Chúa Nhật VII thường niên - Năm C
YÊU THƯƠNG
SƯU TẦM

Phụng vụ lời Chúa hôm nay nêu bật chủ đề đức dung thứ Kitô giáo. Bài Tin Mừng thánh Luca được trích từ những giáo huấn của Chúa Giêsu đã giảng dạy. Cấu trúc song song của Tin Mừng thánh Luca và Tin Mừng thánh Matthêu xếp các qui luật cộng đoàn này sau bài giảng “Tám mối phúc thật”, hay còn được gọi là “Hiến Chương Nước Trời”. Vì đó là những qui tắc nền tảng như một bản hiến pháp để thành lập dân Chúa và định hình cho Hội thánh, thì phần qui luật cộng đoàn cũng có thể được coi là bộ luật luân lý hướng dẫn mọi lãnh vực sinh hoạt, xã hội, tôn giáo của những người tin Đức Kitô.

Một yếu tố không thể không nhấn mạnh, đó là cộng đoàn Hội thánh được qui tụ do niềm tin nơi Đức Kitô Phục Sinh và nhận được sinh khí mới do Thánh Thần của Đấng Phục sinh. Chính trong bối cảnh của cộng đoàn Phục sinh này xuất hiện cảm nghiệm sâu sắc về sức mạnh Thánh Thần, Đức Kitô đã và còn đang biến đổi những gì phàm tục, tội lụy và giới hạn nơi con người cũ xưa thành một con người mới, thụ tạo mới với mọi sức vóc sung mãn theo mô hình của chính Đức Kitô.

Cũng chính trong cộng đoàn nhuệ khí bừng bừng ấy, các quyển Tin Mừng hình thành không như tác phẩm của lý trí suy luận, hoặc của óc sáng tạo giàu chất lãng mạn, nhưng như là tinh hoa tích tụ lại từ vốn sống rất hiện thực, rất sinh động và thánh thiêng. Nói cách khác, cộng đoàn Kitô hữu như được mô tả trong Tin Mừng không chỉ thuần là một lý tưởng, một mẫu mực được phác họa cho một nỗ lực sẽ thành đạt trong tương lai, càng không thể là dấu hiệu của nỗi hoài vọng và một cõi địa đàng trải ra trước mắt, song đúng hơn đây chính là bức tranh xác thực của một nếp sống đã và vẫn còn tiếp diễn xuyên suốt thời gian và không gian, nếp sống của những người được đón nhận thực tại vào Nước Thiên Chúa.

Thánh Phaolô viết cho tín hữu Côrintô: “Những ai thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến”. Nhờ lãnh nhận Thánh Tẩy trong mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô, Kitô hữu đã hoàn toàn chết đi với con người cũ tội lỗi, nô lệ của thế gian để sống lại trong con người mới của ân sủng, tự do, chia sẻ chiến thắng vinh quang bất diệt của Đấng Phục sinh. Do đó, có thể nói qui luật sống của cộng đoàn Kitô hữu được trình bày trong Tin Mừng không thể bị giản lược thành một số lời khuyến thiện đẹp đẽ để ai nấy tùy nghi, tùy sức thực hiện, nhưng phải coi đó là những đức độ tất yếu phải có, phải thi hành nơi mỗi cá nhân và toàn thể cộng đoàn tín hữu Kitô.

Thật vậy, có một sự khác biệt sâu xa giữa hành vi anh hùng mã thượng của bậc trượng phu quân tử, như việc chàng dũng sĩ Đavid tha mạng cho kẻ cựu thù là vua Saolê, mặc dù cơ hội báo oán đang nằm trong tay, so với đức dung thứ của Kitô hữu khi họ bỏ qua cho kẻ xúc phạm hoặc hãm hại mình. Hành vi dẫu cao thượng của chàng Đavid có lẽ do nhiều động lực tình cảm gia đình và chính trị, vua Saolê là nhạc phụ của anh, nên anh phải cân nhắc những hậu quả có thể xảy ra trong cuộc sống gia đình giữa anh và công chúa Micam, nếu như anh sát hại phụ vương của nàng. Mặt khác, vì anh đang rất cần hậu thuẫn của đám quần chúng vốn còn nặng ân tình với Saolê. Chàng Đavid không muốn cho phe bảo hoàng ghép cho mình cái tội thí chúa, và tận thâm tâm chàng Đavid còn muốn ngăn ngừa một điều lệ đe dọa cho chính bản thân mình sau này khi anh tuyên bố: “Vua là thiên tử, là bất khả xâm phạm, vì đã được Giavê Đức Chúa xức dầu tấn phong”.

Trong khi đó, người tín hữu Kitô không toan tính so đo một điều gì khác, trong việc thực thi đức dung thứ ngoài ước muốn được xứng danh là con cái Thiên Chúa, Đấng từ bi nhân hậu, chỉ có vậy và đơn giản như vậy: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Được trở nên hoàn thiện như Hiền Phụ trên trời chính là động lực, là chuẩn mực luân lý Kitô giáo. Kitô hữu thực thi đức dung thứ và yêu thương kẻ thù, đó là một trong những nét độc đáo của Kitô giáo. Không điều kiện, không mong bất kỳ một hình thức đáp trả bồi hoàn nào, họ hành động và ứng xử như thể đó chính là bản chất của họ, là ơn gọi của họ.

Kitô hữu không bận tâm đến việc luận công phạt tội, vì tin đã có Thiên Chúa công minh cầm cân nẩy mực. Được thưởng công và trắng án trước pháp đình Thiên Chúa không thể coi là lý do của đời sống luân lý Kitô hữu, những người đã được giải thoát khỏi gông ách của tội lỗi, những người đã nắm trọn quyền thừa kế Nước Thiên Chúa, những người sẽ ngồi ghế thẩm phán xét xử thế gian. Bằng không, họ vẫn còn sống trong tội lỗi, chung đụng với những kẻ tội lỗi, hành xử như những kẻ tội lỗi: “Nếu anh em yêu thương những kẻ yêu thương mình thì có ơn nghĩa gì đâu, ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ”.

Giả như nói đến phần thưởng dành cho trọn một đời thủy chung với giáo huấn của Chúa, Kitô hữu sẽ chẳng mong mỏi nhận được một phần thưởng nào khác hơn là chính Thiên Chúa, là tình yêu hiền phụ của Người.