Chúa Nhật V Phục Sinh - Năm C
TÌNH THƯƠNG
SƯU TẦM

Tất cả chúng ta đều biết: Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ vào chiều ngày thứ năm Tuần Thánh, quen gọi là bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ nhiều điều quí giá. Những lời này được coi là những lời trăn trối đầy thân tình. Đây là những lời tâm huyết rất chân thật và cũng là những chỉ thị cuối cùng của Ngài. Chúa nhắc đi nhắc lại với các môn đệ: Ngài yêu thương họ lắm, Ngài yêu thương họ vô cùng, và Ngài bảo họ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Tại sao Chúa Giêsu lại gọi “yêu thương nhau” là điều răn mới? Mới ở chỗ nào và mới như thế nào?

Tình yêu thương thì xưa như trái đất. Tại sao Chúa Giêsu lại gọi đây là điều răn mới? Đúng thế, khi bắt đầu có con người là có tình yêu thương, và cũng từ đó bắt đầu có lời dạy: hãy yêu thương nhau. Kinh thánh Cựu ước cũng dạy yêu người, nhưng tình yêu đó còn giới hạn và chưa loại bỏ được hết những động lực vị kỷ. Chúa Giêsu đến để hoàn tất Cựu ước. Ngài đưa ra những đòi hỏi mới về tình yêu thương, và đưa tình yêu thương đó lên tột đỉnh mà không ai trong loài người dám nghĩ tới. Chúa Giêsu tuyên bố đây là điều răn mới, trước hết, vì là điều răn của giao ước mới, giao ước được ký kết bằng máu của Ngài để chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với Thiên Chúa và tình yêu của Ngài đối với con người. Và Chúa còn đưa ra một lý do mới nữa, đó là tiêu chuẩn hay kiểu mẫu yêu thương. Cựu ước dạy: “Hãy yêu thương đồng loại như chính mình”, nghĩa là lấy bản thân mỗi người làm tiêu chuẩn: tôi yêu tôi thế nào thì tôi cũng hãy yêu người khác như vậy. Tình yêu đó còn giới hạn và chưa loại bỏ được hết những động lực vị kỷ. Còn Chúa Giêsu dạy: phải yêu thương nhau như chình Ngài đã yêu thương chúng ta. Cách Ngài yêu thương vượt hẳn tiêu chuẩn của Cựu ước, Ngài yêu thương chúng ta hơn chính Ngài. Như vậy, tiêu chuẩn và kiểu mẫu cho chúng ta yêu thương nhau, chính là tình yêu thương của Ngài đối với chúng ta, và tình yêu thương của Ngài là động lực thúc đẩy chúng ta yêu thương nhau. “Yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu” nghĩa là: nếu Chúa đã hiến mạng sống mình vì ta, thì ta cũng phải hiến mạng sống mình vì anh em. Nếu Chúa vốn là Thiên Chúa nhưng đã không dành cho mình chức trọng quyền cao mà đã hiến thân làm người để phục vụ loài người, thì họ cũng phải biết quên mình phục vụ nhau. Nếu Chúa là Thầy và là Chúa mà còn cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, thì đến lượt các ông cũng phải rửa chân cho nhau. Nói cách khác, Chúa Giêsu Đấng mà các môn đệ đã nhận ra là Chúa sau Phục sinh phải là khuôn mẫu cho cuộc sống của họ. Họ phải sống như Ngài đã sống, phải yêu thương như Ngài đã yêu thương. Ngài là qui luật hành động của người môn đệ. Vì vậy, “yêu như Chúa đã yêu” còn có nghĩa là yêu vì đã được Chúa yêu. Thực vậy, Chúa Giêsu chính là hiện thân tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Trọn cuộc đời Ngài, từ khi làm người cho đến khi chết trên thập giá, là yêu thương. Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Người môn đệ sẽ nối bước theo Thầy trên chính con đường Thầy đã đi và vạch ra cho họ thấy. Khi Chúa Giêsu còn sống trên trần thế thì không cần có dấu chỉ mới nhận ra được ai là môn đệ của Ngài. Chỉ cần thấy họ nghe và đi theo Ngài là đủ. Nhưng khi Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình giữa họ nữa, thì làm thế nào mà những người không tin có thể nhận ra họ là người môn đệ của Chúa? Theo thánh Gioan, chỉ có một tiêu chuẩn duy nhất, đó là lối sống được xây dựng trên tình yêu huynh đệ, một tình yêu thực sự bằng việc làm chứ không phải nơi đầu môi chót lưỡi. Một cộng đoàn Kitô hữu nếu muốn được nhận ra là một cộng đoàn của Chúa, thì phải chứng minh bằng đời sống thấm nhuần tình yêu thương nhau. Không có một dấu chỉ nào khác có thể thay thế dấu chỉ ấy, dầu là nghi lễ, lề luật hay những biểu thức đức tin. Nhìn vào dòng lịch sử, chúng ta thấy yêu thương nhau vẫn là một nét tiêu biểu của các tín hữu buổi sơ khai. Sách Công Vụ Tông đồ cho thấy: họ coi mọi sự như là của chung. Họ đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới đền thờ cầu nguyện và bẻ bánh, cùng nhau chia sẻ của ăn nuôi thân. Ông Tetulianô đã ghi nhận về cộng đoàn các Kitô hữu thời sơ khai như sau: “Dân chúng nhìn họ, tức các Kitô hữu, và nói về họ rằng: “Hãy xem họ yêu thương nhau biết bao và sẵn sàng hiến mạng cho nhau chừng nào”. Những người ở ngoài gọi họ là Kitô hữu, nhưng họ vẫn gọi nhau là anh em”. Đó là cộng đoàn Kitô hữu sơ khai ở Giêrusalem. Gần chúng ta hơn, ở Việt Nam, cha Gaspar d’Amaral đã ghi nhận về cộng đoàn tín hữu đầu tiên ở Thăng Long, Việt Nam chúng ta sau năm năm truyền giáo đầu tiên như sau: “Giáo hữu ở đây có chừng hơn một ngàn. Họ yêu thương nhau đến nỗi những người ngoại ở chung quanh, vì không biết gọi tên đạo mới là gì, nên căn cứ vào cách sống của họ mà gọi họ là “Những người theo đạo yêu nhau”. Là con cháu của thế hệ Kitô hữu theo đạo yêu nhau ấy, chúng ta hãy tự hỏi: những người chung quanh hôm nay nhìn vào cách sống của chúng ta họ có nhận ra chúng ta là những người theo “đạo yêu nhau” không? Thiết tưởng không có gì phản chứng hơn trước mặt mọi người, khi các Kitô hữu bất hoà, chia rẽ nhau, thậm chí bài xích và loại trừ nhau. Rất có thể người ta thấy chúng ta chuyên cần nghe giảng, siêng năng đi lễ và cầu nguyện, nhưng lại không có sự hiệp thông huynh đệ, đồng tâm nhất trí với nhau. Điều đó đã và đang xảy ra nơi mỗi người chúng ta, gia đình chúng ta và cộng đoàn chúng ta chăng? Thiên Chúa là tình yêu, đạo Thiên Chúa đạo là tình yêu. Chúng ta hôm nay cũng phải tiếp tục làm chứng cho mọi người thấy đạo Thiên Chúa là đạo yêu nhau. Trong những năm gần đây, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng thường đề cập đến một nền văn minh tình thương. Thực vậy, con người chỉ được coi là văn minh khi biết bước ra khỏi sự man rợ của thú tính, khi biết sống yêu thương và nhìn nhận kẻ khác cũng là người như mình, bất chấp những khác biệt về chủng tộc, màu da, tôn giáo hay quan điểm chính trị. Xây dựng một nền văn minh dựa trên tình thương đó là bổn phận cấp bách của người kitô hữu hôm nay. Và đó cũng là ý muốn của Chúa Giêsu khi Ngài nói với chúng ta: “Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau”.