Chúa Nhật XV thường niên  - Năm C
HÃY YÊU THƯƠNG THÌ SẼ ĐƯỢC SỐNG

André Sève

Rõ ràng là từ yêu thương được nói đến nhiều ở đây. Nhưng chúng ta hãy cho hai từ khác đi kèm vì nếu không có hai từ này, từ yêu thương sẽ không đứng vững nổi: làm và sống.

Đàng khác, mở đầu câu chuyện diễn ra rất nhanh:

- Tôi phải làm gì để được sống? Luật sĩ hỏi.

- Hãy yêu thương, Chúa Giêsu nói, cứ làm như thế ngươi sẽ được sống

Vào lúc kết thúc, sau câu chuyện đẹp về tình yêu thương, tiếng nói chiến thắng chính là: cứ làm như thế. Để chiến thắng, Chúa Giêsu đã huy động hai nét của khoa sư phạm: cuộc đối thoại đanh thép và câu chuyện không thể quên được.

Cho nên phải làm gì để được sống? Yêu mến Chúa và anh em. Đây là hai tình yêu thương liên kết chặt chẽ với nhau đến nỗi người ta không nói về giới răn thứ nhất và thứ hai. Chúa Giêsu công nhận lời mô tả ngắn ngủi của luật sĩ: “Ngươi hãy yêu mến Chúa và thương yêu anh em”. Đây cũng là một dòng chảy tình yêu. Chắc chắn cần phải dựa vào mối liên kết giữa hai tình yêu bởi vì trong một trong những bản văn cuối cùng của Tân Ước, thánh Gioan vẫn còn lấy lại ý tưởng: “Nếu ai thấy anh em mình cần đến của cải phải giúp đỡ mà đóng cửa lòng mình lại, có lý nào đức ái Thiên Chúa ở cùng người ấy được” (1Ga 3,17). Đây là lời khuyên cho những kẻ tin rằng với chút ít lòng thương xót người ta có thể tự cho phép mình ích kỷ hoặc có tính xấu.

Chúng ta hãy xem xét khẳng định của Chúa Giêsu: Hãy yêu thương thì ngươi sẽ được sống. Đẳng thức yêu thương bằng được sống đối với chúng ta có hoàn toàn rõ ràng hay không? Nếu có, chúng ta hãy cảm tạ Chúa, giòng máu Tin Mừng đang chảy trong huyết quản của chúng ta. Nhưng đây là điều phải kiểm chứng.

Khi Chúa Giêsu nói đến yêu thương ở đây, đây không phải là một trong những niềm đam mê, tình yêu hoặc tình bạn, là những thứ đưa chúng ta lên chín tầng mây, mà là tình yêu thương anh em rất có tính cách bó buộc, cụ thể. “Phải làm điều đó!”. Và đây không luôn luôn là điều làm thích thú.

Trên đường Giêricô, thầy tư tế và thầy Lêvi không tích cực làm việc thiện! Thậm chí nghĩ rằng người kia đã chết, họ sợ bị ô uế “theo tập tục” (theo những luật lệ Do Thái giáo), điều mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh chính là việc họ thiếu nhiệt tình cứu giúp một kẻ nào đó. Hai người kia dường như không xác tín rằng “yêu thương là được sống”.

Tuy vậy chỉ cần so sánh họ với người Samari hay thương người để thấy đâu là sức sống! Không phải nơi những bản chất nhỏ nhặt này mà một điều không là gì cả làm rầy hay làm hoảng sợ. Than ôi người ta thấy những Kitô hữu khá bị sự khôn ngoan ích kỷ này cám dỗ, với cái giá phải trả là một cuộc sống được sống nhỏ giọt.

Người Samari đã chọn một cuộc sống hao tổn và nồng nhiệt. Trong khi thấy người đàn ông nằm đó, ông có lẽ đã cảm thấy cần phải đi qua cho nhanh, nhưng sức mạnh của cuộc sống của ông chiến thắng những vấn nạn đang đến với ông, Chúa Giêsu nói: ông động lòng thương và ông làm mọi sự cần thiết. Ông không quên gì cả, cho mà không tính toán. Không chờ đợi một lời cảm ơn nào và có lẽ vừa đi vừa hát lâm râm, hạnh phúc vì đã làm một người sẵn sàng phục vụ con người. Hai người kia sẽ tiếp tục sống lay lắt. Còn người Samari, ông đang sống triệt để. Chúa Giêsu nói: “Hãy yêu thương thì ngươi sẽ được sống”.