Chúa Nhật III Mùa Chay  - Năm C
CƠ HỘI ÂN ĐIỂN
CHO NGƯỜI TA ĂN NĂN
Tin Mừng Chúa Nhật

Đang khi Chúa Giêsu khuyên giục các thính giả ăn năn, thì có người thuật với Chúa Giêsu chuyện rùng rợn về vụ Philatô giết hại những người Galilê. Chắc người ta tưởng Chúa sẽ đồng tình để tuyên bố rằng số phận của những người bị tàn sát ấy là đúng lắm, và ngài cũng rơi vào lối nguỵ biện thường tình, là người nào bị hành hạ nhiều chứng tỏ họ đã phạm tội năng. Nhưng Chúa Giêsu trả lời rằng người ta tạm thời chưa bị đau đớn là dấu hiệu ân huệ đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những kẻ không ăn năn chắc chắn sẽ phải chịu đau đớn và xứng đáng với sự đau đớn ấy. Nếu sự phán xét chưa đến thì sự trì hoãn ấy là cơ hội ân điển cho người ta ăn năn.

Chúa Giêsu nhấn mạnh chân lý ấy bằng cách nói thêm một tai hoạ về mười tám người bị tháp đổ đè chết, không nên xem số phận của họ như là dấu hiệu họ đã phạm trọng tội, mà như là lời cảnh cáo kẻ khác nếu không ăn năn thì cũng phải chịu một số phận như vậy. Trong trí Chúa Giêsu hiện ra hình ảnh của nước Israel, Ngài lại nhấn mạnh lời kêu gọi ăn năn bằng hình ảnh cây vả không sinh trái. Đó là biểu hiệu thật của quốc gia này và cũng tượng trưng cho mọi linh hồn không ăn năn. Chúng ta cần tìm hiểu chi tiết hơn. Ở đây chúng ta được nghe nói đến hai tai hoạ mà chúng ta chưa có thông tin nên chỉ có thể phỏng đoán thôi. Trước hết là những người Galilê bị Philatô giết đang lúc dâng lễ tế. Như chúng ta đã biết, người Galilê rất dễ hưởng ứng những cuộc bạo động chính trị, bởi vì họ là dân dễ bị kích động, lúc đó Philatô đang ở trong một cơn khủng hoảng nghiêm trọng. Ông đã có một quyết định rất tốt rằng Giêrusalem cần có một hệ thống dẫn nước mới và tân tiến hơn. Ông chủ trương xây cất hệ thống đó, và để đài thọ cho việc này, ông đề nghị dùng một số tiền của Đền Thờ. Đó là mục tiêu đáng khen và sự chi phí đó có lý do chính đáng. Nhưng chỉ tư tưởng sử dụng tiền của Đền Thờ cũng đủ khiến dân Do Thái cầm vũ khí chống lại. Khi dân chúng tụ tập lại thì Philatô cho lính của ông cải trang trà trộn với họ. Chúng được lệnh mang gậy thay vì gươm. Đến lúc được báo hiệu, chúng xông vào dân chúng và phân tán họ. Việc đó đã diễn ra đúng nhưng bọn lính đã hành động rất hung dữ, đi quá lệnh trên, gây thiệt mạng cho một số thường dân. Điều gần như chắc chắn là người Galilê có tham gia trong cuộc nổi loạn này. Chúng ta biết rằng Philatô và Hêrôđê thù địch nhau, rất có thể chính vì vụ lộn xộn kể trên mà mối thù đó đã bắt Chúa Giêsu. Họ chỉ hoà thuận với nhau khi Philatô gởi Chúa Giêsu đến cho Hêrôđê xét xử (Lc 23,6-12).

Còn về phần mười tám người bị tháp Silôê đổ xuống đè chết, cho đến nay vẫn còn là một sự kiện bí mật. Có bản văn dịch họ là tội nhân, nhưng dịch họ là những kẻ mắc nợ thì đúng hơn. Chúng ta có chút tia sáng ở đây. Có người cho rằng họ đã lãnh việc xây ống dẫn nước của Philatô, một công việc mà dân chúng ghét. Vì vậy, số tiền công họ lãnh đều là tiền của Chúa và đáng lẽ họ phải tình nguyện trả lại vì tiền đó đã lấy trộm của Ngài. Khi tháp Silôê đổ xuống trên họ thì dân chúng cho rằng vì họ đã bằng lòng làm công việc đó.

Nhưng đoạn Kinh Thánh này còn đi xa hơn vấn đề lịch sử nữa. Người Do Thái đã nghiêm khắc kết buộc đau khổ và tội lỗi với nhau. Trước đó rất lâu, Êlipha đã nói với Gióp rằng: “Có ai vô tội mà bị tiêu diệt đâu?” (G 4,7). Đây là một giáo lý độc ác, cay nghiệt như Gióp đã biết rõ. Chúa Giêsu đã bác bỏ thuyết đó đối với một số trường hợp cá nhân. Như chúng ta biết rõ, thường những thánh nhân là những người chịu đau khổ nhiều nhất. Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa và nói rằng nếu các thính giả của Ngài không chịu ăn năn thì họ cũng sẽ bị tiêu diệt, Chúa Giêsu ngụ ý gì ở đây? Một điều thật rõ ràng. Chúa Giêsu thấy trước và nói trước về sự tàn phá thành Giêrusalem là việc xảy ra sau đó vào năm 70 SC (x. Lc 19,21-24). Chúa Giêsu biết rõ nếu người Do Thái cứ tiếp tục âm mưu bạo động và những tham vọng chính trị thì họ chỉ đưa quốc gia đến chỗ tự sát mà thôi. Ngài biết rõ cuối cùng quân La mã sẽ đến và tiêu diệt quốc gia này, việc đã xảy ra đúng như vậy. Cho nên, Chúa Giêsu muốn cảnh cáo rằng, nếu họ cứ tiếp tục tìm kiếm một vương quốc trần gian và chối bỏ Nước Thiên Chúa thì họ chỉ đi vào chỗ chết mà thôi.

Đặt vấn đề như vậy thoạt nghe có vẻ đầy mâu thuẫn. Điểm đó có nghĩa là chúng ta không thể nói rằng đau khổ cá nhân và tội lỗi tất phải theo nhau, nhưng có thể nói rằng tội lỗi của quốc gia và đau khổ của quốc gia thì liên quan chặt chẽ với nhau. Quốc gia nào lựa chọn con đường xấu để đi thì cuối cùng sẽ bị khổ vì đó. Nhưng trong trường hợp cá nhân thì khác. Cá nhân không phải là một đơn vị lẻ loi, song được liên kết vào trong một khối của cuộc đời. Điều thường thấy là cá nhân có thể phản đối, và phản đối mãnh liệt đường lối mà quốc gia đang theo đuổi, nhưng khi hậu quả do đường lối đó đem lại xảy ra thì người ấy cũng bị chìm lẫn trong hoàn cảnh mà mình đã không tạo nên, sự đau khổ của y không hẳn là lỗi của y. Nhưng quốc gia là một đơn vị và tuỳ theo đường lối nó lựa chọn mà gặt lấy hậu quả. Quy đau khổ của một người cho tội lỗi của người đó trong cuộc sống trên trần thì bao giờ cũng là một ý kiến nguy hiểm, nhưng bảo rằng quốc gia nào chống lại Thiên Chúa sẽ bị diệt vong thì đó là một phát biểu đúng đắn.

Chúa Giêsu minh hoạ ý tưởng trên bằng dụ ngôn cây vả không sinh trái, đây là câu chuyện vừa chứa đầy ân sủng vừa mang nhiều cảnh cáo đáng sợ.

1. Cây vả chiếm được một chỗ đất tốt hơn các cây khác.

Ở xứ Palestine, người ta thường thấy cây vả, cây gai và cây táo trong những vườn nho. Đất mỏng và cằn cỗi đến nỗi bất kỳ ở đâu có đất, người ta cũng trồng cây. Nhưng thực tế là cây vả này được đặc ân hơn, nhưng nó lại tỏ ra không xứng đáng với đặc ân đó. Chúa Giêsu đã nhiều lần trực tiếp hoặc gián tiếp nhắc nhở dân chúng rằng họ sẽ bị đoán xét tuỳ theo những cơ hội may mắn mà họ đã có. Có người đã nói về thế hệ chúng ta rằng: “Chúng ta được ban cho nhiều sức lực, nhưng chúng ta đã sử dụng như những học trò vô trách nhiệm”. Không hề có một thế hệ nào được hưởng dùng quá nhiều như thế hệ chúng ta, và vì chưa hề có một thế hệ nào mang nặng trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa như vậy.

2. Rõ ràng là dụ ngôn dạy chúng ta rằng một đời sống vô ích sẽ đưa tới thảm bại.

Thế giới này phải đi trên con đường tiến hoá, tất cả cuộc tiến hoá nhằm sản sinh những gì có ích lợi, điều gì có ích cứ mạnh mẽ phát triển trên con đường tiến hoá, trong khi những gì vô ích sẽ bị tiêu diệt. Câu hỏi khúc mắc nhất dành cho mỗi người chúng ta là: “Chúng ta sống trên thế gian này để làm gì?”.

3. Hơn nữa, dụ ngôn cũng dạy rằng những gì chỉ biết tiêu thụ thôi thì không thể tồn tại được.

Cây vả kia cứ rút lấy sức lực của đất mà không sản sinh gì cả. Đó chính là tội của nó, xét cho cùng có hai hạng người trên thế giới: những người “cầu” nhiều hơn “cung” và những người “cung” nhiều hơn “cầu”. Theo một phương diện, chúng ta đều mắc nợ cuộc sống. Chúng ta vào đời trong sự nguy hiểm tính mạng của người khác, chúng ta hẳn đã không còn sống đến nay nếu không có sự săn sóc của của những người thương yêu chúng ta. Chúng ta đã thừa hưởng một nền văn minh mà không bởi công sức của chúng ta tạo ra. Chúng ta có trách nhiệm phải làm cho mọi sự trở nên tốt hơn lúc chúng mới tiếp cận chúng ta. Abraham Lincoln đã nói: “Tôi chết lúc nào cũng được, nhưng tôi muốn người ta nói về tôi rằng: tôi đã nhổ một cây cỏ và trồng một cây hoa ở nơi nào tôi nghĩ cây hoa có thể mọc”. Có một học trò được quan sát vi trùng dưới kính hiển vi. Cậu được thấy rõ một thế hệ những con vật li ti đó sinh ra, chết đi, thế hệ khác sinh ra thế nào… Trước đó, cậu chưa hề được thấy thế hệ này tiếp nối thế hệ trước như thế nào. Cậu nói: “Theo như điều tôi đã xem thấy, tôi tự hứa mình sẽ không bao giờ làm một vòng nối yếu đuối”. Nếu chúng ta cũng biết tự hứa như vậy thì ta sẽ làm tròn trách nhiệm, là đem vào đời sống ít ra cũng bằng phần chúng ta lấy đi.

4. Dụ ngôn này dạy chúng ta về phúc ân của cơ may thứ hai.

Một cây vả thường phải ba năm mới trưởng thành, nếu lúc đó nó không sinh trái, chắc không bao giờ sinh trái nữa. Nhưng cây vả này được ban cho một cơ may nữa. Chúa Giêsu bao giờ cũng ban cho người ta hết những cơ may này đến cơ may khác. Phêrô, Marcô, Phaolô rất hoan hỉ làm chứng về điều đó. Thiên Chúa vô cùng nhân từ với kẻ nào sa ngã rồi trỗi dậy.

5. Nhưng dụ ngôn này cũng quả quyết về việc có một cơ may cuối cùng.

Nếu chúng ta từ chối hết cơ may này tới cơ may khác, nếu tiếng kêu mời của Thiên Chúa cứ trở đi trở lại với chúng ta cách vô ích thì đến một ngày, không phải Thiên Chúa đóng cửa lại, nhưng chính chúng ta tự ý đóng cửa lòng mình với Thiên Chúa. Nguyện Chúa cứu chúng ta khỏi điều đó. “Hôm nay là ngày thuận tiện, hôm nay là ngày cứu độ”.