Chúa Nhật III thường niên - Năm C
SỨ VỤ ĐƯỢC DIỄN TẢ
Chú giải mục vụ của Hugues Cousin

TIỀN NGÔN (1,1-4)

Trong phần Tiền ngôn này Luca sử dụng một thể loại văn xuôi tuyệt hảo trong Hy ngữ – toàn bộ, chẳng hạn chỉ là một câu chuyện nguyên bản – và một từ vựng rất giống với các bản khảo luận Hy Lạp thời đó về nhiều vấn đề khác nhau. Từ đó, Luca muốn nói rõ rằng sách của ông là một tác phẩm có tính cách thời sự dành cho những người cùng thời ông không phải là người Do Thái và dùng những cấu trúc riêng. Do đó, truyền thống Tin Mừng được nâng lên như một tác phẩm văn chương.

Trước hết, Luca tự định vị mình trong tương quan với những người đi trước đã viết trình thuật; những phẩm chất mà ông hy vọng làm sáng tỏ (một thông tin cẩn thận về những gì đã xảy ra từ lúc khởi đầu để viết một trình thuật liên tục) mà theo ông nghĩ là họ còn thiếu – điều đó giải thích công việc của ông. Ít nhất việc này nhằm đến hai nguồn mà Luca sẽ dùng; Tin Mừng của Maccô, chẳng hạn, không ghi lại cuộc sinh hạ của Chúa Giêsu cũng như những lần hiện ra sau Phục Sinh, và một tập hợp những lời của Thầy (nguồn “Q”), dường như trong đó không có một trình thuật nào.

Những người đi trước ông đã kín múc từ truyền thống một thuật ngữ có gốc gác Kinh sư, để chỉ việc lưu truyền bằng miệng các Tin Mừng do các chứng nhân chính thức. Những người này đã thay đổi nếp sống: lúc đầu – Lc 3,23 sẽ chỉ cho thấy từ ngữ chỉ lúc khởi đầu sứ vụ công khai của Chúa Giêsu chứ không phải là lúc Ngài sinh ra – họ đã là những chứng nhân mắt thấy tai nghe những hành động và giáo huấn của Chúa Giêsu (đó là nội dung qnt), rồi họ đã trở thành những tôi tớ phục vụ Lời (quyển thứ hai: Công vụ Tông đồ). Luca cho thấy hai mức độ sống này khi kể lại chuyện Matthêu giữa nhóm Mười Hai: nhân chứng mới này được chọn từ những kẻ đã theo Chúa Kitô từ khi Ngài chịu Gioan làm phép rửa cho đến ngày Ngài được nâng lên (Cv 1,21 - 22). Nhưng ở đây Luca không nhắc đến tên Giêsu, ông thích đặt mình trong một bối cảnh lớn hơn, đó là những biến cố đã được Thiên Chúa thực hiện, qua sứ vụ của Chúa Giêsu nơi chứng tá của các tông đồ.

Như thế Luca tường thuật nhờ bốn đặc tính đã được nên ở trên (một thông tin cẩn thận về tất cả những gì từ lúc khởi đầu để viết một trình thuật liên tục), đó là phong cách riêng của ông. Ông đã có ý cẩn thận lắng nghe truyền thống Giáo Hội và viết một trình thuật liên tục. Liên tục ở đây trước hết không có nghĩa là theo trật tự thời gian đúng hơn phải cho thấy rằng tác phẩm của ông soi sáng cách thức mà Thiên Chúa thể hiện từ biến cố này đến biến cố khác, ý định cứu độ của Người trong lịch sử. Không thể chối cãi rằng Luca có quan tâm đến lịch sử, nhưng khi đã biết các tác phẩm của những sử gia Hy Lạp và Latinh đồng thời với ông, chúng ta đừng đánh giá dự phóng của Luca theo quan niệm ngày nay về việc nghiên cứu lịch sử.

Tất cả các tác phẩm được đề tặng ông Thêôphilê rất đáng kính, một người mới trở lại, gốc ngoại giáo, có lẽ giữ một địa vị quan trọng trong hành chánh La Mã. Mục đích Luca theo đuổi là thuyết phục Thêôphilê về sự vững chắc của giáo lý mà ông đã nhận – bày tỏ một phong cách làm việc rõ ràng có tính cách Giáo Hội.

Tiền ngôn được viết bằng một ngôn ngữ Hy Lạp rất hay. Điều đó cho thấy sự tương phản lớn lao với “Tin Mừng thời thơ ấu”. Để nói lên rằng những biến cố đương thời mà ông kể vẫn tiếp tục lịch sử thánh, Luca đã sử dụng một ngòi bút khác và bắt chước thể văn của bản dịch Thánh Kinh sang tiếng Hy Lạp, tức bản Bảy Mươi. Chúng ta thử tưởng tượng Jean Laconture mô phỏng Bossuet để tả lại thời thơ ấu của De Gaulle... Có những lối mô phỏng thể văn đầy ý nghĩa. Để hiểu Luca, ta cũng phải biết rằng, trong thế giới Hy Lạp thời ông, chỉ có những gì “cổ điển” mới có thế giá, còn những gì “mới mẻ” thì đáng ngờ vực. Hơn nữa, bản Bảy Mươi cung cấp cho Luca từ vựng và những kiểu mẫu tư tưởng để nói về biến cố Giêsu Kitô.

RAO GIẢNG TẠI NAGIARÉT

Gần như được sáng tác hoàn toàn bởi Luca, cảnh rao giảng của Chúa Giêsu trong một thành nơi Người đã được nuôi dưỡng có một tính cách chương trình hóa rất rõ nét; thực vậy, nó loan báo những chủ đề sẽ chiếm một chỗ trung tâm trong toàn bộ Luca-Công vụ.

Phần tóm tắt dẫn nhập (14,15) nói lại một lần nữa việc Chúa Giêsu được trang bị bằng Thần Khí tiên tri, Đấng, sau thời gian ở sa mạc, sẽ dẫn dắt Người trên các nẻo đường của sứ vụ. Nội dung giáo huấn của Chúa Giêsu không được nhắc đến – trong khi ở Mc 1,15 Người rao giảng một cách rõ ràng về Vương Quốc của Thiên Chúa, như vậy lời giảng đại khái đầu tiên của Chúa Kitô sẽ là giải thích lời tiên tri Isaia. Luca sẽ rất thường ghi chú rằng Chúa Giêsu giảng dạy mà không nói nội dung; đó là vì nói lên lời là một hành động, không lệ thuộc vào nội dung. Trái ngược với vị Tẩy Giả, Chúa Giêsu thường giảng dạy trong những nơi chốn và những thời gian đặc biệt gắn liền với công việc này: Chúa Giêsu có thói quen vào một hội đường trong ngày Sabat. Hãy chú ý sự phân biệt khi Luca nói về những hội đường của họ (c. 15); bởi vì vào quãng năm 85-90 khi Luca viết Tin Mừng, thì việc đoạn tuyệt với đối tượng đã tới cao điểm, thẩm quyền Do Thái giáo cấm các Kitô hữu từ nay không được rao giảng khi cử hành nghi thức tại hội đường. Cuối cùng, lần thứ nhất ta gặp chủ đề về danh tiếng của Chúa Giêsu và phát sinh từ lời giảng có quyền uy của Ngài.

Phần thứ nhất của trình thuật (cc. 16-22) diễn tả một phần phụng tự hội đường. Phần này bỏ lời kinh khai mạc và bài đọc thứ nhất trích từ Luật Môsê, để chỉ giữ lại trích dẫn dài của phần hai: sấm ngôn Is 61,1-2, Luca chỉ bỏ một lời đe dọa: “Công bố ngày báo oán của Thiên Chúa chúng ta”… Theo sấm ngôn trên đây, vai trò của sứ giả là loan báo một cách có hiệu quả việc chấm dứt những gì làm cho người nghèo phải đau khổ và những kẻ tàn phế trong cuộc sống, công bố khai mạc một thời kỳ trong đó con người sẽ được Thiên Chúa tiếp nhận. Cấu trúc của các câu 16-20 rất kỹ lưỡng:

(Người) đứng lên

họ trao cho Người cuốn sách

Người mở ra

Gặp đoạn chép rằng (Is 61,1-2)

(Người) cuộn sách lại

trả cho người giúp việc

rồi ngồi xuống.

Như vậy độc giả của Luca, vừa được soi sáng bởi cuộc hiển linh dịp Chúa Giêsu chịu phép rửa, hiểu rất rõ rằng người hùng của Thiên Chúa, được xức dầu bằng Thần Khí, chính là Đức Giêsu và sứ vụ được diễn tả đó là sứ vụ Người sẽ thi hành như được kể trong phần tiếp theo của Tin Mừng Luca.

Tuy nhiên, ngay khi ngồi xuống –ở Palestin khi giảng thì ngồi, nhưng trong các hội đường ở hải ngoại thì lại đứng (Cv 13,16)- Chúa Giêsu giải thích cho người Nagiarét: “Hôm nay, đoạn đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Người không nói rõ ra: “bởi vì Kinh Thánh nói về tôi và các ông có thể thấy điều đó” –cũng như Người không bao giờ nói mình là Đức Kitô hay vị tiên tri. Người cung cấp cho các thính giả các dấu chỉ, nhưng để họ tự do dùng trí thông minh mà đón nhận hay từ chối dấu chỉ được trao ban: Người mời họ nhận cái mới mẻ đã xảy đến giữa họ. Nhưng, tuy tỏ ra tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Chúa Giêsu, những người Nagiarét chỉ nhìn thấy một phương diện của Chúa Giêsu (con ông Giuse); họ không thể nhận ra nơi Người vị Ngôn Sứ cuối cùng mà Is 61 đã ám chỉ.