Chúa Nhật V Phục Sinh - Năm C
GIỚI RĂN YÊU THƯƠNG
Flor McCarthy

Suy Niệm 1. ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC

(Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)

Viết về kinh nghiệm của mình ở Auschwitz, Elie Wiesel nói rằng người Đức đã nỗ lực làm cho các tù nhân quên hết người thân và bạn bè mà chỉ nghĩ đến mình và chỉ nhắm đến các nhu cầu của mình hoặc họ phải chết. Điều đó khiến họ nói đến các nhu cầu ấy cả ngày lẫn đêm. Nhưng điều ngược lại đã xảy ra. Những người nào chỉ sống cho mình, ít có cơ may sống sót, trong khi người nào sống cho người thân, bạn hữu, anh em, một lý tưởng đã có cơ may tốt hơn để được sống còn. Người ta sống nhờ những gì mà người ta cho đi.

Tính ích kỷ làm cho chúng ta khép kín tâm hồn, nó hạn chế chúng ta. Nó dựng lên các rào cản, cả những bức tường giữa chúng ta và những người khác. Điều giải phóng chúng ta khỏi sự giam hãm ấy là mỗi tình cảm sâu sắc, quan trọng đối với những người khác. Trở nên bạn hữu, anh em và chị em, người yêu là điều sẽ mở cửa nhà tù. Tình yêu thương giải phóng chúng ta khỏi tù ngục của tính ích kỷ.

Brian Keenan trải qua bốn năm bị giữ làm con tin ở Li-băng. Sau đó, ông đã viết:

“Chỉ khi chúng ta vượt qua chính mình để cứu mạng, hiểu biết và sau cùng khắc phục nỗi đau của người khác mà chúng ta trở thành chúng ta trọn vẹn. Chúng ta trở nên cởi mở và phong phú khi nhận ra nỗi đau của người khác và tiến đến cảm nhận và cưu mang”.

Tình yêu luôn luôn đòi hỏi điều tốt nhất của chúng ta và thể hiện điều tốt nhất trong chúng ta. Được yêu thương cho người ta một lòng can đảm và năng lực lạ lùng. Khi yêu cũng thế, người ta nói: tình yêu và năng lực sẽ được ban cho bạn, ở đâu có tình yêu lớn, ở đó luôn có phép lạ. “Tình yêu là ngọn lửa sưởi ấm linh hồn chúng ta, đem lại năng lực cho tinh thần và cung cấp đam mê cho đời sống của chúng ta. Nó là sự liên kết của chúng ta với Thiên Chúa và người khác” (Elizabeth Kubler-Ross).

Khi bước vào nhà tù, Oscar Wilde nói: “Bằng mọi giá, tôi phải giữ gìn tình yêu thương trong lòng tôi. Nếu tôi vào tù mà không có tình yêu thương thì linh hồn của tôi sẽ ra sao?”.

Nếu không có tình yêu thương, người ta sẽ là gì? Những người không muốn yêu thương đều có đời sống nghèo nàn. Nhưng những người sống yêu thương, có một đời sống phong phú và hiệu quả. Mục đích của đời sống là gì nếu không phải là yêu thương? “Chúng ta đã được đặt vào trần gian ngắn ngủi để học toả sáng tình yêu thương” (William Blake). Giải thoát khỏi tính ích kỷ và có khả năng yêu thương người khác – đó là ý nghĩa của đời sống.

Một bác sĩ, được chia sẻ những giây phút thâm sâu nhất của nhiều cuộc đời nói rằng, con người đối diện với cái chết không còn nghĩ gì về mức độ họ đã thu được, hoặc họ nắm giữ những địa vị nào, hoặc đã tích trữ được bao nhiêu của cải. Vào lúc cuối cùng, điều thật sự quan trọng là bạn đã yêu thương ai và ai đã yêu thương bạn.

Những người chọn lựa yêu thương mở rộng tâm hồn mình cho những hạnh phúc lớn hơn những người không bao giờ biết đến yêu thương. Yêu thương là hạnh phúc. Nó làm chúng ta sung mãn. Từ chối yêu là bắt đầu chết. Yêu thương là bắt đầu sống. Trong lúc đức tin làm cho mọi sự thành có thể, tình yêu làm cho mọi sự được dễ dàng. Yêu thương chữa lành mọi người –cả kẻ cho lẫn người nhận.

Suy Niệm 2. SỰ PHONG PHÚ CỦA YÊU THƯƠNG

Ngày nay, hơn bao giờ hết, chúng ta biết bản tính phức tạp của con người, và cả những động lực liên kết đàng sau mỗi việc chúng ta làm. Ít nhất có năm loại yêu thương.

Loại thứ nhất là yêu thương vụ lợi. Chúng ta yêu thương người khác bởi vì họ có ích cho chúng ta. Nhưng như thế giống với tình ích kỷ hơn là tình yêu. Tôi muốn có một vật nào đó của bạn, nhưng tôi không muốn có bạn.

Loại thứ hai là yêu thương lãng mạn. Đó là loại tình cảm hướng chúng ta về người khác bởi vì niềm vui thích mà người khác đem lại cho chúng ta. Chúng ta say mê người khác. Nhưng đó không phải là tình yêu. Chúng ta tưởng rằng mình yêu người khác, nhưng thật ra, chúng ta yêu chính mình. Thông thường tình yêu này không kéo dài, đó là lý do làm cho một số các cuộc hôn nhân thất bại.

Loại thứ ba yêu thương có tính chất dân chủ, đặt trên nền tảng bình đẳng theo luật pháp. Chúng ta tôn trọng những người khác vì họ là những công dân. Chúng ta thừa nhận tự do của họ để ngược lại, tự do của chúng ta cũng được thừa nhận. Lý do chúng ta góp phần vào điều tốt cho người khác là niềm hy vọng được đáp lại bằng điều tốt.

Loại thứ tư là yêu thương nhân bản. Đó là tình yêu dành cho nhân loại nói chung. Nhược điểm của nó là một tình yêu trừu tượng không có gì cụ thể: “Tôi yêu nhân loại, nhưng tôi không thể dính dáng gì với họ”.

Loại thứ năm là tình yêu Kitô giáo, tóm tắt trong giới răn: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em”. Ở đây chúng ta đang nói về tình yêu thương vô vị lợi, yêu thương cả khi chúng ta không được gì trong tình yêu ấy. Tình yêu ấy vẫn luôn tồn tại cho dù bị thù ghét và bách hại. Nó không phải là một nhiệt tình đột biến, nhưng là một quan hệ bền vững. Nó biểu lộ trong việc phục vụ, yêu mến và hy sinh bản thân. Loại yêu thương này chỉ có thể hoàn thành với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần.

Người ta nói rằng nếu bạn làm một công nghiệp tốt, nhưng có một hậu ý không nói ra thì tốt hơn không làm. Nhưng việc bác ái là ngoại lệ duy nhất. Cho dù người ta làm việc bác ái với một lý do không rõ ràng thì nó vẫn là một hành động tốt và đem lại lợi ích cho người khác, lý do của bạn không có gì quan trọng. Ngoài ra, việc tính ích kỷ và lòng quảng đại cùng có mặt trong chúng ta làm cho điều tốt mà chúng ta thực hiện càng được đáng khen. Nó đến từ một cuộc tranh đấu.

Người ta thường xem vấn đề yêu thương là được yêu thương hơn là trở thành một con người yêu thương. Vì thế, mọi nỗ lực của người ta là làm cho mình dễ thương, khả ái bằng việc đạt đến sự thành công, có vẻ đẹp mê hồn, có quyền lực hoặc giàu có… Và như thế sau cùng họ không có tình yêu thương, bởi lẽ họ được yêu thương không phải vì chính họ mà vị sự vật họ có, hoặc sự nghiệp họ đã hoàn thành. Nhưng nếu họ trở thành một con người yêu thương, họ có thể được yêu vì chính họ. Và sau cùng, mọi người chúng ta muốn được yêu vì chính mình. Những ai không được yêu thì tìm cách cho người ta ngưỡng mộ mình.

Có ba tình trạng: (1) Không yêu thương và không được yêu thương, điều này xem ra giống hoả ngục trần gian. (2) Yêu thương nhưng không được yêu thương đáp lại –dù đây là điều đau khổ nhưng vẫn tốt hơn tình trạng đầu tiên. (3) Yêu thương và được yêu thương –đây là tình trạng được chúc lành mà Đức Giêsu đã vui hưởng: “Như Cha Thầy đã yêu mến Thầy, cũng thế Thầy đã yêu mến anh em!”.

Yêu thương biểu lộ điều tốt nhật trong con người đang yêu. Người ta sống trong sự tốt lành nhất và rực rỡ nhất khi yêu. Họ giống như một ngọn đèn toả sáng. Tình yêu là một chọn lựa chớ không phải là một cảm nhận. Nhưng từ chối yêu thương là bắt đầu chết. Điều tệ hại nhất là sự dửng dưng lạnh giá.

NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÁC:

1. Một ông nọ người Hy Lạp, năm mươi tuổi đã chết trong một nhà tế bần ở New York. Ông đã có một đời sống tốt lành, theo lời ông nói. Ông đã muốn có lại một đời sống tốt đẹp, muốn vui vẻ bỏ bớt tiền bạc và sức khoẻ để thực hiện điều ấy ở Mỹ, chỉ cần ông có thể có lại vợ con, gia đình và có lại tình yêu thương ngày nào. Tình yêu đã là một điều quan trọng trong đời sống. Chính tình yêu đã giữ cho mọi sự vật, ở bên nhau và đem lại ý nghĩa cho đời sống.

Hôm trước ngày ông mất, ông đã nhắn lại cho những thành viên của gia đình mà theo lời ông hay gây gổ và xung khắc nhau. Ông nói với họ một cách nghiêm trang rằng họ phải học yêu thương nhau, phải cố gắng nhiều hơn để sống yêu thương. Yêu thương là tất cả, tất cả. Họ phải tin vào điều đó, vì đó là lời nói của người sắp chết.

Đức Giêsu đã nói những lời tương tự cho các bạn hữu của Người trong đêm trước khi Người chết. Người đã cho họ một sứ điệp đơn giản, rõ ràng: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

2. Người ta kể câu chuyện về một cậu bé mười hai tuổi tên Stephen. Cậu bị què vì bệnh viêm tuỷ xám. Cậu có một em trai Mark, mười tuổi. Như những đứa con trai khác, chúng thường đánh nhau, nhưng trong thâm tâm, chúng vẫn đối xử tốt với nhau. Thỉnh thoảng Stephen ganh tỵ với em mình có đôi chân mạnh khoẻ.

Một đêm kia, nó nằm mơ thấy mình ở trong rừng sâu và huyền bí. Ở đó, nó đến một hang động tối đen. Giữa hang động một ngọn lửa cháy sáng. Kế đó, từ bóng tối một người mặc áo choàng dài bước ra. Ông ta nói với Stephen, ông là thần của khu rừng và để thưởng cho người nào tìm ra hang động, người ấy sẽ có một lời ước được thực hiện –chỉ một lời ước thôi cho dù là ước muốn điều gì.

Stephen không cần nhiều thời gian để suy nghĩ. “Tôi muốn có một đôi chân khoẻ mạnh” nó nói. Lúc đó, ông thần bỏ áo choàng ra và trước khi Stephen hiểu được ý nghĩa, nó thấy mình nằm lại trên giường. Em nó nằm ngủ ở giường bên cạnh với những tiếng thở đều đều. Ông thần giở cái chăn ra khỏi đôi chân của Mark.

“Ông định làm gì?” Stephen hỏi.

“Tôi sẽ bắt đầu cuộc phẫu thuật” Ông thần nói.

“Cuộc phẫu thuật gì?”.

“Chuyển đổi. Khi cuộc phẫu thuật hoàn tất, cậu sẽ có đôi chân của Mark còn nó sẽ có đôi chân của cậu. Nhưng đừng lo. Không ai biết được đâu, người ta sẽ nghĩ rằng mọi việc vẫn như cũ”.

“Tôi không bao giờ nghĩ mọi việc vẫn như thế” Stephen nói.

“Cậu chắc không mong tôi lôi đôi chân khoẻ từ trong không khí ra đó chứ?”.

Nhưng Stephen ở trong tình trạng xúc động mạnh. Một hình ảnh loé ra trong tâm trí cậu. Cậu thấy chính mình tự do chạy nhảy còn phía sau cậu, em Mark của cậu kéo lê đôi chân của nó. Cậu không thể làm điều đó cho đứa em trai của mình. “Tôi không muốn điều đó” cậu hét to.

Khi nghe tiếng hét, ông Thần già tức giận bỏ đi. Stephen vui mừng khi nhìn lại mình. Sáng hôm sau, cậu thức dậy và nhìn sang em cậu. Nhớ lại giấc mộng, cậu mỉm cười. Từ ngày đó trở đi cậu không bao giờ cảm thấy ganh tỵ với em cậu và yêu thương nó hơn bao giờ hết.

Stephen muốn sống hạnh phúc nhưng không phải bằng cái giá là gây ra đau khổ cho em trai cậu. Hạnh phúc thật chỉ tìm thấy trong tình yêu vô vị lợi. Yêu thương là đặt người khác đừng trước mình.