Chúa Nhật VI Phục Sinh - Năm B
ĐỜI SỐNG CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN
Chú giải của William Barclay

Điều chính trong đoạn này là Chúa Giêsu cho các môn đệ Ngài biết, chính Ngài đã chọn họ. Không phải chúng ta đã chọn Chúa, nhưng bởi ân sủng và tình thương, Chúa đã kêu ghọi, chọn lựa chúng ta.

Từ đoạn này, chúng ta có thể liệt kê những điều tuyệt diệu khi được chọn và được gọi.

Chúng ta được chọn để vui mừng. Dù đường đi của Kitô hữu có khó khăn đến đâu trong cả hành trình lẫn mục đích, vẫn là con đường. Trong việc làm phải, làm đúng, bao giờ cũng có niềm vui. Kitô hữu là người luôn vui mừng. Kitô hữu u sầu là một điều mâu thuẫn. Thật sự Kitô hữu nào cũng là tội nhân, nhưng là tội nhân đã được tha thứ và cứu chuộc, niềm vui nằm ngay trong sự kiện đó. Làm sao không vui mừng khi chúng ta đang đi trên con đường sống với Chúa Giêsu.

Chúng ta được chọn để yêu thương. Chúng ta được sai đi vào thế gian để yêu thương. Nhiều khi chúng ta sống như thể được sai đến thế gian để tranh đua, cãi lẫy và đánh đấm nhau. Nhưng Kitô hữu đã được sai vào thế gian, để vừa sống vừa chứngminh cho người khác thấy ý nghĩa của tình yêu đối với nhau. Ở đây, Chúa Giêsu nêu ra một lời tự xưng quan trọng khác. Nếu chúng ta hỏi Ngài: Thầy lấy quyền gì mà đòi hỏi chúng tôi phải yêu thương nhau? Ngài đáp: Chẳng có tình yêu nào lớn hơn là phó mạng sống vì bạn mình, và Ta đã làm như thế. Nhiều người dạy người ta yêu mến lẫn nhau, nhưng cả cuộc đời họ cho thấy việc đó họ làm sau cùng. Chúa Giêsu ban bố một mệnh lệnh mà chính Ngài đã làm trước nhât.

Chúng ta được gọi để trở thành bạn của Chúa Giêsu. Chúa bảo Ngài không gọi các môn đệ là đầy tớ (douloi) nữa, mà gọi họ là bạn hữu. Câu này có ý nghĩa cho những nguơì nghe lần đầu tiên hơn là cho chúng ta ngày nay. Danh hiệu “douloi”, nô lệ, đầy tớ, tôi tớ của Chúa không phải là danh hiệu đáng xấu hổ, nhưng là một vinh dự lớn. Môsê là một douloi, nô lệ tôi tớ của Chúa (Đnl 34,5), Giôsê cũng vậy (Gs 24,29), Đa-vít cũng thế (Tv 89,20). Phaolô kể danh hiệu này là một vinh dự (Tt 1,1) và Giacôbê cũng vậy (Gc 1,1). Những nhân vật lỗi lạc nhất trong quá khứ hãnh diện khi được Chúa gọi là douloi (tôi tớ) của Chúa. Chúa Giêsu phán: “Ta còn có một điều cao trọng hơn cho các ngươi, các ngươi không còn là tôi tớ nữa mà là bạn thân của Ta”. Chúa Giêsu ban tặng một địa vị thân thiết với Ngài, mà ngay đến các nhân vật lỗi lạc nhất vẫn không biết, cho tới khi Ngài đến thế gian.

Nhưng ý niệm làm bạn với Chúa có một bối cảnh lịch sử. Abraham là bạn của Chúa (Is 41,80). Sách Khôn Ngoan 7,27 cho biết sự khôn ngoan làm cho người ta trở thành bạn của Chúa. Nhưng từ này còn được minh hoạ bằng một tập tục vốn có trong triều đình các hoàng đế Rôma lẫn các vua phương Đông. Trong các triều đình ấy, có một nhóm người được tuyển chọn, họ được gọi là bạn của vua. Họ được diện kiến nhà vua bất cứ lúc nào, họ được quyền vào cả phòng ngủ của vua lúc sáng sớm. Nhà vau thảo luận với họ trước khi họp bàn với các tướng lãnh và các quan chức. Các bạn của vua là những nhân vật có liên hệ gần gũi, thân cận nhất với vua.

Chúa Giêsu đã gọi chúng ta để làm bạn với Ngài và với Thiên Chúa. Đó là một đặc ân kỳ diệu. Chúng ta không còn phải đứng từ xa, nhìn về phía Ngài mà chờ đợi. Chúng ta không còn là những nô lệ chẳng có chút quyền ra mắt chủ, không như đám đông chỉ đứng xa nhìn thoáng bóng nhà vua đi ngang qua nhân một cơ hội hết sức hiếm hoi. Chúa Giêsu làm một việc lạ lùng: Ngài cho phép chúng ta được sống gần gũi, thân mật với Thiên Chúa. Thiên Chúa không còn là người lạ cách biệt chúng ta, nhưng là bạn thân của chúng ta.

Chung ta được gọi để làm bạn cộng tác với Chúa Giêsu. Ngài không chỉ gọi và chọn chúng ta để ban cho một loạt các đặc ân diệu kỳ, mà Ngài muốn chúng ta trở thành bạn cộng tác với Ngài. Nô lệ chẳng bao giờ là bạn cộng tác,người cùng hùn hạp làm ăn với chủ. Theo luật Hy Lạp, nô lệ được định nghĩa là một công cụ sống, chủ chẳng bao giờ trao đổi ý kiến với nô lệ, nô lệ bị sai bảo phải làm việc mà không được giải thích lý do. Nhưng Chúa Giêsu bảo chúng ta: “Các bạn không phải là nô lệ mà là bạn cùng cộng tác với tôi. Tôi đã nói cho các bạn biết mọi việc. Tôi đã nói cho các bạn những gì Thiên Chúa Cha đã nói với tôi”. Chúa Giêsu dành cho chúng ta danh dự làm bạn cộng tác với Ngài, Ngài chia sẻ tâm sự với chúng ta, cho ta biết kế hoạch, mục tiêu và kỳ vọng của Ngài. Một sự lựa chọn quan trọng được đặt ra trước mắt chúng ta. Chúng ta có thể chấp nhận hoặc khước từ việc cộng tác với Chúa Giêsu trong việc đưa thế gian trở về với Thiên Chúa.

Chúa chọn chúng ta làm sứ giả. Ngài phán: “Ta đã chọn các con để sai các con đi”. Ngài không muốn chúng ta sống đời ẩn tu, trốn trách thế gian. Khi một hiệp sĩ đến chầu vua, người ấy không muốn cả đời chỉ yến ẩm tiệc tùng và bầu bạn với vua, người ấy đã xin “Xin hãy phái thần đi làm nhiêm vụ để bệ hạ và toàn dân được ích”. Chúa Giêsu chon chúng ta, trước hết để chúng ta đến với Ngài, sau đó là để ra đi, đến với người thế gian. Đó là mầu mực và nhịp điệu hằng ngày của đời sống chúng ta.

Chúng ta được chọn để trở thành người truyền giáo. Ngài chọn chúng ta để ra đi và mang lại kết quả. Những kết quả vững bền qua mọi thời gian. Phương pháp truyền giáo là sống đời sống Kitô hữu, phương pháp đưa người ta đến với niềm tin là chỉ cho họ thấy kết quả của đời sống Kitô hữu. Chúa Giêsu không sa chúng ta đi tranh luận để bắt người ta theo đạo, chũng không để doạ để họ theo đạo, nhưng thu hút họ đến với đạo Chúa. chúng ta phải sống sao cho đời sống đạt kết quả diệu kỳ, đến nỗi nhiều người khác cũng ao ước được như thế.

Chúa chọn chúng ta để trở thành con cái tràn đầy đặc ân trong gia đình của Chúa. Ngài chọn chúng ta để bất luận chúng ta nhân danh Ngài cầu xin điều gì, thì Chúa Cha sẽ làm cho. Một lần nữa chúng ta đối diện với một trong những khẳng định quan trọng, liên hệ đến việc cầu nguyện mà chúng ta cần thấu triệt. Nếu nghĩ không kỹ thì dường như câu này có nghĩa là Kitô hữu, người được chọn của Chúa Kitô, sẽ nhận được tất cả những gì mình cầu xin. Chúng ta đã đề cập đến vấn đề, nhưng cũng nên suy gẫm thêm lần nữa. Tân Ước có quy định một số luật lệ rõ ràng về vấn đề cầu nguyện.

a. Cầu nguyện phải bởi đức tin (Gc 5,15). Nếu chỉ theo hình thức, chiếu lệ, thói quen nhắc đi nhắc lại những lời đúng theo một công thức, ước lệ nào đó, thì lời cầu nguyện ấy sẽ không được chấp nhận. Khi lời cầu nguyện không có hy vọng thì không thể linh nghiệm được. Nếu xin Chúa thay đổi mình, mà không tin mình có thể thay đổi được, lời cầu nguyện sẽ chẳng ích lợi. Muốn cầu nguyện nơi tình yêu trọn vẹn của Thiên Chúa.

b. Phải cầu nguyện trong danh Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta không thể xin điều gì mà Chúa không đồng ý. Chúng ta không thể xin để nhận được gia tài bất hợp pháp của một người nào đó hay để được những điều bị cấm đoán. Chúng ta không thể xin cho một tham vọng nào đó được thành tựu nếu nó khiến người người khác bị tổn thương, hoặc thiệt hại. Chúng ta không thể nhân danh Đấng Yêu Thương để xin Ngài báo thù các kẻ thù của mình. Bất cứ lúc nào chúng ta cố gắng biến cầu nguyện thành điều giúp mình thực hiện các tham vọng riêng tư, để thoả mãn các ước muốn cá nhân, lời cầu nguyện sẽ không linh nghiệm, vì như thế không phải là cầu nguyện.

c. Cầu nguyện phải thuận theo ý Chúa. Mỗi khi cầu nguyện, trước hết phải nhận biết mình chẳng bao giờ hiểu biết hơn Chúa. Yếu tính của lời cầu nguyện không phải để thay đổi ý Chúa, nhưng để xin “Ý Cha thể hiện”. Vì vậy, lời cầu nguyện đích thực không phải là xin Chúa đem đến điều mình muốn, nhưng xin Ngài cho chúng ta sẵn sàng chấp nhận điều Ngài muốn.

d. Lời cầu nguyện không bao giờ được vị kỷ. Thoạt nghe qua thì tưởng Chúa Giêsu đưa ra một vấn đề hết sức dễ dãi. Ngài phán nếu hai người đồng ý với nhau để xin điều gì, Ngài sẽ ban cho (Mt 18,19). Chúng ta không nên hiểu câu này theo nghĩa đen nông cạn, vì như thế có nghĩa đơn giản là nếu bạn “động viên” để nhiều người cùng cầu xin một điều gì đó, thì việc đó sẽ xảy ra. Nhưng câu ấy có nghĩa là: Khi cầu nguyện, không nên chỉ nghĩ đến các nhu cầu của riêng mình mà thôi. Thí dụ đơn giản nhất là vào ngày nghỉ, người công nhân chắc phải xin trời nắng tốt, trong khi có lẽ bác nông dân lại xin trời mưa. Khi cầu nguyện, chúng ta không nên hỏi, “điều này có lợi gì cho tôi?” mà phải hỏi “Việc này có ích cho tất cả mọi người không?”. Sự cám dỗ lớn nhất trong khi cầu nguyện là dường như chỉ có vấn đề của mình là quan trọng, còn vấn đề của người khác thì chẳng cần quan tâm tới. Một lời cầu nguyện như vậy sẽ không thể linh nghiệm được.

Chúa Giêsu đã chọn chúng ta để trở thành những thành viên được đặc ân, ưu quyền trong gia đình Chúa. Chúng ta có thể và nên dâng mọi sự lên cho Chúa trong khi cầu nguyện. Nhưng không nên tìm câu trả lời theo sự hiểu biết hạn hẹp, hay theo ước muốn bất toàn của mình, mà phải chấp nhận câu trả lời của Chúa theo sự khôn ngoan và tình yêu trọn vẹn của Ngài. Càng yêu mến Chúa chúng ta càng vâng phục ý Chúa.