Chúa Nhật IV Mùa Vọng - Năm C
GƯƠNG MẪU
SƯU TẦM

Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại: Một hôm mẹ đến thăm một nhà thương Anh Quốc rất tối tân, khung cảnh và các phòng ốc của nhà thương khang trang sáng sủa, trang bị đủ mọi thứ máy móc cùng tiện nghi vô cùng tối tân, tương xứng với số tiền phải trả. Ngoài ra các y tá và nhân viên làm việc trong nhà thương đều nhã nhặn, nhưng mẹ nhận thấy một điều kỳ lạ và hỏi vị bác sĩ trưởng đang hướng dẫn mẹ đi thăm nhà thương:

Thưa bác sĩ, tại sao các người bệnh nhân cứ mỗi lần thấy ai vào là họ cùng đồng loạt quay nhìn về phía cửa vậy?

Câu trả lời của viên y sĩ giám đốc nhà thương rất đơn sơ nhưng thoáng vẻ buồn: Dạ thưa, là vì họ luôn luôn chờ đợi một ai đó trong số bà con thân thuộc đến thăm họ nhưng chẳng có ai đến thăm họ bao giờ.

Ngay từ thời khai sinh, Giáo Hội đã luôn luôn khuyến khích tìm hữu viếng thăm những người già cả, bệnh tật, ốm yếu, các tù nhân, người nghèo khó và tất cả những ai cần sự trợ giúp, an ủi và nâng đỡ, nghĩa là Giáo Hội thôi thúc tín hữu thực thi Tin Mừng yêu thương của Chúa Giêsu và nhìn ra gương mặt của Ngài nơi các anh chị em đau khổ và bị bỏ rơi.

Các bài đọc trong Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về con đường nghèo khó, tầm thường và bé nhỏ mà Thiên Chúa đã dùng để đến với nhân loại và các hệ lụy của sự lựa chọn ấy. Sách Ngôn sứ Malakia là một lời sấm thuộc loại lời sấm cứu thế, được thánh sử Matthêu nhắc lại trong bài Tin Mừng hôm nay.

Sở dĩ Giêrusalem đã không chu toàn sứ mệnh này vì các tội lỗi và bất trung nó đã vấp phạm, khiến cho nó không có khả năng thực hiện nhiệm vụ ấy. Do đó, Thiên Chúa đã chọn một nơi khác xa xôi, bé nhỏ và hẻo lánh không ai ngờ tới. Đó là làng quê Bethlem, trước đây gọi là Efphata. Đấng Cứu Thế và dòng tộc của Ngài sẽ bắt nguồn từ đó chứ không phải tại thủ đô Giêrusalem hay là một thành phố lớn ở Bethlem. Thiên Chúa chọn gia đình ông Jessé, cha của Đavid và là ông tổ của thánh Giuse bạn với Đức Trinh nữ Maria, người được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu thế.

Như thế, Chúa Giêsu Kitô xuất hiện trong dòng lịch sử nhân loại tại làng quê bé nhỏ. Bethlem này cách xa khung cảnh huy hoàng vĩ đại của các thành phố lớn thuộc các đế quốc vùng Trung đông. Ngài đã bước vào gia đình nhân loại như một trẻ thơ bé bỏng yếu đuối, trong một gia đình tầm thường như hàng ngàn, hàng vạn gia đình thường dân khác.

Tuy nhiên trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa không có gì là tình cờ cả, các lựa chọn ngược đời ấy của Thiên Chúa như làng quê Bethlem, cuộc sống khiêm tốn, điều kiện lúc bé bỏng, sự mỏng giòn yếu đuối của con người đều tham dự vào sự cao cả và quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, bởi vì Đấng xuất thân từ đó sẽ thống trị mọi dân nước và cai trị với chính uy quyền của Thiên Chúa toàn năng và sẽ đem lại an bình cho nhân loại. Kiểu cách lựa chọn ngược đời và các nẻo đường lạ lùng Thiên Chúa dùng để thực hiện chương trình cứu độ lại càng nổi bật hơn trong trình thuật Tin Mừng theo thánh Luca.

Maria một thiếu nữ vô danh, con của một gia đình làng quê Nagiarét được Thiên Chúa lựa chọn làm người cưu mang Đấng Cứu thế, con của Ngài. Phước lành Thiên Chúa đổ tràn đầy trên trinh nữ Maria cũng là phước lành Thiên Chúa ban cho toàn thể nhân loại. Trong dòng lịch sử thế giới và lịch sử nhân loại, Thiên Chúa đã ban cho con người không biết bao nhiêu là phước lành, nhưng phước lành cao quí và trọng đại nhất là Ngài đã ban chính Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu thế cho nhân loại.

Lời chào của bà Eâlisabéth khi thấy trinh nữ Maria đến thăm mình và lời kinh chúc tụng của trinh nữ Maria đều ngợi khen đến cách thế Thiên Chúa lựa chọn con đường dẫn Ngài đến cuộc gặp gỡ cứu độ loài người. Con đường bé nhỏ nghèo nàn, khiêm tốn và kín nhiệm. Nhiều người không chịu được ý tưởng Con Thiên Chúa phải nhập thể làm người trong lòng một phụ nữ, và mở mắt chào đời từ cung lòng của một bà mẹ. Do đó, câu chào của bà Eâlisabéth: “Em ơi, em thật có phúc hơn mọi phụ nữ và Giêsu con em được chúc phúc” khiến cho họ khó chịu.

Nhưng đây là một sự thật, một sự thật lịch sử minh chứng cho thấy tất cả cái nghiêm trọng của biến cố Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người và sinh ra từ cung lòng của một người đàn bà trong gia đình nhân loại. Hoa trái tuyệt diệu ấy, Người Con ấy đã do hoạt động và quyền năng của Chúa Thánh Thần nên đã được cưu mang trong cung lòng của trinh nữ Maria.

Nhưng cũng như bất cứ bào thai nào khác, con người được sinh ra trên trần gian đều gắn liền với xác thịt, máu huyết của bà mẹ. Và để nhập thể làm người, Con Thiên Chúa đã cần đến cung lòng của một bà mẹ. Trinh nữ Maria đã không tiếp nhận Ngôi Lời trong linh hồn mình, mà đã tiếp nhận Ngài trong chính thân xác mình, trong chính cung lòng của mình. Và Chúa Giêsu hoa trái tuyệt diệu của ơn cứu rỗi ấy đã trở thành một bào thai, nhận chịu mọi luật lệ tâm sinh vật lý của một bào thai. Thân hình, lớn lên, phát triển trong thời gian, giãy giụa đợi chờ trong lòng Mẹ, được Mẹ nuôi nấng bằng chính máu huyết của bà như bất cứ một thai nhi nào khác. Sự kiện Con Thiên Chúa nhập thể làm người lớn lên từ ấy tỏ hiện rõ ràng qua hình ảnh cụ thể tròn trịa của bụng mẹ mình ngày càng lớn lên trong thời gian. Hoa trái gợi lên trong tâm trí chúng ta hình ảnh thực phẩm để hưởng nếm, để ăn, bồi bổ và nuôi sống. Hoa trái phát sinh từ sự sống và diễn tả sự sống, nó có nhiệm vụ dưỡng nuôi sự sống và không thể có sự sống mà không có hoa trái.

Sự kiện Chúa Giêsu là hoa trái, là bào thai, là sự sống lớn lên trong cung lòng Mẹ Maria, chứng minh Thiên Chúa không phải là một lý thuyết, một tư tưởng hay một giả thuyết. Thiên Chúa cũng không phải là một luận lý mà Ngài là một hoa trái Thiên Chúa ban để dưỡng nuôi, để cứu thế giới này khỏi chết đói. Mẹ Maria đã không nói nhiều mà chỉ im lặng sống cuộc đời bé nhỏ, thầm lặng, ẩn dật, cưu mang Chúa Giêsu trong lòng rồi hiến dâng Ngài cho chúng ta. Sự phong phú không cần lời, ánh sáng không cần lời nói và sự sống với hơi thở và nhịp đập của con tim chính là sứ điệp. Khi tâm hồn càng trống rỗng khô cằn bao nhiêu thì con người càng nhiều người và gây nhiều tiếng động bấy nhiêu.

Kitô hữu là người mang Chúa Kitô trong tâm hồn, nhưng chúng ta chỉ có thể cưu mang Chúa Kitô phong chức và hữu hiệu như Mẹ Maria khi chúng ta biết sống khiêm tốn bé nhỏ, yêu thích chọn lựa con đường và kiểu cách sống bé nhỏ của Thiên Chúa như một tôi tớ, như người khiêm hạ. Kiểu cách chọn lựa con đường gặp gỡ và cứu rỗi nhân loại trên đây cũng được nêu bật trong thư gởi giáo đoàn Do thái hay diễn từ về chức linh mục của Chúa Giêsu.

Biến cố Chúa Giêsu Con Thiên Chúa nhập thể làm người là một biến cố trọng yếu và là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ, bởi vì nó mở cửa ra một kỷ nguyên mới, nó vượt xa quan niệm cũ của Do thái giáo để liên hệ giữa Thiên Chúa và thế giới, giữa con người và Thiên Chúa. Do thái giáo đóng khung các liên hệ này trong đền thánh, trong việc dâng cúng các lễ vật và tuân giữ luật lệ, mặc dầu các sinh hoạt này đã có nhiệm vụ và vai trò rất quan trọng trong lịch sử cuộc sống tinh thần của dân tộc Israel, Chúa cũng không thể trao ban ơn cứu độ cho con người. Nếu muốn được ơn cứu độ, con người phải tìm trở về với chương trình mà Thiên Chúa đã có đối với nó ngay từ thời tạo dựng, nghĩa là trước khi con người phạm tội.

Cần phải nhận biết Thiên Chúa và thánh ý Ngài, và lấy đó làm trung tâm lịch sử đời mình và lịch sử cứu rỗi. Cần phải qui hướng cuộc sống của mình theo chương trình và ý muốn của Thiên Chúa và hoán cải trở về với Ngài. Thái độ sống này đòi buộc chúng ta không được tách khỏi cuộc sống lòng tin ra khỏi các sinh hoạt thường ngày. Bởi vì chúng ta không chỉ là Kitô hữu khi cử hành các nghi lễ phụng vụ mà thôi, nhưng là trong suốt ngày sống, trong mọi công việc khác nhau. Tách rời cuộc sống lòng tin khỏi các sinh hoạt và cung cách hành xử thường ngày là chúng ta khước từ việc tin nhận biến cố nhập thể của Chúa Giêsu. Bởi vì khi nhập thể, Chúa Giêsu chấp nhận qui hướng toàn cuộc sống của Ngài theo thánh ý của Thiên Chúa Cha: “Này con xin đến để thực thi ý Cha”. Và Chúa Giêsu đã sống mọi giây phút đời mình dưới ánh sáng chương trình của Thiên Chúa. Như vậy, khi biết noi gương Chúa Giêsu sống tinh thần nhập thể trọn vẹn ấy, là chúng ta đón nhận sứ điệp Giáng sinh đúng đắn và trọn vẹn nhất vậy.