Chúa Nhật II mùa vọng  - Năm A
GIOAN TIỀN HÔ
SƯU TẦM

Để hiểu được vai trò và sứ mạng của Gioan tiền hô, chúng ta hãy nhìn vào bối cảnh xã hội của người Do Thái thời bấy giờ.

Thực vậy, thời bấy giờ là thời đô hộ của đế quốc La mã, thời ra oai tác quá của Hêrôđê, thời dân Do Thái tìm mọi cách để được giải phóng.

Giữa lòng dân tộc và đặc biết tại thủ đô Giêrusalem, nhiều phe nhóm đã được hình thành với những khuynh hướng và lập trường khác biệt nhau.

Trước hết là nhóm Biệt phái. Nhóm này phát sinh từ thời Macabêô, qui tụ chừng sáu ngàn người, trong đó có một vài tư tế, các tiến sĩ luật, ký lục và thường dân. Nhờ trung thành với lề luật và truyền thống của cha ông, họ trở nên những nhà lãnh đạo tinh thần của dân chúng. Do đó, họ có một ảnh tưởng đáng kể về phương diện tôn giáo và luân lý. Riêng trong lãnh vực chính trị, họ bênh vực sự tự trị của dân tộc Do Thái và tỏ ra dè dặt đối với việc tiếp xúc với người La mã.

Bên cạnh họ là nhóm Sađucêô, con cháu của Sađốc, vị thượng tế thời Salomon. Vì thế họ làm thành phái các tư tế vì qui tụ những gia đình tư tế khá giả. Họ chấp nhận các phong tục Hy Lạp và thích nghi với chế độ thống trị của đế quốc La Mã. Về phương diện tôn giáo, họ chối bỏ truyền thống và niềm tin về sự sống lại, sự hiện diện của các thiên thần cũng như sự quan phòng của Thiên Chúa.

Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải ghi nhận nhiều khuynh hướng cực đoan, chẳng hạn nhóm Zélote, là một đảng phái chính trị và tôn giáo quá khích, được Giuđa người xứ Galiêa thành lập vào năm thứ sáu với ước vọng hình thành một quốc gia thần quyền, trong đó chỉ mình Đức Giavê mới là vua dân Do Thái, đồng thời chủ trương dùng bạo lực để bẻ gẫy ách thống trị của đế quốc La mã. Họ từ chối đóng thuế và lánh vào hoang địa để chuẩn bị một cuộc thánh chiến. Và cuộc thánh chiến này đã bùng nổ vào năm 66.

Ngược lại, những người phái Esseni cũng vào hoang địa, nhưng để âm thầm sửa soạn cho một cộng đồng thiên sai của giao ước.

Chính trong môi trường đa diện ấy, khuôn mặt Gioan xuất hiện như một con người đang cực lực kêu gọi toàn dân Israel hãy ăn năn sám hối và quay trở về cùng Thiên Chúa.

Vậy lời kêu gọi của ông có ý nghĩa gì?

Đối với Gioan, lời kêu gọi ấy xác quyết rằng:

- Sự nong chờ của toàn dân đã đến ngày toại nguyện.

Cũng như những người đương thời, ông tin rằng:

- Niềm chờ mong sẽ được toại nguyện khi Đấng Thiên sai xuất hiện, Đấng mà ông giới thiệu như vị thẩm phán của thời sau hết…

Thực vậy, giữa thời Gioan rao giảng và thời sau hết, giữa lúc bấy giờ và ngày cuối cùng chỉ còn chỗ cho một biến cố duy nhất, đó là việc quang lâm của Đấng sẽ đến để chấm dứt mọi sự.

Cũng như các vị tiên tri đi trước, Gioan tố cáo sự giả hình và thái độ tự mãn của người Do thái chỉ vì mình là con cháu Abramham.

Thế nhưng, đức tin không phải là một di sãn của giống nòi, của chủng tộc, nhưng là một cuộc dấn thân đích thực, một cuộc tự đặt lại vấn đề không lúc nào nguôi.

An phận trong ơn gọi là một cạm bẫy không ngừng đối với dân Do thái,trong lúc sự hối cải đích thực đòi hỏi phải luôn canh tân và đổi mới.

Thái độ của người Do thái phải chăng cũng là thái độ của chúng ta, những người luôn tự hào:

- Tôi là người đạo gốc, tôi là người đạo dòng, tôi giữ đạo từ bé, tôi luôn thuộc về Giáo Hội, tôi xưng tội rước lễ thường xuyên và như vậy đã bảo đảm cho tôi phần rỗi linh hồn.

Gioan trả lời:

- Không phải là như thế.

Chính Chúa Giêsu cũng xác quyết:

- Thiên Chúa có thể biến những hòn đá trở nên con cháu Abraham…Và như vậy trong ngày sau hết, con cháu trong nhà sẽ bị loại ra ngoài.

Thực vậy, danh hiệu người có đạo mà thôi không đủ để miễn cho chúng ta bổn phận phải sám hối ăn năn, phải uốn nắn sửa đổi những thói hư tật xấu, nhờ đó thăng tiến bản thân và đổi mới cuộc đời. Bởi vì sống là bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, chúng ta sẽ bị dòng nước là những đam mê tội lỗi cuốn trôi.