Chúa Nhật XXII thường niên - Năm A
NGHỊ LỰC CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO
PHÁT XUẤT TỪ ĐÂU?
Achille Degeest

Sau khi đã làm vài phép lạ lẫy lừng, trong đó có phép lạ hóa bánh ra nhiều và sau lúc đã khiêu khích Phêrô tuyên bố: “Thày là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu cho rằng các môn đệ đã có thể nghe được những lời tiên báo đầu tiên về cuộc Khổ nạn của Người, Người biết là các môn đệ sẽ không hiểu một cách rõ rệt, nhưng họ cũng sẽ nhận ra ý nghĩa các lời Người vừa đủ để hứng chịu một sự xung đột não trạng của họ, khiến họ trông cậy vào một Đức Kitô làm vua với nhiều đắc thắng trần thế. Não trạng ấy sẽ bám chặt lấy trí óc của các ngài cho đến ngày Chúa sống lại. Cần phải có ngày Hiện xuống để mở lòng họ, giúp họ nhận biết Chúa Giêsu cách đích thật. Trong lúc chờ đời, Chúa đã chuẩn bị họ đón nhận một sự mạc khải làm họ hoang mang nhiều nhất: Ngài, Đức Giêsu, sẽ chịu đau khổ, sẽ chết và sẽ sống lại, phản ứng tức thời của họ không có hơi hướng đề phòng. Họ đã phát biểu qua tiếng nói của Phêrô: ‘Điều đó, lạy Chúa, không thể nào có được’. Chúa Giêsu trả lời như Người đã trả lời với ma quỷ trong sa mạc: ‘hãy đi xa khỏi mặt Ta’. Chúa Giêsu nghĩ tới cái định mệnh sẽ dẫn Người đến thập giá, Người áy náy sợ hãi. Bởi lẽ Người sợ hãi nên Người cực lực bác bỏ những gì cám dỗ Người thay đổi ý hướng. Người nhất định gìn giữ nguyên vẹn sự gắn bó của Người với tư tưởng của Thiên Chúa, tức là với ý muốn của Cha Người. Tất cả những gì đi ngược lại hiện ra như một sự cám dỗ và Người cự tuyệt một cách dứt khoát. Trước lúc hấp hối trong vườn cây dầu Chúa Giêsu đã trải qua nhiều cuộc chiến đấu trong bản tính nhân loại của Người. Đọc qua chúng ta nên lưu ý đến tính hay thay đổi của lòng người như các môn đệ đã cho thấy. Sau khi tuyên xưng đức tin: “Thày là Đức Kitô”, các môn đệ đã từ chối không chấp nhận điều mà Chúa Kitô nói với họ.

1) Tại sao Đức Giêsu lại tỏ ra quyết liệt trước mắt các môn đệ là những người có ý ngay lành và lòng tốt nên tìm cách thay đổi ý hướng Người trên con đường đưa tới cuộc Khổ nạn? Bởi vì nơi Người là Con Thiên Chúa, thánh ý Thiên Chúa khiến ý muốn của loài người vượt qua những giới hạn riêng của mình. Mầu nhiệm về con người của Chúa Kitô là Đấng vừa là người vừa là Thiên Chúa, không thể nào chúng ta hiểu thấu được. Nhưng người ta có thể nghĩ rằng cái nghị lực của Chúa do bản tính Thiên Chúa của Người đã hiến cho Chúa Giêsu một cường độ đặc biệt trong ý muốn nhân loại của Người, cũng như sự nhã nhặn thiêng liêng đã hiến cho cảm giác của Người một khả năng vô biên để chịu đau khổ. Không biết chúng ta có suy nghĩ cho đủ rằng sự trung thành với đời sống công giáo chỉ có thể có nếu chúng ta thông công với nghị lực thiêng liêng của Chúa Giêsu? Riêng chúng ta, chúng ta bị đặt trước mọi cơn cám dỗ, có những cơn cám dỗ gây ra do sự yếu đuối của chúng ta và những cơn cám dỗ từ bên ngoài vào kể cả từ phía ma quỷ. Chúng ta chỉ có thể xua đuổi một cách mạnh mẽ, nếu chúng ta thông phần vào sức mạnh của chính Chúa Kitô qua lời cầu nguyện, qua các phép bí tích và qua đức bác ái.

2) Tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa nhưng là của loài người. Câu trả lời nghiêm khắc của Chúa Giêsu đối với thánh Phêrô làm chúng ta phải suy nghĩ. Nó đặt ra vấn đề đức tin xác thực. Thực vậy theo lẽ thông thường và cũng là điều Thiên Chúa mong muốn chúng ta phải suy nghĩ về đức tin. Một đức tin ý thức và sống động phải là một đức tin được đón nhận cách sáng suốt. Nơi nhiều người trong thế giới của chúng ta hiện nay, đức tin tiến triển trong sự tìm kiếm. Lúc đó một câu hỏi được đặt ra là liệu khi suy nghĩ về đức tin, chúng ta có khuynh hướng thu hẹp đức tin trong cách thức suy nghĩ của loài người hay là chúng ta biết lo lắng để uốn nắn cách thức suy nghĩ của loài người cho phù hợp với lời giáo huấn, với luật lệ và lý tưởng của đức tin? Chúng ta đang sống trong một thời kỳ mà ngay cả trong Giáo Hội người ta thích những tư tưởng của loài người, hơn là tư tưởng của Thiên Chúa. Xin cứ nhìn nhận đó là một sự cám dỗ muôn đời. Điều ấy có nghĩa là các Kitô hữu của mọi thời đại, kể cả các Kitô hữu ngày nay, đã và đang phải chống lại sự cám dỗ.