Chúa Nhật XXX thường niên - Năm A |
ĐIỀU RĂN TRỌNG NHẤT |
JKN |
Câu hỏi gợi ý: 1. Theo tinh thần
của Đức Giêsu, thì trong hai điều răn quan trọng nhất ấy, điều răn nào
quan trọng hơn? Phải ưu tiên sống điều răn nào? 2. Tại sao thánh
Phao-lô tóm toàn bộ lề luật vào một điều răn duy nhất: «Ai yêu người,
thì đã chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8)? Ngài bỏ điều răn yêu Chúa sao? 3. Nếu bạn là một
người cha đông con, đồng thời là người cha tốt lành không chút vị kỷ,
bạn muốn con cái yêu thương mình bằng cách nào?
CHIA SẺ
1. Hai điều răn trọng nhất của Do Thái giáo và Kitô giáo Người khôn ngoan
thì trong mọi lãnh vực luôn luôn phân biệt điều chính và điều phụ, điều
cốt lõi và điều «bì phu», điều cần thiết và điều ích lợi, điều quan
trọng và điều không quan trọng. Phân biệt như thế không phải để chỉ làm
điều chính và bỏ điều phụ, mà để khi không thể làm được cả hai, thì phải
ưu tiên cho điều chính. Vì điều chính là yếu tố quyết định thành công,
không thực hiện nó thì chắc chắn sẽ thất bại. Còn điều phụ, nếu làm được
thì rất tốt, rất ích lợi, có thể làm cho sự thành công rực rỡ hơn, nhưng
không làm được thì cũng vẫn có thể thành công. Trong việc giữ
đạo và nên thánh, chúng ta cũng cần biết điều nào là cốt tủy, là quan
trọng nhất; nếu không giữ điều này thì coi như chưa phải là giữ đạo, và
không thể nên thánh, cho dù có giữ những điều phụ thuộc một cách thật
hoàn hảo. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết, giữa biết bao giới
răn, thì giới răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Đó là cốt
tủy của lề luật: «Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc
vào hai điều răn ấy». Nếu giữ đạo mà không phân biệt điều nào chính điều
nào phụ, thì chúng ta dễ giữ đạo theo «kiểu Pha-ri-siêu» đã bị Đức Giêsu
tố cáo: «Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ
những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng
chân thành» (Mt 23,23); «Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc
đà» (23,24). Hướng dẫn người khác giữ đạo và nên thánh mà không phân
biệt chính phụ, thì dễ trở thành «những kẻ dẫn đường mù quáng» (23,16).
Do đó, bài Tin Mừng hôm nay có tầm quan trọng đặc biệt cho mọi Kitô hữu
muốn giữ đạo và nên thánh.
2. Hai điều răn tóm lại thành một điều răn: «yêu thương» Cũng trong chiều
hướng tìm cái chính yếu, ta có thể tiếp tục đặt vấn đề: trong hai điều
răn ấy, điều răn nào quan trọng, chính yếu hơn? Phải nói đây là
hai giới răn rất đặc biệt, có vẻ là hai giới răn khác nhau, nhưng thật
ra chỉ là hai cách diễn tả khác nhau của một giới răn duy nhất. Cả hai
giới răn chỉ có một động từ duy nhất là «yêu», đối tượng của động từ
«yêu» này có vẻ là hai đối tượng khác biệt nhau: tuy có thể phân biệt rõ
rệt trên lý thuyết, nhưng trên thực tế và thực hành thì dường như không
thể phân biệt, và không nên phân biệt. Vì thế, hai điều răn ấy «tuy hai
mà một», tương tự như hai trang của cùng một tờ giấy: tuy là hai mặt
khác nhau, nhưng chỉ là một tờ giấy duy nhất. Thật vậy, rất
nhiều lời trong Thánh Kinh cố tình đồng hóa Thiên Chúa với
tha-nhân-của-chúng-ta. Cụ thể nhất là trong đoạn nói về cuộc phán xét
cuối cùng (x. Mt 25,31-46), Đức Giêsu đồng hóa chính Ngài với tha nhân,
đặc biệt những người đau khổ, nhỏ bé, bị khinh thường, áp bức: «Ta bảo
thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em
bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta», và «mỗi lần
các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây,
là các ngươi đã không làm cho chính Ta». Tại sao thế? Vì
con người là «hình ảnh của Thiên Chúa» (St 1,26-27; 9,6). Có ai yêu một
người mà lại không yêu bức ảnh của người ấy không? Ta thấy những cặp
tình nhân, khi không có mặt nhau, thường hôn lên ảnh của nhau. Hơn thế
nữa, con người là con cái của Thiên Chúa: ngay khi được tạo dựng, con
người đã được Thiên Chúa yêu thương và nâng lên hàng con cái Ngài (x. Kn
5,5; Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,16). Và Ngài yêu quí con người đến mức,
sau khi họ sa ngã, Ngài đã cho Con Độc Nhất của Ngài xuống trần, chịu
đau khổ và chết để cứu chuộc họ (x. Ga 13,1; Rm 5,6-8; 14,15b; 1Cr 15,3;
2Cr 5,15; 1Tx 5,10; 1Pr 3,18). Do đó, ai yêu Thiên Chúa, tất nhiên cũng
phải yêu con cái của Ngài, những người mà Ngài hết mực yêu thương: «ai
yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra»
(1Ga 5,1). Như vậy, tha nhân
bên cạnh và chung quanh chúng ta chính là hiện thân cụ thể và gần gũi
chúng ta nhất của chính Thiên Chúa. Vì thế, yêu những người ấy là yêu
chính Thiên Chúa, và không yêu họ chính là không yêu Ngài. Người Kitô
hữu có đức tin đích thực phải nhìn thấy chính Thiên Chúa ở nơi những
người mình gặp hằng ngày, và yêu Ngài ở nơi họ. Không thể yêu Ngài ở nơi
một ai khác chính đáng hơn nơi tha nhân. Chính vì thế, thánh Gio-an mới
nói: «Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình,
người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông
thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1Ga
4,20). Do đó, «ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em
mình» (4,21). Quả thật, không
phải là phi lý mà thánh Phao-lô và Gia-cô-bê đã tóm lại toàn bộ lề luật
không còn vào hai giới răn, mà vào một giới răn duy nhất: «Anh em hãy
mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô» (Gl
6,2); «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8); «Các điều răn
đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.
(...) Yêu thương là chu toàn Lề Luật» (13,9-10); «Luật Kinh Thánh được
đưa lên hàng đầu là "Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình"» (Gc
2,8). Không những ta phải yêu thương những người chung quanh mình, hy
sinh cho họ, mà còn phải làm sao để họ cũng sống yêu thương và thúc đẩy
nhau sống yêu thương nữa: «Chúng ta hãy để ý đến nhau, làm sao cho người
này thúc đẩy người kia sống yêu thương và làm những việc tốt» (Dt
10,24).
3. Thực hiện việc yêu Thiên Chúa bằng việc yêu tha nhân Để dễ hiểu những
điều trên, ta hãy xét trường hợp của một người cha rất giàu có, rất khỏe
mạnh, không thiếu thứ gì, cũng không cần thứ gì cả. Người cha ấy có một
đàn con đông đảo, nhưng vì lỗi của chúng nên chúng trở nên nghèo nàn,
đau khổ, thiếu thốn. Nguyên nhân gây nên tình trạng đau khổ ấy là chúng
không biết yêu thương. Người cha ấy đã tìm đủ cách để đàn con hạnh phúc
hơn, bằng cách giáo dục để chúng có nhiều tình thương hơn, vì một khi
chúng biết yêu thương thì tất nhiên và tự nhiên hạnh phúc sẽ đến với
chúng. Thử hỏi người cha ấy mong mỏi gì nơi đàn con? Chắc chắn là mong
chúng yêu thương nhau (x. Ga 13,34-35). Có một đứa con
kia mong cha ban cho mình của này vật nọ, nên chỉ biết nghĩ đến cha,
mong hầu hạ cha, lo cho cha từng chút, đang khi cha đã quá đầy đủ, chẳng
cần ai lo cho mình một thứ gì. Ngược lại, đối với những anh em ruột thịt
bên cạnh mình đang đau khổ và thiếu thốn, đang cần được chăm nom săn
sóc, thì người ấy chẳng thèm đoái hoài đến. Thử hỏi người cha ấy có hài
lòng về cách xử sự của người con ấy không? Cách xử sự như thế có hợp lý
không? Nếu ta là người cha ấy, ta sẽ nghĩ gì về đứa con ấy, ta muốn nó
xử sự thế nào? Nếu ta là người
cha ấy, chắc chắn điều ta mong mỏi nhất là thấy con cái mình yêu thương
nhau, lo cho nhau, hy sinh cho nhau, và hễ chúng làm được điều ấy, thì
ta sẽ hài lòng vô cùng, vì tình thương của chúng đối với nhau sẽ làm cho
chúng hạnh phúc, là điều ta mong muốn nhất. Ta nghĩ rằng chính những đứa
biết yêu thương anh em mình một cách vô vị lợi mới là những đứa con hiếu
thảo, vì chúng có tình thương đích thực. Vì nếu anh em chúng nghèo khó
và khó thương mà chúng còn thương được, ắt chúng phải thương yêu cha
chúng hơn nhiều. Còn những đứa chỉ nghĩ tới cha mình giàu có, nên lo
chăm chút cho cha đang khi cha chẳng cần điều đó, mà chẳng hề nghĩ đến
anh em mình, thì tình thương của chúng đối với cha rất đáng nghi ngờ. Có
thể chúng chỉ yêu bản thân chúng mà thôi, còn việc chúng chăm chút đến
cha có thể chỉ là một chiến thuật cầu lợi theo sự khôn ngoan ích kỷ của
chúng. Minh họa trên cho
thấy chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa bằng cách nào. Có thể nói điều răn
quan trọng nhất chính là «yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và
hết trí khôn». Nhưng phải thể hiện tình yêu ấy thế nào cho phù hợp với ý
của Thiên Chúa? Qua giáo huấn của Đức Giêsu, ta thấy cách tốt nhất để
thể hiện tình yêu của mình đối với Thiên Chúa chính là thực hiện điều
răn thứ hai: «yêu người thân cận như chính mình». Đức Giêsu đã làm gương
về điều ấy. Ngài chết trên thập giá vì yêu thương con người, đồng loại
của Ngài (với tư cách Ngài là một con người), nhưng cái chết ấy chính là
lễ hy sinh để thờ phượng Thiên Chúa được Thiên Chúa đánh giá cao nhất.
Vậy cách thờ phượng Thiên Chúa, yêu mến Thiên Chúa tốt nhất chính là yêu
thương những người người chung quanh mình, những người mình gặp hằng
ngày, và hy sinh bản thân mình cho họ.
Cầu nguyện Tôi nghe Thiên
Chúa nói với tôi: «Cha là Thiên Chúa, Cha không cần và không thiếu một
thứ gì. Vậy thì con yêu Cha cách nào đây? Nếu con muốn yêu Cha cách thực
tế, con hãy yêu Cha nơi những người sống chung quanh con, họ chính là
hiện thân của Cha ở bên cạnh con. Con yêu họ, chính là con yêu Cha, và
đó là cách tốt nhất để con tỏ lòng hiếu thảo đối với Cha». |