thực phẩm, phòng ốc và ngay cả phương tiện di chuyển.
Các môn đệ dù sống cạnh bên vẫn không hề hay biết chi cho việc Ngài âm
thầm chuẩn bị. Họ chỉ biết làm điều Đức Kitô sai bảo và mọi sự đã xảy ra
đúng như những gì Ngài chuẩn bị.
Người ta thường chuẩn bị cho ngày chết. Đức Kitô
không chuẩn bị cho ngày chết nhưng chuẩn bị cho ngày sống lại. Bữa Tiệc
Li là bữa tiệc chuẩn bị cho sự sống lại vinh quang. Tiệc Li có thể hiểu
là li trần, dời khỏi trần thế. Dời khỏi trần thế không có nghĩa là chết
mà là vượt qua trần thế đến cuộc sống thanh bình muôn thuở. Nếu Tiệc Li
không là tiệc sống lại thì không thể giải thích cho việc lập Bí Tích
Thánh Thể. Đức Kitô từ lời nói đến việc làm luôn mang í nghĩa trọng đại,
vượt trí tưởng. Trong bữa Tiệc Li Đức Kitô cầm bánh và rượu dâng lời
chúc tụng Chúa Cha rồi nói cùng các môn đệ;
Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Ta
(Lc 22,19)
Nếu không có sự sống lại thì việc lập bí tính Thánh
Thể không có mục đích. Đức Kitô biết rõ Ngài sẽ chết cách đau khổ và
Ngài sẽ sống lại vinh quang. Cử hành bí tích Thánh Thể là tuyên xưng
việc Chúa sống lại và đoàn liên kết cùng Đức Kitô trong việc bẻ bánh.
Kitô hữu không chuẩn bị chết lành như thường nghe
nói nhưng chuẩn bị để gặp Đức Kitô, đoàn tụ cùng Đức Kitô. Theo í nghĩa
đó Kitô hữu chuẩn bị cho sự sống lại, cho cuộc sống trường sinh bên cạnh
Đức Kitô. Kitô hữu chuẩn bị chết bình an trong Chúa. Lễ an táng là an
táng thân xác còn tâm linh thuộc về Chúa nên các bài đọc và lời cầu
trong lễ an táng luôn hướng về sự sống lại, sống trường sinh.
Nhìn vào lá cành người ta có thể học biết được
nhiều điều. Dù không chuyên về thực vật học, nhìn vào lá cây, người ta
cũng có thể biết được nhiều điều. Lá cây cho biết về thời tiết trong
thời gian qua. Lá xanh, tươi tốt; mưa nhiều; lá khô, cằn cỗi, nắng hạn;
lá rách tả tơi, cành cây sơ xác, bão tố vừa qua. Nhìn vào lá người ta
còn có thể nói về tình trạng của cây. Lá xanh mát, tươi đẹp cây được
chăm sóc cẩn thận, cắt tỉa đàng hoàng; lá cằn cỗi, già chát, cây thiếu
nước, thiếu chăm sóc, lâu ngày không xén tỉa. Lá rỗ chằng, rỗ chịt cho
biết cây bị sâu rầy phá hoại mà không ai chăm lo xịt thuốc sâu. Lá không
những cần cho cây sinh sống, làm mát mắt, tạo sinh khí sống động cho
khung cảnh mà còn sinh ích cho chim muông, sâu bọ và ngay cả cho con
người dùng lá lợp nhà, che vách. Sau khi dùng xong lá bị vất rơi bên vệ
đường.
Không phải ngẫu nhiên các trẻ em Do Thái bẻ cành lá
đón Đức Kitô vào thành thánh Giêrusalem. Việc các em đón rước Đức Kitô
cho biết 'giờ của Ngài sắp đến'. Vinh quang của Ngài sắp được tỏ hiện.
Đây cũng là điềm báo trước 'giờ' các nhà lãnh đạo Đền Thờ âm thầm hội
họp quyết định thi hành dã tâm mượn tay nhà cầm quyền lợi dụng chức vụ
có trong tay đưa ra bản án bất công, ra tay tiêu diệt người vô tội vì
chỉ muốn làm vừa lòng các nhà lãnh đạo đền thờ. Họ sẵn sàng để tay dính
máu hòng làm vừa lòng người khác.
Thánh Marcô nhắc đến nhiều địa danh Đức Kitô đi qua
như Galilê, Bêthania hoặc núi cây dầu cho biết dân chúng tung hô, chúc
tụng Ngài là Đấng Cứu Thế. Những nông dân, công nhân, dù không có học
thức nhưng khi nói đến đức tin họ sáng suốt nhận định; trong khi những
nhà lãnh đạo Đền thờ, lãnh đạo đất nước tự nhận mình là người có học
thức, có bằng cấp lại trở thành người không nhận biết Đức Kitô là Con
Thiên Chúa và họ lại chống đối bằng cách ra tay giết chết, để tỏ ra nhóm
họ có quyền sinh sát trong tay. Họ dùng luật hiện hành để thi hành bản
án bất công nhưng pháp luật không thể làm gì được họ vì họ là kẻ cầm cán
cân công lí, họ muốn cho cán cân nghiêng về bên nào thì bên đó thắng.
Dân chúng đi trên đường may mắn cùng lúc Đức Kitô và các môn đệ Ngài
tiến vào thành thành Giêrusalem và họ bẻ cành lá bên đường tung hô chúc
tụng Đức Kitô- Hoan hô con Vua Đavít- Câu này chính là câu mà người mù
từ lúc mới sinh ngồi bên vệ đường nghe tin Đức Kitô đi qua, anh lớn
tiếng hô Hoan hô Con Vua Đavít, xin cứu đến con- Đức Kitô đã chữa sáng
mắt anh. Người bên đường mắt sáng nhận ra Đức Kitô Luc 18,38; Anh đâu
biết Đức Kitô đến cứu phần xác anh và cứu phần hồn nhân loại. Kẻ lãnh
đạo hội đường tự nhận mắt sáng, họ nhìn thấy tiền buôn bán trong đền thờ
nhưng tại tối mắt không nhìn thấy Đức Kitô. Họ mù quáng đến độ không
nhìn ra Người mở mắt cho người mù đến nỗi chính người mù cũng thắc mắc
làm sao Đấng mở mắt cho anh quyền phép thế mà các nhà lãnh đạo đền thờ
lại không nhận ra Ngài. Thành thánh Giêrusalem là chặng đường cuối cùng
của cuộc đời công khai rao giảng của Đức Kitô. Lúc 12 tuổi Ngài bắt đầu
trả lời thắc mắc của các kinh sư và lãnh đạo đền thờ và họ đã kinh ngạc
về giáo lí của Ngài. Hai mươi mốt năm sau cũng tại nơi đây họ kết án
Ngài. Đối với các tông đồ Giêrusalem là nơi các Ngài khởi đầu hành trình
rao giảng về Đức Kitô Phục Sinh, khởi đầu cuộc đời truyền giáo cho muôn
dân. Các tông đồ trên đường Emaus cũng nhận ra Đức Kitô Phục Sinh khi
Ngài bẻ bánh trên đường họ đi về quê. Điều này cho biết Đức Kitô là
đường và ai đi cùng đường sẽ nhận biết Thiên Chúa và cuối đường sẽ được
vào chung hưởng vinh quang Phục Sinh với Ngài.
Chúa Nhật lễ Lá cho biết vương quyển của Đức Kitô.
Đối với xã hội trần thế kẻ thuộc quyền tổ chức dân chúng đón chào vua
chiến thắng vinh quang trở về. Đối với Đức Kitô dân chúng trên đường gặp
Ngài họ vui mừng đón tiếp, dân lời ca chúc mừng, ngọi khen. Họ đâu biết
rằng việc họ làm tác động bởi Thánh Thần Chúa đón tiếp vị vua cao cả sắp
sửa chiến thắng tội lỗi, dẹp tan sự chết, đè bẹp chúng, bắt chúng nhốt
vào ngục tối còn Đức Kitô bước ra khỏi ngục tối, khỏi mồ, sống lại vinh
quang. Vương quyền của Đức Kitô là phục vụ, là hy sinh, là hiến thân cho
người mình yêu để làm hoà với họ và đón nhận họ vào trong nước Chúa.
Kitô hữu, môn đệ Đức Kitô, khi làm việc tông đồ cũng cần đi qua con
đường đó, con đuờng dấn thân phục vụ có giá phải trả. Đức Kitô trả giá
đó bằng chính mạng sống mình bằng vác thập giá, đổ máu mình ra; môn đệ
Đức Kitô không phải đổ máu mình ra nhưng đổ mồi hôi và nước mắt làm
chứng cho sự thật, đau khổ vì làm chứng cho công lí và bị thiệt hại và
sống công bằng, nhân ái. Cái giá đó nhiều khi rất cao nhưng đâu sánh
bằng được hưởng vinh quang Phục Sinh của Đức Kitô. Vinh quang đó không
mất mát trần gian nào có thể sánh bằng vinh quang Phục Sinh, sống muôn
đời trong nhà Chúa Cha.
Con người quả có nhiều cách khác nhau để diễn tả
niềm vui. Cách thông dụng nhất là lời nói. Dùng ngôn từ nói lên lời chúc
tụng, tung hô. Để niềm vui được vui hơn, người ta mượn tràng pháo tay
kèm theo lời cổ võ. Theo sau tràng pháo tay là những tiếng cười hoan
lạc. Đôi khi còn kèm theo bài ca vui, nhảy múa diễn tả hết tâm tình, bộc
trực niềm hạnh phúc. Thời giờ dư giả, tài chánh thảnh thơi hơn người ta
còn tổ chức bữa tiệc mừng, cụng li, chung chén, kéo dài niềm vui. Khi có
tiệc mừng là có xuất hiện y phục thời trang mới. Cách ăn mặc lịch sự của
thực khách, cử chỉ trang trọng mọi người dành cho nhau. Bên cạnh đó còn
có trang hoàng màu sắc, sặc sỡ, từ ngoài ngõ đến nhà cửa, kể cả mọi
người xa, gần, đều là những dấu chỉ rõ ràng nhất của tâm tình chia sẻ
niềm vui. Đây là những cách diễn tả niềm vui.
Hôm nay Phúc âm ghi lại một hình thức diễn tả niềm
vui nội tâm hoàn toàn khác lạ so với cách thông thường. Trên đường vào
thành thánh Giêrusalem, đám đông dân chúng bất ngờ gặp Đức Kitô họ vui
mừng quá đỗi. Vì không chuẩn bị hay nói rõ hơn không ai biết để chuẩn bị
nên người ta sáng chế ra cách bày tỏ niềm vui dạt dào trong tâm hồn. Một
người lên tiếng Hoan Hô Con Vua Đavít. Hoan hô Đấng đến Nhân Danh Chúa.
Một tiếng cất lên, hai ba tiếng hoà nhịp vang vọng và rồi cả con đường,
mọi nghõ ngách đều chung ca bài hoan hô Con Vua Đavít. Nhà chức trách
thấy thế lên tiếng can ngăn. Họ cũng không thể ngờ được phản ứng mãnh
liệt của đám đông. Họ không thể dự đoán Đức Kitô xuất hiện đột ngột như
thế. Họ lên tiếng ngăn cản, cấm đoán. Cấm sao được sức mạnh của đại
chúng, ngăn sao được tiếng hát vui mừng. Áp chế sao nổi bước chân nhảy
nhót diễn tả niềm vui. Một cành lá làm cờ, hai cành lá làm cờ, ba cành
lá làm cờ và cứ thế cành lá, cành lá biến thành rừng cây di động. Rừng
cây đủ sắc thái của mọi cành lá bên đường tung bay, múa may theo nhịp
phất của đôi tay. Đâu đó có người không tiếc tấm áo mới, cởi áo lót
đường đón Con Vua Đavít. Mình trần, tay cầm cành lá đón chào, đám đông
ca tụng Ngài là vua. Vị quân vương của đại chúng, quân vương không tiến
vào thành bằng vó ngựa và cung tên nhưng cỡi lừa con, chân bước trên
thảm vải áo và đi giữa rừng cành lá vẫy chào. Cảnh chào đón thật đơn sơ,
giản dị nhưng chan chứa tình người, lòng ái mộ, cảm mến hết sức chân
tình. Sáng kiến bẻ cành lá vẫy chào để lại cho chúng ta một ngày lễ kính
với tên đơn sơ, mộc mạc đến quê mùa, nhưng lại diễn tả tâm tình rất chân
thật của đám đông xưa may mắn trên đường đi gặp được Đức Kitô Con Vua
Đavít. Ngày lễ kính đó chính là ngày lễ lá. Ai không biết được lịch sự
của sự việc nghe sẽ chẳng hiểu tại sao lại gọi là lễ lá.
Đám đông đâu biết rằng họ là những người đầu tiên
chào đón vinh quang, vinh danh Con Chúa Cứu Thế. Vinh Danh đó không lộ
ra ngay trong ngày Ngài tiến vào thành thánh Giêrusalem. Vinh Danh đó hé
mở rồi ẩn mất mãi cho đến ngày Ngài vinh quang sống lại từ cõi chết. Đây
mới là chiến thắng thật, vinh quang thật và là niềm vui thật cho những
tâm hồn thiện tâm.
(Fx. Phạm Đình Phước – viết dựa theo Bênêđictô XVI,
Gesù di Nazaret. Dall'ingresso in Gerusalem fino alla risurrezione, LEV,
Città del Vaticano 2011, pp.11-21)
Tin Mừng thuật lại cho chúng ta rằng vào ngày lễ
Vượt Qua, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Xét về phương diện địa lý, có thể
nói rằng chuyến đi này là một hành trình đi lên theo nghĩa đen. Quả vậy,
biển Galilê thấp hơn mặt nước biển 200 mét, Giêrusalem cao hơn mực nước
biển 460 mét nữa, như thế hành trình của Chúa Giêsu có độ cao gần 760
mét.
Đối với Chúa Giêsu, mục đích tối hậu của hành trình
lên Giêrusalem là "thánh giá", nghĩa là trao ban chính bản thân mình cho
nhân loại, "yêu mến cho đến tận cùng" (Ga 13,1). Nhưng mục đích gần nhất
của hành trình này là tiến lên Đền Thánh Giêrusalem, và dự lễ Vượt Qua
của người Do Thái (Ga 2,13). Chúa Giêsu khởi hành cùng với nhóm Mười
Hai, nhưng dần dần trở thành một đoàn người hành hương đông đảo. Mátthêu
và Máccô thuật lại cho chúng ta rằng có "đoàn lũ đông đảo" theo Chúa
Giêsu từ thành Giêricô.
Bên vệ đường của cuộc hành trình có một người mù ăn
xin tên là Bartimêô. Anh biết Chúa Giêsu trong đoàn hành hương, nên anh
xin Chúa thương xót và chữa lành anh: "Lạy Thầy, xin cho con được thấy",
và Chúa Giêsu đã chữa lành anh. Khi được chữa lành, Bartimêô gia nhập
đoàn hành hương tiến lên Giêrusalem (Mc 10, 48-52).
Từ làng Betphagiê và Bêtania khi đến núi Cây Dầu
nơi mọi người đang đón chờ Đấng Messia, Chúa Giêsu sai hai môn đệ và bảo
hai ông:"Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ thấy ngay một con lừa
mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh cởi dây ra và dắt
về cho Thầy. Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả lời là Chúa cần đến
chúng, Người sẽ gởi lại ngay" (Mt 21, 2-3). Thánh Máccô thêm một chi
tiết thú vị là “con lừa chưa ai từng cỡi” (Mc 11,2). Các môn đệ ra đi và
làm theo lời Đức Giêsu đã truyền. Sự việc này xảy ra để ứng nghiệm lời
tiên tri Da-ca-ri-a: “Hãy bảo thiếu nữ Xi-on: Kìa Đức Vua của ngươi đang
đến với ngươi, Ngài hiền hậu ngồi trên lưng lừa” (Dcr 12, 15). Việc Chúa
Giêsu tiến vào thành “trên lưng lừa” cho thấy Chúa Giêsu diễn tả vương
quyền của Ngài ở trong sự nghèo khó, trong khiêm tốn và trong bình an
của Thiên Chúa.
Việc “mặc áo choàng” mang ý nghĩa vương đế trong
truyền thống Israel (x. 2 V 9, 13). Các môn đệ đã biểu lộ hành động tôn
vinh Chúa Giêsu “lên ngôi”. Đông đảo khách hành hương thấy nhiệt tâm của
các môn đệ cũng trải áo choàng xuống trải xuống mặt đường, chặt nhành
chặt lá mà rải trên lối đi. Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo
hò vang dậy và tung hô: “Osanna, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”
(Mc 11, 9; Tv 118, 25).
“Osanna” có nghĩa là “xin cứu giúp chúng
con”. Vào ngày thứ bảy của dịp Lễ Lều, vị tư tế đi xung quanh xông
hương bàn thờ 7 lần và lặng lẽ lập lại lời đó để cầu xin mưa thuận gió
hòa. Vào các dịp lễ, dân chúng hành hương lên đền thờ Giê-ru-sa-lem, tay
vừa phất các cành lá linh thánh vừa hát các câu tung hô. Khi các dịp lễ
như thế biến thành những lễ hội của niềm vui, thì lời cầu xin cũng trở
thành lời reo vui phấn khích. Trong bối cảnh ngày lễ, khách hành hương
diễn tả niềm vui, niềm hy vọng là Đấng Messia sẽ thiết lập vương quyền
trên Israel.
“Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” là
lời đón chào khách hành hương ngay cửa thành Thánh hay ngay cửa Đền Thờ.
Nhưng câu này còn mang một ý nghĩa khác nữa như trong thánh vịnh 118 "Từ
nhà Chúa, chúng tôi chúc lành cho anh em", là lời cầu chúc của các
thượng tế dành cho khách hành hương lên đền thánh Giê-ru-sa-lem. Ở đây,
lời chúc lành cho khách hành hương trở thành lời ngợi khen Chúa Giêsu,
Đấng nhân danh Chúa mà đến: Chúa Giêsu được chào đón như Đấng dân đang
mong chờ và Đấng được loan báo qua mọi lời hứa. Tin Mừng Gioan và Tin
Mừng Nhất Lãm thuật lại việc Chúa Giêsu được tôn vinh ngay của vào thành
Giêrusalem; thánh Mát-thêu còn ghi lại rằng "khi Đức Giêsu vào
Giêrusalem, cả thành náo động xôn xao". Các thánh sử cũng cho thấy rằng
những kẻ tôn vinh Chúa không phải là những người dân trong thành, mà là
những người hành hương, những người cùng đồng hành với Chúa Giêsu; họ
cùng với Chúa bước vào thánh thánh Giêrusalem.
Khi vào đền thánh, ngay sau việc thanh tẩy đền thờ,
thánh sử Mátthêu tường thuật thêm hai chi tiết khác. Trước hết, Chúa
Giêsu nói về đền thờ là ngôi nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc và “có những
kẻ mù loà và què quặt đến với Ngài trong đền thờ. Ngài đã chữa họ lành”.
Chúa Giêsu tỏ hiện như một Đấng yêu thương và quyền năng của Ngài là
quyền năng tình yêu. Như thế, Ngài dạy các kitô hữu về sự thờ phượng
Thiên Chúa đích thực: chữa lành, phục vụ và thiện tâm săn sóc. Hơn nữa,
Mat-thêu còn nói rằng các trẻ em reo hò trong đền thờ cùng với những lời
tung hô của những người hành hương trong đền thờ: “Hoan hô Con Vua
Đavít” (Mt 21, 15). Để vào Nước Thiên Chúa thì một trong những điều cốt
yếu là phải trở nên như trẻ nhỏ. Chính Chúa Giêsu, Đấng ôm lấy trọn vẹn
thế giới, đã làm cho mình trở nên bé nhỏ để đến giúp đỡ con người, đưa
họ về với Thiên Chúa. Để nhận biết Thiên Chúa, thì cần thiết phải từ bỏ
sự kiêu hãnh và để gặp Thiên Chúa thì cần phải nhìn bằng con tim, phải
học để nhìn với một tâm hồn trẻ thơ và với một tâm hồn tươi trẻ.
Thánh thi Benedictus được đưa vào phụng vụ như muốn
nói rằng đối với Giáo Hội, ngày Chúa Nhật Lễ Lá không thuộc về quá khứ.
Như ngày xưa Chúa Giêsu cỡi lừa bước vào thánh thánh, Giáo Hội đón nhận
Chúa Giêsu đang đến với chúng ta cách khiêm tốn trong bánh rượu. Giáo
Hội chào đón Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể đang đến và ngự giữa
cộng đoàn.
Mỗi Kitô hữu hãy đón chào Chúa Giêsu ngự trong
Thánh Thể như Đấng ngự đến trong lòng giáo hội, và đón chào Đấng hiện
diện luôn mãi và Đấng sẽ ngự đến trong vinh quang. Như khách hành hương
vào đến thánh Giê-ru-sa-lem, mỗi một kitô hữu được mời gọi gặp Chúa
trong Thánh Thể.
Với lễ Lá, các Kitô hữu đang bước vào tuần thánh,
với cao điểm của phụng vụ Kitô giáo là Tam Nhật Thánh. Phụng vụ trong
những ngày này thuật lại sự thương khó, khổ nạn và phục sinh của Chúa
Giêsu Kitô, mang lại ơn cứu độ cho nhân loại, kể cả những người, cho dẫu
không biết Thiên Chúa, sống với lòng ngay thẳng và chân thật.
Con người được dựng nên để sống và sống để yêu mến:
yêu mến Chúa và để yêu thương nhau. Thiên Chúa là tình yêu, đã sáng tạo
muôn loài, đã tạo dựng và cứu chuộc con người. Nhập Thể và Cứu Chuộc là
mầu nhiệm của tình yêu. Chúa Giêsu đã chấp nhận thánh ý Chúa Cha để đem
lại yêu thương cho con người. Thiên Chúa cho con người được thông phần
cuộc sống của Đấng “là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”, để cho họ
“được sống dồi dào” và sống viên mãn trong tình yêu.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa nhật Lễ Lá năm B hôm nay, Phụng vụ Giáo hội
cho chúng ta đọc và nghe bài Thương Khó theo thánh Marcô. Tác giả Tin
Mừng đã làm nổi bật lời của viên sĩ quan Rôma, người ngoại quốc, sau
khi tham dự vào số những người hành quyết Chúa Giêsu, chứng kiến tận mắt
cảnh Chúa bị đánh đòn, bị ngược đãi, bị treo trên thập tự giá và trút
hơn thở, ông đã phải thốt lên cách ngạc nhiên: “Thật, người này là Con
Thiên Chúa” (Mc 15,39).
Câu “Thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39)
không phải dễ để viên sĩ quan tuyên xưng như thế. Anh đã thấy gì nơi
khuôn mặt hầu như không còn hình dạng người ta nữa, để đưa ra một tuyên
bố như vậy. Bằng mọi cách, anh phải khám phá ra Chúa Giêsu là người vô
tội, bị bỏ rơi, và thậm chí bị phản bội; hay có thể là một con người bị
đối xử không công bằng trong một xã hội bất công; Người không hề mở
miệng, chịu đau khổ mà chẳng than van, chấp nhận mọi sự xảy đến cho
mình, thật không hiểu nổi. Có lẽ, viên sĩ quan này cảm thấy mình là một
kẻ đồng lõa với sự bất công khi thấy người vô tội mà anh không giơ ít là
một ngón tay lên để ngăn chặn nó, anh nghĩ mình giống như bao người đã
rửa tay trước những khó khăn của người khác.
Hình ảnh của viên sĩ quan người Rôma là hình ảnh
của người có cái nhìn với lòng thương xót. Cùng lúc đó, niềm tin của một
người ngoại đạo được tuyên xưng. Chúa Giêsu là Đấng vô tội, đã bị đánh
đòn, bị bỏ rơi và bị giết chết, đồng thời, anh tin vào ý nghĩa sâu xa
của sứ mạng, với “cái còn lại của tình yêu” và tin vào ý nghĩa sứ mệnh
cao cả của Chúa, mà những vết thương còn hằn trên thân xác là bằng
chứng.
Nhưng trước khi những điều điều trên xảy đến, Chúa
Giêsu đã tiến vào Giêrusalem và được dân chúng tung hô là Đấng nhân danh
Chúa mà đến (x.Mc 11,9). Hôm nay, chúng ta cũng hô cũng hát, nhưng tiếng
hô hát của chúng ta không phải là ảo tưởng và vô thức, giống như của dân
thành Giêrusalem xưa. Lời tung hô của chúng ta hướng về Đấng đã trải qua
thử thách đến nỗi hiến thân hoàn toàn và đã chiến thắng.
Sau cùng, nếu khi xưa dân chúng cầm cành lá dừa vừa
đi vừa hát, họ còn trải áo lót đường Chúa đi. Thì hôm nay chúng ta sẽ
không trải áo hoặc càm cành lá vô tri, những cành cây chỉ làm vui mắt
trong chốc lát. Bước vào Tuần Thánh, chúng ta giục lòng tin thật, Chúa
Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và là người thật, là Đấng
đã chịu đau khổ, chịu chết và đã sống lại để cứu chuộc chúng ta. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Với Chúa nhật Lễ Lá, khai mạc Tuần Thánh, trung tâm
của toàn thể Năm Phụng Vụ, trong Tuần này chúng ta dõi theo hành trình
thương khó của Chúa Giêsu, chết và sống lại.
Niềm vui
Hoan hô, chúc tụng vua Israel, Ðấng nhân danh Chúa
mà đến! (x. Ga 12, 12-16)
Nghe đọc những lời trên lúc mở đầu nghi thức làm
phép kiệu lá, tưởng nhớ tới sự kiện Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, dân
chúng rủ nhau ra mà đón: “Nhiều người trải áo xuống đường, kẻ khác chặt
nhành cây trải lối đi: Kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng:
"Hoan hô! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Chúc tụng nước Ðavit tổ
phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời!” Họ trải áo trên đường
để Chúa đi” (Mc 11, 8-10). Giờ đây mỗi người cầm cành lá trong tay vừa
đi vừa hát “Hoan hô...” thấy thật là vui.
Đám đông dân chúng đón rước Chúa lúc đó hân hoan,
ngợi khen, chúc tụng,đúng là một bầu khí vui mừng mà chúng ta cảm nghiệm
được khi tái cử hành biến cố năm xưa hôm nay. Chúa Giêsu, Thái Tử nhà
Đavít tiến vào Giêrusalem đã khơi dậy lên bao nhiêu niềm hy vọng nơi tâm
hồn những người đơn sơ, nghèo khổ, bị lãng quên, những người không đáng
kể gì trong xã hội. Người thấu hiểu và cảm thông cảnh lầm than khốn khổ
của họ, cúi mình xuống chữa lành những vết thương thể xác cũng như tâm
hồn và tỏ lòng từ bi đối với họ.
Đúng như lời ngôn sứ I-sai-a nói: “Người đã mang
lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17).
Đó là tình thương cao cả của Chúa Giêsu, Người đã mang tình thương ấy đi
vào thành Giêrusalem. Chúng ta thật vui mừng và tràn đầy hy vọng, vì thế
giới chúng ta sống đang rất cần tình thương đó.
Thập giá
Niềm vui của dân chúng đang hân hoan, tung hô, chúc
tụng Chúa, sự đấu tố, đòn vọt, vòng gai và thập giá bao trùm, những lời
của Tiên tri Isaia, bài tường thuật của thánh sử Marcô, và những bài đọc
phụng vụ khác dẫn đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm Thương Khó và cái
chết của Chúa Giêsu. Isaia mô tả cho chúng ta hình ảnh của một người bị
đánh đòn và chịu vả mặt nhục nhã (x. Isaia 50, 6). Lời đáp ca: “Lạy Chúa
tôi, lạy Chúa tôi, sao Chúa bỏ rơi tôi?” giúp chúng ta chiêm ngắm cơn
hấp hối của Chúa Giêsu trên thập giá (x. Mt 15, 34). Nơi bài đọc II,
thánh Phaolô tông đồ giúp chúng ta hiểu sâu xa hơn mầu nhiệm Vượt Qua:
Chúa Giêsu, “dù là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang,
mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần
thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và
chết trên cây thập tự” (Phil 2, 6- 8).
Một vị Vua cưỡi trên con lừa con, không có đoàn tùy
tùng đi theo, không có một binh đoàn biểu tượng quyền lực tiến vào thành
Giêrusalem là Chúa Giêsu. Người không vào Thành Thánh để nhận vinh dự
dành cho các vua trần thế, cho kẻ có quyền bính, cho kẻ thống trị; Người
vào thành để chịu đánh đòn, lăng mạ và xúc phạm, như Isaia đã tiên báo
(x. Is 50,6); Người vào để chịu đội mão gai và mặc áo choàng đỏ, vương
quyền của Người là đối tượng cho sự nhạo cười; Người vào để bước lên đồi
Canvê vai vác khổ giá; Người vào thành Giêrusalem để chịu chết trên Thập
giá. Thập giá là ngai vàng của Người, Người mang lấy Thập giá trên mình,
mang vào mình sự ác, cùng với sự nhơ bẩn, tội lỗi của trần thế và cả tội
chúng ta nữa. Với lòng từ bi vàtình thương của Thiên Chúa, Người lấy máu
mình mà tẩy rửa cho sạch. Vì thế, Thập giá được Chúa Giêsu đón nhận với
tình thương không bao giờ đưa tới sầu muộn, nhưng dẫn đến niềm vui, niềm
vui được cứu độ.
Sống Tuần Thánh
Bước vào Tuần Thánh, Giáo hội cùng với con cái mình
doi theo Chúa Giêsu trên hành trình tiến lên đồi Canvê với thập giá và
sự sống lại của Người. Sống Tuần Thánh là đi vào tình thương hiến thân
của Chúa Giêsu hầu mang lại sự sống cho con người
Lúc sinh thời, Chúa Giêsu đã rong ruổi trên khắp
nẻo đường, với lòng tin, Người đã chọn gọi 12 người đơn sơ để họ ở với
và tiếp tục sứ mạng yêu thương của Người. Trong Tuần Thánh chúng ta sống
trọn vẹn cuộc hành trình này. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để thi
hành sứ mạng yêu thương ấy.
Chúa Giêsu không sống cách thụ động tình thương dẫn
đến hy sinh, hoặc như một định mệnh không thể tránh được; Người không
che giấu sự sao xuyến sâu xa như một con người trước cái chết dữ dằn,
nhưng phó thác hoàn toàn nơi Chúa Cha. Chúa Giêsu tự ý nộp mình chịu khổ
hình và chịu chết, để chứng tỏ tình thương của Thiên Chúa đối với thế
gian. Thánh Phaolô cảm nghiệm được rằng, trên Thập giá, Chúa Giêsu “đã
yêu thương tôi và hiến mình vì tôi” (Gl 2,20). Mỗi người chúng ta có thể
nói: Người đã yêu thương tôi và đã phó nộp mình vì tôi.
Nhìn vào Chúa Giêsu trong cuộc thương khó, chúng ta
khám phá ra những đau khổ của nhân loại nói chung và những đau khổ của
chính cá nhân mình nói riêng. Chúa Giêsu, dù vô tội, đã nhận mang lấy
vào thân điều mà con người không thể chịu được như: sự bất công, sự dữ,
tội lỗi, hận thù, đau khổ và cuối cùng là sự chết. Trong Chúa Giêsu, Con
Thiên Chúa phải chịu nhục nhã và đau khổ để chứng tỏ rằng Thiên Chúa yêu
thương tất cả, tha thứ cho tất cả và mang đến cho con người ý nghĩa cuối
cùng của cuộc sống.
Mỗi năm, với Tuần Thánh, Giáo Hội bước vào trong
Mầu nhiệm Vượt Qua, Mầu nhiệm tưởng niệm cái chết và sự sống lại của
Chúa Giêsu. Chính nhờ sức mạnh của Mầu Nhiệm Vượt Qua mà Giáo Hội có thể
công bố cho thế giới bằng lời nói và bằng những việc làm tốt của những
con cái mình rằng: “Chúa Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh
hiển” (Phil 2,11). Phải, Chúa Giêsu Kitô là Chúa, Người là Chúa của thời
gian và của lịch sử; là Ðấng Cứu Chuộc con người; Người là Ðấng Cứu Thế!
Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Hosanna!
Cùng với Mẹ Maria, chúng ta hãy xin với Mẹ là
Ðấng đã theo Chúa Giêsu Con Mẹ trong suốt chặng đường dẫn tới Canvê
trong đức tin, giúp con cái Mẹ vác thập giá với niềm thanh thản và yêu
thương bước theo Chúa, để đạt được niềm vui của lễ Phục Sinh. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sau khi đọc bài tường thuật đầy đủ về cuộc Thương
Khó của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta theo thánh Marcô. Chúng ta không
thể không màng chi đến những sự xảy ra trước đó. Nhiều người không khỏi
thắc mắc: một con người như vậy sao lại kết thúc trên Thánh giá? Đâu là
nguyên do dẫn đến cái chết và ai là người chịu trách nhiệm về cái chết
của Chúa Giêsu?
Theo một lý thuyết lưu hành vào thế kỷ 20 sau thảm
kịch Shoah, Hitler tiêu diệt những người Do thái, người ta qui trách
nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu cho người Do thái, Philatô và các thẩm
quyền Rôma thời ấy, mà động lực thúc đẩy thuộc bản chất chính trị hơn là
tôn giáo.
Bằng chứng là Hội đồng Do thái, đứng đầu là các
thượng tế và luật sĩ “ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu” (Mc 14, 1); “tìm
chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người” (Mc 14, 55), chứng gian tìm không
ra, lời chứng lại không khớp, phải nại đến vị thượng tế đứng lên giữa
công nghị hỏi Chúa Giêsu: “ Ông có phải là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa
đáng chúc tụng chăng?” (Mc 14, 61). Chúa Giêsu đáp:“Phải, chính Ta! Rồi
các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Đấng toàn năng và ngự đến trên
đám mây” (Mc 14, 61). Ông liền đứng lên xé áo mình và kết án: “Chúng ta
còn cần chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các
ông nghĩ sao?” (Mc 14, 62) Họ quyết định lên án tử cho Người (Mc 14,
64).
Nhưng chuyện không đơn giản, vì muốn giết được Chúa
Giêsu phải qua tay tổng trấn Rôma là Philatô, nên họ “ đã trói Chúa
Giêsu và giải nạp Người cho Philatô” (Mc 15, 1). Philatô không phải là
người quan tâm tới sự công chính đến nỗi âu lo về số phận của một người
Do thái không tên tuổi; ông ta là một mẫu người cứng cỏi, độc ác, sẵn
sàng đổ máu nếu có một dấu vết rất nhỏ nổi loạn (x. Lc 13, 1-9). Tất cả
sự này là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, ông không ra sức cứu sống Chúa
Giêsu vì thương cảm nạn nhân, nhưng chỉ để ghi một điểm thắng chống lại
những kẻ tố cáo Chúa Giêsu, với họ ông đã có xung đột từ ngày tới đất
Giuđêa. Dĩ nhiên, sự này không giảm bớt trách nhiệm của Pilatô trong
việc lên án Chúa Giêsu, một trách nhiệm ông đã chia sẻ với những nhà
lãnh đạo Do thái.
Khi gặp Chúa Giêsu, Philatô hỏi: “Ông có phải là
vua dân Do thái không?” Chúa Giêsu đáp: “ Ông nói đúng” (Mt 15, 2). Câu
trả lời của Chúa Giêsu không giúp Chúa thoát khỏi vụ án mà lại như thêm
dầu vào lửa, khiến các thầy thượng tế lại tố cáo thêm, nhưng Chúa không
đáp lại một lời nào.
Đối diện với những kẻ đòi giết Chúa Giêsu, Philatô
không biết làm sao nên hỏi dân “Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các
ngươi Vua dân Do-thái không?” (Mc 15, 9); “Các ngươi muốn Ta làm gì cho
vua dân Do-thái?" (Mc 15, 12). Những câu hỏi trên chẳng những không cứu
được Chúa Giêsu mà còn như thể gia tăng lòng quyết xử tử Người: “Đóng
đinh nó đi” (Mc 15, 13). Lúc ấy trong khám đang có sẵn kẻ giết người tên
là Baraba, Philatô nghĩ ra trò tráo mạng Giêsu để may chăng dân chúng
tha cho Chúa Giêsu, nhưng ông đã lầm, dân chúng càng hô to hơn: “Đóng
đinh nó đi” (Mc 15, 14). Philatô nhượng bộ hoàn toàn: “ Ông liền tha
Baraba và trao Chúa Giêsu cho họ mang đi đánh đòn và đóng đanh vào thập
giá” (Mc 15, 15).
Khi quyết định trao nộp Chúa Giêsu thì ông cũng đi
vào cái vòng di chuyển của họ. Tin Mừng được giả thiết là đã minh oan
cho Philatô và tố cáo những người lãnh đạo Do thái chủ mưu giết Chúa.
Chính thánh Phaolô khi tường thuật về án tử của Chúa Giêsu giống như các
sách Tin Mừng mô tả, ông viết “những người Do thái đã giết Chúa Giêsu”
(1 Tx 2,15).
Từ những tường thuật về cái chết của Chúa Giêsu
trong Talmud và trong những tài liệu Do thái khác, truyền thống Do thái
không bao giờ từ chối sự tham gia của các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó
trong việc lên án Chúa Giêsu. Họ không bênh vực mình bằng sự chối bỏ
hành động, nhưng nếu có hành động nào, họ đã chối hành động đó, từ viễn
ảnh Do thái, làm thành một tội ác và án tử Chúa Kitô Giêsu là một án bất
công.
Như vậy, đối với câu hỏi, “tại sao Chúa chết? ” Sau
tất cả những nghiên cứu và những sự lựa chọn được đề nghị, chúng ta phải
đưa ra cũng một câu trả lời như trong các Tin Mừng là Người bị kết án vì
những lý do tôn giáo. Kết luận, các thẩm quyền tôn giáo và các thẩm
quyền chính trị, các thủ lãnh Công Nghị và quan tổng trấn Roma, cả hai
đã tham gia, vì những lý do khác nhau, trong sự xử án Chúa Kitô.
Phần chúng ta, những người tin Chúa Giêsu đều nghĩ
rằng chính những người Do thái đã giết Chúa. Chúng ta cũng thường qui
kết cho Giuđa là kẻ phản bội đã bán đứng Thấy, kẻ tiếp tay cho các
thượng tế và kinh sư bắt nộp Chúa.
Mỗi khi Tuần Thánh về, đọc lại bài Thương Khó Đức
Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Giáo hội muốn mỗi người chúng ta, thay vì đổ
tội cho người Do thái, thì nhìn thấy trách nhiệm của mình trong cái chết
của Chúa Giêsu. Chúa đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Thánh
Kinh. Tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa Thiên Chúa và tha nhân, chống lại
Thiên Chúa và chống lại nhau, dẫn đến nguy cơ mất ơn cứu độ. Nên Thiên
Chúa đã “vì loài người chúng ta, và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời
xuống thế…” chịu đóng đanh, chị chết để chuộc tội cho chúng ta (x. Kinh
Tin Kính).
Khi ta từ chối Chúa và chương trình thiêng liêng
của Người, hay khi ta xúc phạm đến Chúa, không sống xứng đáng là con
Thiên Chúa, chúng ta chịu trách nhiệm cách đặc biệt hơn vào cái chết của
Chúa. Mỗi lần chúng ta phạm tội bất công, lỗi đức bác ái, gây gương mù
gương xấu, cộng tác với sự dữ gây tác hại trực tiếp cho tha nhân, làm
hại bản thân, gây thiệt hại cho cả Hội Thánh nữa là chúng ta làm khổ
nhau, nhất là làm cho Chúa phải đau phiền và phải chết.
Ước gì khi suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu, mỗi
người chúng ta thêm lòng tin vào Chúa, yêu mến Chúa cách mãnh liệt hơn,
và đặt tất cả lòng cậy trông vào Chúa. Chúng ta tin Chúa Giêsu đã chết
vì tội lỗi chúng ta, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết.
Amen.
(Suy niệm của Lm. Trịnh Ngọc Danh)
Lần thứ ba, Chúa Giêsu tiên báo về sự chết và sự
sống lại của Ngài: “Giờ đây chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị
nộp cho các thượng tế, các luật sĩ và các kỳ lão. Họ sẽ kết án tử hình
Người, và nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo cười Người, phỉ nhổ vào
Người, đánh đòn và giết Người và ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. (Mc.
10,33)
Thế là Thầy trò lên đường đi lên Giêrusalem. Chúa
Giêsu dẫn đầu đi trước các môn đệ và các ông hết sức bỡ ngỡ, những người
theo sau thì sợ hãi. (Mc. 10,32)
Khi đến gần thành Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphagê,
giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ: “Các con hãy đến làng trước
mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp một con lừa cột sẵn, trên lưng nó
chưa hề có ai đã cỡi, các con hãy cởi dây mà dắt về đây.” Nếu có ai hỏi
thì bảo Chúa cần dùng rồi Ngài sẽ trả lại ngay. Hai môn đệ dẫn lừa con
về, trải áo lên mình lừa và Ngài cỡi lên. Nhiều người trải áo xuống
đường, kẻ khác chặt cành cây trải lối đi: kẻ đi trước, người theo sau
tung hô: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến: chúc tụng nước
Đavít tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời”.
Chúa Giêsu đã long trọng tiến vào thành Giêrusalem
bất chấp những đối thủ đang hầm hực tìm cách bắt Ngài. Đến thành
Giêrusalem, Ngài tiến vào đền thờ và sau khi đã quan sát mọi sự, thấy
trời đã xế chiều, Ngài về Bêtania cùng với nhóm mười hai môn đệ.
Vinh quang trong ngày Lễ Lá chỉ là một thoáng qua
và sau đó là những gì sẽ xảy ra? Thưa, đó là những bội phản, những trốn
chạy, những a dua và những im lặng khó hiểu.
Chúa Giêsu im lặng
Chúa Giêsu bị bắt vào đêm thứ năm.
Trước khi chính thức bị đưa ra tòa xét xử, Ngài đã
bị áp giải đến dinh cựu thượng tế Anna, là người rất có uy tín vào thời
đó, nhưng lại là người có ác cảm với Chúa Giêsu. Ông muốn biết cặn kẽ về
Ngài, nhưng ông cũng không khai thác được gì, vì Ngài vẫn một mực giữ
thái độ im lặng. Tức giận, ông truyền áp giải Chúa Giêsu sang cho
Caipha, con rể của ông đang làm thượng tế năm ấy.
Caipha cho triệu tập 72 thành viên của Thượng Hội
Đồng, tòa án tối cao của người Do thái. Trước tòa, có nhiều vị đã đứng
lên tố cáo Chúa Giêsu là lộng ngôn, phạm thượng dám tự xưng mình là Con
Thiên Chúa, đã công khai tuyên bố phá đền thờ Giêrusalem và xây lại
trong ba ngày, đã nhiều lần vi phạm qui luật về ngày Sabbat…Trước những
lời tố cáo ấy, Chúa Giêsu vẫn im lặng không một lời phân bua, biện hộ.
Và Ngài chỉ trả lời cho Caipha những gì Ngài cần phải nói khi ông hỏi
Ngài có phải là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa không, Ngài đã trả lời: “Đúng
như lời ngài nói”. Và Caipha bực tức, xé áo và tuyên bố: “Chúng ta còn
cần chi đến nhân chứng nữa! Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông
nghĩ sao?” Ai nấy đều lên án Ngài đáng chết. Nhưng kể từ khi bị người
Rôma đô hộ, người Do thái không có quyền kết án tử hình bất cứ ai, nếu
không có sự ưng thuận của chính quyền Rôma. Nên sáng hôm sau, họ lại áp
giải Chúa Giêsu tới tòa tổng trấn Philatô, một viên chức cao cấp nhất,
đại diện cho chính quyền Rôma tại nước Do thái để xin chuẩn nhận bản án
tử hình.
Trước tòa Philatô, thay vì tố cáo Chúa Giêsu về tội
thuộc lãnh vục tôn giáo, họ lại chuyển những lời tố cáo sang lãnh vực
chính trị: tội tự xưng là vua dân Do thái. Philatô thấy không có gì đáng
kết tội, nhưng thấy họ lại càng hung hăng dữ tợn hơn đòi đóng đinh Chúa
vào thập giá; vì muốn tránh né trách nhiệm, ông đã chuyển vụ án qua cho
Hêrôđê, một người từ lâu đã muốn gặp Chúa Giêsu, nhưng gặp rồi, ông lại
thất vọng vì Ngài chẳng thỏa mãn được tính tò mò ham vui của ông. Ông đã
hùa với lính để chế diễu Chúa, rồi trao trả lại cho Philatô.
Tiến thoái lưỡng nan, cuối cùng Philatô rửa tay
thanh minh mình vô can trong việc đổ máu người vô tội và sau cùng đã
buông xuôi trao Chúa Giêsu cho họ để mặc cho họ hành động theo ý họ. Họ
đã bắt Chúa vác thập giá, đóng đinh vào thập giá và cuối cùng Ngài đã
chết trên thập giá.
Từ đầu vụ án cho đến lúc kết thúc, Chúa Giêsu đã im
lặng trước những gì người ta vu khống. Không một lời kháng cáo, không
một lời biện hộ.
Cái im lặng của Chúa Giêsu là vâng phục, là chấp
nhận trong tinh thần tự nguyện, không oán trách, không kêu ca: “Lạy Cha,
nếu có thể được thì cho con khỏi uống chén này, nhưng không phải theo ý
Con mà xin vâng theo ý Cha.” Chính vì tinh thần tuân phục theo ý Chúa
Cha mà Chúa Giêsu đã im lặng chấp nhận những gì sẽ xảy đến.
Sự im lặng như thế phải chăng là một hình thức im
lặng như Euripide đã nói: “Im lặng là thú nhận”, là xác nhận những lời
người ta tố cáo như: “phá đền thờ, ba ngày sẽ xây dựng lại, tự xưng là
Con Thiên Chúa, là vua dân Do thái”. Tất cả những lời tố cáo ấy là đúng
như Chúa đã từng nói; nhưng khi bị người ta xuyên tạc, bóp méo tố cáo là
“xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Xêsarê…” thì Chúa Giêsu
lại im lặng không một lời thanh minh, cải chính! Với suy nghĩ của con
người, thì đây là một sự im lặng khó hiểu!
Nếu những lời tố cáo là chân lý, là đúng sự thật
thì tại sao con người lại kết tội. Phải chăng tiếng nói thiện tâm đã bị
tà tâm bắt im tiếng!
Lương tâm im lặng.
Philatô biết rõ chỉ vì ghen ghét mà người ta đã nộp
Ngài (Mt. 27: 18), đã tuyên bố:“ Ta vô can về máu người công chính này,
mặc kệ các ngươi” (Mt. 27: 24), “ Ta không thấy người này có tội gì”
(Lc. 23: 4), “ Ta không thấy nơi người này có lý do để kết án” (Ga. 18:
38). Thế mà ông lại không dám quyết định, lại sợ đụng chạm đến uy thế và
quyền lợi của mình, và cuối cùng đã xếp Con Thiên Chúa ngang hàng với
một tên trộm cướp.
Các thầy thượng tế và toàn thể công nghị cố tìm cho
được một chứng cớ buộc tội Chúa Giêsu để giết Ngài, song họ không tìm
ra. Có nhiều kẻ cáo gian Ngài, nhiều kẻ làm chứng gian, nhưng chứng cớ
của họ không ăn khớp. Cáo gian, làm chứng gian để buộc tội một người vô
tội như thế là hợp tình, hợp lý ư? Thế mà họ cứ khăng khăng cho là sự
thật; vậy lương tâm ngay thẳng của họ ở đâu? Phải chăng nó đã chết, đã
buộc phải im hơi lặng tiếng để cho ác tâm, thù hận, ghen ghét lên tiếng!
Thỏa hiệp, đồng ý, đồng lõa với những gì sai trái,
những gì không đúng sự thật là im lặng với chân lý, với lẽ phải. Một sự
im lặng khó hiểu!
Lòng tin và lòng mến im lặng
Hơn ai hết, các môn đệ là những người theo Chúa,
được Chúa yêu thương dạy dỗ để mai sau còn tiếp nối công việc của Ngài,
thế mà vào những giấy phút gay go nhất thì có người đã đang tâm bán đứng
Thầy mình với mấy chục đồng bạc như Giuđa Iscariốt; có người đã nhiều
lần thề thốt sống chết với Thầy, nhưng trước hiểm nguy lại ba lần chối
bỏ Thầy mình: Tôi không biết, tôi không quen..Dường như tất cả các môn
đệ đã rút vào bóng tối vì sợ liên lụy, sợ nguy hiểm đến tính mạng..
Về phía dân Do thái, họ đã từng theo Chúa Giêsu để
nghe Ngài giảng dạy giáo lý, đã được thấy Ngài làm nhiều phép lạ, đã
được cho ăn no nê. Hôm trước, người ta lớn tiếng: Hoan hô Con vua Đavít,
thì hôm sau lại gào thét: Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập gia! Và nhục
nhã hơn, họ xem người họ đã từng tin tưởng không bằng tên trộm khét
tiếng là Baraba!
Sợ liên lụy, tin hời hợt, a dua, phản bội…phải
chăng đó là bất trung, bất tín! Là những im lặng khó hiểu nơi những
người mang danh Kitô hữu!
Qua thái độ im lặng của các môn đệ và của dân Do
thái, có lẽ đây cũng là cơ hội để chúng ta xét đến thái độ im lặng của
chúng ta ngày nay.
Có những lúc chúng ta phải bắt chước Chúa Giêsu im
lặng để nghe theo thánh ý Thiên Chúa, để chấp nhận những nghịch cảnh,
những bất ưng vì Thiên Chúa và có những lúc chúng ta không được im tiếng
khi cần phải bảo vệ công lý và lẽ phải, khi cần phải loan báo Tin mừng
đến cho muôn người nhận biết.
Với một tâm tình đơn sơ, chân thật, chất phát của
trẻ em, chúng ta hãy bắt chước trẻ em Do thái reo vang ca tụng: Hoan hô
Con vua Đavít; chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Đừng như dân Do
thái: Hoan hô! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, rồi lại nhất quyết
đòi đóng đinh Chúa vào thập giá, lại xin tha Baraba, một tên trộm cướp
và giết Giêsu, Đấng cứu chuộc nhân loại.
Bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội bắt đầu cử hành Chúa
Nhật Lễ Lá. Có nghi thức làm phép lá, phát lá và kiệu lá. Chỉ những
người trong đạo mới hiểu được ý nghĩa của ngày Lễ Lá. Khi Chúa Giêsu vào
thành Giêrusalem thì các trẻ Dothái cầm nhành ôliu đi đón Chúa, lấy áo
trải xuống đường và reo vang ca tụng rằng: Hoan hô con vua Đavít! Chúc
tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Lạy vua Israel! Hoan hô trên các tầng
trời! Tiếp theo, chúng ta nghe bài Bài Thương Khó với những diễn tiến
xảy ra mấy ngày cuối đời của Chúa Giêsu trên trần gian. Dân chúng hùa
theo với quân lính và những kẻ thù ghét Chúa Giêsu với những lời phản
bội sát phạt: Xin phóng thích Baraba và giết đi, đóng đinh nó vào thập
giá. Những cành lá tung hô đã cuốn thành vòng gai nhọn đặt trên đầu của
Chúa.
Chương trình cứu độ trải dài suốt dọc lịch sử của
dân Dothái, từng biến cố xảy ra đều mang dấu ấn tình yêu của Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã hiện diện sát cánh qua mọi biến cố thăng trầm với dân
riêng của Người. Tình yêu của Thiên Chúa đã thắng vượt sự dữ và tội lỗi.
Tình Chúa bền vững thiên thu không hề thay đổi trong khi lòng người đổi
thay. Biết bao lần chính Dân mà Chúa đã chọn, bỏ Chúa đi thờ các thần
ngoại bang được đúc bằng đất đá. Dân chúng quay lưng chạy theo những đam
mê sắc dục, tiền tài danh vọng và tìm thoả mãn mọi đòi hỏi của bản năng
thấp hèn. Tiên tri Daniel đã thân thưa cùng Chúa: “Tôi đã cầu xin Chúa
là Thiên Chúa của tôi, đã thú nhận và thưa Người rằng: Chúng con đã phạm
tội, đã lỗi lầm, đã làm điều gian ác, chúng con đã phản nghịch và lìa xa
các mệnh lệnh, phán quyết của Ngài” (Dn 9,4-5).
Tình yêu Chúa cứ dõi theo những con người lạc bước
và tạo cơ hội cho họ trở về như dụ ngôn ‘Người cha nhân hậu’ hay còn
được gọi là ‘Người con hoang đàng’ (Lc 15,11-32).
Thiên Chúa không bỏ rơi con người trong lầm lạc,
nhưng đã ban và phó thác chính Con của mình làm của lễ cứu độ. Chúa
Giêsu đã phán: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh
mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).
Chúa Giêsu chính là Con Một Thiên Chúa và là Đấng
được Xức Dầu đã hoàn tất mọi lời tiên tri đã loan báo về Người. Biến cố
thương khó đã xảy ra và ứng nghiệm mọi lời đã tiên báo.
Biến cố Chúa Giêsu được đón rước vào thành
Giê-ru-sa-lem thì vắn gọn. Sự vinh quang trần thế tuỳ thuộc vào con
người chỉ có thế, luôn đổi thay. Từ những lời hoan hô ca ngợi mau chóng
biến thành những lời nguyền rủa, chế giễu và kết án. Cách đối xử của con
người thật là vô ơn bội bạc. Chúa dạy dỗ, chữa bệnh, xua trừ ma quỷ, cho
ăn uống no say và dẫn về đàng thật nhưng lòng người thì tráo trở, lật
lừa và đổi trắng thay đen. Chúa Giêsu đón nhận tất cả sự xỉ nhục này như
của lễ dâng tiến lên Chúa Cha. Chúa gom tóm tất cả tội lỗi xấu xa của
con người để đóng gim vào thánh giá. Của lễ châu báu trên thập giá là
giá máu cứu chuộc.
Mỗi người nghe bài tường thuật sự Thương Khó của
Chúa Giêsu với những tâm tình khác nhau. Có người nghe qua bài Thương
Khó và nghĩ đây là một câu truyện đáng thương thuộc quá khứ. Đôi người
lại có thái độ như khách bàng quan coi sự sống chết của Chúa Giêsu chẳng
liên quan gì tới đời sống tâm linh của họ. Có người cảm thương sự đau
đớn và khổ nhục của Chúa, nhưng rồi lại có thái độ thù ghét, kết án dân
Dothái, chính quyền, trưởng tế, quân lính, người phản bội và các đồng
bọn đã giết Chúa. Hôm nay, chúng ta nên có một tâm tình tôn kính về sự
thương khó của Chúa. Chúng ta suy gẫm và chiêm niệm từng lời nói, từng
hành động, từng giọt mồ hôi, giọt máu rơi xuống và từng bước chân ngã
quỵ trên đường tiến lên Núi Sọ. Tất cả mọi khổ đau về tinh thần và cũng
như thể xác của Chúa đều là sự trả giá cho tội lỗi và bất trung của loài
người.
Các lãnh đạo tôn giáo và chính quyền đã toa rợp để
tiêu diệt một người công chính. Vì yêu thương nhân loại, Chúa đã chấp
nhận tất cả mọi khổ đau. Hãy chiêm ngắm Chúa Giêsu đang mạnh khoẻ, đã bị
bán, bị bắt, bị chối bỏ, bị xét xử, bị xỉ nhục, bị đánh đập, bị đói khát
và bị hành hạ cho đến chết trên thập giá. Mỗi một hành vi lên án dù nhỏ
mọn cũng đã góp phần đưa đến sự chết của Chúa. Chúa không than van trách
móc, nhưng còn thương xin Chúa Cha tha thứ cho lỗi lầm của họ. Mầu nhiệm
của tình yêu gắn liền với mầu nhiệm của sự đau khổ. Sự đau khổ, sự chết
và sống lại của Chúa Giêsu là cao điểm của ơn cứu độ. Đây là Lễ Vượt Qua
mà Giao Ước mới được ký kết bằng Máu Châu Báu của Chúa.
Chúng ta có thể gọi các hành vi xấu ấy là tội lỗi
của thế gian. Tội bất trung, tội phản nghịch, tội làm chứng dối, tội cáo
gian, tội đoán xét, tội thù ghét, tội xỉ vả lăng nhục, tội hại người,
tội bất công, tội đồng loã, tội gian tà và tội giết người bằng môi
miệng, thái độ và hành động. Tất cả các tội đổ dồn trên đầu, trên vai,
trên những bước chân trần và trong trái tim đầy lòng thương xót của
Chúa. Qua bài Thương Khó của Chúa, chúng ta đừng gán ghép tất cả những
tội lỗi giết Chúa cho quân Giudêu xưa. Không phải thế đâu! Chúa chịu hy
sinh đền tội chung cho cả nhân loại. Khi chúng ta phạm tội là chúng ta
lại tiếp tục quất những vết roi hằn trên thân mình Chúa. Thánh Phaolô đã
kể lại là trong khi đi ruồng bắt các tín hữu, có một luồng sáng đánh ngã
ông: Tôi ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với tôi: “Saun, Saun, tại
sao ngươi bắt bớ Ta? Tôi đáp: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Người nói với
tôi: “Ta là Giêsu Nazareth mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 22,7-8).
Qua mọi thời, có một số người cứ muốn loại Chúa ra
khỏi cuộc sống. Chối bỏ Thiên Chúa để con người được hoàn toàn tự do làm
chủ đời mình. Đi tìm tự do để có thể thực hành điều mình mong muốn.
Những ước muốn của con người thường là để xuôi theo dòng lạc thú tạm
thời. Mọi thoả mãn vẫn không đáp ứng được những khao khát thầm kín thẳm
sâu trong tâm hồn. Một số người muốn có thêm quyền lực, thêm danh vọng
và thêm hưởng thụ. Họ tìm cách tiêu diệt mọi chướng ngại trên đường để
tìm thỏa mãn quyền lực và ý riêng mình. Cha ông chúng ta đã giết chết
các sứ giả, các tiên tri được sai đến và cả người Con Một Yêu Dấu của
Thiên Chúa cũng bị loại trừ và giết bỏ.
Các thứ tội lỗi của chúng ta hôm nay cũng giống như
các tội phản nghịch của người xưa, đều làm phật lòng Chúa. Mỗi khi phạm
tội, chúng ta lại đâm thấu trái tim và đóng thêm gai nhọn vào thân mình
Chúa. Thân mình Chúa chính là Giáo Hội của Ngài. Trong Nhiệm Thể Chúa
Kitô, Chúa Kitô là đầu và chúng ta là chi thể. Thánh Phaolô nói về sự
liên kết giữa Chúa Kito và Hội Thánh: “Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi
muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5,32). Khi chúng ta phạm tội là
chúng ta xúc phạm đến Chúa và chi thể của Chúa. Mùa Chay mời gọi chúng
ta xét mình và xin ơn tha thứ để sửa mình. Giáo Hội không ngừng kêu gọi
con cái mình hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm để được ơn cứu rỗi.
Trong Tuần Thánh, mỗi người chúng ta dành ít phút
thinh lặng và chiêm ngắm hình ảnh Chúa Giêsu bị treo trần trụi trên thập
giá. Chúng ta có thể hợp dâng lên Chúa tất cả những đau buồn, sầu khổ,
chán nản, bị đổ vạ cáo gian, bị hàm oan, những lời châm chọc chỉ trích,
nỗi cô đơn và tất cả những khổ đau của cuộc đời. Xin cho được ơn thông
phần nhục nhã với Chúa trên khổ giá để đền vì tội của chúng ta. Xin Chúa
thương tha thứ và ban sức mạnh để chúng ta tiếp tục vác thánh giá theo
Chúa mỗi ngày. Chúa sẽ trao triều thiên vinh thắng cho những ai bền đỗ
đến cùng.
Kính thưa quý OBACE, bầu khí phụng vụ của ngày lễ
lá hôm nay gợi lên cho chúng ta nhiều sắc thái và tâm trạng khác nhau,
vừa hân hoan, vừa trầm buồn, lúc đầu lễ, với cuộc rước lá tưởng niệm
việc Chúa Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem trong tiếng reo vang của người
Do Thái: Hoan hô Con Vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến,
thì liền sau đó bước vào thánh lễ, chúng ta lại được nghe thuật lại sự
thương khó của Chúa Giêsu. Chính sự tương phản này cũng đã phần nào nói
lên sự thay lòng đổi dạ của con người, sự tráo trở của những người Do
Thái ngày ấy.
Tiếng reo mừng hoan hô của những người Do Thái ngày
Chúa vào thành Giêrusalem, là tiếng reo thể hiện một sự mong đợi hoàn
toàn có tính cách thế tục, họ chờ đợi không phải là một Đấng Mesia cứu
thế, mà là mội vị vua trần thế, họ nghĩ rằng đã đến lúc Chúa Giêsu khởi
nghĩa xưng vương quy tụ dân chúng nổi dậy chống lại đế quốc Roma. Thế
nhưng Chúa Giêsu đã không làm vua trần thế, mà Ngài tiến vào Giêrusalem
hình ảnh thành đô của Thiên Chúa, không phải để làm chính trị, mà để xây
dựng một vương quốc tình yêu và thiết lập vương quyền của Thiên Chúa,
vương quyền của sự sống trên sự chết, sức mạnh của tình yêu tha thứ trên
hận thù gian ác.
Tiên tri Isaia đã báo trước về sứ mạng của đấng
Mesia qua bài ca về Người Tôi Trung của Giavê Thiên Chúa trong bài đọc
một; Vị Tiên tri mô tả về một người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa,
hoàn toàn vâng theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa, chấp nhận tất cả đau
khổ roi đòn, bị phỉ nhổ bị nhạo cười chế giễu, bị người đời khinh khi
hành hạ, nhưng người tôi tớ ấy vẫn một mực tín trung, chấp nhận tất cả
sự nhục nhã vì tin vào Đức Chúa là Đấng làm chủ và điểu khiển mọi sự và
làm chủ đời mình.
Thánh Phaolô đã nhìn thấy hình ảnh người tôi trung
mà Isai tiên báo được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu Kitô: Ngài vốn dĩ là
Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên
Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên
giống phàm nhân, Người còn hạ mình vâng lời cho đến chết, và chết trên
thập giá. Tuy nhiên, người Do Thái đã không dễ dàng chấp nhận một Đấng
Mesia khiêm hạ, một Thiên Chúa hạ mình đến như thế, họ tìm kiếm và chờ
đợi một Thiên Chúa khác, do óc tưởng tượng của họ mang lại: một Thiên
Chúa phải thẳng tay trừng trị kẻ áp bức, một Thiên Chúa luôn sẵn sàng
trừng phạt kẻ có tội chứ không thể cúi xuống trên họ, một Thiên Chúa
không thể đến quá gần con người, không thể để cho một người phụ nữ tội
lỗi xức dầu vào chân mình, không thể đồng bàn với người thu thuế…, chính
vì không được như ý họ mong muốn, nên người Do Thái đã sẵn sàng đổi
trắng thay đen, những người gào thét tại sân của quan tổng trấn, đòi
giết Giêsu và tha Baraba cũng chính là những người đã hoan hô con vua
Đavít, là những người đã được ăn bánh no nê, được chứng kiến phép lạ,
được chữa lành bệnh tật.
Nghe bài thương khó hôm nay chúng ta nhận thấy lòng
dạ của những người Do Thái đầy nham hiểm, họ khó chịu khi thấy một người
phụ nữ xức dầu thơm quý giá lên chân Chúa, họ lợi dụng mua chuộc một
Giuda ham tiền để lập mưu bắt Chúa Giêsu, những hành động ấy phát xuất
từ sự ghen tị thù hằn và họ câu kết với nhau để loại trừ Chúa Giêsu. Để
đạt được mục tiêu này, họ không loại trừ một thủ đoạn nào, từ vu vạ cáo
gian đến gây sức ép, các vị lãnh đạo Do Thái là những người chủ mưu
trong vụ án này, họ đã dàn dựng từ một vài những vấn đề tranh luận tôn
giáo để đi đến một bản án hoàn toàn chính trị bằng việc vu cáo Chúa
Giêsu ngăn cản việc nộp thuế, có ý đồ chống lại hoàng đế Cesare, để rồi
mượn tay người La Mã lên án tử cho Chúa.
Còn Chúa Giêsu Ngài vẫn sống đến cùng tình yêu
thương và tha thứ, dù biết rằng Giuda là một trong các môn đệ sẽ phản
bội, nhưng Chúa cũng không trừng phạt anh, Ngài vẫn nhân từ trao cho anh
những cử chỉ yêu thương để đánh động lương tâm của anh; trong cuộc khổ
nạn này Chúa Giêsu không chỉ đau đớn vì roi đòn và sự hành hạ của những
tên lính, mà Ngài còn đau khổ hơn bởi sự phản bội của những người thân
tín nhất của Ngài. Đó là sự phản bội của Giuda, kẻ đã đi theo Chúa nhiều
năm, vậy mà chỉ vì một chút quyền lợi tiền bạc, anh đã bán đi tình nghĩa
thày trò, và đau đớn hơn nữa, anh đã dùng nụ hôn là dấu chỉ biểu lộ tình
yêu thương để làm dấu chỉ của sự phản bội. Cũng thế, Simon Phêrô, một
trong số những môn đệ được Chúa Giêsu yêu thương tin tưởng nhất, lại là
người chối Chúa đến ba lần, mà lại chối trước mặt một đứa đầy tớ gái.
Sau cùng là sự bội bạc vô ơn của đám đông dân chúng, trong số họ có biết
bao người đã từng chứng kiến các phép lạ, được Chúa chữa lành, vậy mà
giờ đây, trước mặt một vị quan người La mã, họ đã chọn lựa Baraba thay
vì chọn Thiên Chúa, họ đã nhận hoàng đế Cesare làm vua của mình mà loại
trừ Thiên Chúa là vua của họ: Chúng tôi không có vua nào khác ngòai
Cesa, họ đã gào thét lên như thế.
Chúa Giêsu đã đón nhận cây thập giá mà ngươi ta đặt
lên vai Ngài như là cách thế mà Thiên Chúa Cha muốn Ngài chấp nhận để
đem ơn cứu độ cho trần gian, Chúa Giêsu đã đi đến tận cùng của con đường
cứu chuộc, và chặng cuối của con đường là cái chết giang tay trên cây
thập giá, chết trong đau đớn tất tưởi. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã hoàn
tất chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã chuẩn bị từ ngàn xưa, Ngài dùng
chính sự độc ác của con người để đem lại ơn cứu độ cho con người, dùng
sự phản bội để đem lại sự thứ tha, dùng cái chết của Ngài để đem lại sự
sống đời đời.
Thưa quý OBACE, nghe lại bài thương khó Chúa không
để chúng ta đổ lỗi cho những người Do Thái, song qua cuộc thương khó này
chúng ta có thể thấy bóng dáng của mình trong cuộc hành hình Chúa Giêsu
năm xưa, có thể chúng ta là người đã gây tổn thương cho Chúa khi chúng
là những người mang danh là Kitô hữu, là mộn đệ Chúa, song chúng ta đã
phản bội lại Chúa như Giuda khi chúng ta cũng vì một chút vật chất, tiền
bạc mà chà đạp lên danh dự là một Kitô hữu, bán rẻ lương tâm của mình,
có thể vì sợ hãi hèn nhát hoặc vì bổng lộc của thế gian mà chúng ta đã
từ chối Chúa như Phêrô: Tôi không biết người ấy là ai! Và cũng có thể
chúng ta là những người đã từng nhận được biết bao ơn lành của Chúa,
song chúng ta cũng giống như những người Do Thái đòi tha Bararaba mà
giết Giêsu, chúng ta không muốn để cho Chúa Giêsu ảnh hưởng đến cuộc đời
của mình, của gia đình, khi chúng ta từ chối đọc kinh cầu nguyện, khi
chúng ta không đến với Chúa qua việc thờ phượng và lãnh nhận các Bí
tích. Hoặc là chúng ta sẽ thấy mình giống như các thày thượng tế và luật
sĩ, mưu mô gian ác trong cuộc sống trong công việc, đối với anh em, cứng
lòng trước đau khổ thập giá của Chúa Giêsu khi chúng ta quay lưng lại
với Chúa hoặc chúng ta lên án Chúa và Giáo Hội của Ngài, cho mình quyền
định đoạt số phận và xét đoán anh em, nhắm mắt làm ngơ trước nỗi đau khổ
bất hạnh của anh em, và có khi còn nhạo cười trên đau khổ của họ và gào
thét giơ tay đòi kết án họ.
Chúa Giêsu vẫn đang bị hành hình trong thời đại của
chúng ta hôm nay qua những con người đang phải chịu sự bất công đàn áp,
những con người bị đẩy ra bên lề xã hội, bị chính những người anh em
ruột thịt của mình khinh bỉ từ chối; Chúa Giêsu cũng đang bị hành hình
qua những con người cùng cực bị bóc lột khai thác, lạm dụng, bạo hành,
kể cả qua những em bé, những thai nhi bị những Philatô là chính cha mẹ
của mình lên án tử, đó là những Giêsu của ngày hôm nay. Thương cảm cho
cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở những cảm xúc tự nhiên,
mà hãy nhận thật rằng chính vì tội lỗi của tôi, của ông bà, anh chị mà
Chúa chịu chết như thế, để từ nay chúng ta cố gắng sống tốt hơn, và sống
ngoan thảo với Chúa hơn, đồng thời biết quan tâm đến anh em để chia sẻ
với sức nặng của thập giá của anh em đó là cách chúng ta cất đi bớt sự
đau khổ cho Chúa ngày hôm nay. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Trong bài thơ “Thói đời”, Nguyễn Bỉnh Khiêm có một
vần thơ lột tả sự tráo trở trong thái độ sống của con người:
“Được thời thân thích chen chân đến.
Thất thế hương lân ngoảnh mặt đi”.
Suy niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su càng thấy
rõ nhân tình thế thái, thấy sự tráo trở, đổi trắng thay đen của lòng dạ
con người.
1. Đám đông dân chúng. Dân thành
Giê-ru-sa-lem nô nức phấn khởi, trải áo choàng, chặt những nhánh lá cây
rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô
Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ.
Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đa-vít”, “Vạn tuế Đấng nhân danh
Thiên Chúa mà đến”. Thế mà sau đó không lâu, nghe lời xúi giục của tư
tế, kinh sư, Pha-ri-sêu, họ lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la, gào
thét đòi “đóng đinh nó đi!” Hai thái độ trái ngược nhau của dân chúng:
hoan hô và đả đảo, đưa Chúa lên ngai vua và hạ bệ Chúa trên thập giá.
Đám đông thường nông nổi nhẹ dạ, vô ý thức và do đó vô trách nhiệm. Đám
đông thường dễ bị lôi cuốn: người ta hoan hô, mình hoan hô, người ta đả
đảo mình đả đảo, người ta làm gì mình làm nấy mà nhiều khi chẳng biết
tại sao. Một nỗi buồn thấm thía, sao người ta lại bạc bẽo với Chúa như
vậy?
2. Giu-đa It-ca-ri-ốt. Trong Ki-tô Giáo,
Giu-đa phản bội Thầy là một sự kiện nổi tiếng. Nổi tiếng vì bán Thầy với
giá ba mươi đồng bạc (Mt 27, 3). Một môn đệ được tuyển chọn, được huấn
luyện, Giu-đa vinh dự thuộc về nhóm 12, được giao trọng trách quản lý.
Nhưng lòng tham lam của cải vật chất đã đẩy Giu-đa đến chỗ phản bội.
Giu-đa đi gặp các thượng tế và nói: "Tôi sẽ được gì nếu tôi nộp Ngài cho
các ông?” Họ đã trả cho hắn ba mươi đồng bạc, và từ đó hắn tìm dịp để
nộp Chúa Giê-su cho họ” (Mt 26,16). Một cuộc buôn bán lớn nhất trong mọi
thời đại nhưng chỉ được ba mươi đồng bạc là giá của một nô lệ vào thời
đó! Khi giá cả đã thoả thuận, các thượng tế mang ba mươi đồng bạc và đặt
vào tay Giu-đa. Tám trăm năm trước, Gia-ca-ri-a đã nói tiên tri: “Nếu
các ông thấy là được thì trả công cho tôi; nếu không thì thôi. Và họ đã
trả công cho tôi là ba mươi đồng bạc” (Dcr 11, 12). Trong bữa tối vào
ngày hôm sau, Chúa Giê-su tỏ ra buồn phiền: “Có người trong các con sắp
phản Thầy” (Mt 26, 21). Các môn đệ nhìn nhau và hỏi: “Có phải con không,
Thưa Thầy?” Giu-đa cũng hỏi: Thưa Thầy, có phải con không? Chúa trả lời:
“Con nói đúng đó!” Giu-đa đi ra, “lúc đó là đêm tối”... Bằng nụ hôn giả
dối, Giu-đa chỉ điểm để quân lính bắt Chúa Giê-su trong vườn Cây Dầu (Lc
22, 50). Giu-đa có quyền dự tiệc bê béo, nhưng lại chọn thờ lạy bò vàng.
Chứng kiến cuộc khổ nạn của Thầy, lòng Giu-đa đầy hối hận (Mt 27, 3).
Tội ác vừa phạm xong, Giu-đa đã thấy chán chường. Hối hận tận đáy thâm
sâu của tâm hồn, Giu-đa đem mối sầu ấy đi gởi chỗ không đáng gởi “Giu-đa
ném các đồng bạc trả lại vào mặt các thượng tế và nói: Tôi đã phản bội,
nộp máu người vô tội". (Mt 27, 4). Trước sự tráo trở của các thượng tế
và kỳ lão: “Can chi đến chúng tôi, mặc kệ anh” (Mt 27, 4), Giu-đa ném
những đồng bạc đó vào Đền Thờ và ra đi xuống thung lũng Hin-nom, thung
lũng đầy kỷ kiệm khủng khiếp của âm ty. Giu-đa bước đi trên đất lạnh cát
sỏi, giữa những tảng đá nhọn sắc, những cây cối cong queo gầy guộc như
tâm hồn trĩu nặng nỗi đớn đau. Giu-đa cởi dây lưng quăng một đầu dây vào
vào một cành cây to, đầu dây kia quàng quanh cổ. Tiếng gió rì rào như
thầm nhắc lời mà Giu-đa đã từng nghe: “Hỡi những ai khó nhọc gánh nặng,
hãy đến cùng Ta, tâm hồn các con sẽ được bình an”. Than ôi! Giu-đa hối
hận vì chính mình nên chọn cái chết để kết liễu lầm lạc. Mặt trời
nghiêng bóng tối dần. Ở Si-on, từ hai phía đối diện, có hai cây đi vào
lịch sử, một cây ở núi sọ: cây hy vọng, một cây ở Hinmon: cây thất vọng.
Trên cây hy vọng, Đấng Chịu Đóng Đinh liên kết đất trời; trên cây thất
vọng, người bị treo xa đất xa trời. Hối hận của Giu-đa không đúng nghĩa
hối hận. Chán chường tội lỗi không đủ mà cần phải ăn năn thống hối nữa.
Tỉnh ngộ và chán chường mới chỉ là bước đầu, cần phải sám hối trở về đón
nhận ơn tha thứ, tìm lại sự sống.
3. Giới lãnh đạo Do-thái. Vì ghen ghét mà
giới lãnh đạo tôn giáo Do-thái đã chủ mưu trong vụ án giết Chúa Giê-su
(Mt 27, 18). Dân chúng mến phục ủng hộ, nhiều người tin vào Chúa Giê-su.
Ảnh hưởng của Người ngày càng lớn trên dân chúng. Cuộc xung đột không
những về quan niệm tôn giáo mà còn liên quan đến quyền lợi vật chất của
giới lãnh đạo nên họ quyết tâm giết Chúa Giê-su. Đạo Do-thái là đạo của
đền thờ, đạo của lễ tế. Dịch vụ lễ tế là một dịch vụ quan trọng về
phương diện tôn giáo và cả về kinh tế. Hàng tư tế sống nhờ vào lễ tế. Lễ
tế của dân, dịch vụ cung cấp những phương tiện lễ tế như bán chiên bò
cừu bồ câu hương hoa và cả dịch vụ đổi tiền. Gia đình các tư tế, con dâu
con rễ của họ độc quyền khai thác dịch vụ này. Vậy mà Chúa Giê-su lại
dám xua đuổi họ không cho buôn bán trong khuôn viên Đền Thờ. Người còn
thách thức: “Cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây
dựng lại.” Theo Gio-an, lời thách thức quyền bính của Chúa Giê-su có ý
ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người (Ga 2, 21 – 22). Nhưng
giới lãnh đạo hiểu là đền thờ Giê-ru-sa-lem nên họ coi là sự xúc phạm
Đền Thờ. Thách thức phá huỷ Đền Thờ, dẹp bỏ những phương tiện của lễ tế,
quả thật là tội không thể tha thứ. Vì thế mà họ căm thù và tìm cách giết
Người cho bằng được. Những người Pha-ri-sêu sống trong thế giới tách
biệt, không chấp nhận dân ngoại, loại trừ người tội lỗi, giữ luật cách
máy móc nô lệ. Còn Chúa Giê-su thì sống hoà mình giữa những người tội
lỗi, đồng hành, đồng bàn ăn uống với họ, đến với dân ngoại. Người phê
bình sự giả hình của người Pha-ri-siêu. Người lại còn không giữ luật
ngày Sa-bát, vì đối với Người “Ngày Sa-bát đựoc lập ra vì con người, chứ
không phải con người vì ngày Sa-bát” (Mt 2, 27). Người còn xưng mình là
Con Thiên Chúa (Mt 26, 61; Mc 14, 58). Trước bao nhiêu là “tội trạng”
của Chúa Giê-su, Thượng Hội Đồng đã tuyên án. Nhưng họ không còn quyền
lên án và xử tử bất cứ ai vì quyền đó thuộc quyền của toà án chính quyền
bảo hộ. Vì thế họ phải nộp Chúa Giê-su cho Tổng Trấn Phi-la-tô. Theo
Mác-cô và Mát-thêu thì Chúa Giê-su bị thẩm vấn về hai tội danh: một là
Người đã xúc phạm đến Đền Thờ khi tuyên bố “Tôi sẽ phá huỷ Đền Thờ này,
rồi nội trong ba ngày sẽ xây dựng lại” (Mt 26, 61; Mc 14, 58); hai là tự
xưng mình là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa (Mt 26, 63; Mc 14, 61). Trong Tin
Mừng theo Lu-ca chỉ thấy nói nói đến tội danh thứ hai (Lc 22, 67). Trong
Tin Mừng theo Gio-an nói tới việc thượng tế hỏi Chúa Giê-su về các môn
đệ và giáo huấn của Người (Ga 18, 19). Họ tài tình khéo léo khi biến tội
danh tôn giáo thành tội danh chính trị “Chúng tôi phát giác ra tên này
xách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế
Xê-da, lại còn xưng mình là Mê-si-a, là vua nữa” (Lc 23, 2). Tội xúi
giục nổi loạn, tội ngăn cản dân nộp thuế cho nhà vua, tội xưng mình là
vua. Cả ba tội đều đáng chết, không một chính quyền nào có thể dung tha.
Vụ án Chúa Giê-su rõ ràng là vụ án tôn giáo chứ không phải là một vụ án
chính trị, mặc dầu hình thức xử tử và tội danh được ghi trên đầu Chúa
Giê-su là như thế. Người bị đóng đinh, theo luật Rô-ma và với tội danh
là “Vua dân Do-thái” chứ không bị ném đá theo luật Do-thái và với tội
danh Con Thiên Chúa. Chủ mưu trong vụ án là dân Do-thái, nhất là những
người lãnh đạo của họ, Thượng Hội Đồng. Họ đã thành công, sung sướng mãn
nguyện khi dẹp yên một chướng ngại lớn lao.
4. Tổng Trấn Phi-la-tô. Vì hèn nhát mà
Phi-la-tô đã đổ máu người vô tội. Trách nhiệm chính trong cuộc xét xử
đứng về mặt pháp lý là Phi-la-tô, ông ta ý thức rõ điều đó (x. Ga 19,
10). Biết Chúa Giê-su vô tội mà vẫn kết án (x. Ga 18, 38; 19, 4.6). Kẻ
đại diện cho công lý lại chà đạp công lý. Phi-la-tô hèn nhát không dám
tha vì sợ quần chúng đang cuồng nộ. Lo sợ nguy hiểm cho chức quyền của
mình nên chủ trương thà bảo vệ chức quyền hơn bảo vệ công lý. Trước áp
lực ghê ghớm của đám đông đang bị hàng tư tế xách động, Phi-la-tô đã
chiều theo ý họ để giữ lấy cái ghế Tổng Trấn của mình. Ong đã kết án tử
hình cho Chúa Giê-su, trao Người cho dân Do thái điệu lên đồi Gôngôtha
để đóng đinh. Phi-la-tô rữa tay phân bua mình vô tội trong vụ án này (Mt
27, 24).
5. Xin được sống yêu thương. Suy nghĩ về vài
nhân vật, ít sự kiện trong cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su, cũng đủ thấy
con người hay thay lòng đổi dạ, đổi trắng thay đen dễ như trở bàn tay.
Vì tham lam, vì bổng lộc cá nhân, vì lợi lộc đảng phái, vì quyền lợi
giai cấp, con người ta không từ một thủ đoạn nào. Có khi còn bán rẻ
lương tri để mua một chút vinh hoa trần thế. Giữa Chúa Nhật Lễ Lá và Thứ
Sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của người tín hữu. Hôm nay
hoan hô, chúc tụng Chúa: vạn tuế, vạn tuế. Có thể ngày mai gào thét: đả
đảo, hãy đóng đinh, hãy đóng đinh nó vào thập giá. Hôm nay yêu thương,
ngày mai oán ghét. Hôm nay hân hoan, ngày mai buồn sầu. Hôm nay hiền
hòa, ngày mai hung dữ. Hôm nay tin tưởng, ngày mai hoài nghi. Danh sách
các mâu thuẫn giữa thiện và ác còn có thể tiếp tục nối dài.
Cuộc sống có nhiều tiêu cực hơn tích cực? Con người
làm khổ nhau nhiều hơn là làm đẹp lòng nhau? Người ta xích mích, gây
chia rẽ bất hòa nhiều hơn là xây dựng, yêu thương? Tôn vinh Chúa ở trong
Nhà Thờ nhưng có sống Tin Mừng trong cuộc đời không? Chúa Giê-su bị phản
bội, bị hiểu lầm, bị ghen ghét, chịu kết án cách bất công để cứu nhân
loại khỏi án phạt đời đời. Người đã chết để đền tội, để chuộc tội, để
gánh tội, để cứu độ con người. Người cho chúng ta được thông phần cuộc
sống của Đấng “là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”, cho chúng ta “được
sống dồi dào”. Con người được dựng nên để sống và sống để yêu Chúa và để
yêu nhau. Thiên Chúa là tình yêu nên đã sáng tạo muôn loài, đã tạo dựng
và cứu chuộc con người. Nhập Thể và Cứu Chuộc là mầu nhiệm của tình yêu.
Chúa Giê-su đã chấp nhận đau thương để đem lại yêu thương cho con người.
Người đã biến đổi viên mãn của đau thương thành viên mãn của yêu thương
qua cuộc khổ nạn (x. 1 Cr 15, 26. 54; Dt 2, 14), để từ trong cái chết vì
tình yêu, sự sống vươn lên tươi đẹp như một mùa lúa mới (Ga 12, 24).
Xin Chúa cho chúng con luôn sống yêu thương,
biết đem Tin Mừng bình an đi xây dựng cuộc đời, cùng thắp lên ánh sáng
công lý và sự thật giữa cuộc đời hôm nay. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Lễ Lá có một khởi đầu vui và một kết thúc buồn. Đức
Giêsu long trọng vào thành thánh Giêrusalem trong lời hoan hô chúc tụng
và sau đó chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên thập giá.
Con đường vào thành Giêrusalem vinh quang vương giả
với đám đông ngưỡng mộ, cành lá và quần áo trải thảm đường đi. Con đường
lên Núi Sọ với thân kẻ tội đồ vác thập giá, những lời nhục mạ, roi đòn
tơi tả và hai tội nhân đồng hành.
Tiến bước theo Chúa trên đường thương khó để chứng
kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người.
Từ Chúa Nhật Lễ Lá đến Thứ Sáu Tuần Thánh thời gian
không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến
Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ lối khác. Tại sao
như thế?
Theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện
những ngã rẽ trên hành trình cuộc đời. ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt suy tư
về ba ngã rẽ tiêu biểu, của Giuđa, Phêrô và đám đông.
1. Ngã rẽ của đám đông.
Dân thành Giêrusalem nô nức phấn khởi, trải áo
choàng, chặt những cành lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm
cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón
rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua
Đavít”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Thế mà sau đó không
lâu, nghe lời xúi giục của tư tế, kinh sư, pharisiêu, họ lại biểu tình
đả đảo, chống đối, hò la, gào thét đòi “đóng đinh nó đi!”. Hàng vạn
người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao
người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên
Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười.
Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ sang lối dư
luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa
thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người
ta kết án Chúa thì cũng kết án. Đám đông thật nông nổi nhẹ dạ. Đám đông
thường dễ bị lôi cuốn, người ta làm gì mình làm nấy mà nhiều khi chẳng
biết tại sao. Có nhiều người trong đám đông đó không hề thù ghét Chúa
Giêsu. Có lẽ còn có nhiều người đã từng nhận ân huệ của Chúa Giêsu! Thế
nhưng, họ đã bị đám đông lôi cuốn vào việc kết án người công chính. Giữa
cuộc đời hôm nay, biết bao người công chính, thanh liêm, trung trực,
chính nghĩa đã chịu vu vạ cáo gian dẫn đến tù tội do đám đông nông nổi
bị lừa dối, bị tuyên truyền!!!
2. Ngã rẽ của Giuđa
Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt ba
năm. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quản lý. Một ngày
kia Chúa Giêsu đang cùng các môn đệ dùng bữa tại nhà ông Simon, bỗng có
một phụ nữ đem đến một chai dầu thơm quí giá, rồi chị lấy dầu xức lên
chân Chúa. Giuđa phản đối “Sao lại phí thế! Đem chai dầu bán cũng được
hơn 300 đồng bạc, lấy số tiền đó đi giúp người nghèo có phải thực tế hơn
không?”. Giuđa có đầu óc biết tính toán và thực tế của người quản lý tài
chánh.
Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa
chịu chết thì ông biệt vắng. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ theo tiền
bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước
xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ
Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền. Một con người bạc
bẽo, vô tình vô nghĩa. Trong tình yêu có gì đẹp bằng nụ hôn! Vậy mà
Giuđa dùng nụ hôn làm dấu hiệu nộp Thầy. Trong tình yêu, tội phản bội
làm tổn thương và đau đớn vô cùng. Tình yêu càng lớn lao bao nhiêu, khi
bị phản bội càng đau đớn bấy nhiêu. Ngã rẽ Giuđa biểu tượng cho những
người quá say mê của cải vật chất ở đời này đến mức quên tình quên
nghĩa, phản bội người khác, kể cả ân nhân của mình.
3. Ngã rẽ của Phêrô.
Phêrô là môn đệ thân tín của Chúa. Là người đứng
đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung
thành với Chúa. Ngày Lễ Lá, Phêrô ở bên Chúa. Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh,
chẳng thấy bóng ông đâu. Phêrô đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng,
thích hưởng thụ và sợ bị liên lụy. Lười biếng vì khi vào vườn
Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ
ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Thầy
thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã
kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa. Phêrô
chối Chúa cũng vì ông sợ bị liên lụy. Nếu những người hỏi ông không phải
là những người của vị Thượng Tế đang xét xử Chúa Giêsu thì chắc Phêrô
vẫn mạnh dạn nhìn nhận mình là môn đệ Đức Giêsu. Nhưng vì họ là người
của Thượng Tế nên ông phải chối, kẻo họ báo cáo rồi ông cũng bị bắt
luôn.
Phêrô đã theo Chúa Giêsu suốt ba năm. Phêrô nếm
trải biết bao gian khổ, ông đón nhận tất cả mà không kêu ca nề hà gì.
Nhưng hôm nay ông chối Chúa vì sợ bị liên lụy, vì an toàn của sinh mạng.
Ông chấp nhận từ bỏ và hy sinh, nhưng chỉ đến một giới hạn nào đó thôi.
Phêrô là người được Chúa Giêsu yêu thương, chăm
sóc, lo lắng, và được Ngài ban cho biết bao là ân huệ. Nào là vai trò
thủ lãnh của Nhóm Mười Hai, nào là nhiệm vụ cầm giữ chìa khóa Nước Trời:
“Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy;
dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt
16,19); và còn được gọi là Kêpha, nghĩa là đá … vậy mà khi đối mặt với
một đứa hầu gái vô danh tiểu tốt, đá lại mềm ra như bún, ông chối phăng
không biết Giêsu là ai, ông lại còn dám cả gan thề độc: "Tôi thề là
không có biết người các ông nói đó!” (Mc 14,71). Ông là người nhiệt tình
nhất với Chúa Giêsu, thế mà cuối cùng cũng chối Thầy. Thế mới biết, bất
cứ ai cũng yếu đuối và cũng có thể sa ngã nặng nề. Phêrô đã sa ngã. Vậy
mà ông cứ luôn tưởng rằng mình mạnh mẽ.
Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán
Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Người ta thay lòng đổi dạ do tác động của
tiền bạc, của hưởng thụ, sợ bị liên lụy và của theo hướng của dư luận.
Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.
Nếu có mặt trong ngày Chúa chịu khổ nạn, tôi và bạn
có rẽ sang lối nào không? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường phản bội của
Giuđa? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường chối Chúa của Phêrô? Tôi và bạn
sẽ rẽ sang những con hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn đệ? Tôi và
bạn sẽ phụ hoạ với đám đông kết án Chúa? Hay tôi và bạn cũng theo quân
lính đánh đập Chúa? Tôi và bạn có kết án bất công như Philatô không? Tôi
và bạn có hùa với kẻ mạnh đàn áp bắt nạt người thấp cổ bé miệng như đám
đông dân chúng không? Tôi và bạn phải dứt khoát lựa chọn một con đường.
Con đường theo Chúa không êm ái nhẹ nhàng và thênh
thang đâu. Đó là con đường thập giá: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính
mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo” (Lc 9,23). Đường thập giá là
đường một chiều. Đường thập giá là đường lên dốc. Và đường thập giá là
đường có nhiều ổ gà dằn xóc. Vì thế mà có nhiều người bỏ cuộc nên rẽ
sang một hướng đi khác. Nhận diện những ngã rẽ nguy hiểm của tiền bạc
dẫn lối, thích an nhàn hưởng thụ, sợ liên lụy bản thân và hùa theo dư
luận để chúng ta tỉnh táo mà bước đi trên hành trình đức tin cuộc đời.
Vác thập giá hôm nay chính là đón nhận những bệnh tật, thất bại, đau
khổ, bất công… như những thử thách của lòng tin để vững bước theo Chúa
đến cùng.
Tuần Thánh, chúng ta cùng dõi bước theo con đường
thập giá của Chúa Giêsu. Đó là con đường đau khổ, nhưng cũng là con
đường tình yêu và là con đường cứu độ.
Lạy Chúa, xin cho con luôn mạnh mẽ và kiên trì
tiến bước theo Chúa trên mọi nẻo đường Chúa dẫn con đi. Amen.
Trong đời linh mục, nhiều lần chúng tôi được chứng
kiến người ta chết. Hoặc chúng tôi cũng được nghe người trong gia đình
nói về người thân của họ chết như thế nào. Thí dụ: Thưa cha, cám ơn
Chúa, mẹ con đã ra đi rất êm ả, bà chết thật là thánh thiện. Hoặc: Bố
con khi còn sống chỉ ước ao được chết vào ngày Thứ Sáu đầu tháng, vì ông
cụ rất có lòng kính mến Trái Tim Chúa Giêsu, và Chúa đã thương nhận
lời... Thực tại cái chết là một chuyện, nhưng tư thái của người ta lúc
hấp hối và chết là chuyện khác và nhiều khi thật quan trọng và nói lên
con người đó là ai, như thế nào.
Với bài Thương khó trích sách Tin Mừng Mác-cô,
chúng ta có một nhân chứng hết sức đặc biệt đã chứng kiến giờ hấp hối
của Chúa Giêsu trên thập giá và đã phát biểu niềm tin của ông về Chúa
Giêsu. Nhân chứng đó chính là viên sĩ quan Rôma, người có trách nhiệm
việc thi hành án tử hình, đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Ông ta là
người có nhiệm vụ xác nhận Chúa Giêsu đã thực sự chết rồi hay là chưa,
cho nên ông càng phải quan sát kỹ lưỡng hơn ai hết. Thánh Mác-cô đã ghi
lại một câu nói về ông ta như sau: “Viên đại đội trưởng đứng đối diện
với Chúa Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: Quả thật, người này
là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39).
Tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô và là Con Thiên
Chúa, đó là mục đích của sách Tin Mừng Mác-cô. Khi viết sách Tin Mừng,
thánh Mác-cô mở đầu với tựa đề: Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con
Thiên Chúa, rồi kết thúc với lời tuyên xưng của viên sỹ quan Rôma đứng
gần thập giá và chứng kiến cái chết của Chúa Giêsu: Quả thật, người này
là Con Thiên Chúa. Viết như thế, thánh Mác-cô muốn trình bày và mời gọi
chúng ta hãy đi vào một cuộc hành trình đức tin. Vậy hành trình đức tin
ấy như thế nào? Hành trình ấy bắt đầu từ một khẳng định thuộc phạm vi
hiểu biết, nói với chúng ta rằng: Chúa Giêsu là Đấng Kitô, là Con Thiên
Chúa. Tiếp theo, hành trình đó đưa chúng ta đi theo Chúa Giêsu trên
đường thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, nhìn những việc Người làm, nghe
những lời Người giảng dạy, theo Người lên Giê-ru-sa-lem để thấy Người
luôn tuân phục Chúa Cha và sẵn sàng chấp nhận cuộc Khổ nạn, và cuối cùng
đứng dưới chân thập giá để cùng với viên sĩ quan Rôma tuyên xưng Chúa
Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Ở đây, lời tuyên xưng là một niềm
tin phát xuất từ trái tim con người. Không còn là một khẳng định thuộc
phạm vi lý trí và hiểu biết nữa, nhưng là một sự tiếp nhận, một tâm tình
hay một xác tín của con tim chúng ta. Không còn là “tôi biết, tôi hiểu
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa” nữa, nhưng là chính tâm tình của chúng ta,
phải giống như tâm tình của tông đồ Tô-ma khi ngài tuyên xưng: “Lạy Chúa
tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!”
Vậy viên đại đội trưởng người Rôma đã nhận ra điều
gì khác lạ nơi kẻ tử tội Giêsu, không giống như những kẻ tử tội khác?
Sách Tin Mừng không nói đến, nhưng chắc chắn chúng ta cũng có thể hình
dung ra được. Bình thường những tử tội quen với tính hung dữ hoặc bất
mãn của mình, hay chửi rủa oán hận người khác hoặc những kẻ hành quyết
mình, bằng lời nói tục tằn cay đắng hoặc cử chỉ bất nhã. Nhưng tất cả
những gì viên sĩ quan Rôma quan sát được nơi Chúa Giêsu lại hoàn toàn
khác. Không hề nghe một lời oán trách hay làm mích lòng, mà trái lại chỉ
có những lời tha thứ kẻ thù, tha thứ những kẻ chế giễu mình, khích lệ
người trộm lành, ân cần lo lắng cho mẹ già, cho người môn đệ dấu yêu, và
nhất là những lời kinh tha thiết thưa cùng Thiên Chúa Cha. Nếu có thì
giờ, chúng ta hãy lần rở những dòng Kinh Thánh ghi lại các lời vàng ngọc
của Chúa Giêsu trong giây phút cuối đời, để tìm thấy qua đó hình ảnh
đích thực của Đấng “đã cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình”
(15:31). Rồi viên sĩ quan Rôma không thấy nơi Chúa Giêsu một ánh mắt thù
hằn, mà chỉ thấy đôi mắt hiền từ sáng ngời bên những giọt máu, trào dâng
tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại. Chúng ta cũng tin rằng chính
ánh mắt tha thứ và mời gọi của Chúa Giêsu đã hoán cải tâm hồn chai đá
của một chiến sĩ Rôma và biến ông thành người môn đệ của Chúa trong
tương lai.
Bước vào Tuần Thánh, qua bài Tin Mừng, Phụng vụ Lời
Chúa muốn cho chúng ta một cái nhìn tổng quát về cuộc Thương khó của
Chúa Giêsu, để chúng ta sẽ dần dần đi vào từng suy niệm sâu xa hơn mà
cảm nghiệm được tình yêu cứu chuộc của Thiên Chúa. Tuy nhiên trong chính
cuộc sống hằng ngày, chúng ta là Kitô hữu được mời gọi hãy tháp nhập
những đau khổ của chúng ta vào cuộc Khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu,
để nhờ đó chúng ta khám phá được ý nghĩa của đau khổ mình đang chịu.
Chúa muốn chúng ta đi theo con đường thập giá Chúa Giêsu đã đi qua. Chúa
muốn rằng qua tư thái hoặc cách thức chúng ta chịu đau khổ, người khác
có thể nhận ra những khác biệt nơi người Kitô hữu, nghĩa là không phàn
nàn oán trách, nhưng tin tưởng phó thác trong tay Chúa, không cay đắng
muốn chối bỏ, nhưng coi thánh giá là một vinh dự lớn lao. Chính trên
thập giá và trong cái chết của mình, Chúa Giêsu đã được nhận biết là
Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa. Cũng thế, nếu Kitô hữu chúng ta thể hiện
được những tâm tình tha thứ, cầu nguyện, yêu thương của Chúa Giêsu trên
thập giá khi chúng ta chịu đau khổ, thì chắc chắn chúng ta có thể làm
cho những người chung quanh chúng ta nhận ra chúng ta là ai. “Quả thực,
người này là con Thiên Chúa.” Mong được như vậy.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Việc phối trí những đoạn ký sự khác nhau trong bốn
bộ Phúc Âm nêu ra những vấn đề không thể đề cập ở đây. Các thánh chép sử
trước hết không chú ý viết tiểu sử Đức Giêsu và thuật lại theo lối viết
sử biến cố đã xảy ra ở Pa-lét-xti-na. Các ông chỉ muốn là những nhân
chứng. Các ông làm chứng cho lòng tin của mình vào Đức Giêsu Kitô, Con
Thiên Chúa, đã chết và sống lại, Đấng Cứu Tinh. Những sự kiện do các ông
thuật lại cho dù có chính xác đến đâu, bố cục hợp lý đến đâu, điều đó
đối với các ông không quan trọng lắm. Vì thế, tuy cùng đặt cơ sở trên 1
nền chung không thể chối cãi, mỗi thiên ký sự lại mang những mầu sắc
khác nhau cho thấy vẻ độc đáo trong cung điệu mỗi thánh chép sử làm
chứng cho niềm tin của mình. Chúng ta cần nhớ thế khi muốn so sánh những
ký sự nói về cuộc Thương Khó.
Đoạn văn suy niệm hôm nay cho thấy những nét nổi
bật sau:
1) Ngay phần đầu, thánh Maccô thuật lại mấy
sự kiện cốt nhấn mạnh vào sự vâng lời cách tự nguyện và sáng suốt của
Chúa Giêsu dấn thân vào cuộc Khổ nạn của Người.
Chúa biết Chúa đi về đâu. Chúa nói ra điều đó trong
dịp người phụ nữ đập vỡ bình bạch ngọc và đổ dầu thơm trong bình lên đầu
Người. Trước khi xảy ra, bà đã lấy thuốc thơm ướp xác Ta, chờ khi
liệm táng. Chúa biết rằng ngày hôm sau Chúa sẽ chết.
Sự quyết tâm của Chúa không phải là việc dễ làm.
Vâng lời Cha là tự chinh phục bản thân. Chúa trải qua một cơn hấp hối
trong vườn Ghetsêmani, cuối cơn khắc khoải Người nói một lời ngắn và dứt
khoát: Thế là xong, có nghĩa là Người đã quyết rồi, giao kết xong rồi,
ưng thuận rồi.
Chúa lưu ý những kẻ đến bắt Chúa rằng nếu Người
muốn, Người có thể vô hiệu hóa bọn chúng những đã từng làm trong bao lần
giảng dạy ở Đền thờ và những nơi khác. Chúa nhấn mạnh, Người để chúng
bắt giữ chỉ vì Người đã làm theo ý Thiên Chúa như loan báo trong Kinh
Thánh. Đoạn Phúc Âm tiếp đó đưa ra những ví dụ khác được thánh Maccô nêu
lên và làm chứng, đó là sự vâng lời tự nguyện của Chúa.
2) Thánh chép sử lưu ý chúng ta đến sự cô đơn
của Chúa Giêsu. Người bị cô lập, bị tách rời dân chúng. Mấy ngày
trước đây, chính dân đó đã hoan hô Người. Những thày tư tế và ký lục
chuẫn bị chọn giờ hành động và sắp đặt thời gian để vận động quần chúng.
Quần chúng dễ thay lòng đổi ý (cái gọi là “dư luận” được uốn nắn do
những nhà kỹ thuật về khoa điều khiển dân ý, dân tình). Dân chúng đã bỏ
Chúa.
Trong cơn hấp hối, Chúa cô đơn. Hơn ai hết, Chúa
biết rõ các môn đệ Người là những kẻ bất lực chẳng thể đem đến một sự
giúp đỡ nào cho Người, nhưng dù sao nếu có họ lúc đó thì cũng là một
niềm an ủi. Thế mà họ ngủ.
Chúa chỉ có một mình trong khi dấn thân. Lúc Chúa
dấn thân bằng cách nộp mình cho toán quân dữ đến bắt Người, các môn đệ
có 1 dịp hành động theo lời cam kết của Phêrô mà tất cả các ông đã tán
đồng: Dù có phải chết vì Thày, con sẽ chẳng bỏ Thày. Ấy vậy mà,
theo thánh Maccô ghi lại, họ bỏ Chúa, tất cả trốn hết.
Chúa một mình giữa pháp đình. Không một ai dám tới
làm chứng gỡ tội cho Người. Chúa Giêsu đã muốn biết thế nào là nỗi chua
xót đắng cay của tình bạn khi mà 1 người “bạn” vì sợ hay vì tư lợi không
muốn bị liên can, không muốn bị “dính”, để bỏ rơi Người mà lẽ ra y phải
cứu giúp.
Chúa một mình trên thập giá. Cả những kẻ trộm cướp
cũng thóa mạ Chúa (tuy rằng sau đó một kẻ trong bọn này sẽ ăn năn trở
lại). Một nỗi cô đơn tột bực: Chúa ơi, Chúa ơi, sao Chúa bỏ con?
Sự vâng lời tự nguyện của Chúa, một sự vâng lời
thuần khiết và cô đơn, có lẽ đấy là phương thế Chúa Giêsu dùng để sống
cách thấm thía tấn bi kịch của số mệnh chúng ta.
Tuần thánh bắt đầu bằng Chúa Nhật Lễ Lá: Phụng vụ
hôm nay gồm hai phần vui buồn đan xen vào nhau: Trong phần đầu lễ chúng
ta cùng nhau rước Chúa Giêsu khải hòan vào thành Giêrusalem (x Mc
11,1-10). Phần thứ hai là thánh lễ với bài Thương Khó (x Mc 14,1-15,47).
Từ đó chúng ta cùng rút ra bài học sống đức tin thế nào trong những hòan
cảnh vui buồn trong cuộc sống
1. Con đường khải hoàn vào thành Giêrusalem:
Trong giờ phút này, chúng ta hãy chiêm ngắm cảnh
tượng Đức Giêsu đang long trọng tiến vào thành Giêrusalem. Ngài khiêm
tốn ngồi trên lưng lừa con. Có nhiều người trải áo và rải cành cây trên
lối Ngài đi để tỏ lòng tôn kính. Những tiếng reo hò vang dậy: Người ta
tung hô Đức Giêsu là Đấng Mêsia, là Vua thuộc dòng dõi Đavid, là Đấng sẽ
đến để giải phóng Israel. Đức Giêsu im lặng để dân chúng tung hô hầu ứng
nghiệm lời tuyên sấm: “Hãy bảo thiếu nữ Xion: Kìa Đức Vua của người đang
đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một
con vật chở đồ” (Dcr 9,9).
2. Con đường thập giá: qua đau khổ vào vinh
quang:
Sau những giây phút tưng bừng náo nhiệt này, chúng
ta được nghe bài thương khó: Chúa Giêsu hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua, hầu
mang lại ơn cứu độ cho loài người. Quả thực, Ngài là Vua, nhưng là Vua
Mục Tử: “Đến không đòi được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống
làm giá chuộc muôn người”. Ngài đã chọn con đường cứu thế theo thánh ý
Chúa Cha là “qua đau khổ vào trong vinh quang”, qua cuộc Tử Nạn để bước
vào mầu nhiệm Phục Sinh.
3. Con đường sống đức tin hôm nay:
Từ hai biến cố trên, mỗi chúng ta phải sống đức tin
thế nào trong cuộc sống đời thường?:
- Không ai vô tội: Một trong những
bức tranh nổi tiếng nhất của hoạ sĩ Rembrandt thế kỷ 17, là bức họa “Ba
Cây Thập Tự”. Khi chiêm ngưỡng tác phẩm này, hầu như ai cũng đều bị thu
hút nhìn vào trung tâm của bức tranh: Ở giữa hai cây thập giá của hai kẻ
bất lương, thập giá của Đức Giêsu vượt lên cao hơn. Dưới chân thập giá
của Chúa là cả một rừng người, trên mặt ai nấy đều lộ vẻ căm thù oán
hận, trong đó có cả khuôn mặt của nhà danh họa tác giả bức tranh … Qua
đó ông muốn nói rằng: Mọi người chúng ta không ai là không dính líu vào
tội đã đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá.
- Phải luôn tự kiểm: Mỗi người chúng
ta hãy tự kiểm điểm: Nếu có mặt trong thời điểm xảy ra cuộc khổ nạn của
Chúa Giêsu hôm đó, tôi có vác đỡ thập giá cho Chúa như ông Simon Kyrênê
đã làm không? Có biểu lộ đức tin và lòng sám hối như người trộm lành
trên cây thập giá không? Có can đảm đứng dưới chân thập giá để nhận
những lời trăn trối cuối cùng của Chúa như Mẹ Maria và môn đệ Gioan...
hay không? Chúng ta cũng đừng nghĩ rằng mình sẽ không chối Thầy như
Phêrô, hoặc không hèn nhát trốn chạy như các môn đệ, hay không bán Thầy
như Giuđa, hoặc không kết án bất công như Philatô, không hùa theo kẻ
mạnh để đàn áp bắt nạt người tấp cổ bé miệng như đám đông dân chúng,
không đánh đòn và đóng đinh tay chân Chúa Giêsu vào thập giá như bọn
lính hung ác…
- Điều kiện theo Chúa: Đã hơn 2000
năm qua đi, tất cả những gì xảy ra thời Đức Giêsu vẫn còn tiếp diễn. Mỗi
người chúng ta cũng được Đức Giêsu mời theo Ngài: "Ai muốn theo tôi,
phải từ bỏ chính mình, váv thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9, 23).
Vác thập giá hôm nay chính là đ1on nhận những sự thử thách như bệnh tật,
thất bại gặp phải, những lời nói nhục mẠ bất công... Đó là những thập
giá do Chúa cho xảy đến để thử thách đức tin của ta và khích lệ ta theo
Chúa đến cùng
- Làm gì trong cuộc sống hôm nay?:
Trong tuần Thánh, chúng ta hãy năng tham dự các lễ nghi Tuần Thánh tại
Nhà thờ để có dịp chiêm ngắm cuộc thương khó của Chúa hầu gia tăng lòng
tin yêu để luôn chọn đi theo con đường của Chúa: Con đường hẹp và leo
dốc, con đường khiêm nhu dấn thân và phục vụ tha nhân. Con đường này sẽ
dẫn chúng ta về tới thành thánh Giêrusalem trên trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết luôn tin cậy
bước đi theo Chúa, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan và ngàn lần
quảng đại hơn con. Xin cho con luôn dấn thân theo Chúa mà không tính
toán thiệt hơn, vượt qua mọi nỗi sợ hãi, can đảm lướt thắng những yếu
đuối, và biết phó thác trọn vẹn vào tình thương của Chúa. Ước gì khi gặp
phải những đau khổ thử thách, chúng con sẽ cảm nghiệm được tình Chúa
thương con và trung thành bước theo con đường của Chúa đến cùng.- Amen.
(Suy niệm của Lm Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc. -
Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Tin Mừng (Mc 14: 1; 15: 1-39): Dưới cái nhìn
lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động
tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây hai ngàn năm.
Văn sĩ Fabran Lagerkvist của Thụy Điển đã đoạt giải
Nobel văn chương năm 1966 nhờ quyển tiểu thuyết nổi tiếng có tựa đề là
“Baraba”. Baraba là một tên cướp được nhắc đến trong vụ án của Chúa
Giêsu. Theo các sách Tin Mừng kể lại: Baraba là một tên cướp khét tiếng
đã phạm nhiều tội ác và sa lưới pháp luật. Hằng năm vào những ngày lễ
lớn, quan Tổng trấn đại diện cho Đế quốc Rôma tại Palestina có thói quen
ân xá cho một tội nhân. Năm đó, Tổng trấn Philatô đã đưa Chúa Giêsu và
Baraba ra trước mặt dân chúng và hỏi họ nên tha cho ai. Toàn dân đã la
lớn: tha cho Baraba và đóng đinh Chúa Giêsu.
Dựa vào sự kiện lịch sử này, văn sĩ Lagerkvist
đã tưởng tượng ra quãng đời còn lại của Baraba. Baraba đã trở nên một
con người quyền thế được mọi người biết đến. Baraba có được tất cả, bởi
vì chính Chúa Giêsu đã chết thay cho ông. Thế nhưng ông không hề muốn
nhắc đến Chúa Giêsu và cũng không muốn biết Ngài là ai.
Lý do khiến văn sĩ Lagerkvist được trao giải Nobel
văn chương là vì qua nhân vật Baraba, ông đã họa được chân dung đích
thực của con người. Baraba chính là con người được cứu độ nhờ Chúa
Giêsu, nhưng vẫn không hiểu lý do tại sao. Con người ngày nay không tin
vào Chúa Kitô và nhất là muốn loại bỏ Ngài ra khỏi con người thời đại.
Với những tiến bộ vượt bực trong khoa học kỹ thuật, con người chẳng khác
nào một thứ Baraba trong tác phẩm của Lagerkvist: con người tưởng mình
là Đấng cứu độ của chính mình, con người tưởng mình có thể loại bỏ mọi
chiều kích siêu việt của cuộc sống, con người tưởng mình có thể sống mà
không cần một Đấng cứu độ nào.
Thưa anh chị em,
Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của
Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và
La Mã cách đây hai ngàn năm. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào
đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành
hung Ngài và cuối cùng treo Ngài trên thập giá.
Nhưng dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái
chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm bởi vì một
cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào
việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì
chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là do chính tội lỗi của chúng ta
ngày nay, cho dù cách xa hai ngàn năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo
hò, một sỉ vả hoặc chính là một cái đinh đóng vào thân thể Chúa Giêsu.
Thử hỏi nếu tôi là người đương thời có liên quan
đến vụ án Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào và với thái độ
nào? Phải thú nhận rằng tôi không dễ gì làm được như ông Simon thành
Syrênê đã vác thập giá đỡ Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội vã quả quyết
rằng tôi không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là
Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm môn đệ trốn chạy, hay là Philatô lên án
người vô tội, hoặc là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái
lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ ràng tôi rất yếu đuối, dễ dàng
về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công lý và dễ dàng trung
thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng
lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể và khi gặp nghịch cảnh.
Anh chị em thân mến,
Với Chúa Nhật hôm nay, Tuần Thánh đã bắt đầu. Chúa
Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu
độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thủ đô Giêrusalem giữa tiếng
tung hô của đám đông nô nức phất cao càch lá “Hoan hô con Vua Đavít” có
vẻ một cuộc toàn thắngvang dội. Thực ra đây là một cuộc mở màn thương
khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc
thương khó. Bởi vì chúa biết rõ trong niềm phấn khởi chóng qua của dân
chúng đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ dội trước mặt Tổng
trấn Philatô, trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên:
“Đả đảo! Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!”
Rước là đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải
là một điều khó khăn cho lắm. Đi theo Chuá giữa lúc Ngài được tung hô
chúc tụng là điều dễ dàng. Nhưng tiếp tục đi theo Ngài khi Ngài đã bị
mọi người bỏ rời và lên án, điều đó khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy
nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ
thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba. nếu kitô hữu được
định nghĩa là người đi theo Chúa kitô thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc
nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến. Con
đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buốn. Chúng ta phải có mặt ở trong
đám đông hoan hô Chúa khi vào thành và cũng không được vắng mặt khi Ngài
hấp hối trên thập giá.
Trong những ngày thánh này, chúng ta hãy tìm thời
giờ đọc lại chậm rãi chương 14 và chương 15 của Tin Mừng theo Thánh
Marcô. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm
nhuần và biến đổi chúng ta. Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt
gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội,
ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái
chết. Nhưng trên hết, chúng ta bắt gặp một tình yêu. Tình yêu vô cùng
lớn của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và nhân loại. Chỉ có tình yêu mới
làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ.
Đừng đọc vội vã, hãy ngừng lại khi Chúa có điều
muốn nói với chúng ta, đừng ngắt lời Ngài. Chúng ta có thể thấy mình
giống với Giuđa, Phêrô hay Philatô. Chúng ta không ai vô tội trước cái
chết của Con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến tận thế.
Đừng theo Chúa như một người quay vidéo cho đám
tang, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì chúng ta và cho chúng ta. Sau khi đã
suy niệm lâu dài về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình yêu Thánh giá
của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và trân trọng thánh giá của
người khác hơn.
Đối với các Tông Đồ, việc Đức Giêsu khải hoàn tiến
vào Giêrusalem để khai mào vương quốc, vương quốc mà các ông hằng mơ
tưởng, thế là mộng công hầu khanh tướng của các ông đã thành hiện thực.
Đối với Chúa Giêsu thì đàng sau cái vẻ thành công
bên ngoài đó, Người đã nhìn thấy rõ tương lai, là việc Người bị chối bỏ,
bị kết án. Hơn thế nữa, việc tiến vào Giêrusalem gợi nhớ đến ngày Người
sẽ đến trong vinh quang, là ngày tất cả mọi người sẽ đi vào trong vương
quốc Chúa Cha, ngày họ sẽ nhận Người là Vua đã đến cứu họ, và họ sẽ nhận
Người làm Chúa của họ.
Nhưng cuộc rước lá còn nhắc nhở chúng ta về nghịch
lý mà những người có mặt trong buổi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem đã
phạm phải. Họ cắt nghĩa sai sứ mệnh của Chúa Giêsu. Bởi tuy Người có
tiến vào thành thánh như một vị vua nhưng là để khai trương Nước của
Thiên Chúa Cha. Vị vua mà người Do Thái đón đợi là một Đavid mới, một vị
vua làm cho họ được thống trị trên các dân tộc. Còn việc Đức Giêsu đến
trần thế hoàn toàn khác với niềm mong chờ này của họ.
Cũng vì lẽ đó mà dân chúng đã thay lòng đổi dạ, họ
tung hô Chúa Giêsu nhưng ít ngày sau đó chính họ lại quay lưng, kết án
Ngài. Một Philatô hèn nhát, nhượng bộ đám dân náo loạn bỏ rơi Chúa Giêsu
thay vì phải trả lại sự công chính cho Người. Ngay cả các tông đồ là
những người thân cận với Chúa Giêsu cũng đã phản bội. Giuđa đã nộp Người
bằng cái hôn thân tình. Phêrô chối Thầy 3 lần.
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta
hãy nhìn lại chính bản thân mình. Tôi cũng có thể là một trong những môn
đệ hay đám đông đang khước từ, kết án Chúa Giêsu trong cuộc sống của
mình. Tôi cũng có thể là một Philatô vì không dám sống theo sự thật của
Tin Mừng, đã bao lần tôi sống trong giả dối, chạy theo quyền lực, tiền
bạc, xác thịt để khước từ Thiên Chúa, sợ theo Chúa đòi buộc tôi phải từ
bỏ chính mình. Tôi cũng có thể là một Giuđa phản bội lại Thầy mình, một
Phêrô chối Thầy, đánh mất giá trị của tình thầy trò, đánh mất giá trị
của người môn đệ, làm rạn nứt mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu
chỉ vì một chút lợi lộc của vật chất, tiền bạc, danh vọng. Với một lối
sống theo chủ nghĩa hưởng thụ, duy vật chất tôi đã chối bỏ Thiên Chúa ra
khỏi cuộc đời của mình. Thiên Chúa không còn là giá trị tuyệt đối, là ưu
tiên trong cuộc sống của tôi nữa.
Bước vào Tuần Thánh và cao điểm là Tam Nhật Vượt
Qua mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại thái độ sống là người Kitô hữu
của mình, để chớ gì chúng ta biết can đảm sống theo những giá trị của
Tin Mừng mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta bước đi, dám đặt Thiên Chúa lên
trên những bậc thang giá trị trần thế khác.
Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi mỗi
người kitô hữu hãy cùng bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá.
Chúng ta không chỉ theo Chúa khi gặp may mắn, thành công, bình an nhưng
dám chấp nhận theo Chúa ngay cả khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất
bại. Bước theo Chúa không phải là con đường hoàn toàn bình an, hạnh
phúc, mà là một con đường chọn lựa quyết liệt giữa những quyến rũ của
vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực để đặt Thiên Chúa
chính là giá trị tuyệt đối, là hạnh phúc viên mãn của mình.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là đi
ngược dòng đời, ngược lại với những trào lưu chạy theo sự dễ dãi, thoải
mái, sự giả dối, ích kỉ, hận thù, bạo lực... để dám sống từ bỏ, hy sinh,
trung thực, yêu thương, bao dung mà Tin Mừng của Chúa Giêsu mời gọi.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá quả thật
là một thách đố rất lớn trong bối cảnh ngày nay, nhưng chúng ta tin rằng
chúng ta không đơn độc vì có Chúa cùng vác thập giá với chúng ta. Ngài
luôn thấu hiểu, nâng đỡ, đồng hành với chúng ta, Ngài chia sẻ những khó
khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên bước đường đi theo Ngài. Và
nếu chúng ta can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, thì chúng
ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.
CUỘC KHỔ NẠN CHÚA GIÊSU
Cái chết của Chúa đã làm đổi thay thế giới, làm xúc
động bao tâm hồn và cũng gây cảm hứng cho nhiều văn nghệ sĩ. Bao kiệt
tác đã lấy cái chết của Chúa làm chủ đề. Một họa sĩ đã vẽ cảnh tháo
đinh, đưa xác Chúa Giêsu xuống khỏi Thập giá. Đặc điểm của bức họa là
người trong cảnh đều có khuôn mặt quen thuộc của những người cùng thời
với họa sĩ. Và người đang tháo đinh ở Chúa ra chính là họa sĩ. Người ta
hỏi họa sĩ về chuyện này, ông cắt nghĩa: Tôi đã từng đóng đinh Chúa vào
Thập giá, đinh sắt là tội của tôi. Cần phải tháo gỡ những chiếc đinh tội
lỗi ra khỏi thân xác của Chúa.
Để tháo gỡ chúng ta khỏi quyền lực tội lỗi, Chúa
đón nhận tất cả một cách ý thức và chủ động.
Chẳng những bằng lời nói, Chúa còn chuẩn bị đi vào
khổ nạn bằng hành động. Chúa lập phép Thánh Thể, dùng một lối khác diễn
tả tình yêu vĩnh cửu Người dành cho nhân thế. Chúa dùng chính thịt máu
làm của nuôi chúng ta, đó cũng như nói tình yêu và cái chết của Chúa đem
lại sự sống muôn đời cho tâm hồn người ta.
Chúa Giêsu đi vào cuộc khổ nạn hoàn toàn đơn độc.
Cái chết cũng đơn độc, và khi Chúa Giêsu mang thân phận con người, Chúa
không muốn thoát khỏi số phận đó. Trong vườn Cây Dầu, Chúa không biết
chia sẻ đau buồn với ai. Bao nhiêu âu lo chồng chất mà không ai hiểu,
hay an ủi một lời. Chúa để ba môn đệ thân tín gần chỗ Người cầu nguyện,
nhưng ba lần Chúa trở lại đều thấy họ ngủ say. Trên thập giá nhìn xuống,
Chúa thấy mình hoàn toàn trơ trọi, bên Người chỉ còn Gioan, Mẹ Maria và
vài phụ nữ. Chính Thiên Chúa Ngôi Cha như cũng như xa vắng, vì thế Chúa
thốt lên lời cầu nguyện như một tiếng than van: “Lạy Chúa, Lạy Chúa, sao
Chúa bỏ con!”.
Chúa Giêsu bị kết tội trước tòa đạo cũng như trước
tòa đời. Hội đồng công nghị, cơ quan tối cao của Do Thái giáo kết án
Chúa vì đã tự xưng là Con Thiên Chúa. Trong khi Philatô, Tổng trấn đại
diện Đế quốc La mã xử Chúa vì đã nhân danh mình là Vua. Còn Chúa Giêsu,
thay vì chối bỏ những lời cáo buộc, Người chỉ bình thản quả quyết mình
là Con Thiên Chúa và là Vua. Nhưng cả hai danh hiệu này không phải có ý
nghĩa như những người tố giác đã hiểu. Chúa là Con Thiên Chúa toàn năng.
Người đã từng làm nhiều phép lạ, nhưng không làm gì để tự bảo vệ và
thoát khỏi tay địch thù. Chúa không phải vị Vua như mọi người mong chờ.
Chúa là Con Thiên Chúa, là Tình yêu tột đỉnh, yêu đến mức sẵn sàng chết
vì người khác. Chúa là Vua, Người cai trị mọi tâm hồn bằng tình yêu mà
xét xử nhân loại cũng theo luật Tình yêu. Chỉ khi ta nhìn Chúa chết trên
thập giá, ta mới hiểu Người đã là Con Thiên Chúa và là Vua như thế nào.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra tội lỗi và
thật lòng sám hối, chiến thắng tội lỗi là tháo gỡ những mũi đinh chúng
con đã đóng vào chân tay Chúa.
Bài thương khó chúng ta vừa nghe, đã ghi lại một
chuỗi những diễn biến thật bất ngờ. Thực vậy, mới chỉ một tuần trước,
các vị lãnh đạo tôn giáo còn tỏ ra dè dặt với Chúa Giêsu, thì hôm nay họ
ra mặt tố cáo Ngài, đích thân bắt bớ Ngài, công khai xách động quần
chúng ghét bỏ Ngài, cương quyết tiêu diệt Ngài.
Mới ngày nào đông đảo dân chúng đã tràn ra đường để
đón rước Ngài, chúc tụng Ngài là Con vua Đavid, thì hôm nay họ kéo nhau
vào sân tổng trấn Philatô, hò hét và yêu cầu giết chính Đấng mà họ mới
hoan hô. Bây giờ họ coi Ngài xấu xa nguy hiểm còn hơn một tên cướp.
Mới chỉ vài giờ trước, mười hai tông đồ đã được
rước lễ bởi chính tay Chúa Giêsu, đã được phong chức giám mục bởi chính
Trái Tim Ngài, đã được dạy dỗ bởi chính miệng Ngài, bây giờ tất cả đều
thay đổi kẻ thì bán Thầy, kẻ thì bỏ Thầy, kẻ thì chối Thầy. Thế nhưng
trong cái bối cảnh sụp đổ kinh hoàng ấy, chúng ta thấy xuất hiện những
người tốt mới thật bất ngờ.
Đúng vậy, đâu có ngờ trên quãng đường nặng nhọc, kẻ
vác đỡ thập giá cho Chúa Giêsu lại là một người đi qua đường.
Đâu có ngờ trong giây phút đen tối nhất, kẻ tuyên
xưng Chúa được Chúa phong thánh và đưa vào thiên đàng lại là một tên
trộm bị đóng đanh bên phải Ngài.
Đâu có ngờ trong cảnh sụp đổ của niềm tin, kẻ đã
chúc tụng Chúa và tin vào sự công chính của Ngài lại là một sĩ quan
ngoại đạo đã vâng lệnh đóng đinh Ngài.
Đâu có ngờ trong lúc bối rối đầy sợ sệt, kẻ đã ra
mặt chôn cất Ngài và dâng cho Ngài ngôi mộ của mình lại là một nghị
viện.
Trước đây tất cả những người ấy kể như xa Chúa,
nhưng trong hoàn cảnh bi đát nhất của Chúa, họ đã xuất hiện như những
người tốt, và đó là một sự xuất hiệt đầy bất ngờ. Tuy nhiên cái bất ngờ
nhất đối với chúng ta đó là những lựa chọn của Chúa Giêsu.
Thực vậy, Ngài có thể tránh khỏi cuộc tử nạn, nhưng
Ngài đã tự nạp mình. Ngài có thể lợi dụng dịp may đông đảo quần chúng
qui tụ với sự hiện diện của các cấp chính quyền và tôn giáo, để làm một
vài phép lạ gây uy tín cho đạo và lấy lại thanh thế cho chính mình,
nhưng Ngài đã yên lặng.
Ngài có thể đổi lòng đám đông đang chống đối Ngài
một cách điên cuồng, thành làn sóng người nhiệt thành ủng hộ Ngài, nhưng
Ngài cam lòng chịu đựng cô đơn.
Ngài có thể khiến muôn vàn thiên thần từ trời
xuống, để bênh vực Ngài, nhưng Ngài đã để mình bị hành hạ, xỉ vả và kết
án. Ngài như kẻ quá yếu, và yếu một cách ngu dại. Ngài như kẻ bị thua và
thua một cách đầy nhục nhã. Thế nhưng Ngài thực sự mạnh mẽ khi vượt
thắng mọi thử thách đớn đau, để luôn trung thành với tình yêu.
Dù như bị Chúa Cha bỏ rơi, Ngài vẫn mến yêu cậy tin
phó thác và Ngài đã kêu lên: Lạy Cha, Con xin phó thác hồn con ở trong
tay Cha. Dù bị bao người hành hạ, xỉ vả, Ngài vẫn yêu thương họ và Ngài
đã cầu nguyện: Lạy Cha xin tha cho họ vì họ lầm không biết. Tình yêu của
Ngài đã thắng vì tình yêu ấy mạnh hơn sự chết, mạnh hơn tất cả mọi tội
lỗi nhân loại và chính Tình yêu ấy đã cứu chuộc loài người.
Lắng nghe và suy nghĩ về bài thương khó của Chúa
Giêsu, chúng ta hiểu được tình thương của Ngài thật bao la, cũng như
hiểu được tội lỗi thật xấu xa, đến nỗi Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu
cuối cùng, để tẩy sạch dấu vết của nó trong tâm hồn chúng ta.
Adong ngày xưa đã vấp phạm vì kiêu căng, muốn trở
nên bằng Thiên Chúa. Còn Đức Kitô hôm nay, để cứu chuộc chúng ta Ngài đã
hạ mình xuống như lời thánh Phaolô đã viết:
- Phận Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không đòi
cho mình được đồng hàng với Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình xuống, mang thân
phận tôi đòi, trở nên giống chúng ta, Ngài đã vâng phục cho đến chết và
chết trên thập giá.
Chúa Giêsu không phải chỉ nên giống chúng ta ở dáng
bộ bên ngoài, nhưng Ngài đã mặc lấy bản tính nhân loại. Ngài không phải
chỉ là một kẻ lạ mặt, đứng bên lề cuộc đời chúng ta. Ngài cũng không
phải là một ông cảnh sát lăm le biên phạt những hành động sai trái của
chúng ta.
Trái lại, Ngài đã nhập cuộc, Ngài đã tham dự vào
kiếp người và cùng đi với chúng ta qua vạn nẻo đường đời. Ngài cũng đã
vất vả lao động, chịu đói chịu khát, mệt mỏi vì đường xa, Ngài muốn chia
sẻ với chúng ta mọi cảnh huống của cuộc sống, và nhất là Ngài đã chết vì
yêu thương chúng ta như lời Ngài đã nói:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn
hữu.
Kể từ nay, thập giá không còn là một hình phạt dành
cho những kẻ nô lệ và phản loạn, nhưng là một dấu chỉ hùng hồn nhất nói
lên tình thương của Chúa.
Và từ đỉnh cao thập giá, chúng ta hãy nhìn vào
những ước vọng thầm kín, cũng như hãy nhìn vào chính con người chúng ta.
Thực vậy, chúng ta là những kẻ kiêu căng hợm hĩnh,
chúng ta không muốn vâng phục, trái lại luôn chống đối quyền bính. Hãy
nhìn vào thái độ khiêm nhường của Chúa Giêsu.
Chúng ta là những kẻ mải miết chạy theo những vui
thú cho thân xác. Hãy nhìn vào thân xác Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập
giá giữa những đớn đau phải chịu.
Nếu trái tim chúng ta thờ ơ nguội lạnh đối với
Thiên Chúa, trong khi đó lại qúa quyến luyến với tiền bạc, với địa vị,
với danh vọng hay một tạo vật nào đó. Hãy nhìn vào tình yêu Ngài đã dành
cho chúng ta.
Chính Ngài đã nói với thánh nữ Angèle de Foligno
như thế này:
- Cái chết của Cha, cùng với những khổ đau, không
phải là một trò cười.
Chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá và hãy thân
thưa với Chúa như lời thánh Phaolô:
- Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết
vì tôi, một kẻ tội lỗi đáng thương.
Thực vậy, ngước nhìn thập giá và suy gẫm về tình
thương của Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy ghê tởm tội lỗi, mong ước được tẩy
rửa tâm hồn mình nên trong trắng như tấm áo ngày chịu phép rửa tội.
Trong Tuần Thánh này, chúng ta hãy kết hiệp những
hy sinh của chúng ta vào với những khổ đau của Chúa Giêsu, hầu nhờ đó
chúng ta sẽ được nếm thử niềm vui Phục sinh, là niềm vui sẽ không bao
giờ bị tàn úa.
69. Cuộc Thương Khó.
Winston Churchill, cố thủ tướng Anh Quốc, đã
chia sẻ kinh nghiệm riêng của ông và cho chúng ta biết rằng sự hoan hô
ủng hộ của dân chúng không phải là bằng chứng của sự thành công thực sự.
Xưa kia, có một lần sau khi nói chuyện với một cử tọa khoảng 10 ngàn
người hiện diện hoan hô thủ tướng, một người bạn đã hỏi: “Thưa thủ
tướng, ngài không cảm thấy xúc động vì 10 ngàn người đã đến nghe ngài
nói chuyện sao?” Churchill trả lời: “Không hẳn thực sự là như thế. Một
trăm ngàn người sẽ đến nhìn khi tôi bị treo lên”.
Hôm nay Chúa nhật lễ lá, chúng ta bắt đầu Tuần
Thương Khó bằng việc cử hành việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem
để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Sách Giáo lý Công giáo số 272
đã viết: “Thiên Chúa Cha đã mạc khải sự Toàn năng của Ngài một cách hết
sức mầu nhiệm trong sự tự nguyện chịu nhục… nhờ đó Ngài đã chiến thắng
sự ác”. Chúa Kitô chịu đóng đinh vào thập giá là “quyền năng của Thiên
Chúa và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Bởi vì sự điên rồ nơi Thiên
Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì
mạnh sức hơn loài người”.
Ngày xưa, có hai anh em nọ sống chung với nhau
trong cùng một căn nhà. Người anh tốt lành, siêng năng làm việc và kính
sợ Thiên Chúa. Còn người em bất lương, lừa lọc, gian manh, và phạm đủ
thứ tội như cướp của, giết người. Người anh khuyên răn mãi mà người em
vẫn chẳng thay đổi tính nết. Một đêm nọ người em chạy về nhà với quần áo
dính đầy máu. Nó tự thú với người anh: “Tôi đã giết người”. Vài phút sau
căn nhà bị cảnh sát bao vây và hai anh em đã biết rằng không còn cách
nào trốn thoát được. “Tôi không có ý giết nó”, người em sợ hãi nói, “Tôi
cũng không muốn chết”. Vào lúc ấy cảnh sát đang gõ cửa. Người anh bèn
nảy ra ý tưởng: anh thay đổi quần áo của mình cho người em, và mặc lấy
bộ quần áo còn đang dính đầy vết máu của người em. Cảnh sát xông vào nhà
bắt người anh, bỏ tù, và chờ ngày bị kết án tử hình. Sau cùng, người anh
đã hy sinh chết thế cho em mình.
Qua câu chuyện hình sự về cái chết hy sinh của
người anh vì thương em, chúng ta hiểu phần nào về sự đau khổ và cái chết
của Chúa Giêsu được diễn tả trong bài Thương Khó. Đây là câu chuyện của
tình yêu, tình yêu Thiên Chúa dành cho con người chúng ta.
Thánh Phaolô đã viết: “Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân
phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên
Chúa; trái lại, Người hủy bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi,
đã trở nên giống như loài người… Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến
chết, và chết trên thập giá”.
Chúa Giêsu rất thương xót những người đau khổ. Ngài
đã làm phép lạ để cứu chữa họ, và dạy mọi người phải yêu thương nhau chứ
không dạy phải làm khổ cho nhau. Đối với Chúa Giêsu đau khổ là điều xấu.
Khi nghĩ về cuộc thương khó trong vườn Giệtsimani, Ngài đã bồi hồi, xao
xuyến, sợ hãi đến đổ mồ hôi máu.
Thánh Kinh cho ta thấy căn nguyên của đau khổ là
tội lỗi. Vì đau khổ là xấu nên con người phải tránh gây đau khổ cho nhau
bằng mọi hình thức. Đồng thời phải tích cực xây dựng sự công bằng và bác
ái. Rất nhiều đau khổ ở thế gian do con người, tội lỗi và sự bất công
gây ra. Khi chấp nhận đau khổ để cứu chuộc nhân loại, Chúa Giêsu dạy cho
chúng ta một số nguyên tắc luân lý:
1. Chỉ chấp nhận đau khổ và hy sinh vì hạnh
phúc của người khác. Sự hy sinh phải nhằm vào những mục đích tốt, và
những mục đích đó phải có một giá trị cao hơn sự thiệt thòi.
Chúa Giêsu đã tự ý chịu đau khổ để tiêu diệt tội
lỗi theo đường lối của Thiên Chúa Cha. Khi Chúa Giêsu lên Giêrusalem để
hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, Ngài đã phải đụng chạm với sức mạnh
của chính quyền, xung khắc với sự tự do của con người. Và sự đau khổ đã
đến như một hậu quả tất yếu vì sứ mệnh của Ngài. Ngài đã phải chọn lựa
giữa việc chu toàn sứ mạng dù phải chấp nhận sự đau khổ và cái chết trên
thập giá hơn là sự đào ngũ, chạy trốn của người hèn nhát.
2. Để sự đau khổ trở nên một giá trị cho
người khác, nó phải là tự nguyện như chính Chúa Giêsu đã tự hiến mạng
sống mình làm giá cứu chuộc nhân loại: “Không ai đoạt được mạng sống
tôi, nhưng tôi tự ý hiến mạng sống mình”.
Thiên Chúa ban cho con người tự do để cộng tác vào
việc sáng tạo của Thiên Chúa. “Con người thường là những hợp tác viên vô
ý thức của thánh ý Chúa, nhưng con người cũng có thể chủ ý hợp tác vào
kế hoạch của Ngài bằng hành động, lời cầu nguyện, và bằng cả những đau
khổ của mình”.
3. Đau khổ hy sinh sẽ trở nên sai trái khi
nó hủy diệt chính con người của mình. Chúa Giêsu đã không đánh mất bản
tính Thiên Chúa của Ngài khi chết trên thập giá. Ngài chết trên thập giá
nhưng Ngài vẫn là Thiên Chúa, độ lượng, tha thứ và nhân từ. Đau khổ
không làm Ngài rơi vào hận thù và tuyệt vọng. Chính tình yêu làm cho đau
khổ trở thành giá trị. Con đường khổ giá từ Giêrusalem lên núi sọ chịu
đóng đinh của Chúa Giêsu chính là con đường của tình yêu.
Sách Giáo lý Công giáo số 609 viết rằng: “Khi gắn
bó với tình thương của Chúa Cha đối với mọi người, trong trái tim nhân
tính của mình, Chúa Giêsu “đã yêu thương họ đến cùng”, “bởi vì không có
tình yêu nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì những người mình yêu
thương”. Bởi vậy, trong đau khổ và trong khi chết, nhân tính của Ngài đã
trở thành dụng cụ tự do và tuyệt hảo của tình thương thần linh của Ngài
muốn cứu vớt mọi người”.
Bắt đầu Tuần Thánh này, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta
nhìn vào thánh giá để thấy những ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm tình yêu
đó:
Nhìn vào thánh giá ta thấy đau khổ bên ngoài và
tình yêu Thiên Chúa bên trong, sự chết của con người và sự sống lại của
Thiên Chúa, bóng tối tội lỗi của trần gian và ánh bình minh cứu độ, sự
ích kỷ của ta và sự hy sinh của Thiên Chúa, sự kiêu căng của ta và sự
khiêm tốn của Thiên Chúa, sự bất lực của ta và sức mạnh vô song của
Thiên Chúa, sự thù hận của con người và sự tha thứ của Thiên Chúa, sự
hèn hạ của ta và sự cao cả của Thiên Chúa. Nhìn vào thánh giá ta thấy
nhân tính và thiên tính của Chúa Giêsu Kitô.
Quả vậy, như lời thánh Phaolô đã dạy: “Lời rao
giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư
mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó là sức
mạnh của Thiên Chúa”.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm Chúa Kitô vào
thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Vì thế ngày lễ
hôm nay gồm có hai phần: phần đầu kính nhớ việc Chúa vào thành thánh
bằng cuộc rước kiệu lá, phần hai là thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó
của Chúa.
Trước hết, ngày Chúa nhật trước khi đi thụ nạn,
Chúa Giêsu lên thủ đô Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng lũ lượt kéo
nhau đi như cuộc biểu tình vĩ đại, trên đường vào thành thánh, họ trải
áo choàng trên đường và chặt những nhánh lá cây rải trên đường để Chúa
đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một
nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan
hô con vua Đavid”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Người
người nồng nhiệt hò la, Chúa Giêsu im lặng chấp nhận để họ đón rước và
tung hô như thế. Ngài là một vị vua vinh quang nhưng khiêm hạ, Ngài
không phải là vị vua như dân Do Thái mong đợi, nghĩa là vua phần xác,
đến để giải phóng dân tộc họ khỏi ách đô hộ ngoại bang Rôma, đem cơm áo
ấm no cho họ. Nhưng Ngài là vua trong lòng của họ, đem đến tình thương
và hòa bình.
Đàng khác, cũng trong ngày lễ hôm nay, chúng ta
nghe đọc bài tường thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Cuộc khổ nạn
diễn ra vào ngày thứ sáu sau Chúa nhật lễ lá, nghĩa là chỉ sau ít ngày
nhiệt liệt tung hô Chúa Giêsu, dân Do Thái lại biểu tình đả đảo, chống
đối, hò la đòi giết Chúa. Ngài đã bị bắt, bị trói và bị dẫn đến trước
mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng trấn Philatô, bị xét hỏi, bị
đánh đập, bị kết án và cuối cùng bị hành quyết trên núi Sọ như một tên
trọng phạm của xã hội.
Ngày lễ hôm nay cho chúng ta thấy hai thái độ trái
ngược nhau của dân Do Thái: hoan hô Chúa và đả đảo Chúa, đưa Chúa lên
ngai vua và hạ bệ Chúa trên thập giá. Chắc chúng ta khó chịu, bực tức và
lên án thái độ đổi thay, lòng dạ tráo trở của những người đó phải không?
Nhưng chúng ta hãy ý tứ, có người đã viết như thế này: “Giữa Chúa nhật
lễ lá và thứ Sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô
hữu: Hôm nay chúng ta hoan hô, chúc tụng Chúa: vạn tuế, vạn tuế, ngày
mai chúng ta có thể sẽ gào thét: đả đảo, hãy đóng đinh, hãy đóng đinh
hắn vào thập giá. Hôm nay chúng ta yêu thương, ngày mai chúng ta oán
ghét. Hôm nay chúng ta hân hoan, ngày mai chúng ta buồn sầu. Hôm nay
chúng ta hiền hòa, ngày mai chúng ta hung dữ. Hôm nay chúng ta tin
tưởng, ngày mai chúng ta hoài nghi. Vâng, danh sách các mâu thuẫn giữa
thiện và ác còn có thể tiếp tục nối dài, và thực sự giữa Chúa nhật lễ lá
và thứ sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu”.
Để làm sáng tỏ những tư tưởng trên, một diễn giả đã
dùng một cành lá dừa. Cành lá dừa xanh tươi tượng trưng cho những đặc
tính tích cực của Chúa nhật lễ lá như hoan hô, chúc tụng, yêu thương,
hân hoan, hiền hòa, tin tưởng. Mỗi lần nêu lên một khía cạnh tiêu cực
của cuộc sống như khước từ, oán ghét, buồn phiền, hung dữ, hoài nghi,
diễn giả tuốt bỏ phần lá xanh, chỉ còn để lại cọng của cành lá dừa. Cuối
cùng, cành lá dừa xanh tươi đã biến thành một bó roi có thể dùng để hành
hạ nhau, biến thiên đàng thành địa ngục.
Chắc tất cả chúng ta đều hiểu và thấm thía những
điều trên đây? Cuộc sống của chúng ta có nhiều tiêu cực hơn tích cực,
chúng ta làm khổ nhau nhiều hơn làm đẹp lòng nhau. Có phải chúng ta xích
mích, gây chia rẽ bất hòa nhiều hơn là xây dựng, yêu thương, đoàn kết?
Chúng ta tôn vinh Chúa ở trong nhà thờ nhưng chúng ta có tôn vinh Chúa
trong cuộc sống ở ngoài nhà thờ không? Mỗi khi chúng ta không tôn trọng
bất cứ người anh em nào là chúng ta không tôn vinh Chúa. Vì thế, chúng
ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn trung thành với lời chúng ta hoan hô
“vạn tuế” để trong cuộc sống, chúng ta quyết đem ra thực hành chương
trình xây dựng hòa bình và tình thương của Chúa.
ĐÂU LÀ MỐI TƯƠNG QUAN CỦA CHÚNG TA VỚI CHÚA
GIÊSU?
Chúng ta vừa đi lại con đường tử nạn của Chúa
Giêsu, trong đám đông những người trực tiếp hay gián tiếp tham dự vào
cuộc tử nạn của Chúa, mỗi người chúng ta cũng có thể nhận diện được
chính mình. Chúng ta có thể là các môn đệ của Chúa Giêsu, những người
cho đến giờ phút chót vẫn còn thề thốt theo Ngài nhưng liền sau đó đều
bỏ trốn. Chúng ta có thể là Giuđa, người chỉ vì một chút lợi lộc vật
chất mà có thể bán chính lương tâm của mình để phản bội Thầy. Chúng ta
có thể là đám đông ngày hôm trước tung hô vạn tuế Ngài, ngày hôm sau hô
hoán "đóng đinh nó vào thập giá". Chúng ta có thể là các thượng tế,
những người chỉ có mù quáng mà kết án người vô tội. Chúng ta có thể là
Tổng Trấn Philatô, người chỉ vì chức quyền, danh vọng mà chà đạp công
lý. Chúng ta cũng có thể là đám lý hình, những kẻ chà đạp và hành hạ
người khác không chút xót thương. Đâu là chỗ đứng của chúng ta trong
cuộc tử nạn của Chúa Giêsu? Đâu là mối tương quan của chúng ta với Ngài?
Trong suốt Tuần Thánh này, Giáo Hội mời gọi chúng
ta trở lại con đường thập giá của Chúa Giêsu và tỉnh thức lại chọn lựa
canh tân đời sống chúng ta. Ước chi Tuần Thánh không diễn ra do những
nghi thức quen thuộc trống rỗng, trong đó chúng ta chỉ đứng nhìn như
khách bàng quan mà là những bước đường thập giá, qua đó chúng ta quyết
tâm đi theo Chúa Giêsu đến cùng, để trong sự Phục Sinh của Ngài, chúng
ta được thực sự trở thành con người mới.
73. Suy Niệm của JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Đức Giêsu có run sợ trước đau khổ và sự chết
không? Cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài là do Ngài bị ép buộc hay do tự
nguyện? Động lực khiến Ngài tự nguyện là gì?
2. Cái chết khủng khiếp của Đức Giêsu nói lên điều
gì? Có phải vừa nói lên sự công thẳng và nghiêm túc của Thiên Chúa đối
với tội lỗi, vừa nói lên tình thương bao la của Thiên Chúa đối với con
người không? Công thẳng ở chỗ nào? Tình thương ở chỗ nào?
3. Bài học thực tế mà chúng ta học được qua mầu
nhiệm Vượt Qua được cử hành trong Tuần Thánh là gì? Thiên Chúa và Đức
Giêsu yêu thương và hy sinh cho chúng ta như thế, các Ngài mong ước điều
gì nơi chúng ta?
CHIA SẺ
1. Đức Giêsu chịu đau khổ để cứu nhân loại
khỏi đau khổ
Mầu nhiệm được cử hành trong Tuần Thánh – làm cho
chúng ta hết sức cảm động – là Đức Giêsu đã chấp nhận chịu đau khổ và
chết thay cho chúng ta, để giải thoát chúng ta khỏi đau khổ và sự chết
trong cảnh giới vĩnh cửu. Tất cả đều vì yêu thương chúng ta: “Tội lỗi
của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá,
để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Nhờ
Người mang những vết thương của anh em mà anh em đã được chữa lành” (1Pr
2,24).
Theo niềm tin Kitô giáo, Đức Giêsu chính là Con
Thiên Chúa. Ngài chẳng những là người hoàn toàn vô tội, mà còn là một
con người hoàn hảo nhất của nhân loại. Thế nhưng Ngài lại phải chịu
những cực hình khủng khiếp, đau đớn nhất của con người. Những đau khổ
ấy, Ngài đã tự nguyện chịu, mặc dù từ thâm tâm Ngài cũng rất sợ hãi
trước đau khổ. Việc Ngài lo buồn đến mức đổ mồ hôi máu trong vườn Cây
Dầu (x. Lc 22,44) nói lên nỗi sợ hãi hết sức cao độ ấy. Nhưng dù biết
trước những cực hình khủng khiếp đã khiến Ngài phải sợ hãi như thế, Ngài
vẫn tự nguyện đón nhận, vì muốn hoàn thành thánh ý Chúa Cha là cứu độ
loài người, và vì chính Ngài cũng yêu thương con người, muốn cứu họ khỏi
tội lỗi và hậu quả khủng khiếp của tội lỗi. Dù bản năng có ham sống sợ
chết, ham sướng sợ khổ, Ngài vẫn vui lòng chấp nhận đau khổ và chết, để
con người được sống và sống hạnh phúc: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin
cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin
theo ý Cha” (Mt 26,39).
2. Đức Giêsu thực hiện sự công bình và tình
yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại tội lỗi
Vì tội của nguyên tổ và của riêng từng người, đáng
lẽ nhân loại chẳng những bị mất hạnh phúc vĩnh cửu mà còn phải chịu đau
khổ đời đời. Sự công bình nơi bản tính của Thiên Chúa đòi buộc mọi tội
lỗi đều phải đền trả, nghĩa là con người phải chịu hình phạt xứng đáng.
Nếu thế con người sẽ phải đau khổ đời đời! Nhưng tình yêu vô biên của
Ngài đối với con người đòi hỏi Ngài phải ra tay cứu họ, nếu không thì
không còn là tình yêu nữa! Vừa bắt con người phải đền tội, vừa phải ra
tay cứu họ, đối với trí óc của con người điều đó quả là mâu thuẫn và nan
giải! Nhưng sự khôn ngoan vô biên của Ngài đã giải quyết nan đề ấy bằng
cách cho Con của Ngài xuống thế làm người, đại diện cho toàn nhân loại,
chịu đau khổ và chết, để đền tội thay cho cả loài người. Theo cách đó,
sự công bằng và tình yêu của Ngài đều được thỏa mãn.
Đức Giêsu – là Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, cũng là
Thiên Chúa trong bản tính nhân loại – đã đảm trách việc hòa giải giữa
hai đòi hỏi trái ngược nhau của sự công bằng và tình yêu Thiên Chúa, và
cũng là hòa giải giữa con người với Thiên Chúa. Vì thế, sứ mạng của Đức
Giêsu là phải làm sao cho con người thấy được công lý của Thiên Chúa
phải được thực hiện nghiêm túc thế nào, đồng thời cũng biểu lộ cho con
người thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với con người bao la thế nào.
Chân lý, công lý và tình thương, đó là những thuộc
tính hết sức quan trọng trong bản tính Thiên Chúa. Thiết tưởng người
Kitô hữu – là người ý thức hơn ai hết con người là hình ảnh của Thiên
Chúa – cần phải phản ánh và thể hiện ba thuộc tính ấy trong đời sống của
mình. Đức Giêsu đã nhấn mạnh sự quan trọng của ba thuộc tính ấy: “Những
điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và tính chân
thật” (Mt 23,23).
3. Tình yêu của Thiên Chúa được biểu hiện nơi
Đức Giêsu
Thiên Chúa yêu thương con người, điều ấy đã được
Thánh Kinh nói đến rất nhiều: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta
dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa mà
thực sự chúng ta là con Thiên Chúa” (1Ga 3,1); “Thiên Chúa yêu thế gian
đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16); “Tình yêu của Thiên Chúa đối với
chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế
gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4,9); “Đức
Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi;
đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8).
Tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại được thể
hiện cụ thể qua tình yêu của Đức Giêsu đối với con người: “Chúa Cha đã
yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (Ga 15,9);
“Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người
yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1).
4. Hãy thể hiện tình yêu của Thiên Chúa ra
cho tha nhân
Đức Giêsu đã chấp nhận đau khổ để con người được
hạnh phúc, chấp nhận chết để con người được sống. Chính tình yêu đối với
con người đã thúc đẩy Ngài làm điều ấy. Sự việc ấy cho thấy đau khổ của
ta có thể biến thành hạnh phúc cho người khác, cái chết của ta có thể
biến thành sự sống cho người khác. Nghĩa là ta có thể chấp nhận đau khổ
để người mình yêu được hạnh phúc, chấp nhận chết để người mình yêu được
sống. Vì thế, đau khổ và chết cho người mình yêu là cách tuyệt hảo nhất
để biểu lộ và thể hiện tình yêu: “Không có tình thương nào cao cả hơn
tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga
15,13). Thiết tưởng người Kitô hữu cần sử dụng thường xuyên cách biểu lộ
và thể hiện tình yêu tuyệt hảo này trong đời sống (đáng lẽ phải) đầy
tràn yêu thương của mình.
Cũng như tình yêu của Chúa Cha đối với Đức Giêsu là
gương mẫu cho tình yêu của Ngài đối với nhân loại: “Chúa Cha đã yêu mến
Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (Ga 15,9); thì Ngài rất
mong tình yêu của Ngài đối với chúng ta cũng là gương mẫu để chúng ta
yêu thương nhau: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh
em” (Ga 15,12). Thánh Gioan đã diễn tả ý tưởng trên như sau: “Nếu Thiên
Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương
nhau” (1Ga 4,11); “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì Thiên Chúa đã yêu
thương chúng ta trước” (1Ga 4,19); “Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta.
Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga
3,16). Vậy, chúng ta hãy áp dụng tinh thần yêu thương và hy sinh cho
người mình yêu, trước hết và đặc biệt cho những người gần gũi với chúng
ta nhất: cha mẹ, vợ con, anh chị em, bạn bè… sau đó cho những người xa
hơn, và cuối cùng cho cả những người ghét và làm hại chúng ta. “Anh em
hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn Luật Đức Kitô”
(Gl 6,2).
Tóm lại, hãy trở nên hiện thân cho tình yêu Thiên
Chúa giữa tha nhân, giữa trần gian. Thiết tưởng đó là những điều thực tế
mà trong Tuần Thánh này chúng ta phải quyết tâm thực hiện trong đời sống
mình. Nếu không Tuần Thánh này cũng chỉ là một tuần vô bổ, trôi qua
không dấu vết trong đời sống chúng ta.
Cầu nguyện
Tôi nghe thấy tiếng Chúa nói với tôi: “Con ơi, Cha
yêu con, yêu con vô cùng. Cuộc tử nạn và cái chết của Đức Giêsu chính là
bằng chứng rrt nhất cho tình yêu của Cha. Cha mong mỏi con đáp lại tình
yêu của Cha như một tình nhân mong được người mình yêu đáp trả lại bằng
tình yêu. Cách đáp trả tình yêu mà Cha mong muốn nhất nơi con, chính là
con ban rải yêu thương một cách thật quảng đại,thậm chí phung phí, cho
những người sống chung quanh con, những người con thường gặp hằng ngày.
Hãy trở nên hiện thân của tình yêu Cha giữa mọi người”.
Chúa Giêsu đã chịu nạn chịu chết vào ngày Thứ Sáu,
chúng ta quen gọi là ngày Thứ Sáu Tuần Thánh hay ngày Thứ Sáu chịu nạn.
Xưa kia người ta cho ngày thứ sáu chịu nạn là một ngày đáng ghét hơn bất
cứ ngày nào khác trong năm, bởi lẽ ngày hôm đó có một người vô tội đã bị
kết án tử hình và đã bị giết chết một cách rất tàn nhẫn, bất công. Vì sự
kiện đó người ta đã định nghĩa ngày Thứ Sáu chịu nạn là “Thêm một người
vô tội được ghi tên vào trang sổ dài trong lịch sử nhân loại, cuốn sổ
của biết bao nhiêu người bị tố cáo một cách oan uổng, bị đánh đập, bị
hành hạ tàn nhẫn, và có khi bị giết chết”. Theo ý nghĩa này thì quả thật
ngày Thứ Sáu chịu nạn là một ngày xấu xa, một ngày đen đũi. Nhưng đối
với chúng ta, ngày Thứ Sáu chịu nạn không phải là một ngày đáng ghét,
chúng ta phải nghĩ ngược lại, ngày đó là một ngày đáng ghi nhớ, một ngày
có ý nghĩa thật tốt đẹp và hoàn toàn cao cả, một ngày tốt đẹp hơn hết
mọi ngày, bởi vì ngày đó là ngày Chúa Giêsu đã chết để cứu chuộc chúng
ta, là ngày mở ra một trang sử mới của loài người.
Quả thực, không phải Chúa Giêsu đã chịu thua trước
bạo lực, trước rủi ro hay số phận, cái chết của Ngài không phải là một
sự thất bại, thua cuộc, nhưng là một sự nghiệp anh hùng và cao quý, vì
chỉ có cái chết của Ngài mới có đủ khả năng đền bù tội nguyên tổ và mọi
tội lỗi của con người một cách cân xứng, bởi vì tội phạm đến trời thì
chỉ trời mới tha được. Hơn nữa, muốn cứu chuộc chúng ta, thật ra Chúa
Giêsu đâu có cần phải xuống thế, phải nghèo khổ, phải nhục nhã, phải bị
giết chết một cách tức tưởi như vậy, nhưng tất cả những sự ấy Ngài đã
lãnh nhận chỉ vì Ngài yêu thương chúng ta, yêu thương đến cùng, yêu
thương không bờ bến.
Như vậy, không gì chắc chắn bằng Chúa Giêsu đã đổ
máu ra chết cho tất cả chúng ta, nhưng cũng không gì chắc chắn bằng Chúa
Giêsu đã chết một cách vô ích cho chúng ta nếu chúng ta không muốn tham
dự vào công lênh cứu chuộc của Ngài bằng nỗ lực riêng của mỗi người
chúng ta. Chúa Giêsu đã làm bật lên mạch nước, nhưng chúng ta cần cúi
xuống mà uống, nguồn mạch Chúa Giêsu sẽ vô ích nếu chúng ta không muốn
uống. Nói rõ hơn, ơn cứu chuộc đòi hỏi chúng ta một nghĩa vụ, đó là
chúng ta phải cộng tác với ơn Chúa, như thánh Âu tinh đã nói: “Thiên
Chúa dựng nên chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu
chuộc chúng ta, Ngài cần sự cộng tác của chúng ta”.
Thực vậy, khi bị treo trên thập giá, trước khi thở
hơi cuối cùng, Chúa Giêsu đã kêu lớn tiếng: “Mọi sự đã hoàn tất”. Như
vậy, công việc cứu chuộc của Chúa đã xong, nhưng công việc của chúng ta
thì chưa xong, chúng ta còn phải luôn luôn kiện toàn đời sống của mình,
từ đó chúng ta mới hiểu câu nói của thánh Phaolô: “Tôi bổ khuyết nơi tôi
những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Chúa Kitô”. Vì thế, chúng ta
hãy nhớ hai điều: Thứ nhất, người thế gian thường xét đoán theo hiệu
quả, còn Chúa thì đoán xét theo cách thức người ta chu toàn và kiện toàn
bổn phận Chúa trao. Nói cách văn hoa, ở đời này, tất cả chúng ta đều là
những diễn viên trên sân khấu trần gian, khi màn bi hài kịch cuộc đời hạ
xuống, Thiên Chúa không hỏi chúng ta đã giữ vai trò gì mà chỉ hỏi chúng
ta đã diễn xuất thế nào về vai trò được trao cho. Thứ hai, khi chấm dứt
cuộc sống ở trần gian, có hai câu hỏi được đặt ra: người đời sẽ hỏi:
“Người ấy để lại những gì?”, Còn thiên thần thì hỏi: “Người ấy đem đi
được những gì?”. Điều đó có nghĩa là trong cuộc hành trình trên trần
gian, chúng ta có thể đem theo mình nhiều thứ, nhưng khi đến trước tòa
Thiên Chúa, chỉ còn những việc thiện đi theo chúng ta mà thôi.
Tất cả những điều tìm hiểu trên nhắc nhở chúng ta:
hãy ý thức hơn về ơn cứu chuộc, hãy thấm nhập ơn cứu chuộc vào chính tâm
hồn mình, và hãy sống ơn cứu chuộc trong đời sống hằng ngày. Ước mong
chúng ta hãy dành nhiều thời giờ trong Tuần Thánh này để suy nghĩ về ơn
cứu chuộc của Chúa và sự cộng tác của mỗi người chúng ta để hoàn thành
cuộc đời mình. Cụ thể, trong những ngày cuối cùng của Mùa Chay này,
ngoài việc cầu nguyện, suy ngắm sự thương khó Chúa, ăn chay để tỏ lòng
thống hối, chúng ta còn phải xưng thú tội lỗi để tháo những chiếc đinh
nhọn ra khỏi tay chân Chúa.
Đinh nhọn đây có thể là những thù hận và vu cáo bất
công như những người đầu mục Do Thái đã làm. Đinh nhọn cũng có thể là sự
khiếp nhược chối bỏ Thầy hay phản bội nộp Thầy như các môn đệ Chúa đã
làm. Đinh nhọn cũng có thể là những sự độc ác vô lương tâm như tên trộm
bên trái Chúa đã chê trách Chúa trên cây thập giá. Đinh nhọn cũng còn là
những sự dửng dưng, thậm chí hùa theo kẻ mạnh để làm khổ người thân yếu
cô thế như đám đông dân chúng đã la to: “Đóng đinh nó vào thập giá…”
Ngày nay chung quanh chúng ta không thiếu những
người đau khổ là hiện thân của Chúa Giêsu trên thập giá. Họ chính là
những người mắc bệnh nan y mà không tiền chữa trị, hoặc là những người
đang chịu đựng những lời khích bác và vu khống bất công của những kẻ thù
giấu mặt mà không ai động viên an ủi. Họ cũng chính là những người đang
gặp đau khổ như què quặt, đui mù, đi xin ăn mà không biết ngày mai sẽ ra
sao…
Chúng ta có thể làm gì? Hãy cảm thông với họ như
các phụ nữ gặp gỡ Chúa trên đường thập giá, hãy giúp đỡ họ như ông
Si-mon vác đỡ thập giá Chúa, như bà Vêrônica trao khăn cho Chúa lau mặt,
hãy bênh vực công lý như người trộm lành bên hữu Chúa, hãy giải thoát họ
khỏi những đau khổ ấy như hai môn đệ xưa đã tháo đinh và cất xác Chúa
xuống khỏi thập giá…
Tóm lại, chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có
giá trị cứu độ, vậy chúng ta hãy cảm nếm thật sâu xa nỗi khổ đau thân
xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng đừng quên nhận ra những khổ đau
của anh em chung quanh. Càng suy niệm về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy
mình càng yêu thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và kính
trọng thánh giá của người khác hơn.
Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã suy nghĩ về việc
chết đi cho chính mình để sinh nhiều hoa trái cho Nước Thiên Chúa. Một
cách diễn tả khác cho sự thật này là hình ảnh vác thập giá của chính
chúng ta. Các bài đọc Kinh Thánh hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về
thực tại thập giá và đau khổ trong cuộc sống của Chúa Giêsu. Việc suy
niệm này chắc chắn làm chúng ta nghĩ đến những đau khổ mà chúng ta gặp
phải trong cuộc sống. Chúng ta đã ẵm lấy thập giá đau khổ và hy sinh
trong cuộc sống của chúng ta như thế nào?
Khi chúng ta đương đầu với đau khổ trong cuộc sống
và ẵm lấy thập giá mà Chúa Giêsu trao cho, thì chúng ta làm điều mà Chúa
Giêsu đã làm trước chúng ta và Người đã chuẩn bị con đường dẫn đến chiến
thắng cuối cùng trong cuộc đời của chúng ta. Dầu vậy, đôi khi con đường
trước mắt có vẻ tối tăm và bấp bênh, những lúc đó chúng ta cần xác tín
Chúa Giêsu luôn ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Người sẽ không
bao giờ bỏ rơi chúng ta và Người cũng không bao giờ để chúng ta phải
chịu đau khổ quá sức mình. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philipphê
đã nhắc cho chúng ta, cuối cùng, Chúa Giêsu sẽ chiến thắng và Người sẽ
lãnh nhận vinh quang trọn vẹn mà Chúa Cha muốn ban cho Người. Đây cũng
là lời hứa cho chúng ta, nếu chúng ta chọn lựa trung thành chịu đựng đau
khổ cùng với Người.
Kinh Thánh cũng như giáo huấn của Giáo Hội không
bao giờ khẳng định đau khổ tự nó là một điều tốt, tuy nhiên, cả hai lại
khẳng định giá trị cứu độ của đau khổ. Khi chúng ta kết hiệp đau khổ của
mình với đau khổ của Chúa Giêsu thì chúng ta có thể nói như thánh
Phaolô: “Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang
lấy vào thân cho đủ mức”. Khi chúng ta gặp phải bất kỳ một loại đau khổ
nào thì đoạn Kinh Thánh này đem lại cho chúng ta một niềm hy vọng lớn
lao. Thiên Chúa cho phép chúng ta kết hiệp đau khổ của chúng ta với đau
khổ của Ngài, và vì thế trở nên những người cộng tác với Ngài trong việc
đem lại ơn cứu độ cho mọi người. Đây là dấu chỉ đích thật cho phẩm giá
cao cả của con người. Khi suy niệm về mầu nhiệm đau khổ của Chúa Kitô,
chúng ta kín múc được một sức mạnh từ việc nhận thức chúng ta được kết
hiệp với Ngài trong một cách thức mầu nhiệm.
Lạy Chúa Giêsu, chỉ có Chúa mới có thể đem lại sức
sống và sự thiện hảo đến cho con trong những tình huống đau thương nhất.
Xin giúp con luôn biết tín thác vào Chúa, trong mọi hoàn cảnh của cuộc
sống.
Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Với thái độ
tung hô vạn tuế của dân chúng trong ngày hôm nay, chúng ta đã xác tín
Đức Kitô là vị vua phải đến để kiến tạo hòa bình, để trả lại cho con
người sự tự do hầu có thể phát triển toàn diện nhân phẩm của mình. Ngài
là niềm hy vọng của những kẻ nghèo khó, bất hạnh và khổ đau, Ngài là
niềm an ủi của những kẻ bị bóc lột, bị bạc đãi, bị xúc phạm và bị ném ra
bên ngoài xã hội.
Đồng thời chúng ta tuyên xưng Ngài là vị lãnh đạo,
xử dụng tình thương làm khí cụ để xây dựng một xã hội loài người trên
công bình.
Nếu tham dự vào cuộc rước kiệu trong Chúa nhật lễ
lá với lời hoan hô chúc tụng Chúa Giêsu là Đấng nhân danh Thiên Chúa mà
đến, thì chúng ta có bổn phận phải tiếp tục bước theo Ngài.
Bởi vì con đường Ngài đã đi cũng phải là con đường
chúng ta bước theo, mặc dầu chúng ta biết con đường này là con đường sỏi
đá, con đường gai góc, con đường thập giá. Chính con đường này sẽ dẫn
chúng ta tới đỉnh đồi Canvê, để rồi qua những khổ đau và nhất là qua cái
chết trên thập giá, chúng ta cũng sẽ được tiến đến cuộc chiến thắng Phục
sinh.
Vì thế, có người đã viết về sự liên quan giữa Chúa
nhật lễ lá và ngày thứ sáu tuần thánh như sau:
- Giữa Chúa nhật lễ lá và ngày thứ sáu tuần thánh
có một sự phản ảnh cho cuộc đời người Kitô hữu.
Thực vậy, hôm nay chúng ta tung hô chúc tụng Chúa,
nhưng ngày mai chúng ta có thể sẽ gào thét đóng đinh Chúa vào thập giá.
Hôm nay chúng ta yêu thương Ngài, nhưng ngày mai có thể chúng ta sẽ ghét
bỏ Ngài. Hôm nay chúng ta hân hoan, nhưng ngày mai chúng ta lại buồn
sầu. Hôm nay chúng ta hiền hòa, nhưng ngày mai chúng ta lại gian ác. Hôm
nay chúng ta tin tưởng, nhưng ngày mai chúng ta lại thất vọng.
Phải, danh sách các mâu thuẫn giữa thiện và ác còn
có thể tiếp tục nối dài và thực sự giữa Chúa nhật lễ lá và thứ sáu tuần
thánh, là cả một đời người tín hữu được phản chiếu.
Để làm sáng tỏ những tư tưởng này, một diễn giả đã
dùng hình ảnh cành lá dừa. Cành lá dừa xanh tươi, tượng trưng cho những
đặc tính tích cực của Chúa nhật lễ lá, như hoan hô chúc tụng Chúa, yêu
thương, hân hoan, hiền hòa và tin tưởng. Thế nhưng mỗi lần nêu lên một
điểm tiêu cực của ngày thứ sáu tuần thánh cũng như của chính cuộc sống
như: Oán ghét, hoài nghi, gian ác, buồn phiền và khước từ Chúa, thì diễn
giả ấy liền tước bỏ phần lá xanh, và chỉ để lại chiếc cọng của nó mà
thôi.
Cuối cùng, cành lá dừa xanh tươi đã trở thành một
bó roi cỏ để dùng để hành hạ nhau, biến thiên đàng thành địa ngục.
Ước chi tuần thánh là thời gian chúng ta được hướng
dẫn để tiếp tục bước theo những dấu chân cuối cùng của Chúa Giêsu nơi
dương thế, để chúng ta luôn trung thành gắn bó với đấng chúng ta tuyên
xưng hôm nay: Chúc tụng đấng nhân danh Chúa mà đến.
Trong suốt ba năm, Đức Giêsu đã đi từ ngôi làng này
đến ngôi làng khác, làm việc lành, giảng dạy, và chữa bệnh cho dân
chúng. Khi đi đến bất cứ nơi đâu, Đức Giêsu cũng đều được đám đông vây
quanh lắng nghe và tìm kiếm nhiều điều nơi Người. Đây là ba năm mà Người
đã hoạt động một cách trọn vẹn và tích cực ngoài sức tưởng tượng. Tuy
nhiên, trong suốt thời gian đó, Đức Giêsu vẫn ở thế chủ động. Người đã
đi đây đi đó ít nhiều theo ý của Người.
Nhưng khi Người giao nộp mình vào tay kẻ thù trong
Giệtsimani (Người bị một trong những môn đệ của Người giao nộp), thì tất
cả thế chủ động của Người chấm dứt. Điều này tượng trưng cho một điểm
xoay chuyển trong sứ vụ của Người. Kể từ đây, Người bắt đầu phải chịu
đựng đau khổ. Và đó là lúc bắt đầu cuộc khổ nạn của Người. Từ thời điểm
đó, Người không còn làm chủ những điều đang diễn tiến nữa. Bấy giờ, các
sự việc được thực hiện nhắm vào Người, hơn là do người.
Từ đó, Người bị ngăn chặn, giam giữ và giải đến cho
Hêrôđê, Cai pha, Philatô thẩm vấn, đánh đập, đội mão gai, bắt vác thánh
giá, lột quần áo, đóng đinh, bị chế nhạo… và cuối cùng, Người đã chịu
chết. Đức Giêsu đã hoàn tất sứ vụ của Người, không chỉ bằng những hành
động của Người, mà đặc biệt hơn, còn bằng những điều người ta làm cho
Người nữa – bằng cuộc khổ nạn của Người. Chúng ta phải hiểu rõ một điều:
Chúa Cha không ném Người vào tay những kẻ độc ác. Đức Giêsu đã chịu chết
một cách tự nguyện. Người đã hiến mạng sống của Người.
Nhiều lúc, cuộc sống của chúng ta được xác định
bằng những điều xảy đến với chúng ta, hơn là những việc chúng ta thực
hiện: theo một ý nghĩa rất thật, thì đâu chính là cuộc khổ nạn của chúng
ta. Nếu chúng ta có thể thực sự chấp nhận được cuộc khổ nạn này, cũng
như những hành động của chúng ta, thì điều đó sẽ dẫn đến sự cứu độ cho
chúng ta.
Điều quan trọng là nhận ra phạm vi mà chúng ta hoạt
động. Khi còn bé, chúng ta chỉ biết trông cậy vào “lòng thương xót” của
những người lớn. Trong hành trình cuộc đời, chúng ta còn có số phận, sự
phản bội, những rủi ro, đủ mọi loại bệnh tật, mất mát tình bạn, thất bại
trong các tương quan, thất vọng đối với người bạn đời hoặc con cái, cái
chết của những người thân yêu, công việc làm ăn vất vả v.v…
Tất nhiên, chúng ta cũng có những lúc vui vẻ và
những giai đoạn được sống an bình. Nhưng sự thật là vẫn có nhiều điều
vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Đó là những yếu tố làm nên
kiếp người. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có sự chọn lựa trong cách thức đáp
trả lại những gì mà cuộc sống gửi đến chúng ta. Cách đáp trả này có thể
làm nên con người chúng ta, hoặc bẻ gãy chúng ta.
Đức Giêsu vẫn tồn tại với tư cách là chính bản thân
Người, đầy sức mạnh, trong sạch, và tốt đẹp. Chúng ta sẽ trở thành con
người nào, nếu cảnh mất mát, khủng hoảng, hoặc những sự tước đoạt thì
giờ đã lấy đi của chúng ta vẻ bên ngoài thành công, tầm quan trọng cá
nhân, thậm chí ngay cả nhân cách nữa?
Câu chuyện Cuộc Khổ Nạn chứng tỏ cách thế Đức Giêsu
đáp trả lại những điều xảy đến với Người. Người đã chấp nhận tất cả cảnh
bạo lực, biến đổi chúng, và chuyển chúng thành tình yêu và ơn tha thứ.
Đây là sự chiến thắng của tình yêu vượt lên trên tất cả những sức mạnh
tàn phá. Không có gì ngoài tình yêu nơi Đức Giêsu. Ngay cả khi người ta
đóng đinh vào tay chân Người. Người vẫn yêu thương. Điều này giúp chúng
ta suy nghĩ đến những lúc chúng ta trải qua cảnh khó khăn.
78. Chết vì yêu
Sau hành trình dài sống trong những ngày chay tịnh,
hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào tuần Thánh với Chúa nhật Lễ Lá và cao
điểm là tam nhật thánh (thứ năm, thứ sáu, thứ bảy). Bầu khí Phụng vụ hôm
nay là đi từ niềm vui đến nổi buồn. Vui vì dân chúng hân hoan chào đón
Đức Giêsu như vị Vua tiến vào thành để đăng quang. Nhưng sau đó là không
khí u buồn vì cũng chính những người hồ hởi đón rước Đức Giêsu giờ đây
trở thành những chống báng Ngài và đòi đóng đinh Ngài vào Thập giá. Lý
do là vì Ngài đã không đi theo con đường mà họ mong chờ. Ngài đã không
trở thành vị "Vua chinh chiến", không dùng bạo lực để giải phóng họ khỏi
sự đô hộ của Đế quốc Rôma, nhưng Ngài đã chọn con đường khiêm hạ, đi đến
cùng con đường yêu thương với tước hiệu "Vua Hoà Bình - Vua Tình yêu".
Vào năm1900, Phong trào "Nghĩa Hoà Đoàn" nổi lên ở
Trung Quốc. Đó là phong trào nổi dậy nhằm chống lại người ngoại quốc và
người Kitô hữu ở Trung quốc. Những người nổi dậy chiếm một trường truyền
giáo ở đây. Họ đóng kín các cửa của trường này, chỉ chừa lại một cánh
cửa duy nhất để ra vào mà thôi. Nhưng ngay cửa này, họ đặt một cây Thánh
giá và họ ra điều kiện là ai bước qua Thánh giá để đi ra ngoài thì sẽ
được tự do; còn ai đi vòng qua Thánh giá để đi ra thì sẽ bị bắn chết.
Bảy học sinh đầu tiên đã bước qua Thánh giá và ra đi tự do. Người thứ
tám là một em bé gái mười tuổi tiến lại gần Thánh giá. Em không bước qua
nhưng lại quỳ gối xuống trước cây Thánh giá, cung kính hôn chào Thánh
giá và đứng lên đi vòng qua để ra ngoài. Tức thì, em bị bắn chết. Điều
lạ lùng là tất cả các học sinh còn lại, khoảng một trăm học sinh, đã
theo gương em bé gái đi vòng qua Thánh giá chứ không bước qua. Và tất cả
đều bị bắn chết. Và người ta đã thống kê, trong năm1900, có hơn 30.000
Kitô hữu ở Trung quốc đã bị sát hại. Họ thà chọn cái chết hơn là được
sống nhưng phải từ chối Thầy Giêsu là Đấng mà mình hết lòng yêu mến.
Trong lịch sử Trung quốc và nhiều nơi truyền giáo khác, hàng triệu người
đã chết vì đã tin vào Đức Kito và Hội thánh của Ngài.
Lòng trung thành và anh dũng của em bé gái người
Trung quốc cũng như của hàng chục ngàn người Kitô hữu như em gợi ý cho
chúng ta suy nghĩ về hành trình đức tin của chúng ta trong việc bước
theo Đức Giêsu Kitô. Chúng ta theo Chúa với thái độ nào? Với tinh thần
nào?
Dân Do thái cầm cành lá trên tay, trải áo xuống
đường cung nghinh Đức Giêsu Kitô như vị vua khải hoàn tiến vào thành
Giêrusalem. Họ xem Ngài như vị Vua mà họ hết lòng mong chờ, tôn kính và
mến yêu. Nhưng mấy ngày sau đó, họ cũng chính là những người hò hét đòi
đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá. Tại sao vậy? Tại sao có sự đổi trắng
thay đen nhanh chóng như vậy? Đó là vì lòng ích kỷ và hám lợi nơi bản
năng tự nhiên của con người. Khi họ thấy Đức Giêsu không còn đem lại lợi
ích vật chất cho họ nữa; khi họ thấy Đức Giêsu thất thế trước quyền đời
là họ thay lòng đổi dạ, quay lưng lại với những gì mà mình đã từng mong
mỏi, tôn kính và ôm ấp yêu thương. Thế mới thấy lòng con người, đúng câu
tục ngữ người ta thường nói: "nào ai lấy thước mà đo lòng người". Dù bị
phản bội như vậy, nhưng Đức Giêsu vẫn yêu thương họ và yêu thương họ đến
cùng. Ngài yêu thương ngay đến chính những kẻ đã ra tay làm khổ Ngài và
hành hạ Ngài đến chết. Ngài đã van xin Chúa Cha rằng: "Lạy Cha, xin tha
cho chúng vì chúng lầm không biết". Chúng ta hãy chiêm ngắm và cảm
nghiệm tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Louis Evely đã nói:
"chúng ta là Kitô hữu không phải là vì chúng ta yêu mến Thiên Chúa,
nhưng chúng ta là Kitô hữu vì chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa yêu
thương chúng ta". Chúng ta có cảm nghiệm nào cụ thể về tình yêu Thiên
Chúa dành cho chúng ta?
Kỷ niệm việc Chúa vào thành Giêrusalem, Phụng vụ
muốn mời gọi chúng ta đi theo Người cách trung thành trên mọi nẻo đường
Ngài tiến bước, nhất là theo Ngài đi vào con đường tử nạn cho đến khi
chịu chết trên thập giá và mai táng trong mồ. Vì có như vậy, chúng ta
mới hy vọng cùng Người chỗi dậy trong vinh quang và bước vào đời sống
vĩnh cửu. Chân lý này chúng ta đã rõ. Bất cứ ai muốn theo Chúa, phải
theo Ngài cho đến hết con đường, phải theo Ngài cách trung thành cho đến
chết. Chúng ta phải cùng chết với Đức Giêsu thì mới hy vọng được phục
sinh với Ngài.
Thế nhưng trong hành trình đức tin, có nhiều người
không theo Chúa cách trung thành, không theo Ngài cho đến cuối chặng
đường. Họ có thái độ và tâm trạng giống như những người Do Thái ngày
xưa: theo Chúa, rước Chúa, tháp tùng Chúa, phấn khởi, hân hoan trong
ngày vinh quang... nhưng khi thấy sóng gió, gặp khó khăn, thử thách
trong đời sống đạo là họ chao đảo, nao núng, chối bỏ đức tin của mình.
Rất có thể những khi đó, họ sẽ phủ nhận và sẵn sàng lên án tử cho Chúa.
Họ thay lòng đổi dạ ư? Sự thật không phải thế. Trước sau họ chỉ là những
con người ham sống! Họ muốn thứ hạnh phúc thực tiễn, thứ hạnh phúc trước
mắt, thứ hạnh phúc rẻ tiền không phải tốn công tốn sức. Nhưng khốn thay
đó chỉ là hạnh phúc giả tạo!
Cũng có rất nhiều người theo Chúa, giữ đạo chỉ vì
họ đang sống trong lầm than và vất vả bởi những ngang trái trong cuộc
đời. Nên khi họ nghe rao giảng một Đức Giêsu là nhà tiên tri, có những
quyền phép phi thường, làm cho kẻ chết sống lại được, thế là họ liền nô
nức chạy theo, muốn tôn phong Ngài lên làm vua để mưa móc ân huệ trần
gian cho họ. Nhưng khi thấy Ngài bất lực trước đối thủ, không "cứu được
mình huống nữa còn đỡ được ai" là họ liền bỏ Ngài, thậm chí còn muốn xô
Ngài nhào xuống để chết đi, để khỏi thấy mặt, để khỏi chướng tai gai
mắt. Chắc chắn những con người như thế không thể làm môn đệ của Đức
Giêsu được rồi! Chắc chắn họ sẽ không được chung phần vinh quang Phục
sinh với Ngài được rồi!
Dĩ nhiên không ai trong chúng ta muốn đồng hoá mình
với đám người Do Thái trên. Nhưng có thật chúng ta đã theo Chúa một cách
xứng đáng không? Chúng ta cũng đã chứng kiến nhiều trường hợp theo đạo
vì gạo, vì vợ, vì thế quyền... Mùa Chay là cơ hội thuận tiện để mỗi
người chúng ta kiểm điểm lại chính mình, chứ không phải chỉ nhìn vào
người khác để phê phán họ. Ước gì chúng ta có can đảm, sáng suốt, biết
phê bình chính cuộc sống của mình để thấy rõ chúng ta có thật lòng đi
theo Chúa không? Có dám đi với Người cho đến khi xuống mồ để cùng chết
với Ngài và sống lại với Ngài không? Hay là chúng ta đang có khuynh
hướng muốn rẽ ngang và không theo đường lối Chúa nữa bằng thái độ giấu
giếm, che đậy chân lý Phúc Âm không dám tỏ ra mình là người tín hữu khi
cần thiết? Ấy là chưa kể, việc đi theo Chúa cho đến chết và chết trên
thập giá, đòi chúng ta phải biết chết đi cho tội lỗi, tiêu diệt các nết
xấu, và sống theo giáo lý Phúc âm. Chúng ta hằng ngày có thực thi những
đều ấy không? Ngày xưa, không có mấy người đi theo Chúa cho đến Núi Sọ!
Mười hai tông đồ cũng không, bảy mươi hai tông đồ cũng không. Chỉ có Đức
Maria và một số người rất ít người khác. Nhưng khi nhìn lại như vậy,
không phải để hổ thẹn, mặc cảm, nhưng là để chúng ta biết thanh lọc động
cơ theo Chúa của chúng ta cho được tốt đẹp và đúng nghĩa hơn. Đồng thời
cũng đừng có ai tự vỗ ngực xưng tên mình là kẻ trung thành trong việc
theo Chúa, nhưng chúng ta khiêm tốn cầu xin cho mình được ơn ấy bằng đời
sống cầu nguyện "kẻo sa chước cám dỗ".
Xin ơn Chúa giúp để chúng ta mãi mãi là một
chiến sĩ can trường trong hành trình đức tin và là một tôi trung của Đức
Giêsu Kitô trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời này. Amen.
79. Chiêm ngắm cây Thập Giá
Với Chúa nhật Lễ Lá hôm nay, cùng với tất cả anh
chị em tín hữu Công Giáo trên toàn thế giới, chúng ta bước vào Tuần
Thánh. Tuần Thánh là thời gian quan trọng nhất trong năm Phụng Vụ. Đồng
thời, Chúa nhật Lễ Lá hôm nay cũng có một ý nghĩa đặc biệt đối với người
trẻ Công Giáo. Bởi vì hằng năm, Giáo Hội đã chọn ngày này làm ngày Quốc
Tế Giới Trẻ. Chọn ngày Lễ Lá, ngày khởi đầu Tuần Thánh là ngày Quốc Tế
Giới Trẻ, Giáo Hội cũng muốn kêu gọi người trẻ Công Giáo bước theo Chúa
Giêsu trên con đường Thập Giá, cùng chịu đóng đinh với Người để được
Phục Sinh với Người trong cuộc sống mới.
Do đó, Tuần Thánh là thời gian đặc biệt đối với
người Công Giáo, thời gian mà cây Thập Giá của Chúa Giêsu được giương
cao hơn bao giờ hết. Trong bài Thương Khó chúng ta vừa nghe, cho thấy
Chúa Giêsu vào Thành Giêrusalem để chịu chết và chết ô nhục trên cây
Thập Giá. Người Công Giáo nào cũng quý mến cây Thập Giá, nhưng mà hình
như cách quý mến của chúng ta nặng về tình cảm. Và chúng ta thường lấy
cây Thập Giá để an ủi nhau, nhất là khi mình bị bệnh, bị tai nạn, thất
nghiệp, hoặc là bất cứ một đau khổ nào ập đến, thì mình an ủi nhau là
"Chúa gởi Thập Giá đến chịu khó mà vác". Rất là đạo đức. Thế nhưng cách
an ủi đó dường như cây Thập Giá xuất hiện như một thái độ cam chịu, nhẫn
nhục chứ không có gì tích cực. Và ngày hôm nay, không phải chỉ riêng
người Công Giáo chúng ta, mà nhìn ra bên ngoài, chúng ta thấy cây Thập
Giá của Chúa Giêsu đang bị "phá giá". Các minh tinh màn bạc, các diễn
viên điện ảnh nào cũng thấy đeo một cây Thập Giá trên ngực. Cây Thập Giá
của Chúa Giêsu đã trở thành món trang sức và nhiều khi là một trò hề.
Thành thử ra, chúng ta cần phải đi tìm lại ý nghĩa của cây Thập Giá. Và
dĩ nhiên, ý nghĩa của cây Thập Giá rất phong phú, hôm nay chúng ta chỉ
quan tâm đến một vài ý nghĩa khi suy niệm bài Thương Khó của Chúa nhật
Lễ Lá này.
Trước hết, nơi cây Thập Giá của Chúa Giêsu đã bộc
lộ cho chúng ta thấy tình thương tha thứ của Thiên Chúa, Ngài ôm lấy tất
cả nhân loại trong vòng tay của Ngài, mang lấy tất cả tội lỗi của chúng
ta trên đôi vai vô tội của Ngài. Và chính vì thế mà chúng ta được hưởng
nhờ ơn tha thứ mà Ngài thể hiện ra nơi cây Thập Giá.
Cùng với mặc khải đó, thì cây Thập Giá của Chúa
Giêsu còn tỏ lộ một điều thứ hai là sự độc ác dã man và tội lỗi của con
người. Bởi lẽ, có cây Thập Giá trên đồi Canvê là có sự hèn nhát của ông
Phêrô, có sự phản bội của Giuđa, có sự toan tính quyền lực của những
người lãnh đạo lúc bấy giờ, có sự toan tính lợi lộc của những người làm
ăn thời bấy giờ. Tất cả gộp lại tạo nên cái chết của Chúa Giêsu trên cây
Thập Giá. Ở trong quá khứ, người Công Giáo chúng ta có thói quen đổ tội
cho dân Do Thái đã giết Chúa Giêsu. Ngày hôm nay thì Giáo Hội có một cái
nhìn khác, Giáo Hội đã nói trong Sắc lệnh "Đối Thoại Với Các Tôn Giáo"
rằng: "Không thể nào kết án một cách hàm hồ cho dân cư ở Giêrusalem lúc
bấy giờ và cho toàn dân Do Thái phải chịu trách nhiệm về cái chết của
Chúa Giêsu, cho dẫu những người cầm quyền lúc bấy giờ đã quyết định như
thế". Hơn nữa, Giáo Hội còn nói thêm rằng: "Mỗi một người Công Giáo phải
thấy rằng tội lỗi của mình chính là những cái đinh đóng vào Chúa Giêsu".
Thánh Phanxicô Assisi cũng đã nói rằng: "Anh chị em không biết rằng mỗi
một tội anh chị em phạm là anh chị em đóng đinh Chúa Giêsu trên cây Thập
Giá hay sao?". Chúng ta chứ không phải người Do Thái. Chính vì thế, cây
Thập Giá của Chúa Giêsu bộc lộ sự dã man, độc ác, tội lỗi của anh, của
chị, của tôi. Cho nên, khi đối diện với cây Thập Giá của Chúa Giêsu thì
con người thật của chúng ta được phơi bày ra: có những lúc chúng ta cũng
phản bội Chúa như Giuđa, có những lúc chúng ta cũng chối Chúa như Phêrô,
có những lúc chúng ta cũng làm ngơ, hại người như Philatô, có những lúc
chúng ta cũng lên án và vô ơn bạc nghĩa như đám đông dân chúng Do Thái.
Và cùng với việc tỏ lộ khuôn mặt tội lỗi của chúng
ta thì cây Thập Giá của Chúa Giêsu cũng bộc lộ khuôn mặt của người con
hiếu thảo. Người con hiếu thảo đó chính là Chúa Giêsu chịu đóng đinh
trên Thập Giá, Đấng mà khi phải đối diện với đau khổ và cái chết, mà
theo bản tính tự nhiên, Ngài đã run rẩy, sợ hãi, kinh khiếp đến nỗi Ngài
phải thốt lên: "Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này" và "mồ hôi Người như
những giọt máu rơi xuống đất". Thế nhưng, người con ấy vẫn cố gắng vượt
qua khổ đau để thưa lên rằng "Xin theo ý Cha", và lời cầu nguyện cuối
cùng trong cuộc đời là: "Lạy Cha, con phó sự sống con trong tay Cha".
Ước gì chúng ta trong những giây phút mà cuộc đời gặp thử thách và đau
khổ chứ không phải là hạnh phúc và sướng vui mà mình có thể nói lên câu
đó: "Lạy Cha, con phó sự sống con trong tay Cha". Tâm tư đó là tâm tư
chỉ có những người con hiếu thảo với cha mình trên trời mới dám dâng
hiến như vậy, mới dám trao phó và tín thác như thế.
Cho nên, cây Thập Giá Chúa Giêsu, một đàng Thiên
Chúa tỏ mình là Đấng yêu thương tha thứ, hy sinh mạng sống vì chúng ta;
một đàng chúng ta bị vạch trần tội lỗi của mình và đồng thời Chúa Giêsu
bộc lộ dung nhan của người con hiếu thảo.
Chính vì thế, khi suy niệm về cuộc thương khó của
Chúa Giêsu hôm nay và nhất là trong Tuần Thánh này, mỗi lần chúng ta
chiêm ngắm cây Thập Giá Chúa Giêsu, ước gì chúng ta nhận ra ở đó khuôn
mặt của Thiên Chúa là Cha thương xót và tha thứ, ước gì chúng ta nhận ra
ở đó con người tội lỗi của mình và ước gì chúng ta cũng nhận ra ở đó
khuôn mặt của người con hiếu thảo là Chúa Giêsu để mình bắt chước lối
sống của người con hiếu thảo đó. Khi chúng ta khám phá được như vậy, lúc
mà mình đối diện với cây Thập Giá của Chúa Giêsu và ngước nhìn lên Ngài
với lòng tin thì lúc đó ơn cứu độ sẽ đến với chúng ta. Amen.
Anh chị em thân mến.
Người Việt Nam chúng ta giờ đây rất quen với danh
từ nghĩa địa: người chết mang ra nghĩa địa, đó là chuyện bình thường.
Nhưng chúng ta cũng quen dùng đồ vật từ nghĩa địa, thí dụ như xe nghĩa
địa, TV nghĩa địa, không biết làm sao kể cho hết những đồ nghĩa địa mà
chúng ta đang dùng. Chúng ta vẫn biết đây là những thứ không còn đáp ứng
nhu cầu của một số người, nên họ cho vào nghĩa địa. Thế mà đó lại là
những thứ cần thiết và đôi khi rất quí giá đối với một số người khác. Đồ
vật là như thế, số phận của nó là như thế. Khi không còn hữu dụng nữa,
thì nó phải bị vứt ra ngoài. Con người nhiều khi cũng chịu chung số phận
với đồ vật. Khi không còn giúp ích được cho người khác nữa, thì khó có
thể tồn tại. Chúng ta đang sống trong một xã hội với thời buổi kinh tế
thị trường, chạy theo lợi nhuận, nên đôi khi chúng ta cũng cảm thấy
vướng bận, đối với những người già cả không còn giúp ích gì cho chúng ta
nữa, mà trái lại còn gây nên đủ thứ phiền hà. Nghe thì thật bất nhẫn,
nhưng chúng ta cũng muốn sớm đưa những thứ vướng bận đó ra nghĩa địa.
Con người muốn tìm sự thoải mái cho chính mình mà nhiều khi họ bỏ qua,
hay không còn biết gì đến nhiều thứ rất cần thiết, những thứ mà một
người bình thường không thể thiếu được: như chữ hiếu, lòng biết ơn và
tôn trọng nhân phẩm.
Trong việc cử hành phụng vụ ngày hôm nay, chúng ta
vừa chứng kiến một cảnh bi hài kịch. Những con người đó, những môi miệng
đó, những đôi tay đó: Họ vừa hoan hô mừng rở, vì họ đã được ăn bánh, đã
được chữa bệnh, đã được nghe giảng dạy và họ cũng đã từng mơ ước được
sống với Ngài. Nhưng rồi cũng những con người đó, giờ đây họ lại lớn
tiếng đòi đóng đinh Đấng đã từng thi ân cho họ. Vì giờ nầy đây, họ thấy
Chúa Giêsu không còn cần thiết nữa. Họ cũng nhận thấy Ngài không biết
vâng lời họ, Ngài cũng không phục vụ cho những lợi nhuận riêng tư của
họ, Ngài không thực hiện đúng với những gì họ mong muốn. Nói đúng ra
Ngài không đáp ứng nhu cầu họ đòi hỏi, nên họ loại Ngài ra khỏi cuộc
sống của họ. Họ muốn cho Chúa Giêsu vào nghĩa địa của họ. Nhưng Ngài vẫn
yêu thương những con người như thế, Ngài biết họ lầm lạc trong suy tư,
thiển cận trong tầm nhìn và nông nỗi trong hành động. Ngài đã chịu treo
cao lên để kéo họ lên với Ngài, Ngài đã chịu chết vì họ và đã sống lại,
để mang cho họ sức sống mới.
Vở bi hài kịch của năm xưa, mặc dù đã trải qua 2000
năm, vậy mà nó cứ vẫn diễn ra hằng ngày. Khi nghe đọc bài thương khó
chắc chúng ta không khỏi đau lòng. Nhưng nếu nhìn lại, mỗi người cũng
không khỏi giật mình. Nhiều khi chúng ta cũng góp phần vào những tiếng
la vang dội, đòi đóng đinh Thiên Chúa của mình. Đôi lúc chúng ta cũng
cộng tác với những người cầm roi, để làm cho thân thể nhiệm mầu thêm đau
đớn. Cũng có những lần, chúng ta đệm thêm những chiếc gai nhọn, đặt lên
đầu Đấng đã từng thi ân cho chúng ta. Thế mà chúng ta vẫn cứ ung dung tự
tại, đôi khi còn tự hào về chính mình, tự hào vì mình đã đè bẹp được
người khác, tự hào vì bao nhiêu người phải khiếp sợ khi nhìn thấy chúng
ta. Cuộc sống hằng ngày chúng ta chỉ biết đòi hỏi để thỏa mản những nhu
cầu riêng tư, vì tính ích kỷ đã vương lên quá cao, nên chúng ta bất chấp
những thủ đoạn, miễn sao cho bản thân của mình có lợi. Còn người khác ra
sao thì mặc kệ. Chúng ta cứ lạnh lùng trước những lời van xin thống
thiết, cứ hành động mà chẵng biết đó có phải là sự công bằng hay không,
vì con tim yêu thương mà Thiên Chúa đã đặt trong bản thân mỗi người, giờ
đây chắc có lẽ, nó không còn có những nhịp đập bình thường nữa. Những
lúc đó, là những lúc chúng ta cộng tác vào cái chết đau thương của Đấng
đã từng yêu thương chúng ta. Những lúc đó, chúng ta đã muốn loại trừ
Đấng đã từng thi ân cho chúng ta. Những lúc đó, chúng ta muốn đem Thiên
Chúa của mình vào nghĩa địa, vì trong những lúc đó Ngài không thể phục
vụ cho những lợi ích ngông cuồng của chúng ta, cho nên Ngài không còn
hữu dụng, không còn cần thiết cho cuộc sống của mình nữa. Không lẽ, cái
thế thái nhân tình của năm xưa, giờ đây lại hiện diện nơi chính bản thân
của chúng ta sao? Không lẽ Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ, chúng ta lại
xem Ngài như một món đồ dùng hằng ngày, để khi nào có lợi thì chúng ta
chạy đến van xin, khi nào Ngài cản trở những việc làm bất chính của
mình, không phục vụ cho những lợi ích cá nhân, thì chúng ta loại trừ
Ngài ra. Thế mà Thiên chúa vẫn yêu thương, vẫn tha thứ, Thiên Chúa vẫn
kêu mời chúng ta hướng lên cao với Ngài, Thiên chúa vẫn thông truyền sự
sống mới cho chúng ta. Thiên Chúa vẫn mong muốn chúng ta được đỗi mới và
sống trong vòng tay của Ngài.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết lắng nghe
lời mời gọi của Chúa, luôn bước đi trong tình thương của Ngài và có đời
sống mới tốt đẹp hơn.
Đó là vào đầu tháng 11, lá cây phủ đầy các con
đường, rải rác trên mặt đất. Người ta kêu gọi mỗi gia đình thu gom những
lá cây của nhà mình vào những giỏ nhựa, và chuyển đến cho những người
hốt rác. Bây giờ, khi sử dụng những lá cây như một biểu tượng của tội
lỗi, chúng ta hãy nhận xét xem sự việc diễn tiến ra sao.
Một số người không hề cảm thấy phiền toái gì cả,
khi nhìn thấy những lá cây rơi xuống, phủ đầy trên bãi cỏ, bồn hoa và
lối đi. Họ nhìn thấy chúng ta bắt đầu mục nát và làm cho không khí bốc
mùi hôi thối. Nhưng mỗi ngày, họ đều bước lên trên những lá cây thối rữa
đó, dường như thể chúng chưa bao giờ hiện diện. Đây là những người mà
đối với họ, tội lỗi không là gì cả. Hêrôđê là một trong những người này.
Một người quét ra ngoài đường những lá cây trên bãi
cỏ và lối đi cả nhà họ. Tại đó, chúng trở thành một đống xấu xí khó coi,
và tạo ra một mối nguy hại đối với các tài xế. Nhưng người đó không hề
bận tâm, họ cứ để mặc cho người khác đến dọn sạch đống rác đó đi. Người
này nhắc nhở chúng ta về những kẻ làm phiền người khác vì tội lỗi của
họ. Philatô, bọn quân lính và đám đông thuộc loại người này.
Hầu hết người ta thường quan tâm đến việc dọn dẹp
những lá cây của nhà họ, nhưng họ không màng đến việc nhặt một chiếc lá
trên bãi cỏ nhà hàng xóm. Đây là phần đất và trách nhiệm của người đó.
Loại người này đại diện cho những người biết nhận trách nhiệm đối với
tội lỗi của mình. Phêrô là một ví dụ.
Cuối cùng, có một người đang chú ý. Người này không
chỉ thu gom những lá cây trên bãi cỏ nhà mình, mà còn thu gom cả những
lá cây ngoài đường nữa. Và người đó làm công việc này một cách âm thầm,
không hề phàn nàn gì cả. Người đó nhắc nhở chúng ta đôi chút về Đức
Kitô, Đấng đã chịu chết vì tất cả chúng ta. Nhưng Đức Kitô là một người
duy nhất không hề phạm tội.
Tuần Thánh không phải là một tuần lễ để chúng ta ẩn
núp phía sau người khác. Chúng ta phải nhận trách nhiệm đối với tội lỗi
của mình. Nếu biết nhìn nhận tội lỗi của mình, chúng ta không có gì phải
sợ hãi, bởi vì Đức Kitô đã đến gánh tất cả tội lỗi của chúng ta. Sau đó.
ít nhất chúng ta có thể cố gắng cảm thấy một số trách nhiệm đối với tội
lỗi của đồng loại và của cả thế giới nói chung.
Không ai là một hòn đảo. Mỗi người chúng ta đều là
một phần tử ở trên mảnh đất của nhân loại.
82. Đức Giêsu, Mêssia vinh quang
và đau khổ
Lễ lá hôm nay cho thấy sự oai phong của Messia khởi
hành vào đền thánh Giêrusalem. Ngài vào thành trong sự tung hô chúc tụng
vang trời của dân chúng. Điều này rất hợp lý, vì Thiên chúa viếng thăm
dân người thì đáng được dân Người đón tiếp trong niềm hoân hoan, trong
tiếng tung hô vang dậy vì Người ngự đến là để cứu chuộc dân người và đem
hòa bình cho các dân các nước. Tuy nhiên, mục đích vào thành của Chúa
Giêsu không nhằm đến việc tung hô bên ngoài bằng môi miệng nhưng Ngài
nhằm thực hiện lời sấm các tiên tri về Ngài.
Đức Giêsu vào thành trong những lời hoan hô chúc
tụng của dân chúng vốn coi Người là Vị Cứu Thế. Chúa Giêsu cũng có ý tỏ
mình cho Israel và cho biết sứ mệnh thiên sai cao cả của Ngài. Tuy
nhiên, dân chúng chưa hiểu đúng đắn mạc khải của Ngài. Đa số dân chúng
còn nghĩ rằng sứ mệnh Mesia là đòan kết dân chúng lại dưới quyền lãnh
đạo của Ngài để đuổi quân Rôma ra khỏi bờ cõi của họ. Đức Giêsu cỡi lừa
con vào thành là đi ngược lại ý tưởng đó, vì Chúa Giêsu không phải là
ông vua dùng sức mạnh quân sự để bắt các dân làm nô lệ cho Isrel nhưng
đến để cứu các dân khỏi nghèo khổ, đói khát, thù hận và những hình thức
bất công. Ngài không đến để kết án người khác nhưng là để tha thứ cho
họ. Ngài đến để cho dân chúng tìm được một cuộc sống có giá trị vững
bền. Ngài tiến vào thành với tư cách một vị vua hiền từ cỡi lừa con tiến
vào như Giacaria đã nói trước: Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan
hỷ!...Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính
Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn
còn theo mẹ (x. Zac 9,9). Vị vua hiền từ này chiến thắng những thế lực
thù địch mạnh nhất bằng cái chết trên thập giá chứ không bằng vũ lực của
các vua trần thế ngồi trên La mã.
Chúng ta là môn đệ Chúa hãy theo tinh thần của
Chúa, sống phù hợp với niềm tin và luân lý yêu thương để làm chứng cho
Chúa trước mặt người thế. Chúng ta không bắt chước dân Do thái đón nhận
Chúa để rồi kết án thập hình cho Chúa nhưng đón nhận lời Chúa và giữ
đúng đường lối Chúa dạy, biết vác thập giá hàng ngày để mai sau được vào
vinh quang với Người.
Chúa Giêsu để dân chúng tung hô Người là con vua
Đavid nhưng không vì thế mà người quên bổn phận chịu tử nạn để rồi Phục
sinh. Chúng ta sống giữa thế gian không vì sự khen tặng, lôi cuốn, dễ
dãi của thế gian mà xao lãng bổn phận người kitô hữu. Chúng ta theo Chúa
không vì lợi lộc trần gian chóng qua nhưng vì hạnh phúc vĩnh cửu bền lâu
Chúa sẽ ban cho.
Lạy Chúa Giêsu, trong ngày Chúa sắp chịu nạn
này, chúng con bỗng nhớ đến những ý tưởng dại dột của mình. Chúa từ bỏ
những lợi lộc trần gian vì chúng con. Vậy mà hôm nay chúng con đang còn
tìm lợi lộc và danh lợi. Nhiều khi vì những danh lợi đó mà con xao lãng
việc thờ phượng Chúa, đối xử bất công với anh em tha nhân dưới nhiều
hình thức khác nhau. Chúng con xin hứa sẽ thay đổi cuộc sống để làm sáng
danh Chúa và mai sau được Chúa thưởng công bội hậu trên Thiên đàng.
Không có điểm nào trong việc trở nên nhạy cảm về
nỗi đau khổ. Người ta có thể quá bị đụng chạm, đến nỗi họ trở nên cay
cú, và sẽ không bù đắp lại được. “Một sự hy sinh quá lâu dài, có thể làm
cho trái tim trở thành chai đá” (W.B. Yeats).
Tuy nhiên, nỗi đau khổ có thể trở thành một cơ hội.
Đây không phải là vấn đề lý tưởng hóa nỗi đau khổ, nhưng là đương đầu
với nó trong niềm hy vọng. Giá trị của nỗi đau khổ không hệ tại ở cảm
giác đau đớn của nó, nhưng hệ tại ở thái độ của người chịu đau khổ. Nỗi
đau khổ có thể thanh tẩy linh hồn con người, và biến đổi tính cách của
người đó. Nỗi đau đớn có thể mang lại hiệu quả. Nỗi đau khổ là một phần
thiết yếu trong quá trình trở thành con người thực sự, nghĩa là một
người có lòng thương xót và trưởng thành.
Chúng ta không được coi nỗi đau khổ như là một sự
trừng phạt của Thiên Chúa. Thiên Chúa không trừng phạt bất cứ ai. Quả
thật Thiên Chúa để cho chúng ta chịu đau khổ, chỉ vì điều tốt đẹp có thể
xuất phát từ nỗi đau khổ mà thôi. Nỗi đau khổ có thể đưa chúng ta đến
gần với Người hơn. Qua đau khổ, chúng ta cảm nghiệm được sức mạnh và
tình yêu của Người.
Thật là một sự an ủi lớn lao cho chúng ta, khi nhận
biết rằng Đức Kitô, Đấng Vô Tội và Không Hề Phạm Tội, lại đi trên con
đường đau khổ trước chúng ta, và Người đã đi đến tận cùng. Trên thánh
giá, Người gom tất cả nỗi đau của nhân loại, và biến thành của riêng
Người.
Trong suốt thời cộng sản, thi sĩ Irina Ratushinkaya
đã sống một thời gian trong các trại lao động ảm đạm ở nước Nga. Bà nói
“Cách thức tốt nhất để giữ được nhân cách của bạn trong các trại này, là
quan tâm nhiều hơn đến nỗi đau khổ của người khác, hơn là của bản thân
bạn” Chúng ta không thể học hỏi được về lòng thương xót, nếu không biết
đau khổ.
Trong Cuộc Khổ Nạn của Người, chúng ta nhận thấy
cách thức Đức Kitô quan tâm đến người khác – Người quan tâm đến những
phụ nữ thành Giêrusalem đồng cảm với Người, Người quan tâm đến tên trộm,
và tất nhiên Người quan tâm đến mẹ của Người. Nơi Người, không có gì
khác ngoài tấm lòng yêu thương. Ngay cả khi bị đóng đinh tay chân trên
thánh giá, Người vẫn tiếp tục yêu thương.
Đức Giêsu không chịu chết để giải thoát chúng ta
khỏi đau khổ. Người đã chết để dạy cho chúng ta cách thức chịu đau khổ.
Mặc dù con đường đau khổ chật hẹp và khó khăn, nhưng từ khi Đức Giêsu đi
qua đó, thì nó không còn như vậy nữa. Một ánh sáng rạng ngời chiếu tỏa
trên nó. Những ai biết liên kết những đau khổ của mình với những đau khổ
của Đức Kitô, thì những đau khổ đó sẽ trở thành nguồn ân sủng cho toàn
thể cộng đồng, và họ sẽ được chia sẻ vinh quang Phục sinh của Đức Kitô.
Chúa Giêsu đã bị kết án tử hình hơn hai ngàn năm
rồi. Thế mà hồ sơ vụ án kể như chưa kết thúc. Một số người trong chúng
ta vẫn chưa hiểu thấu hết nội dung cũng như bối cảnh lịch sử của “vụ án”
này. Bài tường thuật cuộc thương khó của Chúa đã kể lại đầy đủ mọi chi
tiết. Vì thế mỗi khi đọc lại bài thương khó này là chúng ta lật lại hồ
sơ của vụ án Chúa Giêsu. Đề nghị mỗi người ngày hôm nay cũng như những
ngày trong Tuần Thánh hãy tìm hiểu để hiểu rõ hơn và xác tín hơn nữa ý
nghĩa và giá trị cuộc thương khó và cái chết của Chúa Giêsu.
Trước hết, chúng ta biết: Chúa Giêsu bị bắt vào đêm
thứ năm. Ngài lần lượt bị đưa ra xét xử trước tòa án Do thái, tòa án
Philatô, tòa án Hêrôđê, rồi trở lại tòa án Philatô. Chúng ta hãy theo
Chúa đến các tòa án này để xem người ta xét xử Chúa ra sao.
Trước khi chính thức bị đưa ra tòa án để xét xử,
Chúa Giêsu đã bị áp giải đến dinh cựu thượng tế Anna, là người rất có uy
tín thời đó, nhưng lại có ác cảm với Chúa Giêsu. Theo một số sử gia,
chính Anna là người có trách nhiệm lớn nhất trong vụ án này. Ông muốn
điều tra Chúa Giêsu, nhưng ông không khai thác được gì, vì Chúa Giêsu
chỉ một mực giữ thái độ im lặng. Bực tức, ông truyền áp giải Chúa sang
Caipha, là con rể ông, đang làm thượng tế năm ấy. Caipha nổi tiếng là
một nhà chính trị có tài. Tức khắc ông cho triệu tập 72 thành viên của
Thượng hội đồng và cũng là tòa án tối cao của người Do thái. Trước tòa,
có nhiều người đứng lên tố cáo Chúa. Những lời tố cáo của họ đều xoay
quanh những vấn đề liên quan tới đạo Do thái. Họ cho rằng Chúa đã lộng
ngôn phạm thượng khi công khai tuyên bố phá đền thờ Giêrusalem; đã vi
phạm nhiều lần luật ngày Sabát; đã không giữ những tục lệ truyền thống
tổ tiên để lại… Trước những lời tố cáo đó, Chúa Giêsu chỉ im lặng, không
hề biện hộ một lời nào. Cuối cùng, Caipha đưa ra một câu hỏi có tính
quyết định. Nhân danh Thiên Chúa, ông hỏi Chúa Giêsu có phải là “Đấng
Kitô, Con Thiên Chúa” không? Tôn trọng tư cách thượng tế của quan tòa,
Chúa trả lời: “Đúng như lời ngài nói”, tức là Chúa Giêsu xác nhận Ngài
là Con Thiên Chúa. Nghe vậy, lập tức Caipha xé áo bên ngoài từ cổ tới
bụng, chừng ba mươi phân, theo tục lệ Do thái, để phản ứng lại lời nhận
tội mà ông cho là lộng ngôn phạm thượng. Ông nói: “Hắn nói phạm thượng!
Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quí vị vừa nghe hắn nói phạm đến
Thiên Chúa”. Theo luật Do thái: “Hễ ai nói phạm thượng thì người đó đáng
chết”. Số phận của Chúa Giêsu đến đây coi như đã được quyết định: Ngài
bị kết án tử hình.
Nhưng kể từ khi bị người Rôma đô hộ, người Do thái
không có quyền kết án tử hình bất cứ ai, nếu không có sự đồng ý của
chính quyền Rôma. Nên sáng sớm ngày hôm sau, họ áp giải Chúa tới tổng
trấn Philatô, là một viên chức cao cấp nhất, đại diện cho chính quyền
Rôma tại nước Do thái để xin chuẩn nhận bản án tử hình.
Trước tòa Philatô, người Do thái đã phơi bày hết ác
tâm của họ. Để Philatô chuẩn nhận bản án tử hình, họ đã đổi những lời tố
cáo từ lãnh vực tôn giáo sang lãnh vực chính trị, nghĩa là họ dứt khoát
muốn Philatô giết Chúa như một kẻ tội phạm chính trị chống lại đế quốc
Rôma. Chúng ta thấy rõ ràng: khi hỏi Chúa Giêsu thì họ giải thích danh
hiệu Mêsia bằng danh hiệu Con Thiên Chúa; còn khi tố cáo trước tòa
Philatô, thì họ lại giải thích bằng danh hiệu vua, để lôi kéo Philatô
vào trò chơi gian ác của họ. Nhưng Philatô trả lời họ rằng: ông không
thấy người này có gì đáng kết tội. Họ càng tố cáo mạnh hơn, nhai lại một
luận điệu chụp mũ, vu khống và quyết liệt đòi đóng đinh Chúa vào thập
giá.
Thấy tình hình có vẻ căng thẳng, Philatô muốn gỡ
mình ra khỏi trò chơi nguy hiểm này. Ông thảy trái banh cho Hêrôđê, tức
là ông yêu cầu đưa Chúa Giêsu qua cho Hêrôđê xét xử để tránh mọi phiền
phức. Hêrôđê từ lâu đã mong gặp Chúa Giêsu, nhưng ông chỉ mong gặp để
thỏa mãn sự tò mò và tính ham vui mà thôi. Thấy Chúa Giêsu ông mừng lắm.
Nhưng rồi ông thất vọng vì Chúa Giêsu không đáp ứng điều gì ông trông
đợi. Để trả thù, ông nhập bọn với lính hầu của ông mà chế diễu Chúa, rồi
ông truyền trao trả Chúa Giêsu lại cho Philatô. Philatô lại phải nát óc
tìm cách thoát thân: làm sao một đàng vừa để trấn an, làm hài lòng những
người tố cáo quá khích; đàng khác lại vừa không kết án bất công người vô
tội. Nên ông tuyên bố rằng: ông chẳng thấy có điều gì để kết án người
này. Vậy ông cho đánh đòn Chúa một trận rồi tha về. Đánh đòn rồi dân Do
thái vẫn khăng khăng gào thét dữ dội hơn, đòi kết án tử hình Chúa. Thế
là Philatô sợ hãi, hèn nhát rửa tay thanh minh mình vô tội trong việc đổ
máu Chúa và ông buông xuôi trao Chúa cho họ hành động theo ý họ. Họ bắt
Chúa vác thập giá, rồi đóng đinh vào thập giá. Và Chúa đã chết trên thập
giá.
Đọc lại hồ sơ vụ án, chúng ta thấy Philatô và
Hêrôđê là những nhà cầm quyền chính trị, không tìm thấy điều gì để kết
án Chúa. Chỉ có giới lãnh đạo Do thái muốn giết Chúa mà không cần tội
trạng nào cả. Vì thế, trách nhiệm chính trong vụ giết người này là giới
lãnh đạo Do thái, đúng như Chúa đã báo trước.
Nói theo tôn giáo, đối với chúng ta hôm nay, rõ
ràng vụ án Chúa Giêsu không phải là một vụ án chính trị mà là một vụ án
tôn giáo: Chúa Giêsu chết không phải vì xưng mình là vua nhưng vì đã
xưng mình là Con Thiên Chúa. Và đó chính là ý nghĩa và giá trị cái chết
của Chúa Giêsu. Ngài là Con Thiên Chúa, nên cái chết của Ngài có ý nghĩa
vô cùng, cái chết của Ngài có giá trị cứu chuộc mọi người. Chính vì thế
mà thánh Phaolô đã nói: “Máu của Chúa đổ ra để muôn người được cứu độ”.
Lẽ ra loài người phải chết vì đã phạm tội, nhưng Thiên Chúa đã dủ lòng
thương, sai Con Ngài đến để chết thay cho chúng ta.
Trong một trung tâm cải tạo tại Hoa kỳ, người ta
có thể đọc bài thơ vô danh như sau:
Tôi đã kêu xin Thiên Chúa cho tôi sức mạnh để
đạt thành công, Ngài đã khiến tôi trở thành yếu đuối để tôi học vâng lời
trong khiêm tốn. Tôi đã xin cho được sức vóc để làm những việc trọng
đại, Ngài đã cho tôi tật nguyền để tôi làm những điều tốt lành hơn. Tôi
đã xin Chúa cho tôi của cải giàu sang để được sung sướng, Ngài đã cho
tôi cái nghèo khó để tôi biết sống khôn ngoan. Tôi đã xin được chức
quyền để mọi người kiêng nể kính trọng và Ngài đã cho tôi sự yếu đuối để
tôi cảm thấy tôi cần đến Thiên Chúa.
Tôi đã xin có bạn đường để khỏi phải sống lẻ
loi, Ngài đã cho tôi một con tim để yêu thương hết mọi người. Tôi đã kêu
xin những điều khiến cho cuộc đời tôi vui sướng, Ngài đã cho tôi cuộc
sống. Để tìm vui trong mọi sự, tôi đã không nhận được gì trong số những
điều tôi kêu xin cùng Thiên Chúa, nhưng tôi đã nhận được những gì tôi hy
vọng. Các lời nguyện không thành, lời của tôi đã được khứng nhận và tôi
là người hạnh phúc nhất trên trần gian.
Lời cầu nguyện của người vô danh trên đây cho chúng
ta thấy một cái nhìn khác về cuộc đời và các giá trị đích thực vượt xa
nhãn quang chúng ta hiểu. Sứ điệp Mẹ Giáo hội muốn nhắn gởi chúng ta qua
Phụng vụ Chúa nhật lễ lá đó là biết nhận ra các chiến thắng của Chúa
Giêsu và của tình yêu trong những thất bại ê chề bề ngoài của một người
tử tội. Ngôn sứ Isaia và bài ca thứ ba trong bốn bài ca trình bày gương
mặt của người tôi tớ khổ đau, nó diễn tả kinh nghiệm bị bắt bớ mà ngôn
sứ phải gánh chịu là người loan báo Lời Chúa cho những kẻ thất vọng.
Ngôn sứ nêu gương sống tin yêu và hy vọng khi nhẫn nhục chịu đựng cảnh
đối xử.
Qua đó, bài ca nêu bật các đặc thái sau đây của
người tôi tớ Giavê:
Thứ nhất người tôi tớ được đưa vào
trong khung trời mầu nhiệm của Thiên Chúa và sẵn sàng chấp nhận thực
hiện ơn cứu độ Thiên Chúa muốn ban cho dân Ngài.
Thứ hai để thực hiện chương trình ấy
theo ý muốn và nhãn quan của Thiên Chúa, người tôi tớ sống đón nhận
thánh ý của Ngài mà không phản đối cũng không chần chừ tìm cách thoái
thác và viện dẫn lý do.
Thứ ba tuy là người vô cùng khôn
ngoan, người có Lời Chúa trong mình, người tôi tớ chứng nhận mọi xỉ
nhục, mọi khinh bỉ. Bị xỉ nhổ, bị đánh đòn như người điên dại và không
còn phẩm giá gì nữa và nhất là không chấp nhận dàn xếp lèo lái để tránh
né cái khó khăn và khổ đau xuất phát từ sứ mệnh đã lãnh nhận từ Thiên
Chúa Cha.
Thái độ sống đó của người tôi tớ khổ đau diễn tả
cách hành xử siêu việt khác hẳn cách hành xử kiêu căng hiếu chiến của
loài người. Cách hành xử đấy đưa nhân loại vào vòng bạo lực không có lối
thoát.
Rồi trong bài đọc II Chúa nhật Lễ lá trong thơ gởi
giáo đoàn Philipphê thánh Phaolô đã mời gọi tín hữu hãy noi gương cách
hành xử của Chúa Giêsu Kitô và sống theo tinh thần của Ngài, tinh thần
của người tôi tớ đau khổ. Thánh Phaolô đã lấy lại bài ca diễn tả lại
lòng tin của cộng đoàn tiên khởi vào Chúa Kitô. Bài ca nêu bật bản tính
Thiên Chúa và cuộc sống đời đời của Chúa Kitô trong liên hệ với Thiên
Chúa Cha và nhấn mạnh đến ý nghĩa cuộc đời dương thế và bản tính nhân
loại của Ngài. Đó là một bài khảo luận Kitô học súc tích. Từ ngữ nòng
cốt trình bày mấu điểm thần học căn bản trên đây là sự từ bỏ trọn vẹn,
đổ hết ra làm cho trống rỗng đi.
Tuy phận mình là Thiên Chúa, khi nhập thể làm người
để hiện thực chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã lột
bỏ mọi vinh quang siêu việt thần thiêng của Ngài. Chúa đã đổ hết bản
tính Thiên Chúa của Ngài, đã trở thành trống rỗng hoàn toàn để chia sẻ
thân phận yếu hèn thấp kém và tội lỗi vong thân của con người.
Chúa Giêsu đã ra khỏi chính mình để hoàn toàn sống
vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha là Đấng đã dùng chính cái chết và thập
giá của con Ngài để trao ban ơn cứu rỗi cho nhân loại. Chính thái độ
khiêm hạ vô cùng và tự hủy bỏ mình đó đã khiến Thiên Chúa Cha tôn vinh
Chúa Kitô và trao ban trở lại cho Ngài mọi phẩm giá cao trọng và một
quyền bính trên trời dưới đất. Phẩm giá cao trọng và quyền năng ấy trong
cách hành xử của Thiên Chúa không phải là kết quả sức mạnh của con
người, mà là hoa trái của khổ đau và nhục nhã khiêm cung.
Chúa Giêsu Kitô được đặt làm Chúa và là Đấng Cứu
thế. Người đã từ bỏ điều kiện Thiên Chúa của mình để sống như người
phàm, như người tôi tớ đau khổ. Từ nay trở đi loài người chỉ có thể gặp
gỡ Thiên Chúa qua chính cuộc đời của Chúa Giêsu và thập giá. Thập giá
giúp chúng ta tẩy rửa lòng tin của mình khỏi mọi thần tượng do chính
chúng ta đã tạo ra trong cuộc đời mình. Thiên Chúa của thập giá là một
người Thiên Chúa tự lột bỏ, tự đổ dốc hết phẩm giá cao vời của mình đi
để chia sẻ thân phận tội lỗi khốn cùng của con người.
Thiên Chúa của thập giá không phải là một vị Thiên
Chúa luôn kéo chúng ta ra khỏi lòng cuộc sống trần gian và thế giới này,
nhưng Ngài là Đấng bước vào trong lịch sử con người để yêu thương, hoán
cải và trao ban cho lịch sử loài người một ý nghĩa. Khi trở thành người
anh em của chúng ta, Ngài cống hiến cho chúng ta sự hiệp thông thần linh
của Ngài và kêu mời chúng ta trở thành anh chị em với nhau.
Trong tuần lễ đặc biệt sắp tới này, chúng ta hãy
xin Chúa giúp cho chúng ta được theo Chúa cho đến cùng trên con đường
thập giá Chúa đã đi qua.
86. Chúa Nhật Lễ Lá B
"Dò sông dò biển dễ dò, có ai lấy thước mà đo
lòng người"
Hôm nay dân Do thái đón tiếp Chúa Giêsu vào thành
Giêrusalem hết sức long trọng, đây là một hình thức đón tiếp vị vua
chiến thắng vinh quang trở về. Họ lấy những cánh lá, trải xuống đường,
tung hô vị vua của họ "hoan hô con vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh
Chúa mà đến". Thật là náo nhiệt, thật là tưng bừng, biết bao nhiêu lời
chúc tụng, biết bao nhiêu lời hoan hô, không thể đếm nổi, không thể kể
hết được.
Do đâu mà có cảnh náo nhiệt tưng bừng này? Dịp này
là đại lễ của người Do thái, mọi người từ khắp nơi tề tựu về Giêrusalem
để dự lễ. Trong số này có những người chưa hề nghe biết về Đức Giêsu, có
người cũng đã nghe, người nghe ít, kẻ nghe nhiều và có những người từng
chứng kiến những phép lạ Đức Giêsu đã làm, nào là cho người què đi được,
người câm nói được, người điếc nghe được, người mù thấy được, người bị
quỷ ám được lành mạnh, người chết được sống lại, họ đã từng chứng kiến
và hưởng nhờ phép lạ hoá bánh ra nhiều nuôi hơn năm ngàn người ăn no nê
mà vẫn còn dư thừa; và họ đã từng nghe lời giảng của Ngài, họ thích thú
nghe và Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền.
Trong đám đông dân chúng hôm nay, có rất nhiều
thành phần, có những người tò mò hiếu kỳ, có những người ngưỡng mộ, có
những người thọ ơn của Đức Giêsu... Những người này hò reo vang dậy để
tung hô và đón rước Chúa vào thành.
Đáng buồn là những lời hoan hô chúc tụng không khéo
dài được bao lâu, nó như một thứ lửa rơm mà thôi, bùng lên rồi tắt lim,
bạo phát, nhưng cũng bạo tàng. Thật buồn cho Đức Giêsu trong hoàn cảnh
này, tình người thật đen bạc, đổi trắng thay đen, như ông bà ta dạy "dò
sông dò biển dễ dò, có ai lấy thước mà đo lòng người". Chỉ mấy ngày sau
đó, cũng những con người này, cũng những môi miệng này, cũng những cánh
tay này, lại kết án Đức Giêsu, nhưng lời hoan hô chúc tụng không còn nữa
mà thay vào đó những lời đả đảo, quá khích "giết đi, giết đi, đóng đinh
nó vào thập giá".
Ta không biết Đức Giêsu nghĩ gì? Nhưng có lẻ Chúa
buồn lắm, buồn đến chết đi được, có lẻ Ngài đã cảm nghiệm được điều đó,
nên Ngài đã cầu nguyện thống thiết với Chúa Cha trong vườn cây dầu "Lạy
Cha, nếu có thể được thì cho con khỏi uống chén này, nhưng theo ý Cha,
đừng theo ý con". Buồn lắm nhưng cũng thương lắm, buồn vì lòng người đen
bạc, nhưng thương vì con người đang bị tội lỗi thống trị cần phải được
cứu chuộc. Cuối cùng thì tình thương đã chiến thắng, tình yêu đến thì
nỗi buồn không còn nữa. Dù lòng người có thay đổi nhưng Chúa vẫn trung
thành yêu thương cứu chuộc con người.
Lạy Chúa, xin ban ơn trợ giúp để chúng con luôn
trung thành sống ơn gọi làm con Chúa đến trọn đời. Xin cho chúng con
biết bắt chước Chúa lấy tình thương mà đối xử với nhau trong mọi hoàn
cảnh sống của chúng con. Amen.
(Lm. Gioan B. Văn Hào chuyển ngữ)
“Ôi Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài
bỏ rơi con” (Mc 15,34).
Bước vào tuần thánh, chúng ta dấn bước theo Đức
Giêsu tiến vào Giêrusalem. Cùng với Ngài, Chúng ta đi từ vinh quang sáng
chói, khi được toàn dân đón chào và tung hô, đến cái chết bi thương và
nhục nhã trên núi sọ. Thoạt đầu, dân chúng tôn vinh Chúa như một lãnh tụ
oai hùng, nhưng bỗng chốc họ đã trở mặt. Tất cả đồng thanh đả đảo và kết
án Ngài như một tên tội phạm đốn mạt nhất.
Đỉnh điểm của mùa chay là cuộc hành trình tiến vào
Giêrusalem, một thành phố đầy những mâu thuẫn trái ngược. Giêrusalem là
nơi có đền thờ thánh thiêng để tôn kính Giavê, đồng thời cũng là nơi
sùng bái những ngẫu tượng. Đây là kinh thành biểu thị niềm tin tôn giáo,
nhưng cũng là nơi đầy gương mù khủng khiếp. Giêrusalem là nơi chốn của
ánh sáng, nhưng cũng là một thế giới ngập tràn bóng tối. Dân Do thái từ
chỗ đặt niềm tin trọn vẹn vào Đức Giêsu, nhưng sau đó nơi họ là cả một
sự phẫn nộ đượm tính căm thù. Giuđa bán đứng vị tôn sư đáng mến. Trò
phản thầy. Các đầu mục tôn giáo thì quá gian ác đã dàn dựng một phiên
tòa rùng rợn. Các môn sinh thân thiết nhất đã vội quên thầy của mình. Họ
đã ngủ vùi trong mệt mỏi chán chường và cuối cùng đã tháo chạy. Phêrô
thẳng thừng chối bỏ người Thầy đáng kính. Còn Philatô, giống như một kẻ
đồng lõa, đã kết án Đức Giêsu, cho dù ông biết Ngài hoàn toàn vô tội.
Lính gác và đám đông thì tha hồ mỉa mai chửi bới, và không tiếc lời lăng
mạ. Điều trớ trêu nhất, là dân chúng lại xin tha Baraba và đòi giết Đức
Giêsu. Baraba, theo từ ngữ Aram, có nghĩa là “ con của Cha”. Họ đã chọn
một người “con” với một quá khứ đan kín tội ác, và đòi kết án người
“Con” duy nhất của Chúa Cha, Đấng hoàn toàn vô tội đã gánh trên vai mọi
tội lỗi khủng khiếp của cả trần gian. Giêrusalem quả là nơi nhức nhối
đầy những đối nghịch và mâu thuẫn.
Sự kiên định trong niềm tin nơi Đức Giêsu giữa bóng
tối của thập giá là một chứng tá và là khuôn mẫu tuyệt hảo để chúng ta
dõi theo. Trong thơ gửi giáo đoàn Philip mà giáo hội đọc lên trong phụng
vụ lễ lá hôm nay, Thánh Phaolô nêu bật cho chúng ta khuôn mẫu này. Thánh
nhân chiêm ngắm sự tự hạ và biến mình ra không nơi Chúa Giêsu, để dẫn
đến vinh quang. Các nhà chú giải cho rằng Phaolô đã trích dẫn một bài
thánh thi rất quen thuộc thời đó. Phần dẫn nhập do chính thánh nhân biên
soạn. Ngài đã viết những câu giới thiệu như sau “ Nếu Đức Kitô đem lại
cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu
chúng ta được hiệp thông trong thần khí, nếu chúng ta sống thân tình và
biết cảm thương nhau… anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu
Kitô (Phil 2,1-5). Sau đó, vị tông đồ đã viết trọn bài Thánh thi với lời
mở “ Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết
duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ
vinh quang, mặc lấy thân nô lệ”. Bài Thánh Thi đã mô tả Thập Gía như là
cách diễn bày sự khiêm nhường và vâng phục sâu thẳm của Chúa Giêsu. Và
kết quả của hành vi tự biến mình ra không, là “Thiên Chúa đã tôn vinh
Người… mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa”.
Thông thường, người ta vẫn hiểu rằng Thánh Phaolô
đề cao chức phận làm con của Đức Giêsu, được hiện lộ nơi dáng vẻ bi
thương của Thập Gía. Đức Giêsu đã tự nguyện hạ mình, giấu bỏ thần tính
cao sang để mặc lấy kiếp người hèn hạ, cho đến chết và chết trên Thập
Gía. Tuy nhiên, ở đây chúng ta thấy có một hình ảnh song đối, nhưng khác
nhau hoàn toàn giữa Đức Giêsu và Ađam. Ađam được tạo thành, giống hình
ảnh Thiên Chúa (Sáng thế 1,26-28), nhưng lại muốn trở nên ngang bằng
Thiên Chúa, vì kiêu ngạo và bất tuân (3,5t). Hệ quả là sự sa ngã trong
tội dẫn đến cái chết. Ngược lại, Đức Giêsu- Ađam mới, đã sống khiêm tốn
và vâng phục, trút bỏ vinh quang của một vị Thiên Chúa. Kết quả là Ngài
được siêu thăng và đã mở ra cho nhân loại một chân trời mới của ơn cứu
độ. Bản văn soi sáng để chúng ta thấu đạt cả hai cách diễn nghĩa, liên
kết với nhau. Chúa Giêsu như là Ađam mới, và cũng là một người con thực
sự của Chúa Cha. Ngài đã tự hư vô hoá chính mình, mang lấy tình trạng
tội lỗi của Ađam xưa, đó là tình trạng sống kiếp nô lệ và tiến nhận cái
chết, để cứu chúng ta, giải thoát chúng ta khỏi kiếp nô lệ và thân phận
phải chết.
Khi chúng ta gẫm suy việc Đức Giêsu đi vào mầu
nhiệm tự hủy, chứng tá cho niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa và đã trải
qua những giờ phút hãi hùng trên thập giá, có lẽ chúng ta vẫn nghĩ tưởng
rằng Ngài đã biết trước tất cả những gì sẽ xảy ra. Nếu quả thật Đức
Giêsu đã biết, và Ngài không thể có một chọn lựa nào khác, rồi sau đó
Ngài biết chắc chắn Chúa Cha sẽ cho Ngài phục sinh vinh quang, thì những
giây phút hấp hối kinh hoàng của Ngài trong vườn cây dầu chẳng còn ý
nghĩa gì. Tại sao Chúa lại phải khiếp sợ, phải căng thẳng, mồ hôi và máu
tuôn đổ đến mức thảm thiết như thế? Tại sao Chúa phải lớn tiếng rơi lệ
khẩn xin với Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7) “Lạy Cha nếu có
thể, xin hãy cất chén đắng này xa con”? Và nếu như Ngài biết trước, và
phải miễn cưỡng chấp nhận, thì tại sao trên Thánh giá Ngài phải gào thét
lên một cách não nuột “Cha ơi, sao cha bỏ rơi con”? Thánh Phaolô đã
viết: Vì Đức Kitô đã hư vô hóa mình, đã tự nguyện đi sâu vào mầu nhiệm
tự hủy, nên Ngài đã hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha, tín thác tận căn,
đặc biệt giữa bóng tối dầy đặc của mầu nhiệm thập giá và cái chết. Nếu
Đức Giêsu biết trước Ngài sẽ sớm được phục sinh trong vinh quang, thì
ngày thứ Sáu tuần thánh không còn là một ngày đen tối đầy u ám nữa.
Nhưng, khi mang thân phận con người giống hệt chúng ta, cho dù có thể
Ngài biết, Ngài vẫn phải trải qua những phút giây khủng khiếp nhất, kinh
hoàng nhất và đã hoàn toàn tín thác vào Cha Ngài.
Chúng ta phải nhìn vào bóng tối phủ kín nơi Đức
Giêsu, với tất cả vẻ bi thương trong kiếp người, mang trên vai mọi tội
lỗi loài người chúng ta, để có thể nhận ra nơi Ngài một niềm tin sâu
thẳm và một sự vâng phục tuyệt đối giữa những tăm tối nhất khi bị treo
thân trên Thập giá. Đây là nguyên mẫu đức tin cho chúng ta, khi chúng ta
đối diện trước những bầm dập và tan nát trong cuộc đời. Có bao giờ chúng
ta đã kinh qua những phút giây bi thương như thế không, khi chúng ta bị
mất mát, chìm lặng trong bóng tối của kinh khiếp? Khi gặp những thất bại
cay đắng, bị bạn bè xa tránh, bị rơi vào những chán chường và tuyệt
vọng… chúng ta có cảm thấy như đang bị Thiên Chúa bỏ rơi hay không? Đức
Giêsu đã trải nghiệm như thế, ở Giêrusalem và trên thập giá. Sự bi
thương của Ngài còn gấp cả ngàn lần, triệu lần so với những khổ đau mà
chúng ta gặp phải. Trong tuần này, Giáo hội muốn chúng ta cùng với Ngài
đi vào lộ trình lên Giêrusalem, và thông dự vào những giờ khắc đen tối
nhất trong cuộc đời tại thế của Ngài.
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Vào những ngày cuối đời tại thế, Đức Giêsu bị Giuđa
phản bội, nộp Thầy mình để đổi lấy ba mươi đồng bạc (Mt 26:15). Nghĩ đến
viễn tượng đau khổ và tử nạn Người sắp phải chịu, Đức Giêsu đi ra Núi
Cây Dầu cầu nguyện. Cầu nguyện xong thì Giuđa, kẻ phản bội dẫn một toán
vệ binh Đền thờ đến bắt Đức Giêsu bằng một dấu hiệu là nụ hôn. Để bảo vệ
Thầy mình, một người trong nhóm các tông đồ tuốt gươm chém đứt tai phải
tên đầy tớ của thượng tế (Mc 14:46). Phúc âm Nhất lãm không nêu danh
người chém. May thay, Phúc âm thánh Gioan có xác định là ông Phêrô chủ
động và nêu danh cả viên đầy tớ bị chém là Man-khô nữa (Ga 18:10).
Nói đến việc chém đứt tai tên đầy tớ, thì có linh
mục kia từ khi vào chủng viện trung học cứ thắc mắc: Sao thánh Phêrô
chém kiểu nào mà chỉ làm đứt tai tên đầy tớ thôi, mà không làm bị thương
vai hay cổ? Hay phải dịch là xẻo tai? Mà xẻo tai thì lại không thực tế
trong trường hợp này. Để xẻo, thì một tay cần phải cầm tai của tên đầy
tớ, còn tay kia cầm gươm để xẻo thì mới có điểm tựa. Nếu vậy, đối phương
thấy đau sẽ vùng vẫy để tẩu thoát. Còn nếu nhờ các tông đồ khác kìm kẹp
hắn lại để thực hiện việc xẻo, thì cũng không giúp được gì, bởi vì vệ
binh Đền thờ đi bắt Đức Giêsu thế nào cũng phải đông hơn và có khí giới
lợi hại hơn để áp đảo nhóm Mười Một.
Trở lại việc chém đứt tai thì linh muc đó lý luận:
Nếu thánh Phêrô bổ thẳng từ trên xuống dưới thì thế nào cũng làm bị
thương vai của tên đầy tớ. Nếu chém chéo, thì không những làm đứt tai mà
còn làm bị thương cả đầu hay cổ nữa. Nếu tai cụp gần vào đầu thì lại
càng khó chém. Có lẽ tên đầy tớ có tai vảnh ra như tai lừa nên mới dễ
chém như vậy. Dầu sao đi nữa, linh mục đó cũng kết luận rằng thánh Phêrô
phải có võ thuật, nhất là làm nghề chài lưới ở biển hồ Tibêria thì càng
phải biết võ mà đề phòng hải tặc, nếu có. Như vậy khi chém tên đầy tớ,
thánh Phêrô đã phải dùng thiên giác để cho thanh gươm dừng lại ở điểm
nào đó cho khỏi làm bị thương cổ hoặc vai của tên đầy tớ. Nói cách khác,
thánh Phêrô phải dùng trí óc để điều khiển thần kinh, rồi thần kinh phối
trí với nhãn quan và bắp thịt cánh tay để điều khiển hướng đi của thanh
gươm, cho gươm dừng lại ngay trước vai. Như thế thánh Phêrô chỉ chém để
cảnh cáo nhóm người đến bắt Thầy mình như là ngụ ý nói với chúng: Tụi
bay đừng có đụng đến Thầy của chúng ta nghe không, kẻo phải ăn đòn như
thế này. May thay, Phúc âm thánh Luca có ghi lại việc Chúa chữa tên đầy
tớ: Người sờ vào tai tên đầy tớ mà chữa lành (Lc 22:51).
Như vậy đường lối của Đức Giêsu khác với đường lối
loài người. Đường lối của Đức Giêsu là vâng phục thánh ý Chúa Cha cho
nên Người bảo Phêrô dừng lại và xỏ gươm vào bao (Mt 26:52). Hãy tưởng
tượng xem những đau khổ về thân xác và tâm hồn mà Chúa phải chịu vào
những ngày cuối đời. Một tông đồ thân tín phản bội bằng một nụ hôn, tông
đồ khác chối Thầy. Số còn lại thì lẩn trốn như trạch, không dám xuất đầu
lộ diện để khỏi bị liên lụy. Có một chàng trai đi theo Đức Giêsu, thấy
nguy cơ, liền trút tấm vải che thân, tẩu thoát, mình trần như nhộng (Mc
14:51-52). Những nhà chú giải Thánh kinh đưa ra nhận định: chàng trai đó
chính là thánh sử Mác-cô. Nếu theo nhận định của những nhà chú giải
Thánh kinh về căn tính của chàng thanh niên tẩu thoát, mình trần trụi,
thì tình tiết trần truồng có thể được giải thích như sau. Đức Giêsu và
các tông đồ có lẽ ăn bữa Vượt qua tại nhà thân mẫu ông Mác-cô, trong một
căn lầu, rộng rãi, có trường kỉ như Người đã chỉ bảo (c. 12). Khi Chúa
Giêsu và các tông đồ xuống lầu đi ra vườn Gét-sê-ma-ni, Mác-cô ở dưới
lầu nghe hay nhìn thấy - có lẽ vữa tắm xong - cũng đi theo, vội lấy khăn
bằng vải gai khoác vào người cho đỡ lạnh - lạnh vì ông Phêrô phải ngồi
gần lửa mà sưởi (c. 54).
Philatô thấy Đức Giêsu không làm chi đáng tội cho
nên muốn tha cho Người, nhưng lại nể dân. Còn dân chúng thì nhạo báng,
vu oan, khinh rể và xúc phạm đến Chúa. Họ cứ khăng khăng đòi đóng đinh
Chúa. Vì áp lực, Philatô đã phải nhượng bộ cho đóng đinh Chúa.
Trên thập giá, chỉ có ba cái đinh giữ xác Chúa lại,
chứ người ta không cột chân tay Chúa vào thập giá, và không có bệ đỡ
chân Chúa đâu. Đa số những cây thập giá mà người ta làm để tôn kính thì
thấy có bệ dốc. Mà bệ dốc bốn mươi lăm độ như vậy thì cũng không đỡ được
chân Chúa khỏi trụt xuống. Đóng đinh ai trên thập giá là một hình phạt
của tội nhân. Với hình phạt xưa kia khi chưa có phong trào nhân quyền
bảo vệ phạm nhân, người ta đâu có quan tâm đến việc làm cho tội nhân đỡ
đau đớn bằng cách đặt bệ chân đâu? Cho nên thân xác kéo ghì xuống, làm
vết thương ở hai cổ tay và hai chân toạc ra, đau nhức, và xương sườn bị
giãn ra. Máu cùng nước trào ra từ tay chân và cạnh sườn. Đau đớn, nhức
nhối, kiệt sức và ngộp thở mà chết!
Đừng tưởng rằng những đau khổ mà Chúa phải chịu
không là gì vì Người là Thiên Chúa. Không phải vậy đâu. Chúa Giêsu cũng
là người. Và Chúa chịu đau khổ và chịu chết với tư cách là người. Đức
Giêsu không phải là năm mươi phần trăm Chúa và năm mươi phần trăm người
cộng lại. Nơi Đức Giêsu có 100% Chúa và 100% người. Ai chủ trương nơi
Đức Giêsu chỉ có 50% thiên tính và 50% nhân tính cộng lại là rối đạo.
Đức Giêsu là Chúa hoàn toàn và trọn vẹn. Đức Giêsu cũng là người hoàn
toàn và trọn vẹn, ngoại trừ tội lỗi. Với tư cách là Chúa, Đức Giêsu
không thể chịu đau khổ và chịu chết được. Còn với tư cách là người, Đức
Giêsu cũng sợ đau khổ và sợ chết. Vì thế mà Đức Giêsu đã xin với Thiên
Chúa Cha - nếu có thể được - cho Người khỏi uống chén đắng, nghĩa là
khỏi chịu đau khổ và chịu chết, nhưng Người cũng xin vâng theo thánh ý
Chúa Cha (Mc 14:36). Và Đức Giêsu đã chịu đau khổ tột bậc.
Phúc âm hôm nay ghi lại, vào giờ sầu khổ trong vườn
cây dầu: Người bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến (Mc 14:33). Rồi Người
nói với các môn đệ: Tâm hồn Thầy buồn đến chết được (Mc 14:34). Phúc âm
thánh Luca ghi thêm: Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất
(Lc 22:44). Sầu khổ hay khổ nạn theo nguyên tự Hy ngữ mà La ngữ gọi là
agonia. Theo Ronald Rolheiser thì vào thời Đức Giêsu, agonia là từ ngữ
mà giới thể tháo gia dùng để làm ấm hay làm nóng thân thể cho ra mồ hôi
để tranh giải ô lim pích. Theo nghĩa này thì thánh sử Luca muốn nói
trong giờ khổ nạn Chúa cũng cầu nguyện, chiến đấu với nội tâm đến toát
mồ hôi ra để sửa soạn cho bản án đóng đinh trên thập giá (1).
Đức Giêsu xin với Thiên Chúa Cha cho Người khỏi
phải uống chén đắng, nghĩa là khỏi phải chịu khổ và chịu chết. Tuy nhiên
Người cũng xin vâng theo thánh ý Chúa Cha. Đức Giêsu đã phải đồng hoá
mình với người tôi tớ chịu đau khổ của Giavê Thiên Chúa trong sách ngôn
sứ Isaia hôm nay: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho
người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ (Is
50:6). Còn thánh Phaolô thì ghi lại về Đức Giêsu như sau: Người lại còn
hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập
giá (Pl 2:8).
Nếu việc suy niệm về cuộc thương khó và khổ hình
của Đức Giêsu không khơi dậy được tâm tình sám hối về tội lỗi mình và
khóc thương Chúa, thì nên đi coi phim: The Passion of the Christ của Mel
Gibson. Những học giả Thánh kinh cho rằng đó là cảnh diễn tả khá trung
thực việc quân lính đánh đòn Chúa. Đó là hình phạt mà các thể chế có
pháp lý thời Chúa Giêsu tại miền Trung Đông dùng để phạt phạm nhân. Hình
phạt phạm nhân của những thể chế chịu ảnh hưởng Hồi giáo đời nay, xuất
phát từ Trung Đông, vẫn dùng roi da để cho lí hình có vai u thịt bắp
quật vào phạm nhân.
Trong rạp coi phim The Passion of the Christ, mà
nhậy cảm, ta sẽ thấy nước mắt mình tuôn trào ra làm ướt đẵm hai gò má.
Ta sẽ nhận ra chính tội lỗi mình đã khiến Chúa bị đóng đinh. Rồi sẽ thấy
mình ngậm ngùi khóc thương Chúa trên đường ra về. Kín đáo hơn thì có thể
khóc thầm từ rạp hát tới lúc mở cửa vào xe. Rồi cũng sẽ thấy mình bớt
phạm tội.
Chúa Giêsu đã chịu chết không phải chỉ cho nhân
loại tội lỗi xa xưa. Chúa còn chịu khổ hình và chịu chết cho tội lỗi mỗi
người để ta được sống. Vậy thì trong Mùa chay ta đã làm gì để đền bù tội
lỗi? Ta đã làm gì để nhổ gai nhọn nhận vào đầu Chúa hay ta đã đóng thêm
gai nhọn và đinh sắt vào đầu và mình Chúa? Ta đã làm gì để an ủi Chúa và
an ủi những người xấu số là hình ảnh và là hiện thân của Thân thể Màu
nhiệm của Chúa: đói khát, rách rưới, đau yếu, bệnh tật, tù đầy, vô gia
cư, vô nghề nghiệp? Hay ta chỉ phàn nàn, than thân trách phận và còn kêu
trách Chúa?
Lời cầu nguyện của kẻ sám hối:
Lạy Ngôi Hai Thiên Chúa làm người!
Vì tội lỗi nhân loại và cả tội riêng con,
mà Chúa phải chịu khổ hình và chịu chết,
đau đớn và ô nhục trên thập giá.
Con xin sám hối ăn năn tội lỗi con:
những tội con đã xúc phạm đến Chúa,
và những tội xúc phạm đến anh chị em
là thân thể Mầu nhiệm của Chúa.
Xin Chúa thương xót thứ tha
để con được sống lại về phần linh hồn.
Với Chúa PHỤC SINH. Amen.
--------------------------------
(1) Dựa theo Ronald Rolheiser trong Catholic
Update. Cincinnati, Ohio: St Anthony Messenger Press, February 2008
Cùng với Giáo Hội, hôm nay người tín hữu bước vào
Tuần thánh. Tuần thánh bắt đầu từ Chúa nhật Thương Khó đến Chúa nhật
Phục sinh, là tuần lễ quan trọng nhất trong năm phụng vụ. Đó là tuần lễ
ghi lại nhiều biến cố nhất trong những ngày cuối cùng của cuộc đời Chúa
Cứu Thế ở trần gian. Trong Tuần thánh, Giáo hội cử hành những màu nhiệm
cứu độ mà Chúa Kitô đã hoàn tất vào những ngày cuoi cùng của cuộc đời
Người tại thế, từ lúc vào thành Giêrusalem trong ngày Lễ Lá, đến cuộc
khổ nạn và phục sinh của Người.
Chúa Nhật Thương Khó, ta được nghe và
suy niệm Bài Thương khó của Chúa (Mc 14:1-15:47) khiến ta cảm động, khóc
thương Chúa. Đi ngắm 15 Sự Thương Khó Chúa, không phải để nghe ai ngắm
giọng Bắc, ai giọng Trung, ai giọng Nam, ai ngâm cung triều, ai ngâm
cung dòng. Việc suy niệm về cuộc khải hoàn của Chúa vào thành
Giêrusalem, về cuộc khổ nạn trong vườn câu dầu, về cuộc khổ hình thập
giá, về cuộc phục sinh vinh hiển của Chúa, chỉ mang lại ý nghĩa, nếu ta
biết đem ra áp dụng vào đời sống.
Phúc Âm Thứ Hai Tuần thánh kể lại câu
chuyện Chúa đến dùng bữa tại nhà ba chị em Marta, Maria và Lazarô. Giuđa
phản đối việc Maria làm khi bà đem một cân dầu thơm cam tùng hảo hạng mà
xức chân Chúa, rồi lấy tóc mà lau (Ga 1:3). Giu-đa nại cớ để dành tiền
cho người nghèo, nhưng thực sự Giu-đa không quan tâm gì đến người nghèo
(Ga 1:4-5). Việc Maria làm Chúa bảo cứ để bà làm công việc ám chỉ về
ngày táng xác Chúa. Hôm nay là thời giờ giúp ta suy niệm cái kinh nghiệm
sống đức tin của mỗi người, để tìm ra những yếu điểm của mình và để xem
ta có sống trung thực với lòng mình không?
Phúc Âm Thứ Ba Tuần thánh tiên đoán
cái tội bán Thày của Giuđa và cái tội chối Thày của Phêrô. Nếu trung
thực với lòng mình, ta phải nhận có lúc ta giống Giuđa, có lúc giống
Phêrô. Ta giống Giuđa khi ta khước từ ơn Chúa, rồi đóng thêm đinh vào
mình Chúa bằng cách sa phạm tội. Ta giống Phêrô khi không dám bày tỏ đức
tin, không dám tỏ ra mình là người công giáo.
Phúc Âm Thứ Tư Tuần thánh nêu đích
danh Giuđa là người sẽ nộp Chúa và cảnh cáo về cái hậu quả trầm luân của
kẻ nộp Chúa khốn cho kẻ nộp Con Người, thà kẻ ấy đừng sinh ra thì hơn
(Mt 26:24). Tuy nhiên Giuđa vẫn một mực theo đuổi tội phản bội. Ta thấy
tội của Giuđa và tội của Phêrô không khác nhau bao nhiêu. Tuy nhiên lòng
thống hối của Phêrô - ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết (Mt 26:75) - tạo
ra một trời khác biệt.
Thứ Năm Tuần thánh kỷ niệm việc Chúa
rửa chân cho các tông đồ để dạy họ bài học khiêm tốn. Chúa còn bảo các
tông đồ rửa chân cho nhau nghĩa là phục vụ lẫn nhau. Hôm nay Chúa còn
thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Và để tiếp tục Bí Tích Thánh Thể, Chúa còn
lập Chức linh mục. Như vậy ta thấy Bí Tích Thánh Thể và Chức linh mục đi
liền với nhau vì không thể có Bí Tích Thánh thể nếu không có linh mục.
Thứ Sáu Tuần thánh kỷ niệm cuộc tử
nạn của Chúa tren thập giá để làm giá cứu chuộc nhân loại. Hôm nay là
ngày ăn chay kiêng thịt. Chúa đã chết cho tội lỗi loài người. Còn ta có
cùng với Chúa chết đi cho tội lỗi và các thứ tính mê nết xấu không?
Vẻ trầm lặng của Thứ Bảy Tuần Thánh giúp ta tiếp
tục suy niệm về cuộc tử nạn của Chúa và mong được sống lại về phần linh
hồn cùng với Chúa sống lại vào CHÚA NHẬT PHỤC SINH.
(Suy niệm của Lm. Thanh Minh)
Hành trình 40 ngày Mùa Chay đã kết thúc với ngày
thứ 7 của Chúa Nhật V Mùa Chay hôm qua. Hôm nay là Chúa Nhật Lễ Lá: Khai
mạc Tuần Thánh là tuần quan trọng nhất của năm phụng vụ, Hội Thánh hiền
mẫu chúng ta tưởng niệm và kính nhớ biến cố Chúa Kitô, bạn trăm năm chí
thánh, long trọng tiến vào thanh Giêrusalem hoàn tất mầu nhiệm cứu thế,
tức là tưởng niệm cuộc thương khó hồng phúc của Người bằng những nghi lễ
rất long trọng của Lễ Vượt Qua.
Thánh lễ hôm nay trong phẩm phục màu đỏ, với cuộc
rước kiệu lá và các bài thánh ca chúc tụng, tung hô Con vua Đavít, Đấng
nhân danh Chúa ngự đến... ở phần đầu thánh lễ, diễn tả một khung cảnh
huy hoàng lộng lẫy của một vị vua chiến thắng cỡi lừa tiến vào thành đô
Salem. Tuy nhiên, khi thánh lễ khởi đầu, bầu khí hân hoan đó đã biến đổi
và phảng phất một bầu khí ảm đạm thê lương cuộc tử nạn của Chúa Kitô và
bóng thánh giá đã chập chờn xuất hiện ở cuối chân trời! Bài đọc I diễn
tả hình ảnh của Người Toi Tớ Giavê hiền từ khiêm hạ như con chiên hiền
lành bị đem đi sát tế. Bài đọc II trích từ thư thánh Phaolô Tông đồ gửi
tín hữu Philipphê ca ngợi gương khiêm nhường tự hạ của Chúa Kitô, đến
nỗi từ bỏ vinh quang Thiên Chúa để chịu chết một cách nhục nhã trên cây
Thánh Giá, chính vì thế, Đức Chúa Cha đã tôn vinh Ngài. Và cuối cùng là
bài thương khó theo thánh Marcô tường thuật cho ta thấy rõ cuộc khổ nạn
của Đức Kitô Con Thiên Chúa.
Chúng ta xót xa, bĩu môi, nguyền rủa dân Do Thái
thuở xưa vì thái độ bất trung, thất tín, lòng dạ thay trắng đổi đen như
trở bàn tay: mới hôm nay reo hò tung hô Con vua Đavít, thứ 6 tuần thánh
lại đả đảo hô to: "Đóng đinh nó đi! Đong đinh nó vào thập giá!" Ôi, tệ
bạc quá! Chúng ta cũng chê trách sự hèn nhát của các thánh tông đồ, đều
âm thầm cút hết chỉ còn 3 vị Phêrô, Gioan và Giacôbê trong vườn Cây Dầu
với Chúa, nhưng cuối cùng Phêrô cũng nhát đảm chối Chúa 3 lần!
Thế nhưng: "Thấy người lại nhớ đến ta,
Nghĩ mình, mình lại thương mình xót xa!"
Vì tuy chúng ta không ra mặt công khai phản bội, tố
cáo đòi đóng đinh Chúa như dân Do Thái, hoặc không chối Chúa như thánh
Phêrô, nhưng trong cuộc đời, biết bao lần ta đã phạm tội trong, bỏ bê
Chúa và viêc đạo để chạy theo những ham mê xác thịt chóng qua, những của
cải hoặc danh vọng phù vân giả trá, đó đều là những lần chúng ta phản
boi Chúa, quay lưng lại với Người, đóng đinh Chúa vào thánh giá!
Tuần Thánh là tuần quan trọng nhất của Năm Phụng
Vụ, mỗi giờ khắc trôi qua đều thiêng thánh mà chóp đỉnh là Tam Nhật
thánh Vượt qua khởi đầu từ thánh lễ Tiec Ly chiều thứ Năm tuần thánh đến
tối thứ Bảy Vọng Phục Sinh, đó là 3 ngày cực thánh.
Sốt sắng tham dự các nghi lễ Tuần thánh, chúng ta
hãy để lòng mình đắm chìm trong sự suy gẫm mầu nhiệm thương khó của Chúa
Kitô. Chúng ta quyết tâm cùng chết với Người cho tội lỗi, cho con người
cũ để cùng được phục sinh vinh hiển với Người trong con người mới, cuộc
sống mới vào đêm thánh vọng Phục Sinh.
91. Thông phần đau khổ với Chúa
trên Thập Giá
(Suy niệm của Lm. Thái Nguyên)
"Eli! Eli! Lamma sabacthani?" (Mt 27,
46)
Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là một bày tỏ
về tội lỗi của đời sống chúng ta. Mãi mãi Thập giá là biểu trưng của sự
độc ác của con người, là đỉnh cao của trí tuệ con người trong việc sáng
chế ra những phương thế hành hạ và loại trừ nhau, là bản án của tội lỗi
nhân loại trải qua mọi thời đại. Nhưng Thập giá không chỉ là một mạc
khải về tội lỗi con người, mà còn là mặt trái của ánh sáng tình yêu: một
tình yêu kiên trung và tha thứ cho đến cùng.
Cần nhìn ngắm Thập giá Chúa Giêsu để cảm nghiệm
được cái nhìn tràn đầy yêu thương và trìu mến của Ngài trên cuộc đời mỗi
người chúng ta. Qua đó, ta cũng hiểu được sâu xa hơn mầu nhiệm thập giá
của đời mình và của mọi người, đồng thời khám phá ra ý hướng và cách
thức mà Chúa đã chịu đau khổ, để nhờ đó, ta biết tận dụng mọi khổ đau
hầu được thông phần với Chúa mà cải hóa đời mình trong tiến trình hoàn
thiện.
Cùng với Mẹ Maria đứng dưới chân Thập giá, ta hãy
để tâm hồn mình chìm lặng xuống, hòa nhập vào những nỗi thống thiết của
Chúa Giêsu. Hãy để cho ánh mắt đầy yêu thương và tha thứ của Ngài đốt
cháy tâm hồn giá lạnh vì tội lỗi và ích kỷ của ta.
1. Chúa Giêsu bị bỏ rơi.
Trong giây phút đau khổ tột cùng trên Thập giá,
Chúa Giêsu đã kêu lên: "Lạy Cha, lạy Cha, sao Cha bỏ con? (Mc 15, 34; Mt
27, 46). Sau khi chịu những nhục mạ và những cực hình tàn bạo của con
người, Chúa Giêsu cảm thấy bị bỏ rơi đến mức tột cùng, cảm thấy một sự
trống rỗng mênh mông: hoàn toàn vắng bóng Thiên Chúa, không còn cảm giác
về sự hiện diện của Cha, Đấng mà Ngài gọi bằng Abba.
"Eli! Eli! Lamma sabacthani?". Tiếng kêu than này
trong ngôn ngữ Do Thái phô diễn một mầu nhiệm kinh khủng về sự kiện:
Thiên Chúa từ bỏ Thiên Chúa. Thiên Chúa dường như đã không còn là Thiên
Chúa nữa khi Ngài bị tước đoạt trần trụi vì tội lỗi chúng ta. Kinh
nghiệm bỏ rơi cho thấy Chúa Giêsu đang ở mức độ tột cùng của mọi nỗi cô
đơn: bị loài người từ bỏ không nói chi, nhưng dường như cũng bị chính
Thiên Chúa chối từ. Thánh Gioan Thánh Giá cho biết: "Đó là tình trạng bỏ
rơi thê thảm nhất mà Chúa Giêsu cảm nghiệm trong cuộc sống trần thế của
Ngài... Theo thể thức ấy, Chúa Kitô bị hủy diệt và hầu như trở nên hư
không".
Chúa Giêsu đã từng chịu những nỗi đau khổ ê chề
nhất mà cuộc đời có thể mang lại. Cho tới lúc đó Ngài đã trải qua mọi
kinh nghiệm của đời sống, nhưng kinh nghiệm về hậu quả của tội lỗi thì
Ngài chưa từng nếm mùi, vì là Đấng không hề biết đến tội. Chính lúc trải
qua những giây phút cuối cùng như hoàn toàn xa rời Thiên Chúa, Ngài mới
trải nghiệm thế nào là sự hủy hoại và độc hại của tội lỗi gây ra. Trong
giây phút kinh hoàng, đen tối và rùng rợn đó, Ngài đã xem như mình bị
đồng hóa mình với loài người tội lỗi, vì "Thiên Chúa đã biến Ngài thành
hiện thân của tội lỗi vì chúng ta" (2Cr 5, 21). Đó là ý nghĩa việc Chúa
chịu đóng đinh giữa hai người trộm. Bảy trăm năm trước, Isaia đã nói
tiên tri về việc Chúa bị liệt vào số những kẻ bất lương (x. Is 53, 12).
Thánh sử Luca cho biết lời tiên tri đó đã ứng nghiệm: "Ngài bị liệt vào
hàng những kẻ hung ác" (Lc 22, 37).
"Vị xứng kỳ đức": người công chính mà còn bị như
thế thì sống đạo đức có ý nghĩa gì? Vậy mà Chúa Giêsu lại sẵn sàng chịu
những bất công, Ngài phải chịu đồng cảnh ngộ với những tên gian ác, và
phải lãnh lấy nhục hình và cách đối xử tệ bạc nhất của con người dành
cho Ngài. Kinh nghiệm chết gần như một người tội lỗi gây nên đau đớn vô
vàn, vì Ngài cảm thấy dường như bị xa lìa khỏi Chúa Cha.
Thật ra, Thiên Chúa vẫn có đó như mặt trời vẫn soi
sáng mỗi ngày, nhưng áng mây đen dầy đặc của tội lỗi nhân loại đã che
kín sự hiện diện của Đấng Toàn Năng. Dù Chúa Giêsu vẫn còn những người
thân yêu đứng bên cạnh, nhưng sự hiện diện của họ chẳng thể bù lấp phần
nào sự cảm nhận trống vắng Thiên Chúa trong tâm hồn. Điều đó cho ta hiểu
rằng, khi con người đánh mất Thiên Chúa là niềm ủi an duy nhất của đời
mình, thì tình trạng sẽ ra kinh khủng như thế nào?
Trong nỗi đớn đau và cô đơn khủng khiếp, Chúa Giêsu
đã đền tội cho ba hạng người: hạng người từ chối Thiên Chúa; hạng người
nghi ngờ sự hiện diện của Thiên Chúa; hạng người lãnh đạm với Thiên
Chúa. Cả ba hạng người này đều hiển hiện ít nhiều một cách nào đó trong
lối sống của nhân loại chúng ta, và hậu quả bi thảm của nó thật khôn
lường:
- Khi từ chối Thiên Chúa, đời sống của con người
trở thành hư vô, và mọi sự trong đó chỉ còn phi lý và vô nghĩa, "cuộc
đời đáng nôn mửa" (Jean Paul Sartre).
- Khi nghi ngờ sự hiện diện của Thiên Chúa, con
người trở nên nghi ngờ chính mình. Không thể thiết lập tương quan với
Thiên Chúa thì tương quan với tha nhân chỉ còn là vá víu; ý nghĩa và giá
trị cuộc sống bị lung lay; bản thân con người dễ trở thành miếng mồi
ngon cho sự dữ hoành hành.
- Khi đã lãnh đạm với Thiên Chúa thì cuộc sống và
mọi cái trong đó đều trở nên trơ trọi. Trong sự lãnh đạm đó, tình yêu
không thể phát sinh, nên hạnh phúc cũng không thể hình thành. Trong tâm
trạng đó mọi cái đều trở nên vô hồn, hoang vu và trống rỗng, và cuối
cùng, con người là sự bế tắc cho chính mình.
Quả thật, tiếng than thở của Chúa Giêsu đã vang lên
từ trong cô đơn sâu thẳm của lòng người, cho con người và vì con người.
Trong mức tột đỉnh đau khổ mà Con Thiên Chúa phải chịu đã mở rộng trước
mắt tột đỉnh tình yêu mà Ngài dành cho chúng ta. Trong một kinh nghiệm
nồng nhiệt, Chị Chiara Lubich đã nói:
" Để chúng con được ánh sáng, Chúa đã trở nên mù
lòa.
Để chúng con được hiệp nhất, Chúa đã chịu xa cách
Chúa Cha.
Để chúng con được khôn ngoan, Chúa đã trở nên "dốt
nát".
Để chúng con được trở nên vô tội, Chúa đã trở thành
người "tội lỗi".
Để chúng con hy vọng, Chúa đã hầu như tuyệt vọng.
Để Thiên Chúa ở trong chúng con, Chúa đã cảm nghiệm
tình trạng bị bỏ rơi.
Để chúng con chiếm hữu Thiên đàng, Chúa đã cảm
nghiệm hỏa ngục."
Hãy nhìn ngắm Chúa Giêsu để ta sống những biến cố
đau thương trong cuộc đời mình. Nếu chúng ta cứ bám chặt lấy Chúa, dù có
những lúc dường như không có Chúa, dù khi đức tin đã hao mòn và sức lực
hầu như dần tàn, thì chính vào lúc cao điểm của mọi gian khó là lúc bình
minh ló rạng, là lúc ta vượt thắng.
- Người chiến thắng là người tin rằng Thiên Chúa
vẫn ở với mình ngay lúc mình cảm thấy như Thiên Chúa hoàn toàn vắng
bóng.
- Kẻ chiến thắng là kẻ trải qua những kinh nghiệm
cùng cực nhưng vẫn xác tín rằng mình vẫn đang nằm trong vòng tay đầy yêu
thương của Thiên Chúa.
Đó là điều mà Chúa Giêsu đã sống cách trọn vẹn khi
thốt lên: "Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha" (Lc 23, 46).
Chúa Giêsu đã qui hướng mọi sự về Cha, đã trao phó tất cả cho cha, và
cuối cùng dâng trong tay Cha chính sự sống của mình, và qua đó cũng
chính là sự sống của mỗi người chúng ta. Rồi "Người gục đầu xuống và
trao Thần Khí" (Ga 19, 30).
Tâm tình hiếu thảo của Chúa Giêsu đã đạt đến mức độ
tối hảo trong việc làm vinh danh Cha. Tình thâm nghĩa thiết thật cao dày
khôn sánh! Đẹp quá tình nghĩa Cha-Con thật thắm thiết đậm đà: Cha được
rạng rỡ nơi Con, Con được tôn vinh nơi Cha, và Thánh Thần là Tình Yêu
kết nối trong sự hiệp thông duy nhất. Nhiệm cục cứu độ là công trình
tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, muốn hiệp nhất mọi người nên một trong
sự sống của Thiên Chúa bây giờ và mãi mãi.
2. Chúa Giêsu hoàn tất mọi sự
Sau cùng, trên Thập giá, Chúa Giêsu kêu lên một
tiếng lớn rồi trút linh hồn. Tiếng kêu đó in đậm trong trí mọi người và
nó được bốn sách Phúc Âm ghi lại. Gioan không dùng những từ đó, nhưng
cho biết trước khi chết, Chúa Giêsu đã cất lời: "Thế là đã hoàn tất" (Ga
19, 30). Câu này trong tiếng Hy Lạp chỉ có một chữ "tetelestai", đó là
tiếng reo vui của một người chiến thắng sau trận chiến đấu; là tiếng hân
hoan của một người đã hoàn tất công việc sau bao gian khổ; là tiếng ca
vang của một người đã vượt ra khỏi bóng tối để bước vào ánh sáng. Tiếng
kêu cuối cùng Chúa Giêsu trên Thập giá cho thấy Ngài đã chết như một
người chiến thắng sự chết, mở ra vinh quang sự sống cho tất cả những ai
tin và bước theo Ngài.
Thánh Gioan Thánh Giá quả quyết rằng: " Chính trong
lúc cùng cực nhất, Chúa Kitô đã hoàn tất công trình kỳ diệu nhất...Công
trình kỳ diệu ấy chính là sự hòa giải và kết hiệp nhân loại với Thiên
Chúa bằng ơn thánh" [1]. Thật vậy, cái làm cho chúng ta nên cao cả không
hệ tại dự kiện chúng ta là gì, mà hệ tại ơn thánh Ngài ban cho ta mà
thôi.
Chúa Giêsu đã hoàn tất mọi sự theo ý muốn của Chúa
Cha trong kế hoạch cứu chuộc nhân loại. Ngài đã làm tất cả những gì cần
phải làm của một trái tim yêu thương đến tận cùng. Ngài đã hoàn tất để
chúng ta bước vào sự khởi đầu của một đời sống mới. Tuy nhiên một cách
thiêng liêng vô hình, mỗi linh hồn xa lạc vẫn còn là một đồi Canvê hành
hình, mỗi tội phạm vẫn là một Thập Giá mới treo thân Chúa não nề.
3. Thập giá trong đời sống của chúng ta
Trong mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi, cho
chúng ta xác tín rằng, trong giờ cùng cực Chúa Con cảm thấy bị bỏ rơi,
cũng là lúc Chúa Cha cùng sống cuộc khổ nạn với Con mình: vì Chúa Cha và
Chúa Con luôn là một với nhau và trong nhau ở mọi tình trạng. Chính Cha
đau khổ trong Con vì tình trạng vong thân cực độ của loài người do tội
lỗi gây nên. Biến cố thập giá thảm sầu là điều mà Cha muốn để biểu lộ
tình yêu vô biên nơi Con mình trong Chúa Thánh Thần, để cứu chuộc và
hiệp nhất chúng ta lại trong Ngài.
Như thế, một cách huyền nhiệm nhưng rất thực tế,
kinh nghiệm bị xa cách Chúa cũng bao gồm kinh nghiệm về sự hiệp nhất với
Chúa cách rất trọn vẹn. Cũng chính trong huyền nhiệm này, mọi đau khổ
của chúng ta được đón nhận và biến đổi, mọi trống rỗng được lấp đầy, và
mọi tội lỗi được cứu chuộc.
Tình yêu tột độ của Chúa Giêsu thúc đẩy chúng ta
sống mọi đau khổ như Ngài và trong Ngài. Chúng ta làm được điều này, nếu
biết nhìn nhận trong mọi đau khổ của bản thân và tha nhân là một bóng
dáng đau khổ vô cùng của Chúa. Mỗi khi đau khổ xuất hiện, chúng ta không
xua đuổi và tránh né, nhưng tiếp nhận nó trong thâm tâm, như thể chúng
ta đón nhận Chúa. Điều này đòi hỏi chúng ta quên mình để đáp ứng đầy yêu
thương những gì Thiên Chúa đòi hỏi trong giây phút hiện tại. Chỉ như
vậy, tình trạng tâm hồn mới thật sự thông thoáng, và rồi mọi đau thương
cũng sẽ tan dần trong ánh sáng của tình yêu, để lại một sức sống mới mà
Chúa muốn làm nên.
Đau khổ nhất thiết cần phải có để phong phú hóa đời
sống bản thân ta và tha nhân. Sở dĩ Thiên Chúa để cho chúng ta chịu đau
khổ cũng chỉ vì những điều tốt đẹp có thể phát xuất từ chính những đau
khổ đó. Nỗi đau khổ có thể đưa chúng ta đến gần Ngài hơn. Qua đau khổ,
chúng ta cảm nghiệm được sức mạnh và tình yêu của Ngài, và là một cách
Chúa cho chúng ta được hiệp thông trong chương trình cứu độ của Ngài.
Bởi vậy, từ chối đau khổ là từ chối chính Chúa, Đấng đang hiện diện với
chúng ta trong mọi hoàn cảnh. Cho dù chúng ta không chấp nhận đi nữa thì
đau khổ vẫn xảy ra theo qui luật tự nhiên, như một phương thế để làm
triển nở đời sống. Chính vì không muốn đón nhận đau khổ nên ta mới thật
sự đau khổ. Nhưng nếu chỉ đón nhận nó cách bất đắc dĩ, thì trái ngang và
oan khiên vẫn còn đó. Khi không đón nhận nó với lòng yêu mến Chúa, đời
sống chúng ta mới thật sự là nghiệt ngã và bế tắc.
" Khi nêu cao giá trị của mỗi đau khổ như thể chúng
là một trong vô số khuôn mặt của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và khi kết
hiệp những đau khổ ấy với đau khổ của Ngài, chúng ta ta mới bước vào sức
năng động của đau khổ-yêu thương, để tham dự vào ánh sáng, sức mạnh, an
bình của Chúa, và tìm lại được trong chúng ta một sự hiện diện mới mẻ và
sung mãn hơn của Thiên Chúa". [2]
Chính trong kinh nhiệm đó mà ta không bao giờ ngừng
yêu mến tất cả mọi người, không bao giờ loại trừ một ai khỏi tâm hồn ta,
cho dù ta bị đối xử một cách bất công và tệ bạc. Tất cả cũng chỉ là mặt
trái của một tình yêu không được đáp trả mà thôi. Khi tình yêu lên tiếng
thì mọi sự cũng bắt đầu chuyển biến khác đi theo hướng tích cực của nó.
Người khác chỉ mềm lòng khi đứng trước một con người mang khuôn mặt và
tâm tình của Đức Kitô, nhất là tới mức đồng hóa với Đức Giêsu trên Thập
giá, đến độ có thể nói được như Thánh Phaolô: "Những gian nan thử thách
Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích
cho thân thể Người là Hội Thánh" (Cl 1, 24). Chính trong ý hướng đó mà
ta có thể kết hiệp mọi đau khổ của mình với đau khổ của Chúa trên Thập
giá để trở nên dụng cụ của ơn cứu độ.
Con người và Thập giá là hai hình ảnh không thể
tách rời trong cuộc sống nhân loại. Ngày nào con người còn, là Thập giá
còn. Con người không thể coi Thập giá như sự đối chọi nghiệt ngã của đời
sống mình, nhưng phải coi như một sự tương tác để tồn tại và hình thành
chính mình trong một sự sống mới mà Chúa Giêsu đã làm nên. Con người và
Thập giá, tuy không tương đồng tương ứng, nhưng tương khắc tương sinh
theo cách thức của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã rời khỏi Thập giá để cho ta bước lên:
không phải Thập giá của hận thù, nhưng là Thập giá của tình yêu; không
phải Thập giá của người tử tội bị ruồng bỏ trong cô đơn, nhưng là Thập
giá của người công chính được ôm ấp vào lòng của Thiên Chúa. Đó là Thập
giá của niềm vui và ân phúc, thập giá của tin yêu và hy vọng, vì được
hiến thân cho người mình yêu.
Theo ý nghĩa đó trong cuộc đời ta, nếu có ngày thứ
sáu thụ nạn, sẽ có Chúa Nhật Phục Sinh; nếu có tủi nhục, sẽ có vinh
quang; nếu có chiến đấu, sẽ có chiến thắng; nếu có khao khát, sẽ có no
thỏa; nếu dám chết đi, sẽ được sống lại. Chúa sẽ thực hiện và bảo toàn
mọi diễn biến đó trong cuộc đời ta, chẳng có gì phải lo sợ. Có ai lại lo
sợ khi tin rằng mình được Chúa yêu thương.
Chúa Kitô chịu đóng đinh là niềm hy vọng của tất cả
chúng ta. "Bởi vì, nếu chúng ta chịu đau khổ nhiều với Chúa Kitô, chúng
ta cũng sẽ được chứa chan niềm an vui của Ngài" (2Cr 1, 5).
Nhờ Chúa Giêsu, với Chúa Giêsu, và trong Chúa
Giêsu, chúng ta hãy hân hoan phó thác cuộc đời mình cho lòng thương xót
của Thiên Chúa, với tất cả lòng tin tưởng, yêu mến, thờ lạy và cảm tạ
đến muôn đời. Amen.
----------------------------
[1] Gioan Thánh Giá, Salita del Monte Carmelo, in:
Opere, Roma, 1979, pp. 92-93.
[2] Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, Chứng nhân hy vọng,
2000, tr. 152.
Phụng vụ tuần này rất phong phú về nghi lễ và các
bài đọc Kinh thánh, vì thế, cũng rất khó lựa chọn đề tài rao giảng: Bỏ
chi, giảng gì? Chọn tất cả thì loãng, tập trung vào chi tiết thì thiếu
xót, phiếm diện trong khi nhu cầu phụng vụ cần khá nhiều suy tư và diễn
giải. Tôi xin phép chọn đề tài theo sách các bài đọc: Chúa nhật lễ lá,
tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa. Xem ra có hai tên, hai tâm trạng
khác nhau. Một vui mừng hoan hỷ, một buồn thảm đau thương. Người rao
giảng hẳn là gặp khó khăn. Vui mừng vì Chúa vào thành thánh Giêrusalem
vinh hiển. Buồn thảm vì Chúa chịu khổ nạn. Mặc cho lễ nghi hôm nay khá
dài, nhưng chẳng vì thế mà bỏ bài giáo huấn, cho dù chỉ nên giảng ngắn.
Trước hết xin bàn một chút về vai trò của phụng vụ
trong các bài đọc. Bơi vì tuần này Giáo hội có rất nhiều nghi lễ đặc
biệt. Chúng ta phải hiểu để có thể nắm bắt được nội dung của chúng.
Thường thường thánh Marcô viết rất ngắn và gọn gàng, nhưng trình thuật
của Ngài hôm nay về cuộc thương khó của Chúa Giêsu lại kéo dài khác
thường. Có lẽ thánh nhân muốn nhấn mạnh cuộc khổ nạn của Chúa trong tác
phẩm ông viết. Ông coi điều đó là quan trọng, nếu không tại sao ông lại
vượt ra khỏi thói thường? Trong sach các bài đọc được phép chọn phần
ngắn hơn. Nhưng tôi không thích cắt ngắn những gì tác giả đã viết. Theo
truyền thống thì có 3 người đọc bài thương khó, phân công mỗi người một
vai. Người thứ nhất giữ vai Chúa Giêsu. Người thứ hai dân chúng Do thái,
các thượng tế và quan Philatô. Người thứ ba giữ vai kể truyện. Ba người
này nên được lựa chọn kỹ, tập dượt thành thạo, kẻo làm cho cộng đoàn
chia trí. Tôi không thích in những tờ rời. Chúng chẳng ích lợi gì ở đây.
Nghe là tốt hơn cả. Bởi Phúc âm là để nghe, chứ không phải để xem. Một
bất tiện khác là người theo dõi cứ vùi đầu vào sách vở rồi mở trang soàn
soạt, mất hết vẻ trang nghiêm, trịnh trọng. Cộng đoàn có thể hát tung hô
các lúc thích hợp của câu truyện. Khi ấy tờ rời không mấy gây phiền hà.
Nhưng phải tập dượt kỹ càng ngay từ ban đầu.
Tin mừng mở màn cuộc rước kiệu, tưởng nhớ Chúa
Giêsu vào thành thánh Giêrusalem hôm nay, trích từ sách Marcô 11, 1-10.
Đoạn Phúc âm này chứa đựng đầy hy vọng thiên sai của người Do thái, và
nay được ứng nghiệm. Nó có rất nhiều ám chỉ đến những lời tiên tri về
Đấng Cứu Thế thuộc dòng tộc Đavit. Thí dụ: Chúa Giêsu dùng đặc quyền
hoàng gia truyền thống cưỡi lừa con vào thành (Za 9,9). Trước đó, khi
mượn lừa Ngài đã dặn các môn đệ trả lời: "Thầy cần đến nó, và người sẽ
gởi lại đây ngay." Câu này làm yên tâm mấy người đứng gần. Họ hỏi: "Các
anh cởi con lừa ra làm gì vậy?" Điều này chứng tỏ Chúa Giêsu hoàn toàn
làm chủ được tình thế. Ngài biết trước mọi điều sẽ xảy ra và quyền uy
vương giả của Ngài được khẳng định. Khi nghe đọc bài Tin mừng hẳn chúng
ta liên tưởng tức thời đến sự kiện Chúa Giêsu là con vua Đavit đích
thực, Đấng Thiên Sai, các ngôn sứ đã tiên báo.
Không ai bảo ai, dân chúng theo Ngài trải áo khoác
và cành lá ngoài đồng trên lối đi và hô lớn "Hosanna" (2V 9,13). Từ này
nghĩa gốc là xin cứu vớt chúng tôi. Nay nó trở nên tiếng ngợi khen, tung
hô. Như vậy sự hoan hô của dân chúng lúc đó có hai ý nghĩa: ngợi khen và
kêu cứu. Ngày nay chúng ta co hai tước hiệu để tung hô Chúa Giêsu trong
Thánh lễ. Ngài là Đấng Cứu Thế và là Vua hiển vinh. Dân chúng thời ấy đã
nếm trước Triều Đại Nước Trời đang đến. Họ nhìn nơi Chúa Giêsu giây phút
vinh hiển của con vua Đavit, trước mắt mình. Ngài phải xuất hiện để trị
vì muôn dân muôn nước trong an bình và yêu thương. Lúc khởi đầu nghi lễ
phụng vụ là như vậy, nhưng khi nghe đọc trình thuật về khổ nạn thì cũng
chính đám đông hô lớn trước quan Philato: "Đóng đanh Nó, đóng đanh Nó
vào cây thập tự". Phải hiểu thế nào và phải rao giảng làm sao về thái độ
thay đổi nhanh chóng của đám đông? Lúc này thì ủng hộ Chúa Giêsu, khi
khác lại mau mắn đả đảo? Âu đó cũng là chuyện thường tình, xưa nay vẫn
vậy. Chỉ nhìn và định giá theo dáng vẻ bề ngoài, ít ai thấy được sự thật
bên trong. Suy nghĩ cẩn thận về hiện tượng này, tôi có nhận xét là đám
đông tung hô Chúa ở ngoài thành thánh Giêrusalem (11,1). Nhưng khi vào
trong thành thì thánh Marcô cho biết: "Ngài vào một mình. Đức Giêsu vào
Giêrusalem và đi vào Đền Thờ. Người rảo mắt nhìn xem mọi sự, và vì giờ
đã muộn, Người đi ra Bêtania cùng với nhóm Mười hai." (11,11). Cho nên
sự kích động là bởi những ai ở ngoài Giêrusalem, còn chức sắc bên trong
thì không. Chúa Giêsu vào thành và Ngài đã gặp chống đối quyết liệt, dẫn
đến cái chết thê thảm.
Do đó tôi có suy nghĩ chỉ những phần tử ngoài lề
(xã hội, giáo hội) mới thấy phấn khởi về Chúa Giêsu. Xin hãy tưởng tượng
tới những nỗi tuyệt vọng của họ trong suốt cuộc đời! Phải chăng họ là
những người được Tin mừng viết cho mình? Những người mà chẳng bao giờ
được đặc ân ngồi chỗ nhất trong các bàn tiệc, chỗ vinh dự trong các nhà
thờ, nơi hội họp? Sứ vụ của Chúa Giêsu là để phục vụ họ chăng? Lúc này
họ nghe thấy, cảm nghiệm rằng số phận của Ngài cũng là số phận của mình!
Cuối cùng thì Thiên Chúa đã nói với họ qua Chúa Giêsu rằng Ngài không bỏ
quên họ, trái lại tìm kiếm và yêu thương họ. Với quyền năng của một
thượng đế, Chúa Giêsu đã nhận ra họ, chữa lành các bệnh tật cho ho, hàn
gắn những nỗi đau của họ và thứ tha các lỗi lầm cho họ! Họ cũng biết
rằng Đức Giêsu, người Nazareth, cũng là một kẻ ngoài lề (Giêrusalem),
đồng hội đồng thuyền với mình. Như tiên tri Zacharia loan báo trước,
Thiên Chúa đã gây dựng Ngài lên và sai đến Giêrusalem trên lưng lừa con.
Chúa Nhật thứ 3 thường niên vừa qua, khi khởi sự
đọc Phúc âm theo thánh Marcô, chúng ta được nghe Chúa Giêsu rao giảng
Tin mừng tại miền Galilê, sau khi Gioan Tẩy Giả bị tống ngục: "Thời đã
mãn, triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Phúc
âm" (1,15). Lúc này gần kết thúc cũng một Tin mừng đó. Chúa Giêsu vinh
hiển tiến vào thành Giêrusalem và chỉ trong khoảnh khắc tình thế thay
đổi ngược hẳn: Ngài bị trao nộp, bị bắt, chịu khổ hình và chết nhục nhã
trên thập giá. Vậy thì lời hứa ban đầu của Ngài có ý nghĩa ra sao? Điều
chi đã xảy đến cho lời hứa ấy? Phải chăng sụp đổ hoàn toàn là "thời giờ
đã mãn"? Nếu đúng như vậy thì quả là ngược đời. Một lời hứa tươi sáng
lúc khai mào, kết thúc bằng thất bại thê thảm! Tuy nhiên nếu chịu cực
theo dõi và suy ngắm giai đoạn Ngài thi hành sứ vụ, học hỏi về căn tính
của Chúa, bản chất triều đại Ngài và những điều kiện để theo Ngài, thì
chúng ta sẽ hiểu được "thời gian đã mãn" là thế nào (sau Phục sinh,
phụng vụ sẽ trở lại đọc Phúc âm Marcô). Thời gian đã mãn, trên thực tế,
đã mặc lấy xác thịt nơi Đức Kitô. Ngài chính là kết thúc của mọi điều
các ngôn sứ hứa trong Cựu ước. Ngài thể hiện Nước Đức Chúa Trời trong
chính bản thân mình. Mọi điều Thiên Chúa hứa đã được làm tròn nơi Ngài.
Không như các kinh sư, lãnh đạo tôn giáo Do thái mong đợi.
Suốt cuộc đời Ngài đã bày tỏ quyền năng của mình
trên bệnh tật, quỷ dữ và các đối thủ. Ngài cũng hoàn toàn làm chủ được
cuộc tiến vào thành thánh cách vinh hiển. Lúc này, khi chịu khổ nạn,
Ngài vẫn thi hành quyền năng đó, nhưng không theo đường lối thế gian, mà
để phục vụ nhân loại hết tấm lòng nhân ái của Ngài. Ngài tự nguyện hy
sinh sự sống để mưu lợi ích cho moi người. Như vậy Ngài hành quyền theo
kiểu cách mới, khác hẳn thế gian, tức trên tội lỗi và sự dữ, mà không áp
bức bất cứ một ai. Chiến thắng của Ngài không phải là đè bẹp kẻ khác,
nhưng là tự nguyện hy sinh vì lợi ích tha nhân. Quyền bính Ngài thi hành
không phải là ép buộc kẻ khác, nhưng để chúng ta noi gương lựa chọn con
đường Ngài đã đi, qua cái chết đến sự sống muôn đời. Hiện thời, thế gian
thực hiện quyền bính của mình bằng tien tài và sức mạnh quân sự. Ngược
lại, Chúa Kitô bằng con đường khiêm hạ, tự biến mình ra không trước mặt
Thiên Chúa và loài người. Thánh Phaolô đã chỉ rõ rằng Chúa Giêsu sẵn
lòng ban cho chúng ta tất cả bản thân Ngài, không giữ lại điều gì. Chẳng
có hy sinh nào quá lớn đối với Ngài, miễn là nhân loại được trở về với
Thiên Chúa, bước đi trên con đường thánh thiện. Đó cũng là tình yêu
Thiên Chúa tỏ ra cho chúng ta! Hội thánh Philip đang chịu một lúc hai
cuộc khổ nạn, bất hoà bên trong và bách hại bên ngoài (1,28-29). Những
tín hữu gốc Do thái bó buộc các tân tòng dân ngoại tuân giữ luật Môisen.
Thánh Phaolô nhắc nhớ họ rằng Chúa Kitô đã hy sinh mọi sự cho họ, ngay
cả quyền ngang hàng với Thiên Chúa! Đó là một hy sinh rất lớn, cộng đoàn
nên suy gẫm, từ đó có thể bỏ đi những khác biệt về nguồn gốc và tranh
cãi thần học.
Cộng đoàn thánh Marcô cũng vậy, chẳng nên ngạc
nhiên về thế lực đền thờ khước từ, hành hạ và đóng đanh Ngài vào thập
giá. Chuyện đó phải xảy ra do tư duy, lối sống của họ và tội lỗi của
chúng ta. Chúa Giêsu chết để tố cáo nhân loại phản bội, bày tỏ tình
thương của Đức Chúa Trời và chỉ dạy phải trung thành với Thiên Chúa ra
sao để được cứu rỗi, nghia là đến hơi thở cuối cùng, bất chấp mọi khổ
đau, kể cả cái chết. Nội dung chính yếu của câu truyện tuần này là cuộc
khổ nan của Chúa Giêsu. Nó phải là niềm an ủi cho cộng đoàn thánh Marcô
ngày xưa, và mọi giáo dân khắp hoàn cầu hôm nay. Đức tin và sự liên kết
với Chúa đòi hỏi phải trả giá bằng hy sinh cá nhân. Làm khác đi là một
hành trình dối trá không thể chấp nhận.
Khi nghe đọc bài thương khó, chúng ta nhận ra ngay
có sự thay đổi lớn trong Tin mừng. Chúa Giêsu đầy uy quyền và vinh hiển
phút chốc trở nên tội phạm nhục nhã! Ngài hứng chịu mọi gian ác của con
người: Âm mưu, gian dối, chối từ, phản bội, bắt bớ, tra tấn, hành xích,
kết án, đóng đinh, chết và mai táng. Còn đau khổ nào của nhân loại mà
Ngài không kinh qua? Như vậy Ngài kết hợp với mọi linh hồn đang chịu trà
đạp trên trần gian. Chúng ta gọi Chúa nhật này là cuộc thương khó của
Chúa (Dominica in passione Domini). Từ passio có nghĩa gốc là "đau khổ",
chịu đựng người ta hành hạ. Lúc này trên thế giới, hàng tỷ người đang
gánh chịu đau thương. Họ không có lựa chọn nào khác: Chiến tranh, bệnh
tật, nghèo đói, áp bức, bóc lột, tuổi già... họ chịu áp lực của hoàn
cảnh mà chẳng thể nào thay đổi được số phận, cho nên họ đồng hoá với
Chúa Giêsu, nhận sức mạnh từ Ngài trong cuộc thương khó. Xin hãy cầu
nguyện để đừng ai phản bội đau khổ của mình. Từ passio cũng còn có nghĩa
là đam mê. Trong ý nghĩa này Chúa Giêsu là người khai sáng. Ngài đam mê
Thiên Chúa và đam mê nhân loại. Ngài cảm nhận một lực đẩy mạnh mẽ thi
hành ý muốn của Thiên Chúa, để mưu ích cho loài người. Ngài đã "chai mặt
trơ như đá" để đi con đường Thiên Chúa, rao giảng Tin mừng cho những kẻ
ngoài lề. Chẳng chi ngăn cản được Ngài hoàn thành sứ vụ trong chiều
hướng đó, dù phải hy sinh cả mạng sống. Amen.
93. Tình yêu hiến tế
(Suy niệm của Phanxicô Xaviê)
Chúa nhật Lễ Lá, Giáo hội cho chúng ta nghe hai bài
Tin Mừng: một bài cho nghi thức trước lễ (Mc 11, 1-10) nói về việc những
người Do thái đã đón rước Chúa Giêsu vào thành thánh Giêrusalem cách
trọng thể vui mừng bằng những cành lá trên tay hay trải áo xuống đất cho
Người đi qua, miệng tung hô vang trời. Rồi cũng chính họ, ở bài khác
trong thánh lễ, lên án và đòi đóng đinh Chúa vào thập giá, dẫn đến cuộc
khổ nạn của Đấng mà mấy ngày trước họ vừa tung hô "vạn tuế". Cả hai biến
cố nổi bật cuối đời của Chúa Giêsu, nói lên sự kiện đầy ý nghĩa, có sức
đánh động giúp ta cùng suy niệm về tình yêu hiến tế của Ngôi Hai Thiên
Chúa.
Môn đệ của một vị đạo sĩ kia muốn từ bỏ thế
gian, nhưng anh ta quyến luyến gia đình và bảo rằng: "Vợ con tôi quá
thương yêu tôi, nên họ không bằng lòng cho tôi thoát tục".
Nghe nói thế, vị đạo sĩ muốn cho anh ta biết sự
thật nên đã dạy cho anh một kỹ thuật giả chết. Sau một thời gian học
thuần phục, vị đạo sĩ bảo anh hãy áp dụng kỹ thuật này khi về đến nhà.
Và quả thật, anh ta đã thực hành bài học cách tuyệt hảo để nhắm mắt xuôi
tay, nhưng vẫn còn nghe được mọi tiếng khóc than của vợ con, của thân
nhân và bạn bè.
Ngày hôm sau, vị đạo sĩ đến để phân ưu cùng thân
quyến. Sau những giây phút trầm lặng tưởng niệm người quá cố, ông nghiêm
nghị nói với thân nhân đang khóc thương người đã từ biệt cõi đời rằng:
"Tôi có bí quyết để cứu sống anh ta, nếu có ai sẵn lòng chết thay cho
anh".
Anh chàng giả chết ngạc nhiên khi nghe mọi người
trong gia đình bắt đầu nêu ra mọi lý do để biện minh là mình cần phải
sống. Càng ngạc nhiên hơn khi anh nghe chính người vợ đầu gối tay ấp,
nghĩa thiết của mình tóm lược mọi lý lẽ trên bằng một lời quả quyết:
"Tôi nghĩ không ai cần chết thay cho chồng tôi. Không có anh ấy, chúng
tôi vẫn có thể làm ăn sinh sống".
Câu chuyện trên có thể xảy ra bất cứ nơi đâu, trong
bất cứ gia đình nào và ở mọi thời đại. Vì theo sự suy luận thông thường,
chúng ta phải công nhận rằng: người vợ và thân nhân của anh chàng giả
chết có lý của họ. Nhưng triết gia Pascal cũng có lý khi nhận định: "Con
tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không thể hiểu nổi".
Đó là lý lẽ của con tim trong con người của Cha
Maximilian Kolbe, nạn nhân của chính sách tàn bạo, tiêu diệt người Do
thái của Đức quốc xã. Cha Maximilian đã đứng ra chịu chết thay cho một
anh bạn tù.
Có thể những người mang lý lẽ này trong con tim sớm
hiểu được câu giáo huấn của Chúa Giêsu: "Không có tình yêu nào lớn hơn
tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,
13).
Thật vậy, việc Đức Giêsu long trọng tiến vào thành
Giêrusalem trong tư cách là vua người Do thái cho dù không phải là vua
để cai trị, nhưng là vua để phục vụ và hiến mạng sống cứu chuộc nhân
loại. Nên trọng tâm của cuộc thương khó là Đức Giêsu. Người đã khởi đầu
cuộc sống công khai bằng việc loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa và kêu
gọi những môn đệ hợp tác với Người. Tuy nhiên, Đức Giêsu liên tục gặp
rắc rối vì sự thiếu hiểu biết và trì trệ của các môn đệ. Và Người đã kết
thúc sứ vụ Galilê trong tình trạng tranh tối tranh sáng của các môn đệ.
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu là cơ hội để vạch rõ
gương mặt thật của những người đã từng tiếp xúc với Chúa, và cũng là
khoảng thời gian chứng minh tư cách của Người là Đấng Cứu Thế.
Chỉ có nơi Chúa, chúng ta mới có thể tìm ra sức
mạnh sống cái hiện tại đầy khó khăn và hy vọng vào tương lai tưoi sáng
hơn. Suy gẫm cuộc thương khó của Đức Kitô, bằng cách nhận ra rằng cuộc
thương khó này đang xảy ra nơi những con người đau khổ ở kề bên ta, hay
nơi những con người đã hy sinh hạnh phúc riêng tư, chấp nhận sống cảnh
tù đày để làm chứng vì công lý và sư thật.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi người luôn can đảm
đứng vững trong niềm tin và biết sẵn sàng chia sẻ, nâng đỡ nhau, để có
thể chu toàn sứ mạng của riêng mình trong tình hiệp thông huynh đệ.
(Lm. Phanxicô Xaviê Phạm Đức Trị)
Is 50, 4-7; Pl 2,6-11; Mt. 21, 1-11
Cảnh tượng dân thành Giêrusalem tưng bừng tay cầm
cành lá hân hoan đón Chúa Giêsu vào thành Thánh như một vị Vua, được Tin
Mừng kể lại hôm nay thật kỳ lạ làm cho chúng ta khó hiểu và đặt câu hỏi:
Đức Giêsu vốn là một người hiền lành và khiêm nhường, Ngài luôn né tránh
những lời tôn phong của dân chúng... Thế mà hôm nay chính Ngài đã khơi
dậy sự hứng khởi trong dân để đón Ngài, dù họ chỉ dùng những phương tiện
rất đơn sơ, điều này có ý nghĩa gì?
Đức Giêsu, Ngài vào thành Thánh dự lễ Vượt Qua lần
cuối cùng của cuộc đời trần thế, hôm nay Ngài muốn loan báo cho dân
chúng biết từ nay Ngài cũng đang bắt đầu chuẩn bị một lễ Vượt Qua Mới.
Lễ Vượt Qua đó chính ông Vua đang được dân tuyên xưng loan báo: cuộc khổ
nạn, con đường Thập giá và cái chết vì yêu nhân loại. Ông Vua đó lại
khác hẳn với các vua trần thế. Ngài là Vua hòa bình, Vua bác ái, Vua yêu
thương. Một ông Vua tự hiến mình trên thập giá để cứu nhân loại. Còn hơn
thế nữa, khi đã bị đóng đinh trên thập giá, vẫn bị người ta nhạo báng
mỉa mai: "Nếu ông là Vua dân Do thái, tại sao không cứu mình đi?" Ngài
vẫn thinh lặng và tha thứ, không một lời oán trách..
Phía trên đầu Người có bản bản án viết "Đây là Vua
dân Do thái". Nhưng Ngài là Vua thế nào? Sự thinh lặng và tha thứ trên
Thập giá của Ngài đã cho chúng ta biết: Ngài là Vua không phải dựa trên
luật sức mạnh, hờn oán và trả đũa... nhưng Ngài là Vua bác ái, Vua tình
thương, Vua Tâm hồn. Với Ngài, mọi người sẽ được yêu thương và tôn
trọng, không phải vì địa vị, danh giá, giầu sang, quyền thế, nhân đức
hay bất cứ đặc điểm nào khác, mà chỉ vì mỗi người chỉ có một nhân vị
đáng được yêu thương, một phẩm giá cao quí đáng được tôn trọng, nhân vị
đó chính là, tất cả chúng ta đều là những người con đáng yêu của Thiên
Chúa. Ngài ưa chuộng những tâm hồn đơn sơ và khiêm tốn, những con người
tội lỗi biết hối cải và ăn năn, như anh trộm lành: "Tôi bảo thật anh,
hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng".
Phải chăng đó là con đường, đó là những nhân đức mà
Ngài đang mời gọi chúng ta chuẩn bị trong Tuần Thánh để đón ngày trọng
đại, ngày Lễ Vượt Qua Mới? Vậy hãy noi gương Ngài Trên thập giá. Vì trên
Thập Giá, chúng ta tìm ra được bí quyết tình yêu, con đường phục vụ,
nhân đức khiêm nhường. Trên Thập giá, con người được Thiên Chúa
thần-thánh-hóa và nâng lên ngang hàng với Ngài. Trên Thập giá, mọi người
sẽ được yêu thương ngang hàng với nhau, vì chính Chúa Giêsu đã hiến cả
Cuộc sống của Ngài cho cuộc sống chúng ta, nghĩa là Ngài đã coi cuộc
sống chúng ta ngang bằng với cuộc sống của Ngài. Không gì hòa lẫn chúng
ta với Thiên Chúa hơn được nữa, không gì làm cho chúng ta xúc động hơn
được bằng sự nhuộm máu đào vì yêu chúng ta trên Thập giá, một công cuộc
tình kỳ diệu.
Thật thế, trước mắt Thiên Chúa chúng ta là thế đó,
trước mắt Ngài con người có gia trị như vậy đó: con người được
Thần-thánh-hóa. Có lẽ không thể nào ca ngợi giá trị cuộc sống nhân loại
một cách tuyệt vời hơn! Chỉ có thể biểu lộ tính cách vô song của cuộc
sống phiêu liêu và tội lỗi của con người bằng cách thiết lập nên phương
trình cứu độ của cuộc sống Thiên Chúa với cuộc sống của chúng ta. Điều
Ngài làm không phải la vì công lao hay công trạng của chúng ta, cũng
càng không phải là sự phục tùng, sự chinh phục hay sự lệ thuộc của Ngài
vào chúng ta; điều Ngài muốn chính là sự tự do và hạnh phúc của con cái
Thiên Chúa; điều Ngài muốn đó là chúng ta được quan hệ mật thiết với
Ngài và Ngài cũng được quan hệ mật thiết với chúng ta. Vậy nhìn lên
Thánh giá, chúng ta thấy Thiên Chúa là một Thiên Chúa muốn được hiệp
thông, một Thiên Chúa chỉ hiện hữu dưới hình thức ân ban quảng đại.
Mt 26,14-27,66
Trong một lần nói chuyện, Đức Tổng giám mục Fulton
Sheen chỉ vào thánh giá ngài đang đeo trên ngực rồi nói: " Thánh giá bạc
mà tôi đang đeo đây, tôi đeo để đền tạ." Khi hỏi lý do, ngài trả lời:
"Một hôm vào thăm một người bạn gốc Do thái bán đồ nữ trang ở Nữu Ước.
Ông nói với tôi: "Tôi có một ít thánh giá bạc cho Đức Cha", và ông trao
cho tôi một bao đựng khoảng hơn một trăm thánh giá. Tôi hỏi: "Ông kiếm
được ở đâu nhiều vậy?" Ông trả lời: "Từ các nữ tu, họ mang đến và nói
với tôi: "Chúng tôi không còn đeo tượng thánh giá nữa, vì chính những
tượng này đã làm ngăn cách, chia rẽ chúng tôi với thế giới hôm nay. Ông
trả cho chúng ta bao nhiêu tiền với số bạc này". Tôi cân và thấy nặng
khoảng 30 miếng bạc". Rồi ông nói với tôi: "Tôi nghĩ rằng tượng thánh
giá đã là một cái gì biểu hiệu quí giá đối với các Kitô hữu. Phải chăng
có gì không ổn, có gì trục trặc với tôn giáo của Đức Cha?" (Through the
Year with Fulton Sheen, trg 14-42).
Người ta bán tượng thánh giá và cho rằng thánh giá
là căn cớ làm cho họ xa lạ với thế giới hôm nay. Giuđa đã bán Chúa và
nộp Chúa bằng cái hôn của mình để lấy 30 đồng bạc. Ngày hôm qua cũng như
ngày hôm nay, người ta đã đang bán Chúa với những giá của khác nhau, và
với những lý do khác nhau.
Ngày hôm xưa Phêrô chối Chúa qua những lời chất vấn
của cô đầy tớ gái. Ngày hôm qua một số người đã chối đạo trước những
hạch sách đe dọa của quan quyền, và ngày hôm nay với những lý do này hay
lý lẽ nọ cũng đã khiến cho có những người chối Đức Kitô, không dám nhận
mình là Kitô hữu.
Dù cho con người có yếu đuối sa ngã, Thiên Chúa vẫn
luôn luôn yêư thương con người. Ánh mắt Chúa đã tìm, đã gặp, và đã cảm
hóa được Phêrô, ánh mắt ấy cũng đã đi tìm Giuđa, nhưng không gặp được vì
Giuđa thất vọng và lẩn tránh, dầu vậy chuyện kể rằng Chúa vẫn luôn hướng
tìm và chờ đợi. Ngày tận thế đã đến, tất cả các thánh đều vui mừng ca
hát, nhảy múa, reo hò trong hoan lạc sung sướng. Mọi người đều vui trừ
một mình Chúa Giêsu. Ngài đứng yên lặng dưới bóng rợp cạnh cửa thiên
đàng. Một vài vị thánh đến hỏi thăm xem Ngài đang làm gì thế. Ngài trả
lời: "Cha đang đợi Giuđa".
Chắc hẳn trong đời sống nhiều lần chúng ta đã lam
phiền lòng Chúa và thái độ của chúng ta có thể phần nào giống như của
Phêrô hoặc Giuđa: ăn năn thống hối hay thất vọng buông xuôi. Hôm nay bắt
đầu bước vào tuần trọng nhất trong năm phụng vụ, Giáo hội mời gọi chúng
ta đừng nhẫn tâm xa tránh ánh nhìn đầy ắp yêu đương của Chúa, nhưng hãy
thật tình trở về, khiêm nhượng xin ơn tha thứ, và tin cậy vào tình Chúa
thương yêu.
(HN sưu tầm -thanhlinh.net)
THEO CHÚA GIÊSU CHỊU THƯƠNG KHÓ
1. Dấu chỉ tình yêu vô biên
Trong sách “Kẻ du hành”, ông Mattheson kể về nhóm
người khám phá ra thứ năng lượng giúp con người đi ngược lại dòng thời
gian. Và người đầu tiên dùng tàu du hành để đi ngược dòng thời gian là
ông Jairus. Ông là người không tin Chúa, nhứt là không thể tin Chúa
Giêsu chịu chết khổ giá vì thương nhân loại. Ông nhứt định đi ngược dòng
thời gian đến thời Chúa Giêsu chịụ đóng đinh xem thực hư thế nào.
Không bao lâu, ông đã đi lùi lại thời gian: 100
năm, 1000 năm, 2000 năm… và kìa ông thấy trước mắt 3 cây thập giá. Chúa
Giêsu bị đóng đinh trên cây giữa đầu đội mão gai, thân mình đầy máu!...
Ông cảm động quá không cầm được nước mắt!... Chẳng ngờ Chúa Giêsu thương
loài người đến thế. Và ông đã tin Chúa.
-----
Cái chết đau khổ của Chúa Giêsu trên thập giá là
dấu chỉ tình yêu vô biên của Người đối với nhân loại, là lời mời gọi mọi
người đáp trả tình yêu của Người bằng sự cải thiện đời sống vì yêu mến
Người, và bằng sự thương yêu như Lời Người: “Hãy yêu thương nhau như
thầy thương yêu các con”. (Theo “Sunday homilies”).
2. Ba nỗi đau thương
Trong thế chiến thứ hai, Cha Titus Brandsma bị Đức
quốc xã bắt lúc làm viện trưởng đại học Hòa Lan, và giam tại trại tập
trung ở Đa-Châu trong cái cũi nhốt chó. Lính gác bắt cha phải sủa lên
mõi lần chúng đi ngang qua. Thật là nhục nhã xấu hổ. Nhưng Ngài cố gắng
cam chịu với Chúa, theo gương Chúa… Cuối cùng, Ngài chết vì bị tra tấn
dã man…
Trang nhật ký để lại, Ngài nói: - Tôi chịu nỗi đau
đớn tủi nhục nhờ biết rằng Chúa Giêsu đã từng chịu đau khổ sỉ nhục trước
tôi!
Theo Chúa Giêsu chịu thương khó.
-----------
Sự thương khó Chúa Giêsu đã từng là nguồn sức mạnh
cho vô số người trong suốt dòng lịch sử. Những ai gặp đau khổ, thử
thách, sỉ nhục, thất vọng, chán nản, tủi nhục nhờ Người mà vượt thắng
can đảm.
Và Chúa chịu thương khó cả ba hình thức: đau khổ
tinh thần trong Vườn, chết đau đớn thân xác khi bị đòn, bị đóng đinh, và
đau khổ tâm linh đặc biệt lúc sắp chết trên khổ giá như bị Chúa Cha
ruồng bỏ: “Lạy Chúa Con, sao Chúa bỏ con!...”
Như thế, Chúa Giêsu đã từng chịu cả ba nỗi đau đớn
chúng ta có thể gặp trong cuộc sống. Mỗi khi gặp đau khổ thử thách dưới
hình thức nào đều có Chúa thông cảm nâng đỡ, nếu chúng ta nhìn lên Người
(Theo Cha M. Link)
3. Anh không có gì hơn để cho em
“Phía trên đầu người, chúng đặt bản án xử tội Người
viết rằng: Người này là Giêsu, vua người Do Thái” (Mt. 27,37).
Một số thợ lặn đã khám phá chiếc tàu bị đắm. Một
trong những vật quý mà họ tìm thấy trong tàu là chiếc nhẫn cưới của một
người đàn ông. Trên mặt chiếc nhẫn có khắc hình một bàn tay nắm chặt
trái tim. Bên dưới có dòng chữ:
“Anh không có gì hơn để cho em”.
Dòng chữ đó cũng được khắc vào thập giá Chúa Giêsu:
“Cha không có gì hơn để cho con”
Bằng cái chết đau khổ trên thập giá. Chúa Giêsu đã
cho chúng ta tất cả những gì Người có: Mình Máu Thánh Người, tình yêu và
mạng sống của Người. vì yêu thương chúng ta và để cứu rồi chúng ta!...
Chúng ta đã cho Chúa được gì? Bao nhiêu? Thời giờ?
Sức khỏe? Mạng sống?...Điều gì cản trở chúng ta đáp trả tình yêu vô biên
của Chúa?... (Theo “Viễn tượng 2000”).
4. Xử án Thiên Chúa
Một người mơ thấy ngày tận thế. Mọi người được
tập trung chịu Chúa phán xét. Nhiều người run sợ, nhưng có kẻ phẫn nộ.
Một phụ nữ nói: Sao Ngài xét xử tôi được? Ngài
có biết đau khổ là gì đâu? Còn tôi bị đòn bị đánh muốn chết. Vừa nói
nàng vừa vạch tay cho thấy vết sẹo.
Kế đến, một người da đen cúi đầu xuống, cho lộ
ra sợi dây thừng trên cổ chỉ vì tội là người da đen, bị bán làm nô
lệ!...
Rồi bao nhiêu người tiếp tục tố cáo Chúa: nào là ở
trên trời sung sướng, nào là không đổ giọt mồ hôi, nào là không biết gì
về đói khát, bệnh tật, tù đày, đau khổ, nhục nhã như con người.
Thế rồi họ đồng thanh kết án Ngài, bắt Ngài xuống
sống dưới trần gian như mọi người. Họ còn góp ý:
- Bắt Ngài làm một người Do Thái.
- Buộc Ngài phải làm việc bù đầu đến nỗi người nhà
cho mất trí.
- Ngài phải khổ đau vì bạn thân phản bội.
- Ngài phải bị kết án là kẻ lừa đảo và bị xử tử.
- Ngài phải nếm cảnh chết chóc cô đơn khủng khiếp
vv…
Lời góp ý cuối cùng đưa ra xong, mọi người đều im
lặng… Và bỗng nhiên họ nhận ra Ngài thi hành bản án ấy của họ từ lâu!...
(Floor Mc Carthy).
5. Tình yêu đòi hỏi đau khổ
“Chúng dùng cây sậy đập đầu Người, khạc nhổ vào
Người, và quỳ gối bái lạy, chế diễu chán, chúng lột áo điều ra và cho
Người mặc lại áo của mình. Sau đó, chúng điệu Người ra để đóng đinh vào
thập giá” (Mc.15, 19-20).
Trong cuốn sách “Chúa Giêsu là ai” tác giả Anthony
Padovano viết: “Chịu khổ hình thập giá không có nghĩa là chịu đau khổ vì
đau khổ, mà còn vì một cái gì khác. Chúa Giêsu chịu đau khổ không phải
vì đau khổ tự nó có giá trị, nhưng là vì tình yêu đòi hỏi đau khổ. Chúng
ta được cứu rồi không chỉ vì cái chết thể xác củ Chúa Giêsu, nhưng vì
tình yêu vô biên của Ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết.
Tôi đã đang và có thể làm gì cho Chúa Kitô? (Trích
“Viễn tượng 2000”).
“Thật bất hạnh, nếu chết mà không được hưởng tình
yêu của Chúa Kitô.Cũng thật bất hạnh, nếu tình yêu không được thể hiện
bằng cái chết của Ngài” (Thánh Phanxicô Salesiô)
6. Chúa vô tội
“Ông Philatô hỏi: “Các ông có muốn ta phóng thích
cho các ông vua dân Do-Thái không? Bởi ông thừa biết chỉ vì ganh tỵ mà
các thượng tế nộp Người” (Mc. 15,9-10).
Một nhà truyền giáo giảng đạo giữa rừng già Phi
Châu, dưới ánh trăng đêm và trong hoang lạnh của núi rừng. Ngài kể về
đời sống và phép lạ của Chúa Giêsu, cuối cùng là cái chết đau khổ trên
thập giá của Người. Người vô tội, nhưng chết vì tội lỗi loài người!...
Ngồi trước bục giảng là tên tù trường. Ông chăm chú
nghe nhà truyền giáo. Khi nghe tả việc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập
giá, ông đứng phắt dậy nói:
-Ngừng lại. Hãy đem Người xuống khỏi thập giá.
Chính tôi mới là kẻ đang bị đóng đinh trên đó, chứ không phải Người, vì
Người vô tội, tôi là kẻ có tội.
Phải chăng vì tội chúng ta mà Chúa Giêsu phải chịu
chết đóng đinh trên khổ giá, để đền tội chúng ta? (Theo “Minh họa Lời
Chúa”)
7. Chết để cứu con
Bà Giana Moletta qua đời cách đây 30 năm, được Đức
Thánh Cha phong chân phước năm 1994.
Bà sinh năm 1922. Lớn lên lập gia đình, sinh được
ba người con, trong đó có 2 người làm linh mục, chồng bà làm kỹ sư, bà
làm bác sĩ. Cả hai vợ chồng cùng liên kết trong một niềm tin và một lý
tưởng phục vụ người nghèo khổ. Thật là một gia dình hạnh phúc! Nhưng
thảm kịch đã đến với họ!...
Năm 46 tuổi, bà có thai một lần nữa. Cái nhọt trong
tử cung bà lại biến thành ung thư. Là một bác sĩ, bà biết rõ những gì sẽ
đến với bà… Nếu giải phẩu để cứu sống bà thì đứa con phải chết. Nếu cứu
đứa con thì chính bà phải hy sinh. Cuối cùng bà tự nguyện hy sinh bản
thân để cứu sống đứa con!...
----------
Bà Giana Moletta là hiện thân tình yêu Thiên Chúa ở
giữa trần gian. Cái chết tự nguyện của bà nối dài cuộc tử nạn của Chúa
Giêsu trên thập giá. Bà chịu chết để cứu sống đứa con. Chúa Giêsu chịu
chết để toàn thể nhân loại được sống (Theo “Thiên Đàng là thế đó”).
8. Xin phó thác hồn con
“Đức Giêsu kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin phó thác
hồn con trong tay Cha”. (Lc. 23,46).
Mục sư Dietrich Bonhoeffer đã bị Đức quốc xã hành
hình trước ngày lễ Phục Sinh. Bác sĩ nhà tù nói về cái chết của ông như
sau:
“Tôi thấy mục sư Bonhoeffer quỳ trên sàn, chăm chú
cầu nguyện. Tôi xúc động bởi cách ông cầu nguyện, thành khẩn và chắc
chắn đến nỗi Thiên Chúa nghe lời ông cầu nguyện. tại nơi hành hình, ông
can đảm và bình tĩnh leo lên những bậc thang dẫn đến chỗ treo cổ. Cái
chết của ông diễn ra vài giây sau đó. Trong suốt khoảng 50 năm với tư
cách một bác sĩ, tôi chưa bao giờ chứng kiến một người chết hoàn toàn
vâng phục thánh ý Chúa như vậy” (Ebekhardd Bethge).
----------
Nhờ đâu mà mục sư Bonhoeffer sẵn sàng lãnh nhận cái
chết can đảm bình tĩnh như thế? … Vì sao Chúa Giêsu phó thác linh hồn
trong tay Chúa Cha?... Và tôi, tôi quan tâm đến những gì khi biết tôi
chỉ còn sống vài giây phút nữa?...
“Chết không phải là nhảy vào khoảng trống, mà là
gieo mình vào tay Chúa”. (Pedre Arrupe) (Trích “Viễn Tượng 2000”).
9. Sống vì Đấng đã chết
Một trong những câu chuyện nổi tiếng thế giới là
câu truyện về Robinson Crouse, được dịch ra tiếng Việt là “Lỗ-Bình-Sơn
phiêu lưu ký”. Robinson là một người rất thích phiêu lưu. Một ngày kia
tàu ông bị đắm và tắp đến hoang đảo, ông sống ở đó một mình mười năm
tròn.
Một lần kia, ông cứu được một người bản địa khỏi bị
bộ lạc giết ăn thịt, và đặt tên cho y là Thứ Sáu. Vì cảm kích ơn cứu tử,
Thứ Sáu bằng lòng làm tôi ông suốt đời. Suốt đời còn lại, y chỉ sống cho
Robinson…
----------
Khi anh Thứ Sáu được cứu sống. Robinson không phải
thiệt mạng, không bi thương tích cũng chẳng bị thiệt hại gì, mà anh Thứ
Sáu còn sẵn lòng làm tôi tớ ông suốt đời, huống chi Chúa Giêsu đã hy
sinh tính mạng, chịu thương tích và đổ hết máu ra cứu chúng ta khỏi
chết, chúng ta phải có thái độ nào đối với Người? (Trích “Chuyện hay ý
đẹp”).
Thánh Phao lô dạy:
“Đức Ki tô đã chết thay cho mọi người, để những ai
đang sống không phải cho chính mình nữa mà sống cho Đấng đã chết và sống
lại vì chúng ta”. (2Cr.5,15)
10. Chiến thắng nhờ thập giá
Lúc 23 tuổi, Constatin được quân La mã đóng tại
York tôn lên nối ngôi người cha là Constantius. Để được lòng đế quốc,
ông phải chiến thắng kẻ thù.
Ngày 28 tháng 10 năm 312, ông đến sông Tiber, khúc
có cầu Milvian ở Bắc La mã, quân Maxentius mạnh hơn ngăn chận không cho
ông qua sông. Lúc đó thình lình ông thấy một cây thập tự sáng chói trên
bầu trời, phía dưới có hàng chữ: “Với dấu này, ngươi sẽ chiến thắng” (In
hoc signo, vinces). Sáng hôm sau trước khi vào trận, ông vội vã ra lệnh
tướng sĩ sơn hình thập giá trên mũ của họ và của ông. Họ xáp chiến can
đảm và ông đã thắng trận. Ông tin nhờ thập giá mà ông chiến thắng. Do đó
năm 313, ông đã ký sắc lệnh Milan, hủy bỏ cuộc bắt đạo và cho mọi người
hoàn toàn tự do theo đạo nào mình chọn.
----------
Constantin nhờ thập giá mà thắng được giặc. Chúng
ta sẽ nhờ ai để chiến thắng ma quỷ xác thịt thế gian? … Phải chăng thánh
Phao lô trả lời: “Chính người sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng,
nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em trong ngày Chúa chúng ta là
Đức Giêsu Kitô” (1Gr.1,8) (Theo “Chuyện hay ý đẹp”).
Linh mục George Parkec là giám quản xứ Giuse thuộc
giáo phận Norwich ở Hoa kỳ. Năm 1996, Ngài đã được nghị sĩ Dodd giúp cho
số tiền 5000 đô la. Nhưng ngài đã gửi trả lại để phản đối ông ta là một
nghị sĩ Công Giáo mà liên tục bỏ phiếu ủng hộ dự luật phá thai
Việc làm của cha khiến nhiều người cảm kích mến
phục, nên đã gửi giúp cha khoảng 61.000 đô la. Nhưng nghị sĩ Dodd bực
tức, đã vận động cất chức quản xứ của Cha, buộc lòng cha phải nghỉ hưu
đang khi còn có thể phục vụ giáo dân được.
----------
Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu tâm trạng Chúa
Giêsu trong Tin Mừng. Thánh Gioan thuật lại: “Sắp đến lễ Vượt qua, nhiều
người đi Giêrusalem…Họ tìm kiếm Chúa Giêsu và hỏi nhau: Chắc ông ấy
chẳng đến dự lễ. Còn bọn tư tế và biệt phái thì ra lệnh: Ai biết ông ấy
ở đâu phải báo cho họ đến bắt” (Ga. 11,55-57). Như thế, Chúa Giêsu vào
thành Giêrusalem với tâm trạng một kẻ bị truy nã, một kẻ có tên trong sổ
bìa đen.
Nhưng Người vẫn công khai vào thành, không chút sợ
hãi. Đúng là tình yêu mạnh hơn sự chết. Vì yêu thương nhân loại, Người
không sợ bị bắt bớ, chết chóc. Người cương quyết lên Giêrusalem đang khi
người ta tìm bắt giết Người.
Chúng ta có dám hy sinh vì Chúa vì anh chị em chúng
ta như thế không?
(Theo “Như Thầy đã yêu”).
Nghi thức tuần thánh khởi đầu bằng một cuộc kiệu Lá
để tưởng niệm việc Chúa Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem. Một cuộc kiệu
tưng bừng tiếng tung hô: "Hoan hô thái tử nhà Đa-vít! Chúc tụng Vua
Ít-ra-en", nhưng lại nhuốm buồn vì liền ngay sau đó chúng ta được nghe
trình thuật về cuộc thương khó của Chúa. Trong suốt Tuần Thánh này, có
ba cuộc kiệu như thế. Hai cuộc kiệu còn lại vào chiều thứ Năm tuần thánh
- kiệu Mình Thánh Chúa, và Đêm Vọng Phục Sinh - kiệu Nến Phục Sinh.
Những cuộc kiệu trong khung cảnh cuộc thương khó vừa mở ra trước mặt
chúng ta một con đường, vừa như là một nhắc nhớ: đằng sau buồn thương có
niềm vui cứu độ, qua khổ nạn sẽ là Phục Sinh.
Đường đưa tới vinh quang
Bài thương khó theo thánh Mát-thêu đã gợi lên những
hình ảnh xem ra hoàn toàn trái ngược với cuộc khải hoàn vào thành
Giê-ru-sa-lem. Thật vậy, việc Chúa được dân chúng tung hô đón rước khi
Ngài vào thành thánh chỉ là hình ảnh báo trước vinh quang đích thực Ngài
sẽ nhận được khi Chúa Cha cho Ngài sống lại từ cõi chết. Nhưng để được
vinh quang ấy, Đức Giêsu phải đi vào con đường khổ nạn, phải tự hiến
mình làm hy lễ dâng lên đẹp lòng Cha.
Rất nhiều lần chiêm ngắm bức ảnh Chúa hấp hối,
chúng ta thấy được gì phía sau hình ảnh một Chúa Giêsu đẹp đẽ uy nghi
quì gối bên một phiến đá dưới ánh trăng vàng đầy thơ mộng? Chúng ta có
nhận thấy một Đức Kitô đang gập mình xuống đất, oằn oại trong cơn khủng
hoảng vượt quá sức mình? Chúng ta có hiểu được lời Ngài thổ lộ với các
môn đệ: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được" (Mt 26, 38) và cả tiếng kêu
thống thiết trên thập giá: "Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi
con?" (Mt 27, 46).
Nỗi đắng cay như vây kín và xiết chặt lấy Ngài,
đắng cay của người bị bạn mình phản bội, của Thầy bị môn đệ chối từ và
bỏ rơi, của Đấng cứu tinh bị dân mình loại trừ. Tất cả đều do sự ích kỷ,
lòng kiêu căng và nỗi tham vọng của con người. Thân xác Chúa khổ sầu đến
nỗi mồ hôi máu đổ ra và tâm hồn Ngài gần như tan nát không phải vì những
roi đòn và nhục mạ, nhưng chính là gánh nặng của tội lỗi nhân loại.
"Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau
khổ của chúng ta" (Is 53, 4).
Qua khổ nạn mới đến Phục Sinh. Đó chính là chương
trình mầu nhiệm của Thiên Chúa, nhờ đó Chúa Cha và Chúa Con được tôn
vinh. Còn trong thực tế cuộc sống, có nhiều người lại muốn đạt đến vinh
quang bằng những con đường ngắn nhất và dễ nhất. Cuối cùng, những gì mà
họ có được chỉ là hư ảo, tầm thường nhất và cũng mau qua nhất.
Đường nở hoa tình yêu
Đức Giêsu chịu chết khổ hình nhằm cứu chuộc nhân
loại và cũng để tôn vinh Thiên Chúa Cha. Nhiều khi ta tự hỏi: có cần
phải như thế với một Thiên Chúa quyền năng? Hẳn rằng điều làm cho Hiến
Lễ Thập Giá của Đức Giêsu trở nên có giá trị và đem lại ơn Cứu Độ không
phải là đau khổ hay sự chết, mà là tâm tình vâng phục trong yêu mến đối
với Chúa Cha; nhưng chính đau khổ và Thập Giá lại là cách thế diễn tả
tâm tình đó thật tuyệt vời.
Sự vâng phục yêu mến của Đức Giêsu đã được I-sai-a
báo trước qua hình ảnh người tôi trung: "Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở
tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui" (Is 50, 5).
Còn thánh Phao-lô đã ca ngợi: "Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến
nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự" (Pl 2, 7 - 8). Lời cầu
nguyện của Đức Giêsu thưa với Chúa Cha trong vườn cây Dầu đã nói lên tất
cả sự vâng phục yêu mến: "Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà
không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha" (Mt 26, 42).
Con Thiên Chúa đâu có lạ gì với những đau khổ của
phận người khi bước vào trần gian. Đứng trước con đường khổ nạn, Ngài
không hỏi tại sao cũng chẳng buông lời nguyền rủa, nhưng Ngài đã bước đi
và đi tới cùng với tất cả tình yêu, tình yêu thật lớn lao dành cho Cha
và nhân loại, và lập tức bao nhiêu đau khổ kia trở nên ý nghĩa. Con
đường Thập Giá bỗng nở hoa rộn ràng. Cây Thánh Giá đã trở nên lộng lẫy
với vương miện tình yêu. Qua đó, Đức Giêsu cũng dạy cho con người một bí
quyết để sống hạnh phúc, để có hòa bình: Tình yêu và tha thứ.
Như thế, con đường mà Phụng Vụ Tuần Thánh đang mở
ra cho chúng ta chẳng phải là "con đường có lá me bay, chiều chiều ta
lại cầm tay nhau về", nhưng là con đường đã in dấu chân, đã thấm mồ hôi
và đã mang cả trái tim của Thầy Giêsu - Con Đường Thập Giá.
Cùng Chúa ta lên đường
Lời Chúa hôm nay muốn đưa chúng ta vào mầu nhiệm
thánh giá của Đức Giêsu không phải để gợi lên trong ta niềm thương cảm
đau xót, nhưng là muốn mời gọi chúng ta hãy can đảm bước theo Đức Giêsu
trên con đường thập giá. Rước lá đi theo Chúa trong vài giờ là điều dễ.
Theo Chúa giữa lúc Ngài được tung hô, chẳng khó khăn gì. Nhưng tiếp tục
theo Ngài và ở lại khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều.
Pascal đã nói: "Chúa Giêsu sẽ còn hấp hối đến tận
thế". Mỗi năm có hàng triệu thai nhi bị loại khỏi lòng mẹ một cách bất
công. Và còn bao nhiêu người đang ở trong điều kiện sống chẳng xứng với
phẩm giá của mình. Đó chính là Đức Kitô đang hấp hối giữa thế giới hiện
đại. Chúng ta vẫn gặp những Kitô hữu đang bị lo lắng, buồn rầu, ấm ức...
dày vò nghiền nát. Đó chính là Đức Kitô đang hấp hối trong nhiệm thể
Ngài. Và chính đời sống chúng ta nhiều khi cũng nhuốm phiền muộn, bất
an, lo sợ, nghi ngại và xáo trộn. Nếu ta biết đón nhận với lòng khiêm
tốn và tình yêu để cứu rỗi thế gian thì trong ta, Đức Kitô cũng đang
tiếp tục hấp hối và thân thưa với Chúa Cha rằng: "Xin đừng theo ý con,
nhưng xin vâng ý Cha hoàn toàn".
Đã hơn 2000 năm rồi, tất cả những gì đã xảy ra
dường như vẫn đang còn diễn lại. Chúng ta vẫn đang cùng Đức Giêsu đi vào
đời và ở trong đời với lý tưởng cứu thế. Chớ gì lời Đức Giêsu mời gọi:
"Hãy vác thập giá mình hằng ngày" (Lc 9, 23) luôn vang vọng bên tai
chúng ta mỗi khi phải đối mặt với thử thách hay khi bị lăng nhục nhạo
cười... Sau khi đã hiểu thấu ý nghĩa cuộc khổ nạn của Chúa, hẳn chúng ta
sẽ thấy yêu Thánh Giá của Chúa hơn, và cũng mến Thánh Giá của mình hơn,
đồng thời biết kính trọng Thánh Giá của người khác nữa.
Chiêm ngắm Đức Giêsu chịu Thương Khó, có lẽ mỗi
người chúng ta đều rất sốt sắng với lời hát: "Ôi bởi con mà Chúa mang
thảm hình... Xin giúp con đường thiêng liêng theo lối..." Chớ gì chúng
ta luôn có được tâm tình của Đức Giêsu hôm nay, để hân hoan tiến bước
vào đời tiếp tục con đường nên Thánh và cứu thế của Ngài, Con Đường Tình
Yêu dẫn tới Giê-ru-sa-lem Thiên Quốc.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Cuốn sách “Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu qua tấm khăn
liệm Turin”[i] viết thật hấp dẫn, tái dựng lại cuộc khổ nạn dựa trên Tấm
khăn liệm Turin và Tin Mừng, đưa người đọc từng bước đi vào cuộc thương
khó của Chúa Giêsu với những thống khổ và cực hình về thể lý. Sự tàn ác
của tội lỗi và sự đố kỵ của sự dữ trước một Tình Yêu quảng đại và bao
dung. Sự yếu đuối của thể chất trước một tinh thần bình an và vượt
thoát. Giá trị của vinh quang và tủi nhục, tha thứ và hận thù, sự sống
và sự chết. Những cảm nhận đó đưa độc giả vươn tới giá trị siêu nhiên
trong Chúa Kitô Phục Sinh.
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong cái nhìn nhân
loại như một bi kịch của sự tàn bạo, bất công và hủy diệt. Chúa Giêsu bị
phản bội, bị hiểu lầm, bị ghen ghét, chịu kết án bất công. Cuộc thương
khó làm cho chúng ta kinh khiếp vì sự tàn ác và độc dữ của con người. Nó
làm cho chúng ta xót xa và thương cảm một con người là nạn nhân của lòng
hận thù và đố kỵ.
Thế nhưng, cái chết trong đau thương nhục nhã của
Chúa Giêsu chính là nguồn ơn cứu rỗi cho nhân loại. Người chết để đền
tội, để chuộc tội, để gánh tội hầu cứu độ con người. Cái chết của Đấng
Cứu Độ nhưng lại bi thương vô cùng.
Tin Mừng về cuộc thương khó kể lại từng chặng đường
khổ nạn của Đấng Cứu Thế.
1. Chúa Giêsu chết trong cô đơn
Những giờ phút sau cùng của Chúa là những khoảng
khắc cô đơn kinh hoàng.Trong Vườn Cây Dầu, ba môn đệ thân tín đi với
Chúa, họ ngủ say để Chúa một mình. Giuđa phản bội bán Thầy 30 đồng bạc
là giá một nô lệ bằng một nụ hôn giả dối. Phêrô chối Thầy 3 lần, ông thề
là không quen biết Chúa Giêsu trước một đầy tớ gái. Các môn đệ sợ hãi
chạy trốn. Có một môn đệ chạy trốn bỏ lại cả áo, chạy mình trần. Một đám
đông cuồng nộ: Đóng đinh nó đi. Họ coi Chúa Giêsu còn thua Baraba là một
tên phiến loạn giết người.
Các môn đệ ở đâu? Những người được Chúa Giêsu làm
phép lạ nuôi ăn giờ ở đâu? Những người mới tung hô vạn tuế Con Vua Đavit
giờ ở đâu?
Chúa Giêsu đi đến tột cùng của sự cô đơn khi thổn
thức với Cha: Lạy Thiên Chúa tôi, sao Ngài nỡ bỏ tôi?
2. Chúa Giêsu chết trong đau khổ
Đau khổ Chúa Giêsu chịu trong giờ sau hết thật ghê
rợn.
a/ Đau khổ về thân xác
- Người ta khạc nhổ, đánh đập, vả tát vào mặt, dùng
roi quất vào Người. Đôi bàn tay bầm tím xuyên thâu những mũi đinh nhọn.
Đôi bàn chân bị đinh đóng xuyên qua cây gỗ. Đầu đội mão gai nhọn. Lưỡi
đòng đâm cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Một người bị lột bỏ trần trụi.
Hai tay bị giang thẳng trói xiết chặt vào thanh gỗ ngang. Hai chân bị
trói vào thanh gỗ dọc phơi ngoài trời nắng gắt cho đến chết. Chết vì
nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co
vào để thu nhận và tống không khí.
- Tử tội bị đóng đinh nơi cổ tay, nơi bàn chân càng
thê thảm bội phần vì đau đớn nhức nhối, sức người rướn lên để thở, mau
kiệt sức và chóng chết.
b/ Đau khổ về tinh thần
- Bị sỉ nhục. Bị cười nhạo báng. Bị khinh khi.
- Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu
vừa nói: mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được,
hãy cứu lấy mình đi! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá
xem nào!. Các thượng tế kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Người mà nói:
Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel! Bây giờ
hắn cứ xuống khỏi thập gía đi, thì chúng ta tin hắn liền! Cả những tên
cướp cùng đóng đinh với Người cũng sỉ vả Người như thế.
3. Chúa Giêsu chết trong sự vâng phục
Cái chết cô đơn, cái chết đau khổ đến với Chúa
Giêsu như một chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha,
nhưng không vì thế mà bớt sự đau đớn. Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu
than thở: Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin
đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha. (Mt 26,39).
Theo thánh ý Chúa Cha, “Chúa Giêsu đã hạ mình vâng
lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây Thập giá”(Pl 2,8).
4. Lời Thánh Kinh ứng nghiệm
Cái chết cô đơn, đau khổ của Chúa Giêsu ứng nghiệm
hình ảnh Người Tôi Trung của Ngôn sứ Isaia. Những nổi khổ đau, mọi sự sĩ
nhục và cực hình Người Tôi Trung phải chịu: bị đánh vào lưng, bị giật
râu, bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Mặc dầu vậy, Người Tôi Trung vẫn vững lòng
tin tưởng có Thiên Chúa phù trợ.
Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với Người Tôi Trung một
lần (Lc 22,37; Is 53,12) nhưng truyền thống không ngừng đồng hoá khuôn
mặt của Người Tôi Trung với Đức Kitô (Mt 8,16;Is 53,4; Mc 1,1;Is 52,1;
Mt 12,18-21;Is 42,1-3; Mc 9,31;Is 53.6.12; Ga 12,38;Is 53,1). Đề tài
Người Tôi Trung chịu đau khổ là đề tài khai triển một cách rõ rệt nhất
quan niệm một Đấng Cứu Thế phải trải qua đau khổ và sự chết thì mới hoàn
thành được sứ mệnh (Cv 3,13-26; Is 4,25-30; Is 53,5.6.9.12; Mc 10,41; Is
53,5; 1Cor 11,24).
Hình ảnh Người Tôi Trung đau khổ cho thấy rõ Đức
Giêsu đảm nhận thân phận làm người cho tới cùng. Trong Đức Giêsu, Thiên
Chúa tự mạc khải là Thiên Chúa “vì mọi người và cho mọi người” chứ không
phải như một Thiên Chúa tuyệt đối và toàn năng của triết lý và huyền
thoại. Nhân tính của Đức Giêsu mạc khải dưới một siêu việt tính đích
thực, nhìn dưới một dạng thức hoàn toàn mới mẻ. Đó là sự siêu việt của
một tình yêu vượt qua cái tôi ích kỷ, vượt qua được sự chết để trở nên
sự sống cho mọi người.
Bài Thánh ca của Thánh Phaolô gợi lên hình ảnh
Người Tôi Trung đau khổ (câu 8; Is 53,7.10.12), nhưng ở đây, Người Tôi
Trung được đối chiếu với hình ảnh Đức Chúa vinh quang. Sự tự hạ thẳm sâu
và chiến thắng vinh quang là bài ca ca ngợi Chúa Giêsu Kitô đã hạ mình
chịu chết và được siêu tôn. Chính sự vâng phục theo thánh ý Chúa Cha đã
làm nên giá trị của Chúa Giêsu trên mọi thụ tạo.
5. Sứ điệp tình yêu
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy
những chiều kích khác lạ của tình yêu. Tình yêu không đơn thuần chỉ là
sự trao ban thuần túy để làm hài lòng người mình yêu thương, nhưng sâu
thẳm hơn, nó là sự hiến dâng chính bản thân để chịu đau khổ.
Tình Yêu của Chúa Giêsu dành cho nhân loại qua con
đường thập giá thật đẹp và tinh tuyền như ánh trăng lấp lánh trên dòng
sông tình ái. Thấp thoáng trong bóng tối đau khổ, sợ hãi, cô đơn và sự
chết là lung linh ánh sáng khoan dung, tha thứ, bình an và vượt thoát.
Trong màn đêm của bạo lực và bất công, bầu trời vẫn lấp lánh ánh sao của
dâng hiến và yêu thương. Ngước lên và ngắm nhìn, chúng ta có thể nhận ra
từng nét chân dung huyền ảo của Tình Yêu và trái tim của chúng ta sẽ
nhận ra được dung mạo của Chúa Giêsu yêu thương đến cùng.
Trong hình hài đầy thương tích của Đấng Chịu Đóng
Đinh, bóng tối của sự thịnh nộ và thù hận đã nhường chỗ cho ánh sáng của
nhân ái và thứ tha. Làm sao chúng ta có thể nhận ra “Con Người” đẹp nhất
trần gian, nếu chúng ta không nhìn qua lăng kính của Tình Yêu! Cuộc khổ
nạn của Chúa cho chúng ta một cái nhìn thật thâm trầm và sâu sắc về sự
nguyên tuyền của Tình Yêu: đứng trên sự cuồng nộ là thinh lặng, đứng
trên hành vi bạo lực là một tinh thần bình an, đứng trên lòng thù hận là
tha thứ, đối lại thô bạo là bao dung. Tình Yêu làm chúng ta bỡ ngỡ và
sửng sốt. Chúng ta thích ngắm nhìn hình ảnh của một tình yêu siêu thoát
và bay bổng, nhưng nơi Chúa Giêsu, tình yêu trở nên bình dị và gần gũi.
Chúng ta mong muốn một tình yêu được nhận lãnh và chiếm hữu, nhưng nơi
Chúa Giêsu, tình yêu lại trở thành trao ban và từ bỏ. Tình yêu là nét
đẹp của sự tự hạ và quên mình, là dâng hiến bằng chính trái tim và trọn
vẹn cuộc đời. Tình yêu không là ngôn từ để kết án, không là vũ khí của
bạo lực đa đoan. Tình yêu là âm thanh gợi cảm của trái tim, là nét vẽ
thanh thoát của vũ hoàn và là dòng suối của hoa trái tha thứ bao dung.
Chúa Giêsu đã làm tan chảy mọi ô nhơ đố kỵ, khi Người đặt tất cả trong
ánh sáng của tình yêu. Nguồn suối ân sủng từ tình yêu Chúa Giêsu làm cho
mảnh đất khô cằn của sự chết trở nên hồi sinh và đầy tràn sức sống[ii].
Trước tình yêu vô biên của Đấng Cứu Độ, con người
sao có thể đáp đền cân xứng?. Làm thế nào so sánh một giọt nước nhỏ nhoi
với cả đại dương mênh mông vô tận!?
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay đều hướng về một sứ
điệp. Đó là sứ điệp tình yêu. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến độ vâng
lời đón nhận cái chết thập giá và yêu thương con người nên đã đón nhận
mọi khổ đau của nhân loại mà đưa lên cây thập gía hầu ban ơn cứu độ.
Chính tình yêu, chứ không phải đau khổ, đã biến
thập giá tủi nhục thành Thánh Giá vinh quang. Chính tình yêu của Chúa
Giêsu, chứ không phải cuộc khổ nạn mà chúng ta được Cứu Độ (Ga 3,17),
được giải thoát mọi xích xiềng tội lỗi. Như vậy, cuộc thương khó của
Chúa Giêsu là một hành trình của tình yêu tiến tới sự sống và hạnh phúc
cho muôn người.
Khi chấp nhận mang lấy những khổ đau, những nhục
nhã của cái chết Thập giá, Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa phải mục
nát đi để cho sự sống mới phát sinh. Nhờ sự chết của Người mà sự sống
đời đời xuất hiện cho nhân loại. Đó là định luật nối kết sự chết và sự
sống. Chấp nhận đau khổ và sự chết vì tình yêu thì nó trở thành con
đường dẫn đến sự sống muôn đời.
Trong cuộc sống thường ngày, có những lúc chúng ta
gặp đau khổ, gặp thất bại, gặp nghịch cảnh. Nhiều lúc mình than trách
Chúa, nghi ngờ tình yêu của Chúa. Có người bị lung lay đức tin. Có người
đã đánh mất đức tin. Hãy chiêm ngắm đau khổ Chúa Giêsu trong cuộc khổ
nạn để vững vàng vượt qua thử thách, băng qua gian truân. Qua Thập giá
mới đạt tới vinh quang Phục Sinh. Hãy xin được như Thánh Gioan kiên vững
dưới chân Thập giá để trung thành với một tình yêu sắt son cùng Thầy
Giêsu. Hãy xin được như Đức Maria can đảm dưới chân Thập giá cùng chịu
đau thương nhục nhã với người con yêu.
Con Thiên Chúa đã gánh chịu mọi khổ đau của thân
phận con người, nhưng Người không oán than, không kêu trách, không rên
xiết; trái lại, Người đón nhận khổ đau với một tình yêu sâu đậm: Yêu
Chúa Cha và yêu nhân loại. Chính tình yêu này đã biến khổ đau của Người
nên nguồn ơn cứu rỗi. Tình yêu cứu độ của Chúa đưa nhân loại đi tới bến
bờ hạnh phúc. Chúng ta hãy tin yêu Chúa Giêsu và bước đi theo Người để
có sự sống dồi dào và niềm vui an hoà.
-----------------------------------
[i] Tác giả An
Thiện Minh, Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa Nihil Obstat, Đức Cha Guise Võ
Đức Minh Imprimatur, Nhà xuất bản tôn giáo, Nhà sách Đức Bà Hòa bình
phát hành.
[ii] sđd trang
232-269.
Hôm nay, tường thuật về cuộc thương khó được trích
từ Tin Mừng theo thánh Maccô. Đây cũng là một chứng tá vì, theo truyền
thống, thánh Maccô đã có mặt trong vườn Cây Dầu: Một thanh niên theo
Chúa Giêsu; Người chỉ khoác một tấm vải trải giường. Người ta túm lấy
anh, nhưng anh ta bỏ tấm vải trải giường lại mà thoát thân”. Thánh Maccô
cũng là kẻ đã được thánh Phêrô trao đổi tâm sự: thánh Maccô đã là bạn
đồng hành với thánh Phêrô sau khi Chúa Phục Sinh và hai người đã cùng
nhau rao giảng Tin Mừng. Maccô cũng đã nhiều lần nghe kể câu chuyện về
con gà gáy vào lúc rạng đông và kết thúc cái đêm phản bội ấy.
Vậy đây là một vụ án với một chứng nhân trực tiếp,
một chứng nhân nhớ lại nhiều chi tiết mà những người khác không nhớ.
Một vụ án bình dân.
Nơi thánh Maccô, vụ án của Chúa Giêsu là một vụ án
bình dân. Một con người bị điệu ra trước đám đông, một đám đông kinh
ngạc vì tất cả những biến cố đang dồn dập xảy đến. Đám đông này ngày mai
sẽ không biết trả lời thế nào nếu người ta hỏi tại sao đã la lên: “Giêsu
Nadaret” thay vì “Barabas”. Quần chúng hành động theo bản năng vì hoảng
hốt; họ la lên trước một việc nhất thiết phải xảy đến.
Trong vụ án này có nhiều nhân vật, đó là những
chứng nhân ít được biết đến mà các thánh sử khác đã bỏ qua, và những
chứng nhân này hầu như không có gì để làm cả, nhưng vẫn có mặt ở đó.
Còn chúng ta, chúng ta làm gì trong vụ án này?
Chúng ta, những chứng nhân trực tiếp cuộc tử nạn của Chúa Kitô ngày hôm
nay: chúng ta, trong một đám đông vô danh, chúng ta không biết mình la
lên vì ai!
100. Chú giải của Noel Quesson.
(Mc 14,1 – 15,47)
Trang Tin Mừng hôm nay muốn giúp mọi Kitô hữu đang
ước ao sống trọn một tuần lễ “thánh”. Những lễ nghi trong tuần này là
những lễ nghi đẹp đẽ nhất, ý nghĩa nhất trong năm. Nhưng chúng ta chỉ
thực sự sống những lễ nghi đó cách nội tâm, nếu cá nhân mỗi người trong
ta đã suy gẫm những “biến cố” tạo nên “tuần lễ” này, chắc chắn, đó là
những biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: Chúng ta đã làm
nghiêng ngả dòng lịch sử và thay đổi bộ mặt hành tinh trái đất chúng ta.
Đọc bài thương khó một lần, cách phớt qua, là không
đủ. Cần phải để cho nó thẫm nhiễm trong ta. Nên đọc đi đọc lại. Chúng ta
chưa lưu ý đúng mức “vị trí” mà bài thương khó nắm giữ trong toàn bộ
“Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô”! Trong trình thuật của Mác-cô, bài thương
khó là phần thứ năm của Tin Mừng. Ngày nay, chúng ta sẽ nghĩ gì về một
tiểu sử, màphần quan trọng nhất trong đó, lại dành để kể lại cái chết
của một nhân vật ta muốn nói tới? Ta lại càng ngỡ ngàng hơn khi những
trình thuật đó đã được viết sau sự kiện sống lại, bởi những người đang
sống trong ánh sáng của biến cố Phục sinh vinh hiển. Thế mà, các nhà
trước tác lại không nhấn mạnh đến biến cố Phục sinh đó. Trong bản văn
bằng tiếng Hy-Lạp của Mác-cô, bài thương khó đã chiếm tới 160 dòng chữ
viết…và cuộc Phục sinh chỉ có 46 dòng, hay 19 dòng, nếu ta không kể
những câu 16,9 đến 20, là những câu được một người khác với Mác-cô thêm
vào văn bản sau đó.
Đúng vậy, cái chết cua Đức Giêsu phải là vấn đề chủ
yếu: có một "bí mật" nào đó cần phai được khám phá.
Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu!... Điều gì làm
được thì cô đã làm: "Cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi để chuẩn bị ngày mai
táng" (Mc 14,8).
Toàn thể phần đầu Bài Thương Khó (14,1-42) kể lại
"âm mưu ám hại Đức Giêsu”, "việc xức dầu tại Bê-ta-ni-a", “Giu-đa phản
bội", "chuẩn bị mừng lễ Vượt qua", "báo trước việc Giuđa phản bội",
"thiết lập Bí tích Thánh Thể và "cơn hấp hối tại Ghét-sê-ma-ni"... tất
cả những chi tiết đó cho ta thấy, Đức Giêsu bắt đầu sống trong nội tâm
Ngài Cuộc thụ Khổ, trước khi nó diễn ra trên thân xác cách cụ thể. Các
bạn hãy đọc 42 dòng đầu chương 14 của Máccô. Trong khi đọc như thế, các
bạn hãy tìm hiểu tư tưởng và tâm tình của Đức Giêsu. Phải, trước khi xảy
ra cuộc bắt giữ, khởi đầu cho tiến trình thụ khổ bên ngoài, Đức Giêsu đã
sống trọn vẹn cuộc thụ khổ đó trong lương tâm, trong ý thức trước về
việc tự nguyện dâng hiến của mình: Người đã thấy trước mình sẽ được "mai
táng" (14,8), "bị phản bội" (14, 10.14,17), "phải đổ máu” (14,24), "bị
mọi người bỏ rơi và bị Phêrô chối từ" (14, 27-30). "hấp hối" (14,34-36)
Nhưng Đức Giêsu đã bắt đầu ý thức vấn đề sớm hơn nhiều. Thế thì Người đã
nói đến cái chết sắp tới của Người từ lúc nào? Hiển nhiên hơn cả là lúc
"Phêrô tuyên xuống Đức tin tại Xê-da-rê (Mc 8,31): kể từ ngày đó, đã ba
lần Đức Giêsu nói với các bạn hữu Người về cái chết dữ dằn và khổ nhục
của mình (Mc 8,3,31 - 9,30 - 10,33). Nhưng cũng cần phải ngược lên xa
hơn. Các bạn hãy đọc câu 14 của chương I Tin Mừng Mác-cô: Đức Giêsu tiếp
tục sự nghiệp của Gioan Tẩy Giả, khi Người biết rằng điều đã xảy đến cho
cái ngôn sứ sẽ xảy đến cho ông và cũng xảy đến cho Người. Do đó, Đức
Giêsu trải qua phần lớn đời Người, trong sự cảm nhận trước cái chết của
mình. Phần chúng ta thì sao? Chúng ta có tìm cách tránh né khỏi phải
nghĩ đến cái chết không? Đối với chúng ta, cái chết của ta không phải là
"tác động" quan trọng nhất của đời người và hướng dẫn mọi hành động khác
sao?
Bữa ăn vượt qua (Mc 14,12.13.14.16).
Trong đoạn này, đã bốn lần sử dụng từ "Vượt qua".
Lễ Vượt qua của người Do Thái là để tướng niệm công cuộc “giải phóng"!
Một dân tộc bị áp bức tự giải phóng mình với sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Trong những đau khổ trần gian những gì áp đặt ta, không gì có thể hủy
diệt ta, kể cả trong cái chết của mình... nhờ đức tin, chúng ta có thể
tiếp gặp sự hiện diện tuy bí ẩn nhưng hiển nhiên của Thiên Chúa, để giúp
ta vượt thoát nhưng khó khăn đó, tới hạnh phúc bát diệt. Đức Giêsu đã
trải qua cái chết của Người như một cuộc "vượt qua": thay vì trốn chạy
thực tế đau đớn và nhục nhã của thân phận làm người, Người đã phó mặc
cho số phận bằng một thái độ liên kết yêu thương với Thiên Chúa! Cảm
nghiệm về cái chết như thế, Người đã "thay đổi ý nghĩa" cho nó: "Người
lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây
thập giá" (Pr 2,8). Lạy Chúa, Xin. cho con biết chấp nhập mọi trái ý
trong cuộc sống: đau khổ, thử thách, bệnh tật, già nua, thất bại, cô
đơn, tội lỗi... như một cuộc vượt qua, như một bước đường dẫn đến Chúa.
Đây là Mình Thầy... Đây là Máu Thầy... Đức Giêsu đã
nói như thế, sau khi dâng lời chúc tụng Thiên Chúa.
Chúng ta hãy ghi nhận một số chi tiết lý thú: trong
Tin Mừng Mác-cô, Đức Giêsu "truyền phép rượu”, sau khi các môn đệ đã
uống rượu đó ("tất cả đều uống" câu 23... Người bảo họ: "Đây là Máu Thầy
câu 24...). Chi tiết này có thể dẹp bỏ những tranh cãi về phụng vụ và
các nghi thức chặt chẽ... như thể tuyệt đối đọc những lời trên bằng
tiếng La-tinh hay tiếng địa phương, rước lễ trên tay hay phải đặt Mình
Thánh nơi miệng... Lạy Chúa, xin giúp chúng con đừng quá để ý đến những
chuyện tầm phào đó, nhưng hãy tiến vào tình yêu mầu nhiệm của Chúa, Đấng
đã phó mình trước, cách vui tươi, trong một thái (độ "tạ ơn" (câu 22)
"Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hi sinh
mạng sống mình" (Mc 10,45; Ga 10.18). Còn chúng ta thì sao? Tại sao
chúng ta không lợi dụng việc suy niệm cuộc thướng khó để "ngay từ bây
giờ và một cách tự nguyện hiến dâng" cái chết của ta, hợp ý cùng cái
chết của Đức Giêsu? Đó là cách thế tuyệt diệu giúp chúng ta không còn sợ
cái chết nữa, nhưng có thể bình thản nhìn nó đến, trong bình an, như Đức
Giêsu và cùng với Người.
Chẳng bao giờ Thầy còn uống rượu nho này nữa, cho
đến ngày được uống thứ nrợu mới trong nước Thiên Chúa.
Đó là niềm vui, sự yên tĩnh, an bình biết bao! Đó
là thái độ thanh thản chờ đợi "ngày đó", ngày của Thiên Chúa, ngày mà
Thiên Chúa cuối cùng sẽ hiển trị, ngày mà tất cả sẽ là sự sống, tình
yêu, hạnh phúc, bữa tiệc mới, rượu mới... ngày đó "sẽ không còn sự chết,
cũng chẳng. còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, nhưng là tiệc cưới
của con chiên" (Kh 21,4)... đó là "ngày cuối cùng", kết thúc thời gian,
hoàn tất công trình của Thiên Chúa, ngày thế mạt... và tất cả chúng ta
đang tiến tới ngày đó. Lạy Chúa, xin tạ ơn Chúa. Chớ gì mỗi bữa tiệc
thánh thể là bước chuẩn bị dẫn chúng con tới bữa tiệc? rượu mới trong
nước của Chúa Cha", trong tình yêu.
TIẾN ĐẾN TÌNH TRẠNG CÔ ĐỘC HOÀN TOÀN.
Chúng ta hãy theo sát Đức Giêsu. Người báo trước:
“mọi người " sẽ bỏ rơi Người (Mc 14,27), Phêrô, người có trách nhiệm, sẽ
chối từ Người (Mc 14,30). Người chọn "ba " người trong các môn đệ để ở
bên Người trong cơn hấp hối, và ba lần Người trở lại với họ để nài xin
họ cùng thức, nhưng họ đều “ngủ" cả (Mc 14,33-37.40--41), tất cả đều "bỏ
Người trốn chạy hết" (Mc 14,50)... và trên thập giá, người cảm thấy ngay
Thiên Chúa cũng bỏ rơi Người (Mc 15,34). Thật là cô độc hoàn toàn. Mọi
người đều phải chết cách cô lẻ. Đức Giêsu đã không tìm cách tránh né.
Người vâng theo định mệnh con người".
Anh em ngồi lại đây. Thầy đi cầu nguyện (Mc
14,32)... Lạy Cha Cha có thể làm được mọi sự. Xin cho con khỏi uống chén
đắng này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha" (14,36).
Vào lúc ba giờ chiều, Đức Giêsu kêu lớn tiếng:
"ê-lô-I, Ê-lô-i, La-ma-sa-bác-tha-ni!" nghĩa là: "Lạy Thiên Chúa của
con, sao Chúa nỡ bỏ con" (Mc 15,34).
Như thế, trong cuộc thụ khổ, Đức Giêsu không ngừng
cầu nguyện. Trên đây là hai lối cầu nguyện: cầu nguyện tại Ghét-sê-ma-ni
và cầu nguyện tại Gôn-gô-tha. Máccô còn cho ta biết, Đức Giêsu đã cầu
nguyện bằng tiếng mẹ đẻ tiếng A-ra-mên, thứ tiếng mà khi Người còn là
cậu bé, Đức Maria đã dạy Người cầu nguyện: "Ap-ba" có nghĩa là "Ba ơi",
"Ê-lô-i” có nghĩa là "Thiên Chúa của con"... Lạy Chúa, xin giúp con khi
gặp đau khổ dám cầu nguyện thưa gửi như Chúa:
1. Xin cho con khỏi đau khổ này!
2. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.
Nếu tôi có sách Kinh thánh (nhưng một gia đình Công
giáo đã chắc gì có Kinh thánh!), tôi sẽ đọc lại trọn Thánh Vịnh 21. Đức
Gỉêsu đã dùng Thánh Vịnh này để cầu nguyện trên thập giá. Khởi đầu Thánh
Vịnh hoàn toàn có tính chơ vơ cô lẻ nhưng khi kết thúc thì lại hớn hở
mừng vui một cách hết sức nghịch lý. Đây là một trong những chìa khóa bí
mật của huyền nhiệm mà ta đang tìm hiểu trong cuộc thương khó này.
HAI LỜI TỐ CÁO ĐỂ NÓI TRƯỚC MẶT THIÊN HẠ RẰNG:
ĐỨC GIÊSU LÀ "CON THIÊN CHÚA" VÀ LÀ “VUA".
Trong Tin Mùng Mác-cô, có hai lời tố cáo Đức Giêsu:
Một lời tố cáo có tính “tôn giáo" (Mc 14,53-65), trước Thượng hội đồng,
trước "tất cá các vị Thượng tế... và một lời tố cáo mang tính “chính trị
" (Mc 1 5, 1 -20), trước Phi -la-tô, viên tổng trấn đại diện cho Rôma…để
“bí mật " về căn tính đích thực của kẻ bị kết án đó, Đức Giêsu
Na-da-rét, được công bố trước mặt thiên hạ.
Ông có phải là Đấng Kitô, con Đấng chí tôn
không?
Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy con người ngự
bên hữu Đấng toàn năng, và còn thấy Người ngự giá mây trời mà đến.
Ông là Vua dân Do Thái sao? Đúng như Ngài nói
đó.
Bây giờ "bí mật" đã được tiết lộ. Cuối cùng thì Đức
Giêsu cũng đã nói ra Người là ai. Trong suốt đời sống công khai của
mình, Đức Giêsu đã yêu cầu mọi người đoán nhận ra bí mật này phải im
lặng, bởi vì con người chỉ có thể "hiểu được" Thiên Chúa, khi nhìn lên
thập giá: Người là "Con", nhưng không như con người nghĩ tưởng. Người là
"Vua", nhưng không như người ta chờ mong. Người con đó hoàn toàn yêu
thương, không giữ lại cho mình chút nào: Đó là tình yêu tuyệt đối, liều
chết cho "kẻ khác"... ông Vua này yêu thương trọn vẹn, không dành quyền
thống trị: mà trở nên "tôi tớ", tặng ban mạng sống mình cho "muôn dân".
Đây là một điều hết sức mới lạ, hết sức gây ngo
ngàng, đến nỗi không ai có thể hiểu được: những kẻ qua đường thì “lắc
đầu” trước ông Vua người Do Thái này (Mc 15,29-30), những người tố cáo
thì tiếp tục buộc Người muốn phá Đền thờ (14,58), các thượng tế vẫn nghĩ
rằng'nếu là Thiên Chúa thì hẳn là sẽ xuống khỏi thập giá (15,31-32), hai
tên trộm cướp bên tả và bên hữu thì sỉ nhục Người (15,32), còn các tông
đồ thì chẳng thấy mặt mũi đấu cả!
Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu,
thấy Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, ông này là con Thiên
Chúa".
Ta cần ghi nhận, cách Đức Giêsu chết đã làm phát
sinh thái độ Đức tin trên... chứ không phải biến cố "Phục sinh" xảy ra
sau này. Phải, trước khi suy niệm về cuộc sống lại vinh hiển, cần phải
suy gẫm về "cái chết" của Đức Giêsu: Cái chết này nói lên nhiều điều.
Lạy Chúa, qua cái chết đó, Chúa nói gì với con? Con sẽ đọc lại trình
thuật này... Con sẽ lắng nghe... bí mật của Chúa.
ĐẤNG MÊSIA TIẾN VÀO THÀNH GIÊRUSALEM
(Mc 11,1-11)
Sau một cuộc hành trình dài, Chúa Giêsu cũng các
môn đệ đã đến Giêrusalem. Đây chính là thời kỳ quan trọng –Maccô cũng
như ba vị thánh sử kia (Mt 21,1-10; Lc 19,28-40; Ga 12,12-19), đã kể lại
biến cố này bằng một bối cảnh rất rõ ràng. Bản tường thuật của Maccô đầy
tràn các hình ảnh Kinh Thánh. Nghĩa là các Kitô hữu sơ khai vẫn ấp ủ và
chiêm ngắm việc Chúa Giêsu vào thủ đô như là hình ảnh báo trước việc
Đấng Phục Sinh sẽ trả lời trong vinh quang.
Bối cảnh cho giai đoạn này cũng rất đặc sắc. Từ
Giêricô, Chúa Giêsu tiến về thành thánh từ hướng đông. Ngài băng qua các
làng Betphaghê và Bêtania, theo hướng xuôi xuống triền núi Ôliviê
(c.2a). vào thời Chúa Giêsu, có một truyền thống Do Thái xa xưa cho rằng
chính Thiên Chúa –và Đấng Mêsia của Ngài- chắc chắn sẽ theo lộ trình đó
để đến phán xét vào thời cuối cùng. “Vào ngày ấy, Người sẽ dừng chân
trên núi Ôliviê đối diện với Giêrusalem về hướng đông” (Dc 14,4). Chính
bối cảnh tiên tri này đã mang lại âm sắc độc đáo cho biến cố xảy ra ngay
sau đoạn khơi mào: sự thanh tẩy Đền thờ (11,15-18).
Trong lúc ấy, việc Đấng Mêsia vào thành vẫn chưa
mang vẻ uy nghi gì cả. Chúa Giêsu chưa phát biểu gì. Ngài chỉ phái hai
môn đệ đi tìm cho Ngài một con vật để cỡi (c.1b-6). Kiểu tường thuật này
được lặp lại trong việc chuẩn bị chi cảnh cuối cùng (14,12-16). Trong cả
hai lần, Chúa Giêsu muốn chính mình sắp đặt mọi sự, và muốn mọi việc
Ngài ủy thác phải được thi hành hoàn hảo. Điều này càng nhấn mạnh tính
chất linh thiêng của biến cố sắp xảy ra. Đó là một sáng kiến cao cả và
hoàn toàn không do ngẫu nhiên. Việc Chúa Giêsu ra lệnh đem về cho mình
“một con lừa nhỏ có cột dây, chưa có ai cỡi” (c.2) rất đáng ta chú ý
đến. Con vật đó phải còn nguyên tuyền, chưa ai dùng đến. Đó phải là một
con vật thánh. Ở xứ Israel, lừa là một gia súc quen thuộc với công việc
gia đình. Và trong Thánh Kinh, đó là con vật để cỡi theo truyền thống
của vua chúa (1V 32-35). Chính trong trường hợp này, qua việc chọn lấy
một con lừa, Chúa Giêsu đã hoàn tất một trong những lời tiên tri mang
tính Mêsia được biết đến nhất. “Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui lên!
Này đây Vua ngươi ngự đến, Ngài công minh và vinh quang, nhưng khiêm tốn
cỡi trên lừa còn nhỏ. Ngài sẽ cất khỏi Êphraim các cỗ chiến xa và khỏi
Giêrusalem các xe trận. Người sẽ bẻ gẫy cung nỏ chiến tranh và tuyên bố
hòa bình cho mọi dân nước” (Dc 9,9-10).
Nghịch lý đã được bộc lộ ra ở đây. Chúa Giêsu muốn
tỏ mình ra là Đấng Mêsia của Israel. Ngài khiêm hạ, đem đến sự an bình.
Con vật tầm thường của Ngài cỡi trái ngược hẳn với đoàn hộ tống của vua
chúa thân chinh: ngựa chiến oai phong, chiến xa. Trang phục kín đáo của
Ngài cũng không xứng với danh xưng dân chúng gán cho Ngài. Ngài là
“Chúa” (c.3). Dưới ngòi bút của Maccô, tước hiệu này có lẽ chỉ là do sự
lầm lẫn khi viết ra. Maccô rất ít khi dùng đến tước hiệu này khi Chúa
Giêsu còn sống (7,28 và 12,36-37). Trước tiên, nó muốn ám chỉ Đấng mà
các Kitô hữu sẽ thờ phương sau khi Ngài sống lại vinh quang, đó chính là
Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ.
Những câu 7-10 gợi lên nghi thức phong vương. Các
môn đệ dắt lừa con tới, trải áo làm yên, Chúa Giêsu ngồi lên (c.7).
Những cử chỉ này làm nhận biết tính cách vương đế của Thầy họ. Và dân
chúng phấn khởi (c.8). Họ trải thảm cho Chúa Giêsu đi, thảm danh dự
trong các ngày lễ thánh (xem chuyện Jêhu trong 2V 12b-13) #. Việc chặt
lá cây là mượn hình ảnh ngày lễ Trại. Thời Chúa Giêsu vào dịp lễ này
người ta hoan hỉ đón mừng vương quyền của Giavê. Niềm mong chờ Đấng
Mêsia bỗng trở nên sống động nhờ một cuộc diễn hành trong đó dân chúng
tán tụng Thiên Chúa, tay cầm các nhành vạn tuế và lá dừa (x. Lv
23,39-40) miệng tung hô.
Chúa Giêsu là vị anh hùng y như trong nghi thức
trên đây. Người ta tung hô đón tiếp Ngài. Họ hoan hỉ hộ tống Ngài vào
thành (c.9). những lời ca tụng tán dương dân chúng dành cho Ngài mang
một sắc thái lễ nghi rõ rệt. Chúng được trích từ Thánh vịnh 118, và cũng
được hát trong dịp lễ trại “Hosana!” là một từ ngữ Hy Bá Lai có nghĩa
“Xin cứu giúp chúng tôi!”. Dần dà, lời kêu cầu xin giúp đỡ này trở thành
một tiếng tán dương, một lời “hoan hô”. Chúa Giêsu đã được hoan hô, được
công nhận là Mêsia, “Đấng sẽ đến” (Tv 118,26). Maccô còn làm cho thời
điểm này mang tính Mêsia hơn khi ông thêm vào: “Vạn tuế vạn phúc triều
đại đang tới, triều đại vua Đavit, tổ phụ chúng ta” (c.10a). dân chúng
nhận ra Chúa Giêsu là Con Vua Đavít, vị vua đã hoàn thành được những lời
hứa hẹn của Thiên Chúa với các vị vua Giuđa (2V 7,12-16). Tiếng kêu cuối
cùng của dân chúng có thể khiến ta ngạc nhiên, tựa như một âm vang:
“Hoan hô Chúa!” (c.10b).
Sau cùng, thánh sử khéo léo ghi nhận đích đến của
đám rước hoan hỉ này: “Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem và đi vào Đền
thờ” (c.11a). Vị Vua Mêsia hoàn tất cuộc diễn hành tại nơi trung tâm của
thành thánh: nơi thờ phượng Thiên Chúa. Toàn bộ hành trình của Chúa
Giêsu hướng về Giêrusalem như nơi Ngài chọn để hoàn tất sứ vụ. Những
cuộc gặp gỡ, tranh luận sau đó đều xảy ra xung quanh hoặc chính trong
nơi thánh này của Israel (11,12-12,44). Những từ Maccô dùng để kết thúc
bản tường thuật không làm ta ngỡ ngàng chút nào. Khi đã vào đền, Chúa
Giêsu “rảo mắt nhìn xem mọi sự” (c.11b). Chắc hẳn Thầy đã biểu lộ sự
hiện diện uy nghi của mình qua việc đảo mắt dò xét xung quanh. Và Maccô
biết điều bí mật đó.
Nhưng trong cái nhìn của Chúa Giêsu vẫn ẩn náu một
vẻ bình thản lạ lùng. Hội hè lễ lạc đã xong hẳn. Một tấn kịch đang hình
thành và sắp mở màn. Ngài đợi đến ngày hôm sau mới ra tay hành động bởi
vì trời đã về chiều. Chúa Giêsu cùng với Mười Hai môn đệ trở về nghỉ ở
Bêtania (c.11b). Cuộc rút lui chiến thuật này thật đầy ý nghĩa. Bêtania,
tiếng Hy Bá Lai có nghĩa là “nhà của kẻ nghèo”. Với vẻ trang trọng lạ
thường, việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem có thể làm người ta quên đi
điều này: Con Người đến đó để trải qua cuộc khổ nạn (10,32-34).
Người ta thường cho rằng cuộc khải hoàn của Chúa
Giêsu vào Giêrusalem chỉ xảy ra vắn vỏi. Mọi người đều tin rằng bản văn
tường thuật hiện nay chỉ mang màu sắc hội hè sau khi Chúa Giêsu Phục
Sinh mà thôi. Cộng đoàn sơ khai hẳn rất thích thú đọc lại, qua ánh sáng
Kinh Thánh, về một biến cố nguyên tuyền, đồng thời lại khiêm nhường
nhất. Gioan đã nói lại điều đó khi ông viết: “Thoạt đầu các môn đệ không
hiểu điều này, nhưng khi Chúa Giêsu đã được vinh hiển rồi, họ mới nhớ
lại rằng điều đó chỉ về Ngài…” (Ga 12,16). Chúng ta chỉ kết luận rằng
vào dịp lễ độc đáo đó, Chúa Giêsu đã được dân chúng tiếp rước nồng hậu
nhưng vẫn hàm hồ. Những biến cố kế tiếp sẽ chứng tỏ điều này.
ÂM MƯU CHỐNG LẠI CHÚA GIÊSU (14,1-2)
Lần đầu tiên độc giả có dịp đặt mình vào bối cảnh
“Lễ Vượt Qua”. Trước kia, Vượt Qua chỉ là một dịp lễ hội của dân du mục.
Vào mùa xuân, khi gia súc đã qua mùa sinh sản, người ta dâng cúng cho
thần thánh các con chiên sinh ra đầu tiên (x. Xh 12,1-11). Đến khi dân
Israel đã định cư, họ tổ chức một lễ hội khác, cũng mang dáng dấp nông
nghiệp như trên, gọi là “bánh không men”. Họ mừng mùa gặt mới. Hai lễ
hội này –Vượt Qua và bánh không men- nhanh chóng được nhập làm một với
nhau. Thay vì tổ chức mừng đón thiên nhiên đâm chồi nẩy lộc khi xuân
đến, họ lại tưởng nhớ việc được giải phóng khỏi ách nô lệ (ra khỏi xứ Ai
Cập) và thiết lập dân Thiên Chúa (Dt 16,1-8). Ở Israel, Vượt Qua đã trở
thành lễ hội quan trọng và lớn nhất của dân Do Thái. Do đó không phải
ngẫu nhiên mà bản tường thuật khổ nạn lại được đặt vào khung cảnh của lễ
hội này. Nó tạo nên một bầu khí phụng vụ rõ nét.
Và thế là một sự diễn ra rất chính xác (c.1b).
Trước đây ta thấy đã có một âm mưu chống lại Chúa Giêsu, dù mới chỉ là
nét phác họa sơ sài (c.3,6). Nhưng âm mưu này chỉ liên quan đến nhóm
biệt phái và các kẻ thuộc phe Hêrôđê. Nhưng khi Chúa Giêsu trở lại
Giêrusalem, kế hoạch bắt Ngài được vạch ra chính xác hơn, phát xuất từ
giới tư tế, và được giới thường dân hùa theo, nhất là sau “vụ việc” Đền
thờ (11,15-18; 12,12). Đến bây giờ các thượng tế, với sự giúp đỡ của các
ký lục, đang cố tìm ra cách thức cụ thể để bắt Chúa Giêsu. Họ “tìm mưu”
hầu tránh gây kích động nơi dân chúng (c.2). Vào dịp lễ Vượt Qua rất
nhiều khách hành hương tuôn về Giêrusalem, họ là những người Do Thái tản
mác khắp bốn phương thiên hạ. Đó hẳn là một thời cơ thuận lợi để nổi
dậy: Vả lại, Chúa Giêsu được dân mến mộ vì những lời giảng dạy sáng chói
trong Đền thờ (12,12-57). Các thủ lãnh Do Thái phải nhanh chóng hành
động, trước khi ngày lễ bắt đầu: phải đảm bảo trật tự công cộng.
XỨC DẦU THƠM Ở BÊTANIA (14,3-9)
Đây chính là lời dẫn nhập về Cuộc Khổ Nạn. Câu
chuyện xảy ra ở Bêtania, một làng nhỏ gần Giêrusalem, nơi Chúa Giêsu
thường ghé lại nghỉ ngơi khi rời thành Giêrusalem (11,11). Người tiếp
đón Ngài không ai khác hơn là chính người phong cùi trước đây tên là
Simon (c.3a). Ông đã được lành bệnh và đã tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà
mình.
Chỉ một mình Maccô ghi lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa
Giêsu và một phụ nữ đang khi Ngài ngồi ăn ở nhà một người bạn (c.b). Ta
không biết tên của người phụ nữ ấy. Tác giả Tin Mừng không chú trọng đến
con người, mà là hành động của cô ta. Cô mang một bình dầu thơm quý,
“rất tinh tuyền”. Có lẽ đó là loại dầu thơm chiết xuất từ một loài cây
cỏ Ấn Độ. Đập bể bình ra, “Cô đổ dầu thơm trên đầu Người” (c.3c). Maccô
nhấn mạnh đến sự hoang phí này. Người phụ nữ không ngần ngại đập bể bình
để đổ thật nhiều và thật nhanh. Chuyện đổ dầu thơm lên đầu Chúa Giêsu là
việc quá dễ dàng: Chúa Giêsu ngồi vào bàn theo lối xưa, nghĩa là Ngài
tựa mình dài lên một cạnh bàn tiệc. Cử chỉ bất ngờ này mang ý nghĩa gì?
Về phía người phụ nữ, chắc chắn đó là một cử chỉ tỏ lòng tôn kính Thầy.
Có thể cô đã nhận ra tính cách Thiên sai nơi Chúa Giêsu. Bởi vì khi xức
dầu lên đầu cho ai, người ta xác định kẻ ấy là vua. Theo như sự mong đợi
của người Do Thái thì Đấng Mêsia đã được “xức dầu” (x. Is 61,1). Nhưng
việc vừa xảy ra khiến các môn đệ Chúa Giêsu phản ứng dữ dội.
Người ta quên rằng ngoài Simon, Chúa Giêsu và người
phụ nữ còn có nhóm Mười Hai môn đệ nữa chứ. Họ mới là những kẻ nổi xung
lên, cho rằng làm như thế là phí phạm quá. Họ ước tính bình dầu thơm đó
phải hơn ba trăm đồng: tương đương với ba trăm ngày công vất vả của một
nông dân chớ đâu phải ít gì! (c.4-5). Thà rằng đem bán lấy tiền cho kẻ
khó còn hơn. Lời phê phán này cũng có lý đấy chứ, nhưng Chúa Giêsu vẫn
bênh đỡ cho hành vi của cô ấy: “Cô ấy vừa làm cho Tôi một việc nghĩa”
(c.6). Các môn đệ phải nhận thức ra điều này. Người ta chẳng thiếu gì
người nghèo để mà giúp đỡ. Hẳn thực là theo luật Môsê thì Thiên Chúa đã
đòi hỏi dân Ngài phải ra tay cứu giúp kẻ bần hàn, xóa bỏ bất công: “Ước
chi kẻ nghèo khó sẽ không có nơi ngươi” (Đnl 15,4). Nhưng cũng không nên
quá nhiều ảo tưởng. “Vì sẽ không hề thiếu người nghèo khó trong xứ đâu.
Bởi thế Ta truyền dạy rằng: Ngươi phải mở rộng tay ngươi cho anh em
ngươi, cho kẻ bần cùng và nghèo hèn trên đất ngươi” (Đnl 15,11). Chúa
Giêsu không hề phủ nhận việc phải cấp tốc giúp đỡ người nghèo. Ngoài ra,
ngay chính trong đám môn đệ, vẫn có một kẻ đặc trách việc phân phát tiền
bố thí. Theo Gioan, đó chính là phần vụ của Giuđa, thủ quỹ của nhóm Mười
Hai (Ga 12,4-6). Vậy rõ ràng là các Tông đồ, mà đầu tiên là Giuđa, đã tỏ
ra giả dối khi lên án người phụ nữ đó phí phạm. Và Chúa Giêsu bất ngờ
mặc cho hành động của cô ta một ý nghĩa cao cả hơn thế nữa: vả lại, “Cô
ấy đã lấy dầu thơm để chuẩn bị ngày mai táng” (c.8). Ý Chúa Giêsu muốn
nói về hành động mang tính tiên tri của cô ấy. Cô đã thấy trước sự ướp
thơm tử thi Chúa Giêsu. Đó là một việc rất có giá bởi lẽ ta nên nhớ rằng
nấm mồ nơi chôn cất Chúa Giêsu là mồ của kẻ đã bị kêu án tử; phải nhanh
chóng táng xác Ngài và cũng không cần chi mà phải ướp dầu thơm (15,46).
Ta cũng nên lưu ý rằng theo đạo Do Thái hồi ấy, người ta vẫn thường coi
trọng việc thực thi bác ái. Theo truyền thống thì chôn xác kẻ chết là
một nghĩa cử rất đáng biểu dương, tương tự như việc bố thí cho kẻ nghèo
khó vậy (x. Tb 1,16-18).
Chúa Giêsu đã không ngần ngại liên kết hành động
của người phụ nữ vô danh đó với thảm kịch Ngài sắp phải chịu. Và Maccô
cũng không bỏ qua việc kết thúc bài tường thuật bằng cách ghi nhận lời
tuyên bố long trọng của Thầy mình là: Khắp cả thế giới hễ nơi nào được
loan báo Tin Mừng, thì biến cố này cũng sẽ được biết đến (c.9). Khi ghi
lại cảnh này, thánh sử biết rằng việc xức dầu ở Bêtania hẳn sẽ được nối
kết với lời rao truyền “Tin Mừng” loan báo cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu.
Ta nhận thấy Maccô rất quan tâm đến việc thông truyền Tin Mừng Chúa
Giêsu Kitô cho cả thế giới (1,1; 8,35; 10,29; 13,10). Tâm điểm của Tin
Mừng này là cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Đấng Mêsia, và dĩ nhiên, cử
chỉ khiêm hạ của người phụ nữ kia phải chiếm một vị trí thích hợp ở đó.
NGẢ GIÁ ĐỂ GIUĐA PHẢN THẦY (14,10-11)
Như ta đã nói ở trên, trong số các môn đệ chống đối
việc người phụ nữ xức dầu thơm cho Chúa Giêsu (14,3-9), chắc chắn có
“Giuđa Iscariot, một trong nhóm Mười Hai” (c.10a). nhờ vào Tin Mừng
Gioan, ta biết thêm rằng chính y là người quản lý tiền bạc cho nhóm Tông
đồ. Ngoài việc lo lắng chi tiêu cho cả nhóm, y còn đảm trách luôn việc
bố thí cho người nghèo. Vậy mà y chẳng bận tâm gì đến những nhiệm vụ ấy,
bởi lẽ “y là một tên trộm cướp… y ăn cắp” hết thảy những gì người ta cho
vào trong túi ấy (Ga 12,4-6). Và ta có cần phải tưởng tượng nhiều lắm
mới nhận ra chính y là kẻ biển lận và dễ bị mua chuộc phản bội lại Thầy
mình nhất không? Thực tế cho thấy rằng chính y là kẻ “đã đi gặp các
thượng tế, để tính chuyện nộp Chúa Giêsu cho họ”. Bù lại, y sẽ nhận được
tiền (c.10b-11a). Như thế mưu mô mà họ đã âm thầm nuôi dưỡng (14,1b) nay
sắp tới lúc chín muồi. Và qua những dòng đơn sơ Maccô đã chỉ cho thấy
rằng chỉ vì một lợi lộc bẩn thỉu một tên phản bội đã len lỏi vào hàng
ngũ bạn hữu của Chúa Giêsu. Chúa đã chọn Giuđa làm Tông đồ như những
Tông đồ khác, tin tưởng y, cùng sống với y và giúp đỡ y (3,13-19). Cần
ghi nhớ rằng một trong những nguyên nhân dẫn Chúa Giêsu đến cái chết lại
đến từ một trong các kẻ thân cận với Ngài.
Bây giờ Giuđa chỉ còn tìm dịp thuận tiện để giao
nộp Chúa Giêsu (c.11b). Dịp này sẽ xảy ra trong vài giờ nữa, không cần
phải chờ đến hết ngày (14,43-50).
CHUẨN BỊ CHO BỮA TIỆC LY (14,12-16).
Trình thuật này làm độc giả ngạc nhiên bởi vì được
mô tả khá chính xác. Trước hết nó cho biết thời gian và ý nghĩa của bữa
ăn tiệc ly Chúa Giêsu dùng chung với các môn đệ. Về thời gian, Maccô
cũng như Matthêu (26,17-19) và Luca (22,7-13)-cho rằng bữa tiệc của Chúa
Giêsu xảy ra trùng hợp với bữa tiệc Vượt Qua của người Do Thái, được tổ
chức vào đêm trước lễ Vượt Qua (c.12a). và Chúa Giêsu cũng rất ít có
được khả năng ăn mừng lễ Vượt Qua Do Thái. Bởi vì hôm sau, ngay chính lễ
Vượt Qua, Ngài sẽ chết. Nhưng theo luật tòa án hồi bấy giờ, người ta
không thể kêu án và xử án bất kỳ ai một khi lễ Vượt Qua đã bắt đầu. Về
phương diện lịch sử, trình tự thời gian mà Gioan ghi lại có vẻ hợp lý
hơn. Năm ấy, lễ Vượt Qua Do Thái xảy ra vào ngày thứ Bảy, ngày Sabbat
(Ga 19,31). Chúa Giêsu bị đóng đinh vào trước hôm đó, ngày thứ sáu, vào
giờ mà người ta cắt tiết chiên để ăn mừng lễ (Ga 18-28). Như thế, Chúa
Giêsu dùng bữa tiệc ly cùng với các môn đệ vào ngày thứ Năm. Sự xê xích
thời gian này rất quan trọng. Dù sao đi nữa, chính vì lễ đã quá gần nên
mới có bữa tiệc này, và người ta nhận ra ngay là cả ba Tin Mừng nhất lãm
đều biến bữa tiệc này thành tiệc Vượt Qua. Sự chết và sống lại của Chúa
Giêsu gắn liền với “lễ Vượt Qua mới”: việc giải thoát khỏi ách sự Ác và
sự Chết-Phaolô là người đầu tiên có thể nói lên: “Đức Kitô, Chiên Vượt
Qua của ta, đã bị sát tế. Ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ… nhưng với
bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật” (1Cr 5,7-8)..
Bản tường thuật tiếp tục với một văn phong gần như
kiểu chuyện “thần kỳ”. Các môn đệ hỏi Ngài về địa điểm dọn tiệc, Chúa
Giêsu trả lời khá kỳ cục (c.13-15). Có hai điểm nổi bật trong đoạn này.
Điểm thứ nhất là các môn đệ sẽ gặp một người đội vò nước. Lẽ thường thì
chỉ có phụ nữ mới đi lấy nước. Như vậy, Chúa Giêsu đã mặc cho đặc điểm
kỳ lạ này một dấu chỉ trù định trước. Điều kỳ cục thứ hai, đó là việc
tìm được một căn phòng “đã sắp sẵn” cho bữa tiệc. Hình như Thiên Chúa đã
quan phòng hết mọi sự, và Chúa Giêsu được coi như là một tiên tri biết
hết mọi chuyện sẽ xảy ra, biết từng chi tiết một. Làm sao giải thích
điều này? Hầu chắc là Maccô đã được linh hứng khi viết những trang này,
theo kiểu viết Kinh Thánh thông thường hồi đó. Trong sách Samuel thứ I,
tiên tri Samuel đã thấy trước được những lần gặp gỡ (theo thánh ý Chúa)
và chàng trai trẻ Saul. Những cuộc gặp gỡ này phải chứng tỏ được rằng
Thiên Chúa đã chọn chàng trai trẻ này để làm vua Israel (1S 10,1-10).
Cũng tương tự như thế, cuộc gặp gỡ được báo trước hai môn đệ với người
đàn ông đội vò nước sẽ là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đã quyết chọn Chúa
Giêsu làm Vua -Mêsia. Đoạn này còn được xác quyết chắc chắn bằng một
đoạn khác của Maccô: đoạn kể về việc Chúa Giêsu vào Giêrusalem
(11,1-11). Ở đó, Chúa Giêsu cũng phái hai môn đệ đi trước để tìm gặp con
lừa con. Biến cố này rõ rệt là mang tính chất Mêsia và lần nào thì sự
việc cũng xảy ra y như những lời dặn dò trước cả. Mọi sự đều diễn ra phù
hợp với nhận định tiên tri của Thầy (c.16).
Ta kết thúc đoạn này bằng cách lưu tâm đến việc lặp
lại tới hai lần tính từ “Vượt Qua” (c.12b và 12d) và danh từ “vượt qua”
(c. 14,16) là nhằm mục đích kêu mời độc giả chú trọng đến ý nghĩa tối
hậu của bữa tiệc Chúa Giêsu sắp tham dự. Nó là dịp lễ mừng nhắc nhở lại
việc ra khỏi Ai Cập, đồng thời chính là dịp loan báo sự chết và sống lại
của Đấng Mêsia cứu thế.
BÀI THƯƠNG KHÓ ĐỨC GIÊSU KITÔ
THEO THÁNH MACCÔ
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Một trình thuật có sự liên kết rất chặt
chẽ.
Trình thuật Cuộc Khổ Nạn chiếm một khoảng lớn trong
Tin Mừng Máccô, bởi vì nó chiếm đến hai chương, gồm một đoạn nhập đề và
hai phần, tất cả đều liên kết với nhau rất chặt chẽ.
Nhập đề (14,1-11) mở đầu trình thuật bằng ba phối
cảnh, hướng dẫn độc giả vào cuộc, đó là:
+ Âm mưu chống Đức Giêsu, nguồn gốc của tấn thảm
kịch (14,1-2).
+ Xức dầu tại Bêtania (4,3-9), cử chỉ có tính tiên
tri báo trước việc táng xác.
+ Giuđa phản bội (4,10-1 1) khai mào thảm kịch.
- Phần thứ nhất (14,12-52) của trình thuật xoay
quanh bữa tiệc Vượt Qua của Đức Giêsu với các môn đệ.
+ Chuẩn bị bữa Tiệc ly (14,12-16).
+ Thông báo việc Giuđa phản bội (14,17-21).
+ Đức Giêsu lập Bí tích Thánh Thể (14,22-26).
+ Tiên báo việc Phêrô chối Người (14,27-31).
+ Lời cầu nguyện trong vườn Ghetsêmani (14,32-42).
+ Đức Giêsu bị bắt (14,43-52).
- Phần thứ hai dẫn chúng ta vào giữa tấn thảm kịch,
qua việc Xét Xử và Lên án Tử cho Đức Giêsu (14,53-15,47).
+ Vụ Xét Xử diễn tiến trong hai giai đoạn:
Toà án Do Thái, trước Thượng Hội Đồng (14,53-65)
Toà án Rôma, trước tổng trấn Philatô (15,1 -15).
Trong hai giai đoạn này, có kèm hai sự cố.
Phêrô chối Thầy (14,66-72)
- Quân lính nhạo cười Chúa (1 5,16-20)
+ Thi hành án tử cho Đức Giêsu (15,21 -47).
- Đức Giêsu bị đóng đinh trên thập giá (1 5,21 -32)
- Đức Giêsu chết trên thập giá (15,33-41): trọng
tâm của trình thuật.
Sau cùng, Đức Giêsu được mai táng.
2. Chóp đỉnh của trình thuật: một người ngoại
giáo tuyên xưng đức tin.
Trong khuôn khổ của quyển sách này, chúng tôi không
thể quảng giải từng chi tiết của trình thuật, chỉ xin nhấn mạnh một vài
điểm tiêu biểu mà thôi.
- Những biến cố được thuật lại cách hờ hững, làm
chúng ta bực bội. Như thế, cùng với Máccô và các môn đệ, ta có thể nhận
thức được rằng: việc thực thi kế hoạch của Thiên Chúa làm cho con người
cảm thấy thật hụt hẫng. Thập giá đúng là cớ vấp phạm. Vậy mà chính ở đó
mầu nhiệm Con Thiên Chúa được mạc khải! (E.Charpentier, trong "Lire ba
Bible" số 55, trang 1 13).
Sự Thinh Lặng của Đức Giêsu thật đáng kinh ngạc.
E.Charpentier, giải thích: "Đức Giêsu biết rằng mầu
nhiệm của Người vượt quá tầm hiểu biết của loài người. Người biết rằng:
chúng ta bị "tắc nghẽn”. Bởi vậy, trong cuộc đời công khai, Người đã từ
chối nói ra Người là ai. Trong cuộc thương khó, Người chịu vén mở một
chút bức màn thinh lặng bởi vì Người đã bị kết án tử và không còn nguy
cơ diễn dịch danh hiệu của Người theo nghĩa ham muốn quyền lực, " (Sđd).
Mặc dù bị thúc bách bởi những câu thẩm vấn, Người
chỉ mở miệng ba lần sau khi bị bắt:
+ Khi vị thượng tế hỏi Người có phải là Đấng Mêsia,
Con Thiên Chúa không, Người đáp: Phải, chính thế. Rồi Người giới thiệu
mình là "Con Người”, Đấng mà ngôn sứ Đaniel đã loan báo sẽ đến vào ngày
tận thế, để phán xét chung.
+ Khi Philatô hỏi với ẩn ý chính trị rằng Ngài có
phải "Vua dân Do Thái" không, Đức Giêsu xác nhận lời ông: “Chính như
ngài nói đó”. Nhưng rồi Ngài thinh lặng ("Đức Giêsu không trả lời gì
nữa") ngay cả khi liên quan đến số phận Ngài; điều đó nhắc ta nhớ "Người
Tôi Tớ đau khổ trong sách Ngôn sứ Isaia: "Bị ngược đãi Người cam chịu
nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm
nín khi bị xé lông " (Is 53, 7).
+ Sau cùng, trên thập giá, Người mượn lời kêu than
của người vô tội bị bách hại trong TV 21: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa
của con, sao Ngài bỏ rơi con" để nói lên tiếng than van trong cơn nguy
khốn và kết thúc bằng lời ca hy vọng tuyệt vời.
Sự Cô Đơn nghiệt ngã của Đức Giêsu nổi rõ trong Tin
Mừng Máccô: Bị mọi người bỏ rơi, Người bước đi thui thủi một mình trong
đêm tối thập giá.
- Chính trong giờ phút Đức Giêsu chết bị mọi người
bỏ rơi, trong khi gánh mọi đau khổ, mọi tang tóc của nhân thế, chúng ta
nghe vang lên Lời Tuyên Xưng Đức Tin của viên sĩ quan Rôma, chóp đỉnh
của Tin Mừng: Quả thật người này là Con Thiên Chúa”.
- J. Hervieux nhận xét: "Máccô đã tô đậm sự cố này.
Trong nhân vật sĩ quan Rôma, (người đứng trông coi việc thi hành án tử),
ông nhìn thấy các dân ngoại đang ăn năn trở lại. Ngay lập tức, người
ngoại này đã tặng Đức Giêsu danh hiệu cao cả trên mọi danh hiệu. ngài
không những là Đấng Mêsia dân Do thái trông đợi mà còn là "Con Thiên
Chúa". Tác giả đặt vào danh hiệu này ý nghĩa mạnh mẽ nhất để chứng tỏ
nét độc đáo trong đức tin Kitô giáo: Thiên Chúa làm trong Đức tin Kitô
giáo Thiên Chúa làm người trong Đức Giêsu Kitô.
Người ta nhận ra cảnh trái ngược trong trình thuật:
trong khi người Do Thái (đám đông qua lại, các lãnh đạo dẫn đầu) chỉ
biết cười nhạo, báng bổ Đấng Mêsia bị đóng đinh, thì một người dân ngoại
lại nói lên lời biểu lộ một đức tin tinh tuyền nhất (...).
Đồng thời Máccô dẫn độc giả tới chóp đỉnh của Tin
Mừng. Ngay từ đầu sách, ta còn nhớ câu hỏi về Đức Giêsu: “ Ông này là
ai" Với lời tuyên xưng của Phêrô, đại diện cho nhóm Mười Hai, ngưỡng cửa
thứ nhất đã được bước qua: Đức Giêsu chính là Đấng" Mêsia (8,29). Nhưng
đức tin mới chớrn nở còn cần phải đào sâu. " Cuộc khổ nạn và cái chết
của Đức Giêsu đã tạo điều kiện cho việc đó. Với việc viên sĩ quan tuyên
xưng đức tin, bước quyết định đã hoàn tất: Đức Giêsu là "Con Thiên Chúa,
điều mà Tihên Chúa Cha đã công bố khi Đức Giêsu chịu phép Rửa (1, 11).
Và, theo nguyện ước của Đức Giêsu khi xảy ra biến cố tẩy uế Đền Thờ, giờ
mọi dân tộc có thể nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa (11,17). Đã
hẳn, nhờ ánh sáng của Chúa Phục Sinh và việc dân ngoại gia nhập Giáo Hội
sơ khai, tư tưởng cao siêu này mới được hình thành. Hơn nữa, nó còn là
kết quả của một cuộc suy tư dài lâu nơi cộng đòan Kitô hữu (gần 40 năm).
Chúng ta không nên coi thường vấn đề thời gian" ("Ltevangile de Marc",
Centurion, trang 230).
- Sau cùng, địa vị của PHự Nữ, tuy rất âm thầm kín
đáo, cũng rất có ý nghĩa. Họ đi theo Chúa - việc hi hữu đối với một
Rabbi Do Thái - trong sứ vụ ở Galilê, họ đi lên Giêrusalem, họ can đảm
theo Chúa cho đến núi Sọ, trong khi các môn đệ bỏ trốn hết. Họ được
thánh sử nhắc đến ở đây, trong tư thế "nhân chứng" duy nhất: "họ đứng
nhìn”, "đứng xa xa, bởi vì họ là phụ nữ, nên không được phép lại gần
người thụ hình. Họ làm nên dây liên kết ba biến cố diễn tiến liền sau:
cái chết của Đức Giêsu, việc táng xác trong mồ, và nhất là vào buổi sáng
Phục Sinh, việc khám phá rằng "Đức Giêsu Nagiarét”, Đấng bị đóng đinh,
đã chỗi dậy (16,6).
II. BÀI ĐỌC THÊM
Bí mật rồi cũng được mạc khải
("La Bible du dimanche" trang 403-404).
Xuyên suốt Tin Mừng, Máccô đã bảo vệ phẩm cách
thiên sai của Đức Giêsu, bằng cách bao trùm lên Người vẻ bí mật và thinh
lặng, mỗi khi Người chạm trán với sự chậm tin hoặc sự mù quáng của dân
chúng. Trong suốt cuộc khổ nạn, vẻ bí mật và thinh lặng này đã trở thành
nỗi cô đơn của Đức Giêsu vì Người xác tín mình là Đấng Mêsia.
Người đã đánh mất cử toạ là quần chúng và người
thân cận, khi mà những biến cố đầu tiên của cuộc Thương Khó làm cho các
tông đồ lìa bỏ Ngài. Trong vườn Ghetsêmani, những môn đệ lẽ ra phải thức
với Người thì đã thiếp ngủ (Mc 14,37-40), họ đã chạy trốn lúc Chúa bị
bắt (14,50), dù phải chạy trần truồng vì hoàn cảnh bắt buộc (15,51 -52).
Trong cuộc tra vấn, khi Phêrô bộc lộ tính nhát đảm (14,62-71) và hai
nhân chứng dối trá tố cáo Người (14,56-60), thì chỉ còn một nhân chứng
dám hai lần phát biểu ủng hộ Người, đó là con gà trống đáng thương. Nỗi
cô đơn quả là khủng khiếp: người ta nhạo cười Đức Giêsu khi Người tự
nhận mình là Đấng Cứu Thế; Người là vua, nhưng là vua giấy trong căn
phòng của đám lính gác; Ngài được giới thiệu cho quần chúng, nhưng họ
lại là một đám đông la ó xin xử tử Ngài. Trên thập giá, khi mà các môn
đệ đứng xa xa để tránh bị lộ (15,40), Đức Kitô cảm thấy cô đơn đến độ
dường như Chúa Cha cũng ruồng bỏ Người luôn (15,34-35).
Đức Giêsu chịu đựng nỗi cô đơn càng lúc càng dữ
dội, trong thinh lặng tuyệt đối (Mc 14,6; 15,3-4). Trái với các thánh sử
khác, Máccô chỉ ghi lại một lời ngắn gọn duy nhất của Chúa trên thập
giá. Sự thinh lặng này đánh dấu sự cách biệt giữa quan niệm mà Đức Giêsu
hiểu về sứ mạng của mình với quan niệm của những thù nghịch nghĩ về
Ngài. Nó chứng tỏ rằng Đức Giêsu luôn trung tín với chính mình giữa
những cơn thử thách.
Nhưng vừa khi cái chết đóng dấu ấn vào nỗi cô đơn,
thì Đức Kitô liền được tung hô là Đấng Mêsia và là Con Thiên Chúa (Mc
15,39), và một nhóm môn đệ lại hình thành quanh Người (Mc 15,40-43). Đức
Giêsu không còn cô độc; Giáo Hội được thiết lập và những người ngoại
giáo cũng thuộc về Hội Thánh ấy."
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG – KIỆU LÁ
1. Dân chúng nô nức reo hò mừng đón Chúa Giêsu vào
thành Giêrusalem. Họ là những kẻ đã được chữa lành bệnh, và được Người
cho ăn no thỏa mới ngày nào đây. Lời hoan hô của họ rút ra từ Tv
117-118, một bài hát ngày Lễ Lều ca ngợi, cảm tạ những ơn lành Thiên
Chúa đã thông ban cho Israel. Ở đây người ta ca ngợi Chúa Giêsu vì hy
vọng người đến cho họ ăn no thỏa, cứu chữa họ khỏi bệnh hoạn tật nguyền
và nhất là tái lập triều đại vàng son của Đavít. Họ là những kẻ mong chờ
vị Cứu Thế theo mối lợi, theo tham vọng riêng. Các môn đồ cũng phấn khởi
hân hoan vì cái ngày họ nôn nóng mong chờ dường như sắp đến: họ thầm mơ
sẽ được ngồi bên hữu, bên tả Thầy. Còn nhà cầm quyền thì sửng sốt kinh
ngạc. Lại chấn động, họ nhốn nháo cả lên: "phải chăng tên Giêsu đầy ma
thuật kia bắt dầu cho nổ bùng cuộc cách mạng?".
2. Nhưng từ trong thái độ, cách đi đứng, Chúa Giêsu
đã tỏ ra một ý muốn khác hẳn. Thay vì cưỡi ngựa chiến với quân đội tiên
hô hậu ủng, Người chỉ cưỡi lừa con như vị vua khiêm tốn, nhân liền mà
Dacaria 9,9 đã tiên báo. Người thuận để cho đoàn lũ hoan hô. Nhưng việc
Người tiến vào Giêrusalem không theo như kiểu họ tính toán. Quyền năng
của Người là để phục vụ chứ không để cai trị. Người không muốn ngự trong
cung điện nhưng muốn hiện diện trong tâm hồn mỗi người... để thông cảm
với tất cả những vui buồn đau xót của kiếp nhân sinh. Con đường Người
phải đi qua để đến với nhân loại là con đường gian khổ với cái chết trên
thập giá.
3. Từ xưa, trong một thánh vịnh, vua Đavít hầu như
đã diễn tả trước cảnh bị nhạo báng đau khổ và hấp hối của Chúa Kitô trên
núi Sọ (Đáp ca). Trong một thị kiến trước 7,8 trăm năm, tiên tri Isaia
cũng đã tiên báo phần nào những sỉ nhục, tra tấn, cười nhạo trong nhà
thượng tế cai pha và trong dinh tổng trấn (Bài đọc 1). Vì là chương
trình cứu thế, là thánh ý Chúa Cha, nên Chúa Kitô đã chấp nhận từ bỏ
chính mình, vâng lời cho đến chết trên thập giá (Bài đọc 2). Cuộc Khổ
nạn và cái chết đau thương của Người (được tả lại thực rõ ràng, sống
động và tỉ mỉ do Mc trong Tin mừng thứ hai (Bài Thương khó). Tuy nhiên
cuộc Khổ nạn và cái chết tức tưởi ấy lại có một kết thúc huy hoàng: vì
nhờ đó toàn thể loài người được ơn cứu độ, còn Chúa Kitô thì không phải
hổ thẹn như Isaia đã tiên báo, mà được Thiên Chúa cho phục sinh, tôn
vinh và tặng ban danh hiệu là Chúa (Bài đọc 2).
4. Đời sống tùng phục Chúa Cha cho đến chết của
Chúa Kitô vừa là tấm gương vừa là con đường phải theo. Nếu kết thúc cuộc
đời đau khổ và cái chết thảm thương của Người là sự sống lại và tôn
vinh, thì kết cuộc nếp sống tuân theo thánh ý Chúa của Kitô hữu cũng sẽ
là sống lại vinh hiển và sự sống vĩnh cửu, và được tặng một danh hiệu
chỉ mình kẻ ấy biết (x Kh 2, 17; 3, 12).
RƯỚC LÁ (Mc 11, 1-10)
VUA ĐẾN (11,1-6)
Chúng ta sang giai đoạn chót của chuyến đi. Trong
hành trình cuối cùng có lúc Chúa Giêsu lui về vùng Xêdarê Philipphê ở
phía bắc, có lúc ở vùng Galilê rồi đến vùng đồi Giuđê và vùng bên kia
sông Giođan. Ngài đã đi trên đường xuyên qua Giêricô và đang tiến đến
Giêrusalem. Tại đây, chúng tôi phải lưu ý vài điều, bằng không chúng ta
không thể hiểu được câu chuyện. Khi đọc ba sách Matthêu, Máccô và Luca,
chúng ta sẽ tưởng đây là lần đầu Chúa Giêsu đến viếng Giêrusalem. Các
sách ấy chỉ quan tâm kể lại công tác của Chúa Giêsu tại xứ Galilê. Chúng
ta phải luôn nhớ rằng các sách Phúc Âm đều rất ngắn. Trong phạm vi ngắn
gọn đó, các sách ấy phải tổng kết phần công tác suốt ba năm cho nên các
tác giả bị bắt buộc chọn lọc những điều mà họ quan tâm và được biết rõ
đặc biệt. Nhưng khi đọc Phúc Âm Gioan chúng ta thấy Chúa Giêsu rất
thường đến Giêrusalem (Ga 2,13; 5,1; 7,10). Thật vậy, Chúa Giêsu thường
lên Giêrusalem vào những ngày đại lễ. Ở đây chẳng có gì mâu thuẫn. Ba
sách Phúc Âm đầu tiên quan tâm đặc biệt đến sứ vụ tại Galilê, còn sách
Phúc Âm thứ tư quan tâm đến Giuđê. Thật ra ba sách đầu không hề khẳng
định Chúa Giêsu không thường đến Giêrusalem. Các sách ấy vẫn đề cập tình
bạn thân thiết của Ngài với Mátta, Maria và Lagiarô tại Bêtania, mối
thân tình được nói lên bằng nhiều lần thăm viếng. Có sự kiện Giuse ở
Arimathia vốn là bạn của Chúa Giêsu trong âm thầm. Nhất là câu nói của
Chúa Giêsu chép ở Mt 23,37 khi Ngài bảo Ngài vốn thường hội họp dân
chúng tại Giêrusalem lại như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh nó, nhưng họ
lại không bằng lòng. Chúa Giêsu không thể nói thế trừ khi trước đó Ngài
đã hơn một lần kêu gọi họ, nhưng chỉ được đáp lại bằng thái độ lạnh
lùng. Chính sự kiện đó giải thích biến cố về con lừa ở đây. Chúa Giêsu
không đợi đến giờ phút chót mới quyết định công việc. Chúa biết những gì
Ngài sắp làm. Từ lâu Chúa đã sắp xếp với một người bạn của Ngài về những
việc Ngài sắp làm. Khi sai các môn đệ đi, Ngài chỉ dùng một mật khẩu đã
được dàn xếp từ trước “Chúa cần dùng nó”. Đây không phải là một quyết
định thình lình, bất chợt của Chúa Giêsu. Đây là một việc căn bản để
Chúa Giêsu xây dựng cả cuộc đời Ngài trên đó.
Bếtphaghê và Bêtania là hai làng gần Giêrusalem. Có
thể Bếtphaghê có nghĩa là Nhà Trái Vả, còn Bêtania có nghĩa là Nhà Trái
Chà Là. Cả hai chắc ở gần nhau vì chúng ta biết theo luật Do Thái,
Bếtphaghê là một trong những làng nằm trong giới hạn được phép đi trong
ngày sabát, nghĩa là không quá một dặm trong khi Bêtania vốn được thừa
nhận là nơi tạm trú cho khách hành hương đến dự lễ Vượt Qua tại
Giêrusalem không còn chỗ trọ.
Các ngôn sứ Israel vốn có một phương pháp đặc biệt
để truyền đạt thông điệp của họ. Khi ngôn từ không gây ấn tượng cho dân
chúng, họ thực hiện một số điều mang kịch tính, dường như muốn nói “Nếu
các ngươi không chịu nghe, thì các ngươi sẽ bị bắt buộc phải thấy” (đối
chiếu với trường hợp đặc biệt trong 1V 11, 30-32). Những hành động đầy
kịch tính này có thể gọi là những lời cảnh cáo bằng động tác hoặc những
bài giảng mang kịch tính. Đó là phương pháp Chúa Giêsu đang áp dụng ở
đây. Hành động của Chúa Giêsu là một lời tuyên bố rõ ràng đầy kịch tính.
Ngài chính là Đấng Mêsia. Nhưng chúng ta phải cẩn thận ghi nhận những gì
Ngài đang làm. Ngôn sứ Dacaria đã nói “Hỡi con gái Sion, hãy mừng rỡ.
Hỡi con cái Giêrusalem hãy reo vui. Này vua ngươi đến cùng ngươi, Ngài
là Đấng công chính ban ơn cứu rỗi, nhu mì và cỡi lừa, con của lừa mẹ…
(Dcr 9,9). Toàn thể nội dung của câu này có nghĩa là nhà Vua giá lâm
trong hòa bình. Tại Palestine, lừa cái không phải là con vật bị khinh
dể, nó là một con vật quý phái. Khi một vị vua ra trận thì cỡi ngựa,
nhưng khi ngự giá với ý nghĩa hòa bình, thì cỡi lừa cái. Ngày nay, lừa
cái bị chúng ta khinh rẻ, nhưng vào thời Chúa Giêsu, nó là con vật dành
cho bậc đế vương. Chúng ta phải chú ý là Chúa Giêsu muốn tự xưng là vị
vua thuộc loại nào. Ngài đã đến với thái độ khiêm nhu, hạ mình, Ngài đến
trong hòa bình, vì hòa bình. Thiên hạ đã chào đón Ngài với tư cách: con
vua Đavít, nhưng họ không hiểu.
Đó là nhà vua mà dân chúng đang trông đợi. Thi ca
Do Thái từ xưa vẫn củng cố cho dân Israel các ý niệm ấy, họ vẫn trông
đợi một nhà vua sẽ đánh tan, giày xéo và nghiền nát. Chúa Giêsu biết rõ
điều đó, nhưng Ngài lại đến một cách khiêm hạ, nhu mì, cỡi lừa cái.
Ngày hôm đó, lúc Chúa Giêsu cỡi lừa vào thành
Giêrusalem là Ngài tự xưng vương, nhưng là Vua Hòa Bình. Hành động của
Ngài hoàn toàn trái ngược với tất cả những gì mọi người đang trông chờ,
đang hy vọng.
ĐẤNG ĐANG NGỰ ĐẾN (Mc 11,7-10)
Con lừa các môn đệ Chúa đem về chưa có ai cỡi. Việc
này phù hợp với con vật được dùng cho mục đích thánh, phải không bao giờ
được sử dụng cho bất cứ mục đích nào khác. Cùng một cách này được áp
dụng cho con bò cái tơ sắc hoe mà tro của nó tẩy sạch mọi ô uế (Ds 19,2;
Đnl 21,3)
Toàn thể bức tranh này là hình ảnh của cả một đám
quần chúng đang hiểu lầm. Nó cho thấy một đám người chỉ nghĩ về vương
quyền bằng hình thức chinh phục mà từ lâu nay họ vẫn mơ tưởng. Bức tranh
này khiến người ta nhớ lại hình ảnh mà Simô Macabêô đã vào thành
Giêrusalem 150 năm trước đó, sau khi đã chiến đấu và quét sạch quân thù.
“Và người vào thành, ngày 23 tháng 7 năm 171, với lễ cảm tạ và nhành chà
là, có đàn cầm, đàn sắt, trống lớn, đàn dây, thánh ca và bài hát, vì một
số thù địch đông đảo đã bị trừ diệt khỏi xứ Israel” (1Mcb 13,51). Họ đã
tìm cách chào đón Chúa Giêsu trong cương vị một người chiến thắng mà
không bao giờ mơ tới loài người chiến thắng mà Chúa Giêsu đang muốn trở
thành.
Chính những tiếng reo hò của đám đông tung hô Chúa
Giêsu đã cho thấy họ đang suy nghĩ những gì. Khi họ cởi áo trải xuống
đất trước mặt Chúa Giêsu, họ làm đúng y như điều quần chúng đã làm lúc
Giêhu được xức dầu để làm vua (2V 9,13). Họ la lớn “Chúc tụng Đấng ngự
đến nhân danh Chúa”. Đây là câu trích dẫn Thánh vịnh 118,28, thật ra thì
phải đọc khác hơn một chút là “Đấng đến đang được chúc phúc trong danh
Chúa”.
Chúa Giêsu đã tự xưng là Đấng Mêsia nhưng theo một
cách thức nhằm cố gắng chứng tỏ cho dân chúng thấy họ đã hiểu sai các ý
niệm về Đấng Mêsia. Nhưng họ vẫn không thấy được điều đó. Toàn thể cuộc
chào mừng của họ chỉ phù hợp cho vị anh hùng chinh phục kẻ thù của dân
Israel mà không phù hợp với Vua tình yêu.
Trong hai câu 9, 10 có từ Hôsana. Từ này luôn luôn
bị hiểu sai. Người ta hay trích dẫn và sử dụng nó dường như nó có nghĩa
là đáng chúc tụng, nhưng nó chỉ đơn giản là từ chuyển âm từ Do Thái có
nghĩa là “Hãy giải cứu tức khắc”. Nó đã xuất hiện đúng hình thức đó ở
2Sm 14,4 và 2V 6,26 nơi nó được dùng để bày tỏ việc dân chúng muốn được
vua giúp đỡ, bảo vệ. Khi dân chúng hô to Hôsana, đó không phải là lời
tung hô tán tụng Chúa Giêsu như người ta vẫn tưởng khi trích dẫn từ ấy.
Đó là tiếng kêu gào Thiên Chúa hãy can thiệp, giải cứu dân Ngài ngay bây
giờ, vì Đấng Mêsia đã đến.
Không hề có biến cố nào bày tỏ rõ lòng can đảm của
Chúa Giêsu cho bằng biến cố này. Trong hoàn cảnh mà mọi người đều nghĩ
Chúa Giêsu sẽ lén lút vào thành Giêrusalem, sẽ tránh mặt các nhà cầm
quyền đang muốn tiêu diệt Ngài. Thế mà Ngài lại vào thành Giêrusalem
theo một hình thức khiến mọi mắt đổ dồn vào Ngài. Một trong những điều
nguy hiểm nhất mà một người có thể thực hiện là đến với thiên hạ bảo
rằng mọi quan điểm, mọi khái niệm họ đang thừa nhận đó đều sai lầm. Bất
cứ ai cố nhổ tận gốc các giấc mơ ái quốc của thiên hạ cũng phải gặp rắc
rối. Nhưng đó lại chính là việc Chúa Giêsu đang cố ý làm ở đây. Chúng ta
thấy Chúa Giêsu đang đưa ra lần chót tiếng kêu gọi của tình thương và
đang làm việc ấy bằng thái độ can đảm của bậc anh hùng.
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
Tuần thánh bắt đầu bằng Chúa Nhật Lễ Lá: Phụng vụ
hôm nay gồm hai phần vui buồn đan xen vào nhau: Trong phần đầu lễ chúng
ta cùng nhau rước Chúa Giêsu khải hòan vào thành Giêrusalem (x Mc
11,1-10). Phần thứ hai là thánh lễ với bài Thương Khó (x Mc 14,1-15,47).
Từ đó chúng ta cùng rút ra bài học sống đức tin thế nào trong những hòan
cảnh vui buồn trong cuộc sống
1. CON ĐƯỜNG KHẢI HÒAN VÀO THÀNH GIÊRUSALEM:
Trong giờ phút này, chúng ta hãy chiêm ngắm cảnh
tượng Đức Giêsu đang long trọng tiến vào thành Giêrusalem. Ngài khiêm
tốn ngồi trên lưng lừa con. Có nhiều người trải áo và rải cành cây trên
lối Ngài đi để tỏ lòng tôn kính. Những tiếng reo hò vang dậy: Người ta
tung hô Đức Giêsu là Đấng Mêsia, là Vua thuộc dòng dõi Đavid, là Đấng sẽ
đến để giải phóng Israel. Đức Giêsu im lặng để dân chúng tung hô hầu ứng
nghiệm lời tuyên sấm: "Hãy bảo thiếu nữ Xion: Kìa Đức Vua của người đang
đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một
con vật chở đồ" (Dcr 9,9).
2. CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ: QUA ĐAU KHỔ VÀO VINH QUANG:
Sau những giây phút tưng bừng náo nhiệt này, chúng
ta được nghe bài thương khó: Chúa Giêsu hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua, hầu
mang lại ơn cứu độ cho loài người. Quả thực, Ngài là Vua, nhưng là Vua
Mục Tử: "Đến không đòi được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống
làm giá chuộc muôn người". Ngài đã chọn con đường cứu thế theo thánh ý
Chúa Cha là "qua đau khổ vào trong vinh quang", qua cuộc Tử Nạn để bước
vào mầu nhiệm Phục Sinh.
3. CON ĐƯỜNG SỐNG ĐỨC TIN HÔM NAY:
Từ hai biến cố trên, mỗi chúng ta phải sống đức tin
thế nào trong cuộc sống đời thường?:
- Không ai vô tội: Một trong những bức tranh nổi
tiếng nhất của hoạ sĩ REMBRADT thế kỷ 17, là bức họa "Ba Cây Thập Tự".
Khi chiêm ngưỡng tác phẩm này, hầu như ai cũng đều bị thu hút nhìn vào
trung tâm của bức tranh: Ở giữa hai cây thập giá của hai kẻ bất lương,
thập giá của Đức Giêsu vượt lên cao hơn. Dưới chân thập giá của Chúa là
cả một rừng người, trên mặt ai nấy đều lộ vẻ căm thù oán hận, trong đó
có cả khuôn mặt của nhà danh họa tác giả bức tranh... Qua đó ông muốn
nói rằng: Mọi người chúng ta không ai là không dính líu vào tội đã đóng
đinh Đức Giêsu vào thập giá.
- Phải luôn tự kiểm: Mỗi người chúng ta hãy tư kiểm
điểm: Nếu có mặt trong thời điểm xảy ra cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu hôm
đó, tôi có vác đỡ thập giá cho Chúa như ông Simon Kyrênê đã làm không?
Có biểu lộ đức tin và lòng sám hối như người trộm lành trên cây thập giá
không? Có can đảm đứng dưới chân thập giá để nhận những lời trăn trối
cuối cùng của Chúa như Mẹ Maria và môn đệ Gioan... hay không? Chúng ta
cũng đừng nghĩ rằng mình sẽ không chối Thầy như Phêrô, hoặc không hèn
nhát trốn chạy như các môn đệ, hay không bán Thầy như Giuđa, hoặc không
kết án bất công như Philatô, không hùa theo kẻ mạnh để đàn áp bắt nạt
người tấp cổ bé miệng như đám đông dân chúng, không đánh đòn và đóng
đinh tay chân Chúa Giêsu vào thập giá như bọn lính hung ác...
- Điều kiện theo Chúa: Đã hơn 2000 năm qua đi, tất
cả những gì xảy ra thời Đức Giêsu vẫn còn tiếp diễn. Mỗi người chúng ta
cũng được Đức Giêsu mời theo Ngài: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính
mình, váv thập giá mình hằng ngày mà theo" (Lc 9, 23). Vác thập giá hôm
nay chính là đ1on nhận những sự thử thách như bệnh tật, thất bại gặp
phải, những lời nói nhục mẠ bất công... Đó là những thập giá do Chúa cho
xảy đến để thử thách đức tin của ta và khích lệ ta theo Chúa đến cùng
- Làm gì trong cuộc sống hôm nay?: Trong tuần
Thánh, chúng ta hãy năng tham dự các lễ nghi Tuần Thánh tại Nhà thờ để
có dịp chiêm ngắm cuộc thương khó của Chúa hầu gia tăng lòng tin yêu để
luôn chọn đi theo con đường của Chúa: Con đường hẹp và leo dốc, con
đường khiêm nhu dấn thân và phục vụ tha nhân. Con đường này sẽ dẫn chúng
ta về tới thành thánh Giêrusalem trên trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết luôn tin cậy
bước đi theo Chúa, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan và ngàn lần
quảng đại hơn con. Xin cho con luôn dấn thân theo Chúa mà không tính
toán thiệt hơn, vượt qua mọi nỗi sợ hãi, can đảm lướt thắng những yếu
đuối, và biết phó thác trọn vẹn vào tình thương của Chúa. Ước gì khi gặp
phải những đau khổ thử thách, chúng con sẽ cảm nghiệm được tình Chúa
thương con và trung thành bước theo con đường của Chúa đến cùng.- Amen.
|