CHÚA GIÁNG SINH - Năm B
LỜI ĐÃ ĐẾN TRONG THẾ GIAN
Sưu tầm

Lễ Giáng Sinh tức lễ Nhập Thể cho thấy một sự tự ý hạ mình nào đó của Thiên Chúa. Để làm nổi bật sự tương phản giữa tất cả và hư vô. Chúng ta được mời hãy ý thức lại về thân phận thụ tạo của mình hãy thờ phụng Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta. Thiên Chúa là Đấng tự hữu, Người không được tạo thành- phần chúng ta, chúng ta đã được tạo thành. Vì thế, chúng ta phải suy tư và hành động theo chiều nghĩ: nhờ Thiên Chúa mà chúng ta có được mọi sự.

Ánh sáng rực rỡ đến từ mặc khải của Thiên Chúa, ngày nay được diễn tả qua vô số ánh sáng đủ màu mà chúng ta trang hoàng cho hang đá với lòng mến, sẽ giúp chúng ta chiêm ngắm biến cố sinh ra của Đức Giê-su ở chiều sâu và nhất là mời gọi chúng ta thực hiện cùng một kinh nghiệm thiêng liêng trong hành trình đi theo Đức Ki-tô của chúng ta, như thánh Gioan diễn tả trong phần mở đầu sách Tin Mừng của mình.

Con trẻ Giêsu là Ngôi Lời nhập thể đến cư ngụ giữa chúng ta. Đứng trước Hài nhi bé mọn ở Bêlem, chúng ta được mời tiến sâu vào chính mầu nhiêm Thiên Chúa, tới chỗ của Ngôi Lời – tức là Lời hằng sống và thân mật của Thiên Chúa đã có trước toàn thể vũ trụ. Như vậy chúng ta được mời hãy đến thờ lạy. Kẻ thờ phụng là kẻ khi được tới gần bên Thiên Chúa liền nhận thức sâu sắc rằng mình là kẻ tuỳ thuộc, vô giá trị, tội lỗi nữa. Kính thờ và thinh lặng, cảm tạ và vui sướng, đó là cách tuyên xưng Chúa là sự Thiện tuyệt đối và nguồn mọi ơn lành.

Mười tám câu đầu tiên của Tin Mừng thứ IV được nhiều học giả coi như là một Lời Tựa long trọng của tác phẩm: giọng văn của phân đoạn này cũng như các đề tài chính của Tin Mừng được hàm chứa trong đó biện minh cho nhận định này.

Đối với những tác giả khác, Lời Tựa là như phần Mở của Tin Mừng, theo nghĩa là một vở nhạc kịch có một phần mở: các đề tài chính sẽ được nhắc lại trong phần thân của Tin Mừng (sự sống, ánh sáng, sự thật, vinh quang, Con, tin, làm con Thiên Chúa, thế gian, bóng tối, v.v…).

Lại có những tác giả khác cho rằng Lời Tựa là một bản văn theo đúng quy luật viết văn thời Thượng Cổ Hy Lạp và Latin nhằm giúp độc giả hiểu các mục tiêu của bài tường thuật đến sau, nghĩa là cung cấp cho độc giả các phương tiện giúp họ biết được đối tượng và diễn tiến của bài tường thuật.

Cuối cùng, có một số tác giả cho rằng các câu 1-18 còn hơn là một lời tựa hay một phần mở nữa; các câu ấy chính là Tin Mừng trong một cái nhìn tổng hợp và sâu sắc, tất cả phần còn lại chỉ lấy lại sứ điệp mà diễn tả chi tiết bằng những câu truyện, qua đó ta thấy Ngôi Lời đã đến trong thế gian này và chia loài người thành hai khối trước mặt Người cách nhiệm mầu.

Thiên Chúa nói với chúng ta về tình yêu của Người bằng cách gửi Lời Ngài đến với chúng ta. Lời Thiên Chúa đã trở thành người phàm giống như chúng ta; Người đã nói một ngôn ngữ nhân loại, và đã kể cho chúng ta về Cha của Người, nói về cách Người nghĩ về chúng ta, và các chương trình Người lập ra cho chúng ta. Để biết Chúa Cha, tất cả những gì chúng ta phải làm là nhìn Chúa Kitô, xem những gì Người làm, lắng nghe những gì Người nói và dạy, nhìn xem những con người mà Người quan hệ với, nơi và những người mà Người đến chia sẻ bữa cơm với, những người mà Người chọn để cộng tác với Người.

Đức Kitô là Ánh sáng. Người là Sự Sống, và sự sống là Ánh sáng nhân loại. Thờ phụng cách linh hoạt giống như tâm hồn tiến bước trên đường tới đích là Thiên Chúa. Phải được soi sáng mới khỏi lạc đường. Đức Kitô- Anh sáng soi sáng trí tuệ con người và chỉ con người thấy đường đi của số mệnh.

Ánh sáng và sự sống liên kết với nhau. Kẻ thờ các ngẫu tượng (khoái lạc, danh vọng, tiền của, thế gian) thì dò dẫm trong bóng tối linh hồn, và hiến mình cho những vật chết. Cách vô hình, và nhiều phen thật bất hạnh cho y, kẻ ấy liên kết trong tâm hồn bóng tối và sự chết. Trái lại, người nào tiếp nhận ánh sáng, tức quy tắc về Chân Lý, do niềm tin vào Đức Kitô phát ra, người ấy liên kết trong tâm hồn Ánh sáng và sự sống.

Khi chiêm ngắm Lời Thiên Chúa, Đấng diễn tả trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa và mạc khải chính Thiên Chúa ra cho loài người, để họ tin và được cứu độ, chúng ta cũng được mời gọi nhìn lại và lượng định kinh nghiệm của chúng ta về khả năng “nói” của loài người (như là thông giao, diễn tả sự tin tưởng, khuyến khích, trân trọng, v.v…) và về “sự thinh lặng” (do cần thiết, do bị câm, do thiếu quan tâm, do hiềm khích v.v…).

Các Kitô hữu cũng được thúc bách nhìn lại: chúng ta có chăng khả năng nhận ra được là nhiều lần chúng ta bị bóng tối vây hãm. Chúng ta phải tự hỏi: Điều gì ngăn cách giữa tôi và Đấng tạo thành tôi, điều gì đang che phủ Ngài, khiến tôi không nhận ra Ngài và ngăn cản tôi đi vào thông hiệp sống động với Ngài? Dường như chúng ta còn đang bị cám dỗ thấy có nhiều điều đáng quan tâm hơn, quan trọng hơn, thuyết phục hơn và hứa hẹn hơn là việc đón tiếp Thiên Chúa, Đấng tự hiến ban chính mình! Đàng khác, nếu Chúa Cha yêu thương chúng ta đến như thế, tại sao chúng ta lại không yêu thương nhau?

Ta hãy tiếp tục chiêm ngắm « Hài Nhi sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ », nhưng lần này, chúng ta sẽ chăm chú lắng nghe, với đôi tai và con tim của Đức Maria, lời của thánh Gioan, « Người Môn Đệ Đức Giê-su thương mến », nói về mầu nhiệm Giáng Sinh.

          Lễ Giáng Sinh mời chúng ta đến thờ lạy Con trẻ Giêsu. Trong Hài Nhi, Thiên Chúa rất gần gũi – trong Hài nhi có sự sung mãn của Thiên Chúa – và nhờ Hài nhi, chúng ta được có mặt trên thế gian để sống, hiểu biết và yêu thương. Sự suy niệm về một vài từ ngữ trong tự ngôn của thánh Gioan có thể cung cấp cho chúng ta một phong cách thờ phụng.