Chúa Nhật V thường niên - Năm A
MUỐI VÀ ÁNH SÁNG
 

"Chính anh em là muối cho đời,

chính anh em là ánh sáng cho trần gian"

(Mt 5,13.14)

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy trở nên “muối cho đời”“ánh sáng cho trần gian”. Bằng hai hình ảnh rất quen thuộc này, Chúa Giêsu đã phác họa luật sống cho con cái mình, để họ làm chứng cho Chúa giữa anh em đồng bào, đồng loại.

Muối là gia vị cần thiết nhất để ướp thực phẩm khỏi hư thối và để làm đồ ăn thêm đậm đà. Thánh Phaolô căn dặn tín hữu Colosê: “Lời nói của anh em phải luôn mặn mà dễ thương, để anh em biết đối đáp sao cho phải với mọi người" (Col 4,6).

Nếu muối cần để ướp thực phẩm khỏi hư thối và làm cho đồ ăn thêm đậm đà, thì ánh sáng còn cần cho sự sống mọi loài hơn nữa. Không có ánh sáng, vũ trụ này sẽ tối tăm, con người như mù lòa và muôn vật sẽ mất hết màu sắc tươi đẹp của chúng. Không có ánh sáng, mọi loài sẽ chết dần chết mòn.

Khi Chúa Giêsu nói: Chính anh em là muối cho đời là ánh sáng cho trần gian, Ngài muốn nói gì?

Muối cho đời!

Khi sánh ví ngưới Kitô hữu với muối, Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ của Người một trách nhiệm rất quan trọng. Muối là một sản phẩm không thể thiếu trong đời sống của con người.

Muối vừa làm phân bón cho đất đai màu mỡ với chất sodium của nó; vừa làm gia vị cho các món ăn thêm thơm ngon, đậm đà; vừa bảo quản thực phẩm cho khỏi hư thối; vừa dùng làm vị thuốc chữa bệnh cho con người.

Nếu muối rất cần thiết trong sinh hoạt của cuộc sống, thì người Kitô hữu cũng đóng một vai trò quan trọng trong môi trường xã hội: Họ phải là những thỉnh nguyện viên bảo vệ môi trường khỏi những ô nhiễm của xấu xa, tội lỗi. Đồng thời, họ cũng phải làm cho cuộc đời của những người chung quanh bớt vô vị, nhạt nhẽo, nhưng luôn đậm đà thắm tình yêu cuộc sống và tình người. Thánh Phaolô dạy: “Lời nói của anh em phải luôn luôn mặn mà dễ thương" (Cl 4,6).

Ánh sáng cho trần gian. Thực ra, chỉ có Thiên Chúa mới là ánh sáng (1Ga 1,5) và chỉ có Đức Giêsu mới dám nhận mình là ánh sáng: "Tôi là ánh sáng của thế gian" (Ga 8,12). Chính xác hơn, Chúa chính là Nguồn Ánh Sáng, là Mặt trời, nguồn năng lượng duy nhất và cần thiết cho mọi năng lượng. Không có mặt trời sẽ không có màu sắc, vẻ đẹp, thảo mộc, sinh vật, và con người. Mặt trời chính là hình ảnh đẹp nhất về Thiên Chúa. Cội nguồn của mọi sự sống. Thế mà hôm nay, Chúa đã tuyên phong cho con người yếu hèn, tội lỗi, bệnh tật, khổ đau là ánh sáng: “Chính anh em là ánh sáng cho thế gian". Quả thật, cho dù là những tín hữu rất ngoan đạo, chúng ta cũng chỉ có thể phản chiếu ánh sáng của Chúa, nghĩa là chúng ta để cho ánh sáng của Người xuyên qua và tỏa sáng trong cuộc đời chúng ta. Thánh Phaolô viết: "Thiên Chúa đã phán ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm! Người cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bày cho thiên hạ biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên khuôn mặt Đức Kitô” (2 Cr 4,6).

Nếu Chúa đã gọi chúng ta là "muối" là “ánh sáng” thì thật là vinh dự cho chúng ta, vì Người đã nhìn nhận nơi chúng ta một giá trị cao quí. Muối quý giá đến nỗi người ta phải dùng muối để phát lương. Vì thế, mới có từ "Salarium trong tiếng Latinh và từ "Salary” trong tiếng Anh.

Nếu "muối” và "ánh sáng” đã trở nên hữu ích như thế, thì "muối” không thể ra nhạt để thành vô dụng, và "ánh sáng" không thể đặt dưới đáy thùng để ra vô ích. Nhưng hãy là "muối" ướp mặn cho đời là “ánh sáng” soi chiếu cho trần gian.

Nếu "muối" ướp cho đời, "muối” phải biết chấp nhận hòa tan, biến mình đi trong chất mặn vị kỷ, để hiến dâng cho đời hương vị thơm ngon, mặn nồng của quảng đại, vị tha.

Nếu "ánh sáng" chiếu soi trần gian, “ánh sáng” phải ở trên cao, vượt trên mọi danh vọng, tiền tài, lạc thú. Không phải để khoe khoang, tư kiêu, nhưng là để "tôn vinh Cha, Đấng ngự trên trời" (Mt 5,16).

Tại một giáo xứ nọ, có một người đàn ông bán thân bất toại. Mỗi buổi sáng, bà vợ đặt ông vào chiếc ghế bành ngoài hiên nhà, để ấm nước chiếc ly bên cạnh rồi đi làm thuê trưa mới về. Ông bà lại không có con cái cháu chắt. Gia đình ông bà không phải là người Công giáo. Hay tin, cha sở thỉnh thoảng ghé thăm ông. Ngài khuyên giáo dân đến thăm ông và giúp đỡ ông. Những lúc nghỉ học, một số em ở gần nhà ông đến thăm ông, đọc sách cho ông nghe. Các hội đoàn cũng đến thăm. Mỗi tuần, cha sở nhờ một bác sĩ tình nguyện đến thăm bệnh cho ông. Lễ Giáng sinh năm đó, ông ngỏ ý:

- Thưa cha, xin cha cho tôi rước lễ.

Cha sở ngạc nhiên vì ông chưa học giáo lý, chưa rửa tội mà.

Ông thưa :

- Trước đây con chưa biết Chúa, nhưng ít lâu nay cha và anh em giáo hữu tốt với con quá, nên con thấy hạnh phúc như được gặp Chúa rồi. Chỉ có Chúa mới làm cho anh em giáo hữu và bác sĩ đã bỏ công bỏ sức đến giúp đỡ người xa lạ và bệnh hoạn như con đây.

Mỗi người chúng ta cũng được Chúa Kitô mời gọi làm muối cho đời, làm ánh sáng cho trần gian. Một nụ cười thân ái, một cử chỉ chào hỏi thân tình, ít phút viếng thăm trò chuyện vui vẻ với nhau... đó là chút muối ướp cho đời đỡ giá lạnh, bớt hận thù ghen ghét. Một sự từ chối làm điều xấu như theo bạn bè xem phim xấu, rượu chè say sưa, bài bạc, cố gắng làm gương tốt cho vợ con, cháu chắt về việc đạo đức, yêu thương tham gia việc chung... Đó là ít tia sáng soi giữa đêm tối lười biếng, ích kỷ, ưa hưởng thụ này.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa gọi chúng con là “muối" và “ánh sáng, có nghĩa là Chúa phong chức cho chúng con, để chúng con lên đường truyền giáo. Xin cho những bước chân chúng con đi tới, đều rộn rã tiếng cười, nồng nàn tình yêu thương, và thắm đậm tình con người. Amen.

 

CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN A

Mt 5,13-16

Thiếu nhi chúng con yêu quí của cha.

Chúng con vừa nghe lài Tin Mừng rất quen thuộc.

Ai cho cha biết hôm nay Chúa nói với chúng ta về vấn đề gì nào?

- Chúa bảo chúng con là muối cho đời là ánh sáng cho thế gian.

- Rất đúng! Chúng con giỏi, cha khen chúng con.

1. Trước hết chúng ta nói với nhau về muối.

- Chúng con có biết muối để làm gì không?

- Muối để ướp mặn, để giữ thức ăn khỏi ươn thối, không có muối đồ ăn sẽ mau hư và nhièu khi trở thành thối không còn dừng được nữa. Ngoài ra muối còn để ướp đồ ăn làm cho thức ăn trở thành có hương vị. Chúng con có thấy mấy người bệnh bác sĩ cấm ăn mặn bao giờ chưa? Họ đã khó chịu như thế nào khi phải ăn lạt. Bản thân chúng con cũng vậy, khi phải ăn những món ăn thiếu đặm đà vì không có muối chúng con có thấy ngon không?

Đó chúng con thấy muối có vai trò như thế. Bởi vậy khi Chúa "phong cho" chúng ta là muối Chúa muốn chúng con phải làm gì?

Là muối thì phải giữ cho thế gian này không bị hư đi, phải làm cho cuộc sống chúng ta đang sống có hương vị đậm đà hơn.

Chúng con nghe câu chuyện này. Hơi khó hiểu một chút nhưng rất nay:
Trong tác phẩm "Phép lạ hằng ngày" (nhà xuất bản tác phẩm mới của hội nhà văn Việt Nam, 1982, trang 31), thi sỹ Rober Rotdex Treusky, người Liên Xô đã tả về con sông như sau:

"Con sông chảy mạnh và nhanh tôi đứng nhìn, phải hỏi:

- Ê, sông kia, đi đâu, vội đi đâu vậy?

- Tôi ra với biển xanh -sông nói-

- Nhưng lúc ấy sông sẽ không còn là sông nửa!

- Vâng, tôi biết. Đời của tôi là như thế!

- Tôi chết, nhưng tôi cần, rất cần cho đời thêm đẹp đẽ.

- Còn anh?

Khi hòa mình vào biển khơi bao la, con sông xanh tưởng chừng như đã chết, nhưng thực ra không một giọt nước nào của nó mất đi. Trái lại, những rác rưởi, những bẫn thỉu, nhơ nhớp của nó được chất muối mặt của biển khơi thanh tẩy, lắng đọng. Rồi hơi nước từ biển khơi bốc lên thành mây, mây làm mưa trả lại cho nguồn sông dòng nước thanh khiết từ trời.

Ý muốn của con người như dòng sông, được thanh tẩy khi biết hoà mình vào Ý Muốn của Thiên Chúa, là nguồn mạch Chân Thiện Mỹ và Tình yêu. Do đó, ý muốn hèn kém của con người sẽ được tăng thêm cường độ trong ý muốn toàn năng của Thiên Chúa và thay vì đánh mất chính mình, con người lại được tinh luyện chính con người thực sự của mình!

2. Bây giờ cha nói về ánh sáng.

Chúng con có thấy ánh sáng không nào?

- Có cha?

- Vậy ánh sánh để làm gì nào?

 

Lần kia, Solovies, một nhà triết học người Nga đến thăm một tu viện, và sau buổi kinh tối, ông đã say sưa đàm đạo với một tu sĩ kéo dài mãi tới đêm khuya. Khi hai người đã mệt mỏi, Solovies mới từ giã vị tu sĩ để đi về phòng mình, nhưng đi được mươi bước Solovies mới chợt tỉnh thấy mình đã đứng giữa hành lang với những cửa dày đóng kín, cửa phòng nào cũng y như nhau. Trong bóng tối dày đặc, triết gia không còn biết làm sao để về phòng mình nữa. Quay chân trở lại ông cũng không còn nhớ chắc phòng vị tu sĩ mình vừa đàm đạo ở đâu.

Đang tiến thoái lưỡng nan, Solovies chợt nhớ lại luật giữ thinh lặng một cách tuyệt đối trong đêm khuya. Vì thế ông không dám gõ cửa bất cứ phòng nào để nhờ một tu sĩ dẫn về phòng mình. Không còn sự chọn lựa nào khác hơn và với ý nghĩ: dầu sao cũng còn vài giờ nữa là trời sẽ sáng. Ông quyết định sẽ nghỉ lại ở hành lang, để giết thời gian, ông đi đi lại lại để suy nghĩ về những tư tưởng ông vừa mới trao đổi với vị tu sĩ. Thật, thức khuya mới biết đêm dài, nhưng cuối cùng vài giờ còn lại của đêm cũng chậm chạp qua đi. Nhờ ánh sáng yếu ớt của hừng đông triết gia nhận ra cửa phòng mình mà trong bóng tối của đêm khuya ông đã đi qua lại bao nhiêu lần không nhận ra. Nhưng rõ ràng hơn, nhờ những tia nắng yếu ớt giúp ông tìm lại phòng mình. Một tư tưởng vừa lóe ra trong trí óc của ông: "Đối với những người đi tìm chân lý cũng thế, suốt cuộc đời họ đi ngang qua nhiều lần cánh cửa của sự thật nhưng mắt họ như bị màn đêm che kín nên họ không nhận ra cho đến khi một tia nắng yếu ớt của mặt trời giúp họ nhận ra".

Người Mẹ là ngọn lửa, con cái là ánh sáng. Nhìn sức sáng của ánh sáng, biết được sức mạnh của ngọn lửa. (Đ.Hồng Y.Mindszenty)

Ngày nọ, một người Tin Lành vào thăm nhà thương Hôtel Dieu ở Paris. Thời đó, người ta còn giao cho các nữ tu dòng Vinh Sơn chăm sóc các bệnh nhân. Giữa hàng ngàn bệnh nhân được chăm sóc trong nhà thương này, có một người tàn tật cực kỳ. Hầu như bị cuồng trí và cùng cực ngay từ nhỏ, anh nằm co rút như là một con sâu hơn là một con người. Anh nằm bất động, không tay không chân và mỗi khi có ai đến là anh ta la hét dễ sợ. Sự khổ đau và các cơn điên loạn đã làm anh dễ giận dữ. Hình dạng của anh làm người khách Tin Lành kinh sợ. Tuy nhiên, sự ngạc nhiên của ông trở thành sự thán phục khi thấy một nữ tu dòng Vinh Sơn quỳ cạnh "cục bột" này và săn sóc kẻ bất hạnh với tất cả tấm lòng ân cần của một người mẹ.

- Thưa Soeur, người khách Tin Lành này hỏi, làm sao Soeur có thể sống gần người tàn tật đáng ghê tởm này với sự thanh thoát như thế?

- Đây là đứa con được nuông chìều nhất của nhà này, thưa ông -Bà Soeur trả lời- Chính vì tình trạng đáng thương của anh mà chúng tôi thương anh hơn các bệnh nhân khác. Chúng tôi làm dịu cơn phẫn nộ của anh bằng cách cầu nguyện và ca hát. Chúng tôi còn dạy cho anh ta cả việc cầu nguyện và cả ngày lẫn đêm không để cho anh làm việc một mình.

Không bao lâu sau đó, người Tin Lành này theo đạo Công Giáo.

Ánh sáng đã có tác dụng rồi đó chúng con.

Chúng con nghe tiếp một câu chuyện nhỏ nữa nhé:

Cách đây không lâu một phụ nữ Ấn độ giáo đã trở lại công giáo, sau một thời gian nghe rao giảng Lời Chúa. Bà chịu nhiều dèm pha, đay nghiến từ người chồng do việc bà trở lại đạo. Có lần Cha xứ hỏi bà:

- Khi chồng con nổi giận và hành hạ con, thì con làm gì?

Bà đáp:

- Thưa Cha, con cố gắng nấu ăn ngon hơn. Khi ông than trách, con lau chùi nhà sạch hơn. Khi ông ăn nói cộc cằn, con trả lời ôn tồn nhỏ nhẹ. Con cố gắng chứng tỏ cho ông thấy khi con trở lại đạo, con phải là người vợ và người mẹ tốt hơn.

Một thời gian sau, ông xin trở lại đạo công giáo, không phải vì lời giảng của Cha xứ, nhưng chính nhờ gương sáng sống đạo của bà vợ đạo đức của ông.

Cha chúc chúng con trở thành ánh sáng cho mọi người.