Chúa Nhật VI Mùa Chay - Năm A
 Nhận định về tường thuật Ga 9, 1-41
Theo Chú Giải Tin Mừng Gioan
SƯU TẦM

1) Tường thuật này trình bày hai tiến trình: tiến trình từ mù tới sáng của người mù bẩm sinh, và tiến trình từ sáng tới mù của các người biệt phái:

TIẾN TRÌNH MÙ THÀNH SÁNG:

- Khởi điểm: anh hoàn toàn mù (c 1)

- Bước 1: Sau khi được Đức Giêsu ra tay can thiệp, ban đầu anh chỉ thấy Đức Giêsu là “một người” (c.11)

- Bước 2: Anh nhìn nhận Ngài là ”một vị ngôn sứ” (c.17)

- Bước 3: Ngài là “một người thánh thiện”, vì “Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi” (c.31).

- Buớc 4: Ngài là Kẻ do Thiên Chúa sai đến, vì “nếu người ấy không do Thiên Chúa sai đến mà không thể làm nên sự gì” (c.33).

- Điểm tới: Đức tin hoàn toàn: “Anh thưa, Lạy Chúa, con tin, rồi anh phục xuống lạy Ngài” (c.38)

TIẾN TRÌNH TỪ SÁNG THÀNH MÙ:

- Khởi điểm: một thái độ tự mãn tự kiêu. Họ luôn miệng nói “Chúng ta biết” (cc. 24.19), “Chúng ta thấy” (cc 39.41), “Bộ chúng ta cũng mù ư” (c.40).

- Bước 1: Ngạc nhiên khi thấy anh mù được sáng, và tìm hiểu “làm sao mà anh thấy được?” (c.10), “Ông ấy đâu?” (c.12).

- Bước 2: Khi biết kẻ làm phép lạ là Đức Giêsu, họ phân vân: kẻ thì nói “người ấy không phải bởi Thiên Chúa”, kẻ khác bảo “Lẽ nào người có thội có thể làm những dấu lạ lùng như thế?” (c.16).

- Bước 3: Ngoan cố chỉ nhìn nhận Môsê và tiên thiên loại bỏ bất cứ ai khác: “Còn người ấy, chúng ta không biết bởi đâu mà có” (c.29).

- Điểm tới: hoàn toàn mù về mặt thiêng liêng (cc 40.41). Sự mù này còn nguy hiểm hơn sự mù thể xác: “Nhưng các ngươi lại nói “Chúng tôi sáng mắt” nên các ngươi vẫn mắc tội”.

2) Tường thuật này cũng cho ta thấy được một cách sống động đường đi của ánh sáng vào lòng con người, những chướng ngại vật mà ánh sáng đã gặp trên con đường đó, và trận chiến mà ánh sáng đang phải giao tranh với quyền lực của tối tăm. Bởi vì con người vừa là ánh sáng vừa là bóng tối, nơi con người đã có sẵn khả năng để mù quáng: đó là khả năng tự đặt cho mình những lý do rất tốt để khỏi nhìn thấy, tự tạo cho mình những điều hiển nhiên giả tạo và từ chối mở mắt vì bảo rằng mình “trông thấy”. Ấy là bởi vì ánh sáng rất đòi hỏi. Ánh sáng bó buộc con người phải xét lại biết bao điều, từ bỏ biết bao thói quen và đôi khi phải đoạn tuyệt với cả một môi trường sống. Cái nhìn của con người đã bị rối loạn vì tất cả những điều đó. Cho nên con người cần phải tìm lại sự trong trắng của thời thơ ấu. Đó là ý nghĩa của hoạt cảnh chữa lành người mù bẩm sinh. Hoạt cảnh này chẳng khác gì một vỡ kịch diễn lại một lời nói của Đức Giêsu: “Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt ngươi lành lặn thì toàn thân ngươi sáng láng. Nhưng nếu mắt ngươi hư hỏng thì toàn thân ngươi sẽ sầm tối. Vậy nếu ánh sáng nơi ngươi mà đã tối tăm thì sẽ tối tăm chừng nào!” (Mt 6,22-23).

3) Hoạt cảnh người mù bẩm sinh còn cho ta thấy rõ tình cảnh của người tín hữu bi đát đến mức nào: đức tin có thể đòi ta phải mạnh mẽ đoạn tuyệt với thế gian và phải can đảm tuyên xưng sự thật. Người mù đã bị trục xuất khỏi cộng đoàn vì đã nhìn nhận Đức Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa. Người ta xua đuổi anh như xua đuổi một con người tội lỗi. Ngay cả cha mẹ anh cũng từ chối bênh vực anh. Những lúc đó đức tin xuất hiện như một nỗi cô đơn, đức tin bị đuổi bắt. Người mù phải vượt qua sự sợ hãi, lòng vị nễ người khác, mối quan tâm quá mức đến dư luận, và phải kiên trì chinh phục độc lập, bất chấp khổ đau để đến với tự do đích thực, tự do vì Thiên Chúa.