Chúa Nhật V Phục Sinh - Năm C
YÊU THƯƠNG
SƯU TẦM

Tình yêu là gì? Nó có phải là thứ mà tất cả chúng ta đều khao khát không? Điều chắc chắn rằng mỗi chúng ta ai cũng muốn yêu và được yêu. Vì thế, tình yêu trở nên một đề tài muôn thuở, nhất là vào thời bây giờ, nó là một mặt hàng đắt khách. Tình yêu xuất hiện trên sách vở, báo chí, phim ảnh, mọi ngành nghệ thuật những bản tình ca, tạp chí chuyên đề về tình yêu vẫn thu hút mọi người. Có vẻ như tình yêu hiện diện khắp nơi và chi phối đời sống nhân loại. Thế nhưng sự thật lại khác hẳn. Con người hôm nay đã dùng chính sức mạnh để triệt tiêu lẫn nhau thay vì phải dùng chính nó để kiến tạo nên hoà bình và yêu thương.

Sức mạnh đích thực của con người không nằm trong khả năng chinh phục hay đàn áp kẻ khác để chứng tỏ quyền lực của một kẻ mạnh trên một kẻ yếu, mà chính là trong khả năng có thể chế ngự được chính mình, vượt thắng sự ích kỷ để hiến mình cho tha nhân. Đó là điều mà Chúa Giêsu đã thể hiện qua cuộc sống và nhất là qua cái chết của Ngài. Chúa Giêsu đã chứng tỏ sức mạnh vô biên của tình yêu. Vì thế, Ngài mới có thể để lại cho chúng ta một điều răn mới như một lời di chúc: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Yêu thương nhau là điều răn mới của Chúa Giêsu. Tại sao mới? Mới ở chỗ nào? Từ ngàn xưa, văn hoá Á Đông từng nêu câu châm ngôn: “Tứ hải giai huynh đệ” (bốn bể là anh em) và đạo lý cha ông cũng răn dạy: “Thương người như thể thương thân”. Luật Cựu ước cũng thừa nhận luật tự nhiên đó khi dạy: “phải yêu người thân cận như chính mình”. Người thân cận ở đây đối với người Do thái chỉ là anh em bà con ruột thịt không phải là tất cả mọi người. Điều răn này đối với Kitô hữu hôm nay vẫn là điều quan trọng nhất mà họ phải giữ khi sống với tha nhân. Nhưng với Chúa Giêsu, “yêu thương nhau” là điều răn mới, nó mới bởi vì:

Trước hết, đối tượng của tình yêu thương là tất cả mọi người, không loại trừ ai kể cả kẻ thù nữa, không phân biệt chủng tộc, màu da, tiếng nói và tôn giáo. Đó là nét đặc thù của điều răn này. Tiếp theo, nó còn mới ở chỗ có tính đòi hỏi hơn, vì dựa trên một tiêu chuẩn cao hơn, tiêu chuẩn của tình yêu thương là chính tình yêu của Thiên Chúa. Luật Cựu ước dạy: “Hãy yêu người thân cận như chính mình” tức là lấy bản thân mình làm tiêu chuẩn. Còn Chúa Giêsu dạy phải yêu thương như Ngài đã yêu thương chúng ta, tức là phải lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn, làm kiểu mẫu cho tình yêu của chúng ta. Ngài yêu ta đến nỗi tự ý nộp mình chịu chết vì ta. Sau hết, điều răn này được coi là mới, vì nó gắn liền với giao ước mới, giao ước đã được thiết lập trong Máu Đức Giêsu. Đây không phải là điều răn được khắc trên bia đá, nhưng được ghi vào tâm hồn các Kitô hữu do tác động của Chúa Thánh Thần. Như vậy, điều răn “yêu thương” chỉ thực sự là mới khi mỗi Kitô hữu phải yêu thương người như Chúa yêu.

Sự thật yêu người như chính mình đã khó, nhưng yêu người như Chúa yêu lại càng khó hơn. Vì thế khoảng cách vẫn còn đó từ chỗ biết đến chỗ sống. Chúng ta vẫn thích lấy lòng mình làm thước đo tình yêu dành cho tha nhân – người ta đối xử với tôi thế nào, tôi đối xử lại như vậy. Yêu người chỉ vì người đó xinh đẹp, dễ thương để cuối cùng cũng chỉ là tình yêu vụ lợi, chiếm đoạt cho riêng mình. Một tình yêu như thế thì không thể bước qua được mọi cản trở của tình yêu: vong ân, báo oán nhưng có thể vượt qua nếu yêu bằng tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa.

Gandhi, một vị cha già của dân tộc An Độ đã vĩnh viễn nằm xuống sau nhát gươm của một thanh niên quá khích, vì anh ta không thể chấp nhận sự kiện vị cha già ấy bày tỏ lòng quảng đại yêu thương ngay cả những người Hồi giáo. Hàng triệu người An Độ than khóc, để tang vì dân tộc đã mất đi một con người vĩ đại, trường kỳ lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập cho tổ quốc mà không hề dùng đến khí giới của bạo động và hận thù.

Cũng thế, mẹ Têrêxa đã dùng chính khí giới của tình thương để cho những người không nhà không cửa, những mảnh đời đang hấp hối nơi đầu đường xó chợ được sống và chết như những con người. Vì sống yêu thương, mẹ Têrêxa đã cảm nhận được cõi thẳm sâu niềm khao khát được yêu thương của người bất hạnh. Mẹ kể “Khi ở Luân Đôn, tôi có dịp đến thăm những người vô gia cư mà các nữ tu của chúng tôi săn sóc tại một trung tâm phân phát thức ăn. Một người đàn ông nọ, mà nơi cư trú là một thùng giấy cứng, cầm lấy tay tôi rồi nói: “Đã lâu lắm rồi tôi mới cảm nhận được hơi ấm của một bàn tay”. Mẹ nói tiếp, yêu thương không phải là thương hại. Điều quan trọng không phải là tiền, của cải, mà hãy đưa bàn tay ra ngồi bên cạnh họ, tiếp xúc diện đối diện.

Những mẫu gương trên đây là những phản ảnh của một tình yêu trọn vẹn hơn, đó là tình yêu đi bước trước, hoàn toàn phục vụ trong khiêm tốn và chịu chết cho người mình yêu của Đức Giêsu. Vì thế bác ái đích thực chỉ có một kiểu mẫu chính là Ngài: mỗi Kitô hữu hãy sống cho tình yêu đó: Yêu thương như Chúa yêu thương. Nếu có ai trong chúng ta đang nhiệt tình trong các công việc từ thiện, phân phát cho đi một cái gì, hăng say hoạt động rao giảng hoặc đảm nhận việc này, việc khác… điều đó rất tốt nhưng chúng chỉ có ý nghĩa đích thực và bác ái Kitô giáo khi chúng ta làm chỉ vì yêu thương mà thôi, chứ không vì những gì có thể nhận lại, thi hành mọi việc phải làm với lòng tự nguyện, bằng một tinh thần hy sinh và lòng quảng đại vì những va chạm, bất đồng ý kiến là điều không thể tránh khỏi: mọi thành kiến, hận thù và lòng ganh tị là những thứ cản trở cho tinh thần hợp tác trong cộng đoàn giáo xứ, gia đình, đoàn thể… Đồng thời làm phân hoá, đổ vỡ tình yêu thương và bác ái đối với nhau.

Hãy tha thứ cho nhau vì những thiếu sót hạn chế nơi mỗi người là điều kiện để có thể đến gần nhau hơn, sống hiệp nhất vì Chúa đã yêu ta qua mầu nhiệm Nhập thể, sống quên mình quan tâm đến tha nhân vì Đức Kitô đã hiến mình cho nhân loại và phải trở nên sức sống cho người khác sẵn sàng phục vụ vì Chúa đã yêu ta qua Bí tích Thánh Thể.

Tóm lại: Điều răn mới của Chúa Giêsu là “Anh em hãy yêu thương nhau như Ngài yêu thương”. Quả thật, một tình yêu có ranh giới là yêu thương không có ranh giới, nghĩa là không chỉ cho đồng bào ruột thịt, mà là cho mọi người hết thảy.

Ước gì mỗi Kitô hữu chúng ta luôn biết sống trọn vẹn điều răn yêu thương. Điều đó sẽ trở nên dấu chỉ cho một tình yêu Kitô giáo đích thực.