Chúa Nhật XVIII - Thường Niên - Năm B
CHÚA GIÊSU – BÁNH TRƯỜNG SINH
Chú giải mục vụ của Alain Marchabour

Giữa diễn từ mặc khải và trần thuật về phép lạ, rõ ràng có những khác biệt về lời văn và nội dung, và vài học giả muốn truy tìm nguốn gốc của bài diễn từ mặc khải trong số các bài giảng huấn Kitô giáo được thực hiện theo kiểu bài giảng huấn Do Thái. Có thể là như thế: thế nhưng sự duy nhất của toàn bài trần thuật cần phải được lưu ý. Từ đầu đến cuối Chúa Giêsu chỉ đeo đuổi một mục tiêu: làm cho dân chúng nhận biết Người; chính bởi vì Người không làm được điều này bằng phép lạ, nên sau đó Người thử thực hiện ý định bằng diễn từ: diễn từ và trần thuật đều dự vào cùng một chiến thuật.

Ghi chú về bản văn: Sự hợp lý liên kết chương này không rõ ràng. Điều đó hệ tại ở tầm vóc đồ sộ của bản văn, ở sự hợp lý đặc biệt của ngôn ngữ Sêmit và chắc chắn ở tận gốc cơ cấu của bản văn (có thể là một bài giảng huấn). Để cho bài đọc được dễ dàng, tôi đã ghi nhận điểm chuẩn của bản văn mà dựa theo đó độc giả sẽ có được nhiều lợi ích.

CHUYỂN TIẾP (cc. 22-25)

Giữa ngọn núi nơi mà việc mặc khải bằng dấu lạ của Chúa Giêsu đã thất bại và hội đường nơi mà việc mặc khải này đạt đến đích điểm, thì việc vượt qua Biển Hồ trở thành phần chuyển tiếp cũng như việc dân chúng tiếp tục công cuộc tìm kiếm Chúa Giêsu. Từ khi dấu lạ xảy ra, một ngày đã trôi qua, và dân chúng, cũng như các môn đệ, gặp lại Chúa Giêsu để nghe bài diễn từ trong hội đường ở Caphanaum. Người kể chuyện không xác định làm thế nào để năm ngàn người đã có thể vượt qua Biển Hồ: lại chi tiết “có vẻ thật” này không làm ông quan tâm. Còn sự quy chiếu vào việc “Chúa Giêsu dâng lời tạ ơn” (c. 23) củng cố cách hiểu về Thánh Thể của đoạn này. Đối với dân chúng, Chúa Giêsu là “Rabbi”, điều này hình như là đạo lý Do Thái, giống như đạo lý đã dẫn dắt ông Nicôđêmô, kẻ gọi Chúa Giêsu là “Rabbi”, Người đã thực hiện các dấu lạ (3,2).

1. Thật, Tôi bảo thật các ông (cc. 26-31).

Mặc khải: thấy các dấu lạ (c. 26)

Lương thực trường tồn (c. 27)

Được Con Người ban cho (c. 27)

Thiên Chúa đã ghi dấu xác nhận (c. 27)

Sự cứng lòng không chịu tin:

Ăn bánh no nê

Lương thực mau hư nát

Công việc nào?

Tổ tiên chúng tôi

Lời quở trách ở câu 26 (“không phải vì các dấu lạ”) xem ra trái nghịch với câu 2 (bởi họ đã từng chứng kiến những dấu lạ). Ta có thể hòa hợp cả hai nhận định trên bằng cách đối chiếu việc tìm kiếm điều kỳ lạ (những dấu lạ ở câu 2) với ý nghĩa sâu xa của dấu lạ về mầu nhiệm của Chúa Giêsu mà dân chúng không nhận ra. Trong phần này, Chúa Giêsu chỉ tỏ mình ra một cách gián tiếp, qua việc đề cập đến dung mạo Con Người vào thời cuối cùng. Đức tin hay việc làm? Ở đây Chúa Giêsu trả lời: không thể có đức tin mà không có việc làm, bởi vì đức tin là một việc quan trọng nhất trong các công việc Thiên Chúa muốn.

Chúa Giêsu và những người Do Thái cùng chia sẻ một dòng lịch sử chung: “Tổ tiên chúng tôi”, người Do Thái nói với Chúa Giêsu như thế. Tuy nhiên giữa bánh manna và bánh đích thực bởi trời, sự đối nghịch đã có sẵn rồi.

2. Thật, Tôi bảo thật các ông (cc. 32-46)

Mặc khải: Không phải ông Môsê, mà chính Cha tôi (c. 32)

Bánh đích thực bởi trời

Bánh Thiên Chúa ban là Bánh từ trời xuống (c. 33)

Bánh đem lại sự sống cho thế gian.

Hiểu lầm: xin cho chúng tôi mãi mãi (c. 34)

Mặc khải: Chính TÔI LÀ bánh trường sinh (c. 35)

Ai đến với Tôi không hề phải đói

Ai tin vào Tôi chẳng khát bao giờ

Tất cả những người Chúa Cha ban cho Tôi (c. 37)

Ý của Cha Tôi: Tôi sẽ cho họ sống lại (c.39)

Sự cứng lòng không chịu tin:

Thấy mà không tin (c. 36)

Xầm xì (c. 41)

Chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? (c. 42)

Làm sao ông ta có thể nói?

Mặc khải:

Chẳng ai đến với Tôi được nếu Chúa Cha không lôi kéo người ấy (c. 44).

Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết

Không ai thấy Chúa Cha. Chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha (c.46).

Được dẫn nhập cách trịnh trọng một lần nữa bằng “Thật, Tôi bảo thật các ông”, sự mặc khải được nhấn mạnh hơn, bằng cách tập trung vào Chúa Giêsu. Việc người Do Thái soi chiếu với bánh manna dẫn đưa bài diễn từ của Chúa Giêsu đến “Bánh bởi trời”. Cũng như người Do Thái đã lãnh nhận bánh manna làm dấu chỉ của Lời và của sự mặc khải, thì Chúa Giêsu, bánh từ trời xuống, tỏ mình như sự mặc khải chung cuộc cho loài người. Có nhiều từ được lặp lại trong phần thứ ba (cc. 47-52). Như được chứng tỏ khi đem so sánh các câu 33 và 51-52:

Bánh Thiên Chúa ban (c. 33) đó là:

Đấng từ trời xuống và đem lại sự sống cho thế gian.

Tôi là (c. 51)

Bánh từ trời xuống

Bánh Tôi sẽ ban tặng...

Là để cho thế gian được sống

Trong bối cảnh lịch sử của Chúa Giêsu thì rõ ràng diễn từ về bánh trường sinh này không thể trực tiếp chỉ Thánh Thể, không thể nào hiểu được trước khi có bữa ăn sau cùng, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Như vậy đúng là sự mặc khải, tiêu biểu bằng con người Chúa Giêsu. Tuy nhiên được viết sau Phục Sinh, với những lời lẽ ghi lại cụ thể từ việc cử hành Thánh Thể, thì rõ ràng toàn bộ chương 6 là một diễn từ gợi lên cùng một lúc Đức tin và Thánh Thể trở nên nổi bật, trong khi chính đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng mạc khải, chiếm ưu thế cho đến bấy giờ. Cựu ước sẵn sàng soi sáng lời với lương thực: Như Amôt: “Đây Thiên Chúa phán: Kìa, thời kỳ ấy là khi ta khiến lãnh thổ đói kém, không vì đói khát nước, nhưng bởi đói nghe lời Thiên Chúa” (Am 8,11). Cách nói về lương thực cũng gợi nhớ đến sự khôn ngoan trong Cựu ước: “Ai ăn vào càng đói, uống càng khát”, sự Khôn ngoan tự tán dương (Kn 24,21). Có thể xem thêm Cn 9,5.

Sự sống mà Chúa Giêsu cho là ân ban ngay lập tức và là lời hứa được sống lại trong ngày sau hết. Sự cánh chung ngay lập tức và bảo chứng sự sống đời đời được trao ban nhờ đức tin vào Chúa Giêsu.

Ẩn ý của biến cố Xuất hành biến hóa trong các từ được dùng để diễn tả sự đối nghịch của người Do Thái: “họ xầm xì” (ở đây nên dịch là “càu nhàu” c.41) như tổ tiên họ đã làm trong sa mạc (Xh 16,2.7; 17,3). Họ phản ứng “theo xác thịt”: làm sao “con ông Giuse” (c.42). Con Người bằng thịt bằng máu, có thể nhận mình là Con của Chúa Cha?