Chúa Nhật XVII thường niên  - Năm C
GIÁO HUẤN VÀ CẦU NGUYỆN
Chú giải mục vụ của Hugues Cousin

Từ lời kinh ngợi khen Chúa Giêsu dâng lên Cha (10,21-22), chương 10 đã minh hoạ, bằng nhiều cách khác nhau, thái độ mà người môn đệ phải có đối với Thiên Chúa. Sự kiện Chúa Giêsu cầu nguyện, rất thường được Luca nhắc đến, ở đây được dùng làm điểm xuất phát cho một lời yêu cầu. Giáo huấn Chúa Giêsu ban gồm ba phần: Kinh Lạy Cha, dụ ngôn người bạn quấy rầy và việc áp dụng dụ ngôn.

1. KINH LẠY CHA (11, 1-4)

Đây không phải là vấn đề cầu nguyện nói chung, cũng không phải cách thức cầu nguyện để lắng nghe một Đấng khác. Một môn đệ xin Chúa Giêsu một bản kinh để thêm vào những kinh chính thức của đời sống Do Thái và là lời kinh đặc điểm của nhóm các môn đệ giống như kinh mà chúng ta không biết rõ- vị Tẩy Giả dùng trong nhóm của ông. Ở Qumran, Luật Cộng đoàn của những người Esséniens có một thánh thi dùng cho nghi thức đón nhận những phần tử mới, vào dịp lễ Ngũ tuần (1QS, cột XI, hàng 2-15).

Bản Kinh Lạy Cha mà Luca có được ngắn hơn Mt 6,9-13; Nó gồm một lời khẩn cầu, hai ước mong và ba lời thỉnh nguyện. Trước hết, người môn đệ được mời gọi, được quyền xưng hô với Thiên Chúa bằng cách dùng cũng một ngôn ngữ mà Chúa Giêsu dùng trong lời nguyện của Ngài: “Lạy Cha” (x. 10,21); quan hệ thẳm sâu giữa họ với Chúa phải chăng đã không được mặc khải rồi sao (x.10,22)? Tiếp theo là hai lời ước nguyện cũng có trong kinh nguyện Do Thái Qaddish: sự hiển thánh tôn Danh (xin Thiên Chúa đích thân can thiệp và tự mặc khải như Thiên Chúa cách tỏ tường, xin Ngài tỏ mình ra!) và việc Vương quốc đến (xin Chúa thân hành đến và bày tỏ sự hiện diện cao cả và hoạt động của Ngài!). Dưới hai hình thức khác nhau, cũng một lời khẩn cầu thống thiết được nói lên: “Lạy Cha, xin hãy đến!”; Thiên Chúa là “đối tượng” duy nhất của lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa (c.2).

Chỉ trong giai đoạn hai các môn đệ mới nêu lên ba lời thỉnh cầu cho họ, với tư cách là cộng đoàn (việc dùng tiếng chúng con, các câu 3-4). Thỉnh cầu thứ nhất nói đến lương thực cho họ cần hằng ngày để sống trên đời. Ở đây có một ám chỉ về manna, thứ bánh từ trời đã nuôi dân Chúa trong cuộc xuất hành và, theo như sự mong đợi của người Do Thái, sẽ lại được ban làm thực phẩm cho cộng đoàn của thời đại cuối cùng. Trong Tin Mừng Luca, bánh sự sống này, các tín hữu được mời gọi kêu xin cho mỗi ngày. Thỉnh cầu thứ hai, xin Chúa đoái thương tha tội chúng ta! Đó là điều tuyệt đối cần thiết để chúng ta có thể gặp gỡ Chúa đang đến, mà không bị chết ngay vì sự thánh thiện chói sáng của Ngài. Sự tha thứ của Chúa là một hồng ân nhưng không mà chẳng bao giờ có ai xứng đáng lãnh nhận; nhưng ít ra phải có khả năng để đón nhận. Mà từ chối tha thứ cho kẻ khác, phải chăng không là nguy cơ làm cho thiếu khả năng đón nhận được ơn Chúa tha tội? Một lời xin cuối cùng xin cho chúng ta khỏi bị cám dỗ chối bỏ, khước từ Chúa Giêsu Kitô (x. 8,12; 22,40).

Điều đáng ngạc nhiên nhất trong kinh Lạy Cha là: Khi đặt tất cả chú ý về Cha như trung tâm, nó không nói một tiếng về Con mà Cha đã sai đến. Không nói gì đến Chúa Kitô ở đây là một trong những điều có ý nghĩa hơn cả: tránh bỏ hết mọi quan tâm đến bản thân, Chúa Giêsu luôn hướng nhìn về Cha. Chúng ta cũng để ý một sự thinh lặng khác nữa. Trong khi mà lời kinh có tính phổ quát nhất trong các kinh nguyện của người Do Thái, kinh Qaddish, nhắc đến “nhà Israel”, đôi khi “thành Giêrusalem”, “Thánh điện” và “Đất” thánh, thì ở đây không có một ghi chú nào về địa lý. Các nơi Thánh không còn hiện hữu nữa; mọi dân tộc có đọc kinh này.

2. DỤ NGÔN NGƯỜI BẠN QUẤY RẦY (11, 5-8)

Qua dụ ngôn này thánh sử đưa ra ánh sáng một khía cạnh của kinh Lạy Cha: đó là một lời cầu nguyện xin ơn. Mà trong lĩnh vực này, phải biết tỏ ra kiên trì đối với Thiên Chúa, điều này rất quan trọng dưới cặp mắt của Luca, và ông sẽ lặp lại giáo huấn này ở 18,1tt bằng một dụ ngôn khác.

Vấn nạn ban đầu bắt buộc thính giả phải có một phương diện cá nhân, trong khi chính Chúa Giêsu sẽ nói rõ rệt về việc áp dụng dụ ngôn (xc.8). Toàn bộ trình thuật cho thấy rõ những tương quan của con người đối với Thiên Chúa trong lời cầu nguyện. Sẽ sai lầm khi tách rời từng yếu tố và, chẳng hạn tưởng tượng rằng lời cầu nguyện của con người thức tỉnh Thiên Chúa hoặc là Thiên Chúa chỉ đáp lại để khỏi bị quấy rầy. Dụ ngôn nói đến ba nhân vật. Anh chàng lì lợm có hai người bạn không quen biết nhau. Nếu anh ta đến gõ cửa nhà một trong hai người vào giữa đêm tối để mượn bánh, có nghĩa là người kia ở xa vừa đến nhà anh ta bất ngờ và xin tạm trú. Người lữ hành này đi đường vào buổi chiều và một phần ban đêm để tránh cái nóng ban ngày. Hãy để ý: anh bạn mà người đang ngủ bị đánh thức dậy muốn đuổi khéo không xin gì cho anh ta cả, và chính anh ta mới là kẻ bị người khác đến bất ngờ gây rắc rối nhất! Anh ta kêu gọi nhân danh tình bạn để được ba ổ bánh, nhưng người kia từ chối giúp đỡ anh ta, không gọi anh ta là”bạn” và không muốn làm cho con cái phải thức giấc. Kết luận của Chúa Giêsu đi từ chính việc từ chối hành động vì tình bạn, hơn một lý do khác khiến người đang ngủ cho điều mà người kia cần: đó là tính cách lì lợm của kẻ đi xin. Sự kiên trì đã được trả giá.

3. ÁP DỤNG DỤ NGÔN (11, 9-13)

Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn một cách long trọng (c.9a) bằng cách mở rộng phạm vi của cầu nguyện kể trong dụ ngôn. Giáo huấn ở đây được lấy từ Nguồn các lời. Ngài mời gọi các môn đệ cầu nguyện (c.8) khởi đi từ một giả định về sự khôn ngoan nhân loại (c.9). “Tìm” là một từ được dùng trong Kinh Thánh để gợi lên sự cầu nguyện (x. Thánh vịnh 24,6; 27,8). Như cách làm của một hiền nhân, Chúa Giêsu gợi lên ba hình thức cầu xin: xin, tìm, gõ rồi kết quả của từng việc đó. Tuy nhiên Ngài không nhấn mạnh đến sự kiên trì của con người nhưng đến hồng ân của Thiên Chúa; ba động từ ở thể thụ động quy chiếu về hành động của Chúa: thì sẽ được ban cho anh em (chứ không phải “anh em sẽ nhận được”) thì sẽ mở cho (hai lần), con người phải tin cậy và Đấng cho và mở.

Hai minh hoạ được đưa ra để biện minh cho một lòng tin cậy như thế (c. 11-12). Như trong dụ ngôn, một câu hỏi hùng biện được dùng để trực tiếp chất vấn thính giả: Người cha nào trong anh em…? Từ liên hệ giữa bạn hữu mà dụ ngôn vừa mô tả Chúa Giêsu nói tới liên kết giữa một người cha với đứa con của ông. Cái lý luận tiên thiên, dẫn từ một cách cư xử mâu thuẫn với cách cư xử của kẻ có ý thức, dựa vào giống nhau bề ngoài giữa con rắn và và con cá, giữa con bò cạp và quả trứng. Và lại không có người cha nào trên đời làm con mình thất vọng khi chơi cái trò dối gạt đó. Phải chăng đó không là kinh nghiệm thường ngày của từng người?

Phải rút ra bài học (c.13) bằng cách giải thích việc so sánh giữa Cha trên trời và một người cha trần thế. Không thể có mức độ giống nhau giữa lòng nhân từ của Thiên Chúa và lòng tốt của cha mẹ trần gian. Như vậy, ta phải kết luận rằng những hồng ân của Ngài vô cùng cao quý hơn. Trong khi Nguồn các lời, mà thánh sử dùng cho các câu 9-13, khẳng định: “Chúa sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt 7,11), thì hồng ân tối hảo mà Chúa Cha ban cho con cái Ngài được Luca xác định rõ: đấy là Thánh Thần. Thực ra, Chúa Thánh Thần sẽ xuất hiện trong Công vụ, như một hồng ân đặc biệt của việc Thiên Chúa vào thời cuối cùng (Cv 2,33-38).