Chúa Nhật XX - Thường Niên - Năm B
DIỄN TỪ VỀ BÁNH TRƯỜNG SINH
Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

 

1) Một lời huyền nhiệm mới:

Chúa nhật trước, chúng ta đã kết thúc phần thứ nhất "diễn từ bánh trường sinh"; theo thánh Gioan, Chúa nói những lời này ở hội đường Capharnaum, tiếp theo sau phép lạ bánh hóa nhiều. Lúc ấy, Đức Giêsu tự giới thiệu Ngài là "Bánh từ trời xuống”, cao trọng vô cùng so với manna của cuộc Vượt Qua thứ nhất. Điều này đã gây ra sự chống đối nơi người Do thái: "Người này không phải là Giêsu, con của ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết rõ, sao bây giờ ông ta lại nói: "Tôi từ trời xuống”. Trước sự chống đối này, Đức Giêsu cho họ biết một mạc khải mới về mầu nhiệm con người và sứ vụ của Ngài: "Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. "

 

Câu nói này còn gây ra một chống đối khác, và để trả lời cho sụ chống đối lần thứ hai này, lại có thêm một mạc khải mới nữa về mầu nhiệm Đức Giêsu, lời huyền nhiệm mới của Ngài ở câu 51 (câu kết bài Phúc âm chúa nhật trước) mở đầu cho phần thứ hai của diễn từ. Lời này chủ yếu nói đến Thánh Thể: "Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống"

 

Đức Giêsu không những chỉ rõ mình là "bánh trường sinh" mà còn là "bánh trường sinh từ trời xuống”.

Động từ "ban” ("Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống") chủ từ của nó không phải là Cha, nhưng chính là Đức Giêsu. Ngài là người ban tặng, nhân danh Chúa Cha.

 

Bánh này đồng nhất với "thịt " của Đức Giêsu. Từ này không chỉ bản chất của cơ thể con người, nhưng chỉ chính Đức Giêsu trong thân phận con người phải chết. Tại sao tác giả Tin Mừng thích dùng từ này hơn từ ‘thân mình’ mà truyền thống đã quen khi nhắc lại những lời Đức Giêsu nói ở bữa tiệc ly? Cha X. Léon-dufour trả lời: "Có thể do từ "thịt" đã nêu lên cách hiện diện của Ngôi Lời giữa chúng ta trong Lời Tựa của Phúc Âm thánh Gioan (1,14: "Ngôi Lời đã trở nên xác thịt). Như vậy, ở đây, tác giả Phúc âm muốn giữ lại ý tưởng về mầu nhiệm nhập thể mà diễn từ muốn làm nổi bật khi nói đến vấn đề từ trời xuống." (Lecture de l'Evangile selon Jean', tập 2, Seuil, tr. 160). Ngôi Lời đã trở nên xác thịt (1,14). Và thịt đã trở nên bánh (6,51).

 

Còn công thức: "Ban để cho thế gian được sống" nói rõ mục đích của việc Đức Giêsu dâng hiến mạng sống mình làm quà tặng. (Sách đã dẫn, tr.161)

 

2) Một phản đối mới

Điều khẳng định mới mẻ về cái chết của Ngài là mạch suối hằng sống cho thế gian đã gây ra một phản đối mới: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?"

 

Mới đó, Đức Giêsu đã gây xung đột khi xưng mình có nguồn gốc từ trời, giờ lại thêm một xung đột khác. Nếu đúng thực là người Thiên Chúa sai đến, là Đấng Thiên sai như đã tự phụ thì làm sao Thiên Chúa có thể để Ngài phải trải qua cái chết vì Ngài quả quyết: " Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống. "Làm sao Thiên Chúa có thể không cứu Ngài thoát khỏi quân thù và bảo đảm cho Ngài chiến thắng?” LM. Chauvet cảnh báo: "Nếu khó khăn thứ nhất về căn tính Đức Giêsu đã khó có thể tiêu hóa nổi thì khó khăn thứ hai về cách thực hiện sứ mạng của Ngài càng không thể nuốt trôi: vì như vậy, Thiên Chúa có lẽ sẽ không còn là Thiên Chúa nữa". ("Symbole ét sacrement", Cerf, tr.229-230).

 

Chính xung đột thứ hai là hậu cảnh cho "diễn từ về bánh trường sinh”, chứ không phải việc bánh trở nên thịt Ngài được gọi là sự ‘biến đổi bản thể’. Chính niềm tin vào Đức Giêsu, Đấng từ Thiên Chúa mà đến và lại trở về với Thiên Chúa sau khi trải qua cái chết để ban sự sống cho thế gian mới là trung tâm của tất cả diễn từ. Như thế, chúng ta mới nói hết được tầm quan trọng của vấn nạn ở câu 52 (Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?): Thiên Chúa có còn là Thiên Chúa nữa không một khi Người để cho kẻ người sai đi phải chết?" (LM. Chauvet, Sđd, tr.230).

 

3) Mạc khải mới của Đức Giêsu về chính mình:

Thay vì hạ giọng làm cho người nghe khỏi bị vấp phạm, Đức Giêsu còn lên tiếng mạnh mẽ, quả quyết hơn: "Thật, Tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình."

 

Không chỉ có vấn đề "thịt ", mà còn phải "ăn" (nghĩa đen là nhai, như chúng ta "nhai" bữa ăn phục sinh; chúng ta gặp động từ này 8 lần trong những câu này); và phải uống máu Ngài. Để "ở” với Ngài ngay từ bây giờ, để sống sự sống Ngài đã nhận từ Cha, chúng ta phải nhờ đức tin đón nhận mầu nhiệm sự chết là quà tặng Ngài ban cho ta.

 

Khi đọc bản vằn này, một bản văn rất tương hợp với bài tường thuật về việc Chúa lập bí tích Thánh Thể, người Kitô hữu không thể không nhận biết đó là lời loan báo về Thánh Thể. Tài liệu thần học chuẩn bị cho Đại hội Thánh Thể quốc tế tại Lộ đức viết rằng: "Khi ăn Mình mầu nhiệm Chúa, các Kitô hữu nghiền ngẫm" (nhai lại) biến cố gây vấp phạm là việc Đấng Thiên sai bị đóng đinh vì muốn ban sự sống cho thế gian (xem Ga 6,51), và nên một với Người nơi chính thân thể mình, hầu đời sống hằng ngày được biến đổi nên giống Người" (Jésus Christ, painrompu our un monde nouveau, Centurion, 1980, tr. 64)

 

BÀI ĐỌC THÊM

 

1) “Ngôi lời đã trở thành xác thịt. Xác thịt đã trở nên bánh” (A. Marchadour, trong "Les dossiers de la Bible", số 41, 1992, tr.13-14):

Khi giảng dạy tại Capharnaum. Đức Giêsu không thể tuyên bố trực tiếp về Thánh Thể vì trước bữa tiệc ly, cũng như trước khi Ngài chết và sống lại, điều đó còn rất khó hiểu. Trước hết, thành ngữ "Bánh trường sinh" là cách để chỉ Đức Giêsu là Đấng mạc khải từ trời đến, và lời Ngài là của ăn và của uống giống như sự khôn ngoan của Thiên Chúa được trình bày cụ thể bằng bánh và rượu (Hãy đến, hãy ăn bánh và hãy uống rượu ta đã dọn cho các ngươi, Prov. 9,5). Toàn bộ diễn từ nhằm gợi lên niềm tin vào Đức Giêsu, Đấng mạc khải; ngoài ra, việc cử hành bí tích Thánh Thể cũng được biểu lộ rõ ràng trong những kiểu nói: "Aên, uống, có sự sống”. Hơn nữa, phần cuối (câu 51-58) của diễn từ còn trực tiếp nói đến Thánh Thể. Chúng ta hãy xem xét phần này.

 

Quả thật, từ câu 51, Đức Giêsu nói đến cái chết của Ngài như nguồn mạch sự sống: "Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây để cho thế gian được sống”. Từ thịt làm chúng ta nghĩ đến Lời Tựa: "Ngôi Lời đã trở thành xác thịt" (1,14). Ở đây, rõ ràng, mầu nhiệm nhập thể được diễn tả ở điểm chót là cái chết của Đức Giêsu. Ngôi Lời đã trở thành xác thịt. Xác thịt đã trở nên bánh. Có sự liên tục giữa nhập thể, cái chết trên thập giá và Thánh Thể. Ngày nay, Đức Giêsu vắng mặt về thể xác, nhưng điều Ngài mạc khải còn đó và Thánh Thể vẫn và điểm hẹn để con người có thể gặp gỡ hoặc từ chối Người như những người đương thời với Đức Giêsu vậy: "Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi” (6,60).

 

Trong các câu 53-56, thay vì động từ "ăn”, Gioan dùng một động từ có nghĩa mạnh hơn: "nhai”, "nhai rau ráu”. Điều này có thể nhằm nhấn mạnh đến thực tại của Thánh Thể vì có một số Kitô hữu theo thuyết ngộ đạo bác bỏ sự trung gian của vật chất trong việc kết hợp với Đức Giêsu qua các bí tích, và không nhận Ngài cũng là người như chúng ta: đến trong xác thịt (1Ga 4,2). Tuy nhiên, sử dụng vật chất làm trung gian trong các bí tích không có nghĩa là chúng ta sử dụng ma thuật: Chính Thần Khí mới làm cho sống, còn xác thịt chẳng ích chi (6,63). Thánh Thể, xác và máu, thông truyền cho tín hữu hai quà tặng mà những người thời Đức Giêsu tìm kiếm: đời sống vĩnh cửu ngay từ bây giờ và sự luôn “ở" với Đức Giêsu. Ngày nay cũng vậy, Kitô hữu nào thông hiệp với Đức Kitô trong đức tin thì ở trong Ngài và được sự sống đời đời.

 

2) “Hai bàn tiệc"

"Thánh lễ gồm hai phần: phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể; cả hai liên kết chặt chẽ để làm nên một hành động phụng tự duy nhất. Thật vậy, thánh lễ vừa là bàn tiệc Lời Chúa vừa là bàn tiệc Thân Thể Chúa nhờ đó các tín hữu được giáo huấn và được bồi dưỡng" (PGMPL 8) Bản văn này sáng sủa rõ ràng nên không cần phải giải thích thêm. Nó nói đến tính cách đặc biệt của mỗi phần trong thánh lễ: có hai bàn tiệc nên có hai của ăn, nhưng cũng nói đến sự duy nhất làm cho hai bàn nên một hành động phượng tự duy nhất. Chúng ta đi từ Lời đến Thánh Thể, hay, dựa trên câu nổi tiếng của Phúc Âm thánh Gioan: "Ngôi Lời đã trở thành xác thịt" (1,14), để nói rằng chúng ta không thể đi tới xác thịt (thân thể) mà không qua Ngôi Lời (lời), và cả hai đều chỉ là duy nhất một Chúa có nghĩa là để gặp Chúa, đến với Chúa, phải nhờ Lời của Người.

 

Chúng ta cũng biết rằng từ thế kỷ XVI, anh em Tin Lành nhấn mạnh hơn đến tầm quan trọng của bàn tiệc thứ nhất và người công giáo chú trọng đến bàn tiệc thứ hai, nhưng từ công đồng Vaticanô II, phụng vụ có được sự cân đối hài hòa giữa hai bàn tiệc này. Đàng khác, Công đồng không canh tân mà chỉ trở về nguồn là nền thần học của các Giáo phụ nổi tiếng như Origênê, Ambrôsiô, Hiêrônimô, Gioan Kim Khẩu và Xê-da thành Aùc".