Chúa Nhật IV Phục Sinh - Năm C
CHÚA CHIÊN NHÂN LÀNH

JM. Lam Thy ĐVD.

Nói đến chiên cừu là nói đến những động vật dễ thương, gần gũi với con người, đặc biệt là dân Do-thái. Ngoài những thứ chúng cung ứng cho tiện nghi sinh sống của con người (như sữa, lông, da, thịt), còn một điều ít có con vật nào có được là chiên còn được dùng trong những dịp lễ lạc của đời sống tâm linh (sát tế, tế thần, lễ vật toàn thiêu). Cũng vì thế nên hình ảnh con chiên thường được dùng để nói về những con người tin vào Thiên Chúa, được Người chăn dắt tận tình ("Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt" – Is 40, 11; "CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm" – Tv 23, 1-4).

Không chỉ những tín hữu là con chiên của Thiên Chúa, mà chính Đức Giê-su Ki-tô  – Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật – khi vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người, chịu sát tế để cứu chuộc nhân loại, thi Người cũng là một Con Chiên – Chiên Thiên Chúa – như lời khẳng định của Thánh Gio-an Tẩy Giả: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.” (Ga 1, 29). Như vậy, Thiên Chúa đã thương yêu con cái của mình, coi chúng như đoàn chiên ngoan ngoãn dễ thương, nên mới ban Con Một xuống thế để chăn dắt đoàn chiên đó (“Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” Ga 10, 11).

Khi nói đến vấn đề chăn nuôi súc vật (mục vụ:   ), thường có 2 dạng: có thể người chăn nuôi (mục tử:  ) ấy là chủ thực sự của đàn súc vật, và cũng có thể là người làm thuê (do người chủ mướn trông coi đàn súc vật). Cũng có những người làm thuê tận tuỵ với công việc bằng một tình cảm thương yêu, chăm sóc đàn súc vật mà mình trông coi mướn như là của chính mình, hơn là vì đồng lương, tiền công mà chủ trả cho hàng tháng, hàng năm. Tuy nhiên, số này rất hiếm, đa số những người làm thuê thường chỉ làm vịêc cho tương xứng với tiền công, như một sự trao đổi sòng phẳng (một bên bỏ ra tiền của, một bên bỏ ra công sức). Vì thế những người làm thuê không thể sánh với chủ nhân của đàn súc vật đó. Người chủ chăn không chỉ vì những lợi ích vật chất do đàn súc vật mang lại, nhất là khi đàn súc vật đó lại là những con chiên đẹp đẽ, ngoan hiền, dễ thương, thì người chủ còn coi đàn chiên như những đứa con em máu mủ của mình. Nói khác đi, người chủ chăn (chúa chiên) không chỉ vì nhu cầu vật chất, mà còn coi đó là bổn phận, và hơn thế nữa là trách nhiệm của mình (lo lắng thực phẩm, săn sóc bệnh tật, thậm chi còn sẵn sàng bênh vực, che chở chúng trước những nanh vuốt kẻ thù như sói lang ác hiểm).

Bài Tin Mừng  hôm nay (CN IV/PS-C – Ga 10, 27-30) trình thuật câu chuyện một đám người Do thái cố tình dồn Đức Giê-su vào một thế kẹt để họ dễ dàng lên án Người. Lúc đầu chỉ là câu hỏi như kiểu nêu thắc mắc đòi được giải đáp ("Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết." – Ga 10, 24). Cũng vì trước đó khi nghe Đức Giê-su nói “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10, 14-15), thì đám người Do-thái này đã nói: "Ông ấy bị quỷ ám và điên khùng rồi! Nghe ông ấy làm gì?" (Ga 10, 20); nên Đức Giê-su quá hiểu mục đích của đám người này không phải muốn được giải toả thắc mắc để họ có thể tin vào Đức Giê-su chính thực là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật; mà họ chỉ muốn nhân cơ hội kết án Người là phạm thượng, rồi ném đá Người (Ga 10, 31-33). Vì thế, khi trả lời họ, Đức Ki-tô đã nhấn mạnh: "Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi.” (Ga 10, 25-26).

Sau khi xác định đám người “cơ hội” Do thái không thuộc đoàn chiên của mình, Đức Giê-su lại tiếp tục nói về đoàn chiên mà Người thương mến: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một.” (Ga 10, 27-30). Người đã lấy hình ảnh rất dễ thương của đàn chiên để chỉ những môn đệ và những kẻ tin theo Lời Người; đồng thời Người cũng xác định chính Người là Đấng chăm lo chăn dắt đàn chiên đó – Người chính là vị Chúa Chiên nhân lành.

Hiểu sâu vào vấn đề, thì vị Mục Tử nhân lành ấy được Chúa Cha sai đi chăn dắt con người về đường linh thiêng, nên còn gọi là linh mục, và chính Đức Ki-tô là Linh Mục Thượng Phẩm, Linh Mục Duy Nhất như Tông huấn Ki-tô Hữu Giáo Dân (Ch. I, số 14) đã viết: “Thánh Augustinô viết: ‘Cũng như chúng ta tất cả được gọi là Kitô-hữu (Christiani) vì đã được xức dầu (Chrisma) một cách thiêng liêng, do đó tất cả được gọi là linh mục, bởi vì chúng ta là thành phần thân thể của Linh Mục Duy Nhất’ (De Civitate Dei - XX, 10)." Về lý thuyết thì tất cả mọi Ki-tô hữu đều là linh mục (tư tế cộng đồng), nhưng thực tế để có thể điều hành hoạt động của Giáo Hội thì lại rất cần có hàng ngũ những người trực tiếp thừa kế (tư tế thừa tác) sứ vụ của Linh Mục Duy Nhất Giê-su Ki-tô, thông qua Ơn Thiên Triệu – Bí tích Truyền Chức ("Danh từ "hàng Linh Mục" đươc chọn với mục đích để chỉ định toàn thể hàng ngũ Linh Mục. Chúa Giê-su đã cho toàn thể Dân Chúa tham dự vào chức linh mục của Người nhưng Người còn muốn thiết lập những "thừa tác viên" của Người, những người này nhờ bí tích Truyền Chức được quyền dâng thánh lễ, quyền tha tội và thực hành chức vụ linh mục nhân danh Chúa Ki-tô" – Sắc lệnh "Chức vụ và đời sống các linh mục", số 2).

Hai chức vụ tư tế đó quan hệ khăng khít với nhau, chức vụ này vừa là tiền đề vừa là kết quả của chức vụ kia và ngược lại. Lý do cũng dễ hiểu: không thể có những phần tử lãnh nhận chức vụ tư tế thừa tác nếu không có hàng ngũ tư tế cộng đồng, ngược lai hàng ngũ tư tế cộng đồng muốn không bị khủng hoảng để đi đến tan rã, cũng rất cần thiết phải có người trông coi, chăm sóc, đó là những tư tế thừa tác. Nói cụ thể hơn, không có Giáo dân (đoàn chiên của Chúa) thì không thể có Linh mục, mà không có Linh mục thì đoàn chiên sẽ bị xẻ đàn tan nghé ngay. Tư tế cộng đồng (Giáo dân) hay tư tế thừa tác (Linh mục) thì cũng đều là con người, mà nói về con người thì nhân vô thập toàn”, không một cá nhân nào được thập phần hoàn hảo, có ưu điểm thì cũng có khuyết điểm, đó cũng là lẽ tất nhiên.

Trong  đoàn chiên của Chúa có rất nhiều những con chiên ngoan hiền dễ thương, biết vâng nghe lời chủ, thì cũng không thiếu những con chiên lạc đàn, chạy theo bầy sói dữ, thậm chí còn quay lại chống trả và giết hại cả chủ chăn (mục tử). Cũng vậy, trong hàng ngũ mục tử – những thừa tác viên kế nghịêp Mục tử nhân lành Giê-su Ki-tô – có rất nhiều những mục tử xứng đáng với vai trò và trách vụ của mình đã được chính Đức Ki-tô trao phó trong bữa Tiệc Ly ("Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en." – Lc 22, 29-30); nhưng cũng vẫn còn những mục tử bất trung, phạm những lỗi lầm nghiêm trọng, như "Thư của ĐTC Biển Đức XVI gởi các linh mục nhằm thiết lập năm linh mục" ngày 16/6/2009, viết : "Bất hạnh thay, cũng tồn tại những hoàn cảnh, không bao giờ lấy làm tiếc đủ, mà chính Giáo Hội phải chịu vì sự bất trung của một số thừa tác viên của mình. Và đối với thế giới, đó là một cái cớ gương mù và khước từ.” (xin coi thêm "Thư đề ngày 20/3/2010 của ĐTC Biển Đức XVI gửi Giáo Hội Ai-len" v/v một số linh mục xâm phạm tình dục trẻ em).

Nói chung thì hàng ngũ mục tử cũng như hàng ngũ con chiên đều không thoát khỏi cảnh có những mục tử xấu, những con chiên ghẻ làm “gương mù và khước từ” ân sủng của Thiên Chúa. Chúng ta không quá lạc quan để cho rằng đoàn chiên của Chúa cũng như những vị mục tử thừa kế sứ vụ của Đức Giê-su Ki-tô, tất cả đều tốt lành, hoàn hảo; nhưng đồng thời cũng không quá bi quan để cho rằng tất cả đều xấu. Vâng, “Trong những trường hợp như thế, những gì có thể là ích lợi cho Giáo Hội, đó không chỉ là nhận ra đầy đủ những yếu đuối của các thừa tác viên của mình, nhưng còn là một ý thức mới mẻ và phấn khởi về sự cao cả của ân huệ của Thiên Chúa, được cụ thể hóa nơi những hình ảnh sáng ngời của những mục tử quảng đại, những tu sĩ rực cháy tình yêu đối với Thiên Chúa và các linh hồn, những vị linh hướng sáng suốt và kiên nhẫn." (ĐTC Biển Đức XVI – “Thư thiết lập Năm Linh Muc 2009”).

Bài Tin Mừng CN tuần trước (CN.III/PS-C) trình thuật về phép lạ “Mẻ cá lớn” có một chi tiết rất đáng lưu ý, đó là: Sau phép lạ, Đức Giê-su hỏi thánh Phê-rô ba lần liền "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Ba lần chỉ với một câu hỏi, khi nghe Phê-rô trả lời câu đầu tiên thì Đức Giê-su nói "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy" (Ga 21, 15). Điều này cho thấy Đức Ki-tô muốn thánh Phê-rô với tư cách mục tử hãy chăm sóc đàn chiên con. Nếu đã có “chiên con” (giáo dân). thì tất nhiên phải có “chiên mẹ” (linh mục), nên hai lần sau, Đức Giê-su chỉ nói ngắn gọn: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy." (Ga 21, 17). Lần này thì Đức Ki-tô muốn thánh Phê-rô trông coi cả đoàn chiên (trong đó có chiên mẹ và chiên con), tức là trông coi cả Giáo Hội như Người Mục Tử Nhân Lành đã làm ("Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt" – Is 40, 11).

Có lẽ vì trong ràn chiên Giáo Hội có cả chiên mẹ (linh mục) và chiên con (giáo dân) nên giáo dân Việt Nam thường dùng tiếng “cha” để gọi các linh mục; mặc dù Chúa dạy không được gọi ai bằng cha hay bằng thầy, vì chỉ có một người Cha duy nhất ở trên trời, và chỉ có một người Thầy duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô (Mt 23, 8-10). Với tiếng cha thân thương dành cho các linh mục như vậy, giáo dân VN luôn mong mỏi các linh mục hãy coi đoàn chiên như con cái, đồng thời hãy coi mình có bổn phận và trách nhiệm của bậc cha mẹ, mà chăm sóc, bảo vệ đoàn chiên. Tuy nhiên, từ cái ưu điểm ấy, cũng nảy sinh những hạn chế. Đó là giáo dân vì gọi linh mục là cha, nên mang một mặc cảm tự ti, luôn e dè – thậm chí sợ sệt – mà không dám gần gũi, cộng tác, sẻ chia trong sứ vụ chung; đồng thời về phía linh mục, cũng có một số tự cao, tự đại coi mình là "cha thiên hạ", không thèm lắng nghe ý kiến từ giáo dân, thậm chí còn coi mình là nhân vật "bất khả xâm phạm, bất khả thay thế" nữa. Số người ấy (từ cả hai phía giáo dân và linh mục) tuy không nhiều, nhưng không phải là không có.

Ý thức được vấn đề như vậy, người Ki-tô hữu hãy cầu xin cho mọi thành phần của Giáo Hội sống đúng và sống trọn vẹn vai trò của mình: Ai được chọn làm mục tử thì luôn luôn phải là người mục tử tốt lành theo gương Mục Tử Nhân Lành Giê-su Ki-tô; còn đoàn chiên con phải luôn biết đoàn kết thương yêu nhau, cùng nghe theo tiếng nói đích thực của vị Mục Tử Nhân Lành Giê-su thông qua các mục tử trong ràn chiên Giáo Hội, để ai nấy đều "được sống và sống dồi dào" Tình Yêu của Chiên-Sát-Tế-Giêsu-Kitô, ngõ hầu đổi mới cuộc đời, “giải thoát nó khỏi bóng tối và sự dữ” như lời dạy của ĐTC Phan-xi-cô I trong bài Giáo Lý thứ hai về Năm Đức Tin (ngày 10/4/2013): “Là một Ki-tô hữu không chỉ là tuân giữ các giới răn, nhưng có nghĩa là sống trong Đức Ki-tô, suy nghĩ như Người, hành động như Người, yêu như Người; có nghĩa là để Người làm chủ cuộc đời chúng ta và thay đổi nó, biến đổi nó, để giải thoát nó khỏi bóng tối sự dữ và tội lỗi.” Ước được như vậy. Amen.