Chúa Nhật XVI - Thường Niên - Năm B
THIÊN CHÚA CHĂM SÓC ĐOÀN CHIÊN NGÀI
Lm Carolo Hồ Bạc Xái

Sợi chỉ đỏ :

- Bài đọc I (Gr 23,1-6) : Thiên Chúa trách các lãnh tụ do thái không chăm sóc đàn chiên Ngài giao cho họ. Ngài sẽ lấy đoàn chiên lại và đích thân chăm sóc.

- Đáp ca (Tv 22) : Ca tụng Thiên Chúa là mục tử nhân lành.

- Tin Mừng (Mc 6,30-34) : Đức Giêsu thương dân chúng vì họ như đàn chiên không người chăn.

I. DẪN VÀO THÁNH  LỄ

Anh chị em thân mến

Người ta thường gọi các kitô hữu là những "con chiên" của Chúa. Nói như thế nghĩa là gì ? Lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta biết được làm con chiên của Chúa thì sẽ hạnh phúc như thế nào. Xin Chúa cho chúng ta hiểu được hạnh phúc của chúng ta và luôn vui sống dưới sự chăm sóc của Chúa là mục tử chúng ta.

II. GỢI Ý SÁM HỐI

- Chúng ta ít nghĩ đến tình thương của Chúa đối với chúng ta.

- Chúng ta chưa gắn bó với các tín hữu khác là những người sống trong cùng một đoàn chiên Chúa với chúng ta.

- Chúng ta không vâng nghe các mục tử mà Chúa đã đặt lên để hướng dẫn chúng ta.

III. LỜI CHÚA

1. Bài đọc I (Gr 23,1-6)

Trích đoạn này gồm 2 phần :

- Trong phần đầu, Thiên Chúa trách "các mục tử Israel". Đó là các vua và các tư tế. Lẽ ra họ phải chăm sóc chu đáo cho đoàn chiên của Ngài là dân do thái. Nhưng trái lại họ phan tác và xua đuổi chúng.

- Trong phần sau, Thiên Chúa nói Ngài sẽ lấy đoàn chiên ấy lại và đích thân chăm sóc : quy tụ những con chiên tản lạc, dẫn chiên đến đồng cỏ, che chở chúng khỏi mọi nguy hiểm. Thiên Chúa còn hứa sẽ cho từ nhà Đavít nổi lên một mục tử đích thực. Đây là lời hứa ban Đấng Messia.

2. Đáp ca (Tv 22)

Tv này rất quen thuộc với chúng ta. Đây là bài ca tụng Thiên Chúa như một mục tử nhân lành, lo cho đoàn chiên có cỏ non, nước ngọt và bóng mát. Lại che chở chiên khỏi sói dữ và quân trộm cướp. Tác giả Tv bày tỏ niềm tin tuyệt đối rằng được sống dưới sự chăn dắt của Thiên Chúa thì sẽ không thiếu chi và không còn phải sợ gì nữa.

3. Tin Mừng (Mc 6,30-34)

Trong bài Tin Mừng tuần trước, Đức Giêsu đã sai 12 tông đồ đi rao giảng Tin Mừng. Trong bài này, các ông trở về hân hoan báo cáo những thành công của mình.

Đức Giêsu rất nhân bản, Ngài bảo các ông tìm một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi. Thầy trò xuống thuyền chèo đến một nơi yên tĩnh.

Nhưng vừa ra khỏi thuyền, Đức Giêsu lại thấy dân chúng kéo đến đông đảo. Ngài chạnh lòng thương họ, thấy họ như một đoàn chiên bơ vơ không người chăn. Thế là Ngài bỏ nghỉ ngơi, tiếp tục dạy dỗ họ.

4. Bài đọc II (Êp 2,13-18)

Thánh Phaolô trình bày cho những tân tòng ở Êphêxô hiểu về hai ơn trọng mà Chúa đã ban cho họ : ơn hòa giải và ơn quy tụ.

- Ơn hòa giải : trước đây có một bức tường ngăn cách người do thái với người ngoại. Nhưng Đức Kitô đã phá đổ bức tường ấy để tử nay do thái và dân ngoại hòa giải với nhau.

- Quy tụ : trước đây dân ngoại như những con chiên tản mác khắp nơi. Nhưng Đức Giêsu Kitô đã quy tụ họ lại trong cùng một đoàn chiên với dân do thái. Từ nay mọi người đều hiệp nhất trong Ngài.

IV. GỢI Ý GIẢNG

* 1. Con tim mục tử

Hình ảnh Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng này thật dịu dàng và rất đáng kính mến, vì Ngài có một trái tim rất nhạy cảm trước những nhu cầu của người khác :

- Các môn đệ trở về sau chuyến đi thực tập truyền giáo. Các ông vui mừng vì những thành công, hăng hái kể chuyện cho Ngài nghe, quên hết những mệt nhọc. Nhưng con tim mục tử của Đức Giêsu biết họ cần được nghỉ ngơi. Ngài dịu dàng bảo họ "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi đôi chút".

- Khi đã đến chỗ có thể nghỉ ngơi, Đức Giêsu thấy dân chúng kéo đến với mình. Con tim mục tử lại xúc động, vì họ như đoàn chiên không người chăn dắt. Ngài liền hy sinh sự nghỉ ngơi để tiếp tục giảng dạy họ.

Từ đoạn Tin Mừng này, chúng ta rút ra được hai điều :

- Thứ nhất : chúng ta hãy vui sướng vì được làm một con chiên đang sống dưới sự chăm sóc của một Vị mục Tử giàu tình thương như thế. Ngài biết chúng ta cần gì trước khi chúng ta cảm thấy điều cần đó, và Ngài lo liệu đầy đủ cho chúng ta.

- Thứ hai : chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng tại sao có một con tim giống như Ngài, một con tim biết xúc động và biết mở rộng trước nhu cầu của người khác, vì quả thực rất nhiều khi con tim của chúng ta đã chai lì, băng giá và khép kín.

2. "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ..."

Số người mắc bệnh thần kinh ngày nay càng ngày càng nhiều. Và một trong những lý do đưa đến bệnh đó là nếp sống càng ngày càng ồn ào xô bồ. Ngoài đường thì tiếng xe, tiếng máy, tiếng người ồn ào suốt ngày ; trong nhà thì các thứ tiếng nói, tiếng hát, tiếng nhạc từ các máy radiô, tivi, cassette ; rồi còn những tiếng khác từ các rạp hát, các loa phóng thanh v.v. Ở giữa bao nhiêu là tiếng động ồ ào đó, con người ngày nay như bị quay cuồng, bị li tâm, bị trống rỗng, thần kinh thì căng thẳng, và nội tâm thì nghèo nàn.

Để thoát ra khỏi bầu khí ồn ào cẳng thẳng đó hầu tìm lại phần nào yên tỉnh, trầm lặng, nội tâm... người ta đã tìm đến với Yoga, với Thiền, với những phương pháp dưỡng sinh... Những hình thức này càng ngày càng lôi kéo được nhiều người tham gia. (Đó cũng là một phản ứng tất nhiên để đánh quân bình lại với những hoạt động quá náo nhiệt ồn ào đã nói ở đầu). Ở những nước công nghiệp phát triển, vào mùa hè, người ta tạm nghỉ việc, rời bỏ nếp sống đô thị náo nhiệt và tìm đến nghỉ ngơi ở vùng yên tĩnh hơn như miền quê miền biển, miền núi... Và ngay ở Liên hợp quốc cũng có một căn phòng đặc biệt, phòng này không trang trí gì cả, rất trống trải nhưng rất yên tĩnh, dành cho các nhà ngoại giao, các nhà chính trị nếu cần tìm một chút bầu khí trầm tĩnh thì đến đấy trong một thời gian nào đó... Tất cả những cố gắng và những sáng kiến vừa kể trên cũng là một phản ứng tất nhiên của con người để đánh quân bình lại với cuộc sống đã quá ồn ào như đã nói ở trên.

Như thế, chúng ta thấy được rằng một bầu khí yên tĩnh, một thời gian trầm lặng là điều rất cần thiết cho con người. Nó cần thiết vừa để cho thân xác nghỉ ngơi, vừa để cho tinh thần con người thư giãn, vừa để cho trí óc con người sáng suốt nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm và rút ưu khuyết điểm để định hướng cho cuộc sống trong giai đoạn tới. Sau khi các tông đồ đi hoạt động truyền giáo một thời gian trở về, Đức Giêsu đã bảo các ông chèo thuyền qua phía bên kia hồ, yên tỉnh hơn để tỉnh dưỡng xác hồn "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ..."

Lời khuyên này của Chúa ngày nay vẫn được những người tu hành, các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ, đặc biệt coi trọng. Hằng năm, hàng tháng các vị đó vẫn có những cuộc tĩnh tâm, có khi kéo dài một tháng, có khi một tuần, có khi một ngày, hay ít ra cũng một buổi. Trong thời gian đó, họ sẽ kiểm điểm đời sống, cầu nguyện, định hướng cho hoạt động sắp tới...

Còn đối với giáo dân, cuộc sống chạy đua với miếng cơm manh áo khiến chúng ta không có nhiều thời giờ rãnh rỗi để làm những cuộc tĩnh tâm như vậy. Tuy nhiên chúng ta đừng quên rằng yên tĩnh là một nhu cầu cần thiết cho cuộc sống, cuộc sống càng ồn ào chừng nào thì nhu cầu yên tĩnh càng cần thiết chứng ấy. Cho nên dù bận rộn, thỉnh thoảng chúng ta cũng hãy cố gắng đi tìm một chút yên tĩnh cho tâm hồn mình. Nhưng có nhiều thứ yên tĩnh :

. Không phải thứ yên tĩnh chỉ vì vắng tiếng động bên ngoài. Có những người vì quá quen với ồn ào nên khi phải ở một nơi im lặng thì chịu không nổi, muốn phát điên lên. Chúng ta không đi tìm thứ yên tĩnh đó.

. Chúng ta cũng không đi tìm thứ yên tĩnh trống rỗng, nghĩa là bên ngoài đã hoang vắng mà trong tâm hồn cũng hoang sơ, cằn cỗi.

. Thứ yên tĩnh mà chúng ta cần đi tìm là thứ yên tĩnh tràn đầy hương vị ngọt ngào... Yên tĩnh bên ngoài để cho bên trong tâm hồn có được những ý hướng cao thượng, những nhận định sáng suốt, những sức mạnh an ủi khích lệ... Có một nhạc sĩ đã viết lên những câu nhạc như thế này : "Ta hãy làm thinh chớ nói nhiều, để nghe dưới đáy nước hồ reo, để nghe tơ liễu rung trong giá, và để xem trời giải nghĩa yêu..." Đó là thứ yên tĩnh ngọt ngào, phong phú, là chính thứ yên tĩnh ta cần đi tìm.

Nhưng tìm ở đâu bây giờ ? Thưa thứ yên tĩnh đó ta có thể tìm thấy trong bầu khí trầm mặc ở nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện, và ngay trong chính tâm hồn mình. Nghe nói đến đây chắc chắn nhiều bạn trẻ thấy ngán ! Đúng thế, chắc hẳn có nhiều lần chúng ta cũng đã đến nhà thờ, cũng đã cầu nguyện... nhưng thấy nó buồn tẻ làm sao, chỉ muốn ngủ gục thôi. Tại vì chúng ta như bị bó buộc phải đi vào cảnh yên tỉnh đó một cách miễn cưỡng, cho nên chúng ta chỉ gặp được cái thứ yên tĩnh chỉ vì vắng tiếng động bên ngoài, hay chỉ gặp thứ yên tĩnh trống rỗng như đã phân loại ở trên. Muốn tìm thấy yên tĩnh đích thực, nghĩa là thứ yên tĩnh ngọt ngào, phong phú thì chúng ta phải tự nguyện tìm yên tĩnh và để trọn tâm hồn của mình lắng đọng trong cõi yên tĩnh đó.

Augustinô sau một thời gian tuổi trẻ chạy theo danh vọng, tiền tài, khoái lạc đã bắt đầu thấy chán chường. Một hôm chàng cầm theo một quyển sách vào ngồi trầm tư trong khu vườn vắng vẻ. Đột nhiên, chàng nghe vang lên một tiếng trẻ con "Hãy cầm lấy mà đọc". Augustinô ngó xuống thì thấy tay mình đang cầm quyển Thánh Kinh. Chàng mở ra và đọc, đọc được câu "Anh em đừng chạy theo xác thịt nữa nhưng hãy sống theo Thánh Thần Chúa". Câu nói ấy của Thánh Phaolô trong thư Ngài gửi cho giáo dân Rôma đã là khởi đầu cho một cuộc sống mới của Thánh Augustinô. Tất cả khởi đầu từ một giây phút yên tĩnh của tâm hồn.

Tóm lại, điều chúng ta cần ghi nhớ trong bài Tin mừng hôm nay là Lời Chúa khuyên : "Chúng con hãy lui vào nơi vắng vẻ..." Để thực hiện Lời Chúa, thỉnh thoảng chúng ta hãy để cho tâm hồn mình lắng đọng lại, hãy tạm quên đi bỏ đi những ồn ào bên ngoài để đi sâu vào tâm hồn mình, thỉnh thoảng chúng ta hãy cầu nguyện thật sự, thỉnh thoảng chúng ta hãy vào nhà thờ với ước muốn thật sự tìm gặp ở đấy sự yên tĩnh cho tâm hồn.

Và cầu mong chúng ta sẽ gặp được điều mà chúng ta tìm kiếm.

3. Sức quyến rũ của Lời Chúa

Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại một giai đoạn thành công của việc rao giảng Lời Chúa : dân chúng đã quá ngán trước những lời giảng dạy của các tư tế và luật sĩ quá khô khan và nặng nề hình thức, lễ nghi, luật lệ - nay gặp thấy giáo huấn của Đức Giêsu vừa đơn sơ dễ hiểu, vừa gần gũi thực tế, vừa chan chứa tình yêu thương nên họ say sưa đón nhận.

. Đến nỗi một mình Đức Giêsu rao giảng không đủ, Chúa phải sai các tông đồ chia nhau đi các thành phố làng mạc để rao giảng. Các ông đi giảng ở đâu cũng gặt hái được những thành công. Vì thế các ông làm việc mà không thấy mệt, nói đúng hơn cũng có mệt nhưng không muốn nghỉ ngơi, thành công gặt hái được khiến các ông hăng hái muốn tiếp tục làm nữa. Đức Giêsu phải dùng quyền mà bắt các ông phải nghỉ ngơi đôi chút.

. Nhưng muốn nghỉ mà cũng không được yên để nghỉ, vì dân chúng cứ tấp nập tuôn đến, các tông đồ không có cả thời giờ để ăn uống. Đức Giêsu mới nghĩ ra một cách giải quyết là bảo các tông đồ xuống thuyền chèo đến một nơi thanh vắng. Nhưng dân chúng đã đoán được chỗ đó, cho nên họ chạy bộ dọc theo bờ sông và đến nơi trước các ngài.

. Nhìn thấy đám đông khao khát nghe Lời Chúa như thế, Đức Giêsu chạnh lòng thương. Ngài ví họ như một đoàn chiên đang đói khát không người chăn dẫn. Và vì thương họ nên Đức Giêsu hy sinh không nghỉ ngơi nữa, đích thân Ngài tiếp tục giảng cho họ nghe.

Thật là một cảnh tượng đáng mơ ước : người giảng thì hăng hái, mệt mà không muốn nghỉ ; còn người nghe thì say sưa nghe mãi mà không chán. Nghĩa là cả người giảng lẫn kẻ nghe đều hăng hái say sưa. Do đâu mà mọi người đều say sưa hăng hái như vậy ? do sức quyến rũ của Lời Chúa.

Khi người ta khám phá được một điều gì rất hay, rất hữu ích thì người ta hăng hái muốn nói lại cho người khác nghe biết. Thí dụ như nhà bác học Archimède : ông đang thắc mắc tìm hiểu tại sao những vật thể có tỉ trọng nặng hơn nước mà lại nổi trên mặt nước. Một ngày kia, ông đang nằm tắm trong bồn nước thì ông cảm thấy như có một sức đẩy dưới nước làm cho thân thể ông nổi lên, nghĩa là trong nước có một sức đẩy. Thế là ông đã tìm ra được lý do. Mừng quá, ông la lên "Eureka" (nghĩa là : "Tôi đã khám phá ra rồi") và chạy vội ra ngoài để kể cho người khác nghe, mặc dù ông quên chưa mặc quần áo, ông còn trần truồng ! Đó là tâm lý của người khám phá. Còn về phần người nghe, thì khi thấy được một nội dung hấp dẫn, người ta cũng say sưa tìm nghe mãi. Một giáo viên đã kể lại cái thời còn là học sinh : "Anh em lớp chúng tôi rất mê một ông thầy dạy văn, và đặc biệt mê những bài thơ mới. Mỗi lần ông thầy đọc cho chúng tôi nghe một bài thơ mới là chúng tôi say sưa chép, những bài thơ của Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận v.v... tụi học trò chúng tôi mê làm sao ấy. Nhưng mà ông thầy này cũng hà tiện, chỉ khi nào chúng tôi thuộc bài giỏi, giữ trật tự tốt thì ổng mới thưởng cho một bài, và mỗi lần như vậy là chúng tôi lại say mê chép."

Lời Chúa cũng có sức quyến rũ như vậy. Chiara Lubich là một người sống bình thường như mọi người. Đến thế chiến thứ II, nước Ý bị lôi cuốn vào vòng chiến. Hằng ngày bom đạn cứ trút xuống các thành phố, nhà cửa tài sản tan hoang, sinh mạng con người bị đe doạ từng giây từng phút. Trong những hầm tránh bom, Bà Chiara Lubich này cảm thấy chẳng còn có thể nương dựa vào bất cứ cái gì ở trần gian, nên bà chỉ đặt trọn niềm hy vọng vào quyển sách Tin Mừng mà bà mang theo. Nào ngờ những lời trong Tin Mừng đã khiến bà tìm thấy được lẽ sống. Và khi khám phá rồi, bà hăng hái kể lại khám phá ấy cho nhiều người khác nghe. Họ thành lập những nhóm chia sẻ Tin mừng với nhau. Những nhóm ấy càng ngày càng sinh thêm những nhóm khác, làm thành cả một phong trào, gọi là phong trào Focolare (nghĩa là Tổ ấm). Họ hăng hái thực hiện Tin mừng. Bà Chiara Lubich có để lại một câu nói đã trở thành danh ngôn : "Chúng ta hãy sống Tin mừng như thế nào để cho dù mọi quyển sách Tin mừng có bị đốt hết, người ta vẫn có thể nhìn vào đời sống của chúng ta mà viết lại trọn vẹn Tin mừng, từng câu, từng chữ".

Có những người chỉ cần khám phá một câu Tin mừng thôi là thấy được hấp dẫn cả một cuộc đời. Chẳng hạn như Thánh Phanxicô Thành Assisiô, câu "Phúc cho những người nghèo" đã khiến ông bỏ hết gia tài cha mẹ để dấn thân vào một cuộc sống nghèo nàn, nghèo nhưng vô cùng hạnh phúc ; Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu thì vạch ra đường lối tu đức riêng của mình từ câu "Nước Trời thuộc về những trẻ nhỏ" ; Cha Charles de Foucauld đã lập ra một Dòng chuyên sống lao động, vì cha rất say mê cuộc đời lao động của Đức Giêsu ở Nagiarét...

Lời Chúa quý giá như một viên ngọc. Nhưng ít ai biết quý chuộng Lời Chúa. Đọc Tin Mừng thì lười biếng, đi lễ nghe giảng thì ngủ gục, lo ra hay bỏ ra ngoài nhà thờ. Tại vì đó là một viên ngọc được chôn dấu dưới đất, ít ai khám phá ra. Nhưng người nào mà khám phá ra thì sẽ say mê, đến nỗi có thể bán hết mọi của cải tài sản để có được viên ngọc quý ấy.

Bởi vậy, bổn phận của các Linh mục là phải trình bày Lời Chúa như thế nào để giáo dân thấy được giá trị hấp dẫn Lời Chúa. Còn bổn phận của giáo dân là phải biết chăm chú lắng nghe để chính mình cũng khám phá ra được giá trị tuyệt vời của Lời Chúa. Và bổn phận của tất cả mọi tín hữu, Linh mục cũng như giáo dân, là phải trân trọng Lời Chúa : không phải chỉ đọc phớt qua, nghe phớt qua, mà phải chăm chú, tìm hiểu, cầu nguyện và cố gắng thực hành.

Xét về một khía cạnh nào đó, thì Lời Chúa còn quan trọng hơn cả các Bí tích nữa. Thí dụ như những người ở vào một hoàn cảnh không thể đến nhà thờ để dự lễ, xưng tội và chịu các bí tích được. Chẳng hạn như những người bệnh nặng, hay dời nhà về một vùng không có Linh mục không có nhà thờ, những thanh niên đi nghĩa vụ quân sự, những bà con ở vùng kinh tế mới v.v. Nếu chúng ta chỉ biết có các Bí tích thì trong những hoàn cảnh ấy, chúng ta sẽ không còn cái gì gọi là sống đạo nữa. Nhưng nếu biết đọc Lời Chúa và sống Lời Chúa, thì chỉ cần một quyển Tin Mừng thôi, hay chỉ một quyển lịch công giáo thôi, chúng ta vẫn có thể tiếp tục có lương thực nuôi dưỡng linh hồn mình, có lẽ sống hướng dẫn cuộc đời mình.

Ở cuối đoạn Tin Mừng hôm nay ; thánh Marcô ghi nhận rằng : Đức Giêsu nhìn thấy dân chúng thì chạnh lòng thương, vì họ như đoàn chiên không người chăn dẫn. Giáo dân là những con chiên của Chúa. Trong số đó có nhiều giáo dân phải sống ở những nơi không có Linh mục, họ đúng là đoàn chiên không người chăn dẫn. Nhưng giáo dân ở các họ đạo có Linh mục thì có khi cũng phải đói khát về lương thực tinh thần vì họ chỉ biết có đọc kinh và giữ các lễ nghi hình thức bề ngoài. Chúa thương hết mọi con chiên, Chúa thương cả đoàn chiên, nên Chúa đã cho đoàn chiên một nguồn lương thực hết sức quý giá, đó là Lời Chúa, chứa đựng trong Tin Mừng. Ước gì chúng ta khám phá được giá trị hấp dẫn của Lời Chúa, dù chỉ là một Lời, một câu trong Tin Mừng thôi, để cuộc đời chúng ta từ đó được biến đổi, có ý nghĩa, có giá trị.

4. Bị quấy rầy

Một người kia đến thăm người bạn của mình làm giáo sư tại một trường đại học lớn. Trong lúc hai người đang trò chuyện với nhau trong văn phòng của vị giáo sư thì những sinh viên thường tới gõ cửa để xin ý kiến về vấn đề này vấn đề nọ. Mỗi lần như thế thì câu chuyện bị gián đoạn vì vị giáo sư phải rời chỗ ngồi đi ra trả lời cho sinh viên. Cuối cùng người bạn hỏi : "Làm sao anh có thể làm việc được nếu công việc cứ bị gián đoạn mãi như thế ?" Vị giáo sư đáp : "Ban đầu tôi cũng rất bực bội. Nhưng về sau, tôi chợt ý thức rằng công việc chính của tôi chính là những lúc bị gián đoạn như thế".

Vị giáo sư có thể đóng cửa, không tiếp ai hết, để miệt mài với công việc. Làm thế thì ông có thể được yên tĩnh. Nhưng vì là một con người quảng đại hay giúp đỡ, ông không thể làm thế. Thay vào đó ông coi việc tiếp xúc và giúp đỡ sinh viên là việc chính của mình. Bởi đó, không lạ gì ông được sinh viên quý mến, và ông là người hạnh phúc nhất và hoàn thành trách nhiệm giáo sư tốt nhất trong trường Đại học.

Vị tha vừa dễ mà cũng vừa khó. Dễ là khi việc phục vụ người khác là do ta tự ý chọn, nhờ đó ta chẳng những không cảm thấy bực bội mà còn thoải mái. Còn khó là khi ta phục vụ mà miễn cưỡng, thành ra bực bội và khó chịu.

Một hành vi được xét là tốt không do tầm quan trọng của nó, mà do tấm lòng của người làm hành vi đó : sẵn sàng chấp nhận nếp sống bị xáo trộn để giúp đỡ người khác, sẵn sàng tạm gác qua một bên những dự định của mình để phục vụ người khác.

Như ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu rất bận rộn với biết bao công việc, đến nỗi không có giờ để ăn uống. Ngài vừa định cùng các môn đệ đi tới một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi thì dân chúng lại kéo đến. Thấy vậy, "Ngài chạnh lòng thương và bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều".

Mặc dù biết phục vụ người khác là tốt, nhưng nhiều người chỉ muốn phục vụ một chút thôi, miễn là việc phục vụ đó đừng quá quấy rầy, đừng xáo trộn nếp sống quen thuộc của họ. Nhưng như thế không phải là phục vụ. Đức Giêsu đã phục vụ khi sẵn sàng cho người khác quấy rầy, làm xáo trộn chương trình của Ngài. Cha mẹ chúng ta cũng thế : biết bao lần các ngài đang ngủ giữa đêm phải thức dậy để chăm sóc con cái ?

5. Lắng đọng và bình an

Một thanh niên lực lưỡng xin đốn cây để phụ giúp gia đình. Thấy anh vạm vỡ, chủ liền trao cho anh một chiếc rìu, dẫn anh vào rừng và bảo :

- Anh thử đốn cây này cho tôi xem.

Vì đã từng lao động, nên anh đốn rất nhanh. Ông chủ nhận anh vào làm việc, đưa ra mức lương và cho nơi cư ngụ.

Dù mệt nhọc nhưng anh cảm thấy rất vui, vì nghĩ rằng cuối tuần sẽ có một số tiền kha khá đem về gia đình. Thứ Hai, Thứ Ba, rồi Thứ Tư vùn vụt trôi qua. Đến ngày Thứ Năm, chủ gọi anh vào cám ơn và trao cho anh tiền công cả một tuần.

Anh vui sướng cầm những tờ giấy bạc thấm đẫm mồ hôi, đôi mắt rạng ngời niềm vui. Bỗng chợt nhận ra có điều gì bất thường, anh thắc mắc hỏi chủ :

- Tôi xin cám ơn chủ đã trả lương cho tôi suốt tuần. Nhưng sao không để đến thứ bảy mà lại trả lương vào hôm nay.

- Đáng tiếc là tôi không thể mướn anh được nữa, vì theo sổ sách thì anh đốn được nhiều cây nhất vào ngày thứ Hai, nhưng qua ngày thứ Ba cây đã giảm xuống, và ngày thứ Tư anh là người đốn được ít cây nhất trong các công nhân ở đây.

- Nhưng thưa ông chủ, tôi đã làm hết sức mình. Tôi đi làm sớm về trễ. Tôi chỉ nghỉ để ăn trưa có nửa tiếng thay vì một tiếng. Tôi làm việc không ngừng. Tôi làm việc cả giờ giải lao. Vậy ông chủ còn muốn gì nữa ?

- Những gì anh vừa nói không sai chút nào, tôi hoan nghênh sự nhiệt tình của anh. Nhưng tôi chỉ xin hỏi anh một câu : anh có mài rìu không ?

*

"Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút" (Mc.6,31). Sau cuộc hành trình truyền giáo vất vả, các tông đồ phấn khởi thuật lại cho Đức Giêsu nghe những thành quả vàng son của mình. Nhưng Người lại quan tâm đến con người hơn công việc. Người muốn các ông hãy dành một chút nghỉ ngơi cho thân xác, một chút lắng đọng cho tâm hồn, để tách mình ra khỏi đám đông, để sống tình thầy trò, tương giao mật thiết với Thầy và với nhau.

Lắm khi chúng ta quên mất "mài rìu", vì cho rằng khối lượng công việc chồng chất, vì thời buổi kinh tế cạnh tranh, nên không dễ tìm được một chút tĩnh lặng : để thẩm định lại những biến cố, và soát lại công việc đã làm và lắng nghe được tiếng Chúa mời gọi.

Nếu muốn đốn nhiều cây càng phải năng "mài rìu" cho sắc.

Nếu muốn đi thật xa càng phải luôn dừng lại để nghỉ ngơi, lấy sức.

Nếu muốn hoạt động tông đồ hiệu quả, càng phải năng tĩnh dưỡng tâm hồn.

Khi được hỏi bí quyết nào khiến George Washigton Carver thành công trong thành tựu khoa học của mình với trên 300 sản phẩm hữu dụng, ông đã trả lời : "Tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, và trong sự yên tĩnh của buổi sớm mai, tôi lắng nghe tiếng Chúa và chương trình của Người xếp đặt cho tôi".

P.Doncocur đã quả quyết : "Không một vĩ nhân nào đã thành công mà không đắm mình trong tĩnh lặng để hồi tâm và cầu nguyện". Vâng, trong cuộc hành trình về quê Trời, người ta không thể đi hết con đường vừa dài vừa dốc, nếu không dừng lại nghỉ ngơi, lấy sức và định hướng.

*

Lạy Đức Giêsu, Chúa đã "lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện". Xin cho chúng con cũng biết gác bỏ những sôi nổi của thành công, những ê chề của thất bại, để một mình tĩnh lặng bên Chúa ; lắng đọng và bình an.

Xin cho chúng con biết dừng lại, lắng nghe và kín múc nơi Chúa nguồn sức mạnh, để chúng con lại tiếp tục lên đường. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

6. Thánh Giám mục Tử đạo Cuénot Thể

 Cuộc đời của Thánh Giám Mục tử đạo Cuénot Thể (1802-1861) với 31 năm phục vụ Giáo Hội Việt Nam và 26 năm trong chức vụ giám mục, gắn liền với công cuộc khuếch trương truyền giáo không những giữa người Việt Nam nhưng cả với những dân tộc ít người tại vùng Cao Nguyên Kontum. Khi bị bắt Đức Cha Thể đã bị điều tra xét hỏi :

 - Tại sao ông sang nước tôi ?

+ Thưa, để giảng đạo Thiên Chúa.

- Ông ở đây bao lâu rồi ?

+ Ba mươi bốn năm.

- Ông đã ở đâu ?

+ Thưa trước hết ở Bình Định rồi Phú Yên, Bình Thuận và lại trở về Bình Định.

 Có một điều không được đề cập tới trong cuộc tra vấn là công cuộc truyền giáo cho các dân tộc ít người tại vùng Cao Nguyên Kontum. Về công trình này, cha Đỗ Đình Bộ (P. Dourisboure) là người trong cuộc có bình luận về Đức Cha Thể như sau : Đức Cha có bẩm tính cương quyết và kiên trì, và một khi ngài đã nghiền ngẫm dự tính gì đó thì những trở ngại, thay vì làm ngài nản lòng, lại càng kích thích sự hăng say của ngài. Đã bốn năm lần, ngài thấy dự tính rao giảng Phúc Âm cho các dân tộc Thượng bị chặn đứng và trở nên không thể thực hiện được, nhưng chưa bao giờ vì vậy mà ngài có ý bỏ cuộc. Con đường bị đóng ư ? Ngài cho mở đường khác. Con đường mới này xem ra không thể lưu hành được, ngài lại tìm tòi hướng khác cho đến khi thành tựu mới thôi." (Dân Làng Hồ, Sàigòn 1972, trang 5).

 Vậy năm 1842 Đức Cha Thể phái hai vị thừa sai (là hai linh mục thừa sai Paris Miche và Duclos) cho cuộc mạo hiểm đầu tiên. Hai vị đã bị thương gia người kinh bắt và áp giải về Huế. Các ngài đã bị lên án tử hình nhưng được giải thoát do chiếc tàu Pháo Héroine đến can thiệp kịp thời.

 Vài ba cuộc mưu toan vượt biên khác qua lối Quảng Ngãi và Quảng Nam cũng bị thất bại.

 Gương Thầy Sáu Do và các vị Thừa Sai

 Đến năm 1848, Đức Cha Thể lại thử một cuộc vượt biên khác, lần này qua biên giới tỉnh Bình Định nơi ngài đang trú ẩn giữa cơn cấm đạo gắt gao, và với một chủng sinh người Việt mà ngài mới truyền chức phó tế. Đó là thầy sáu Do. Khởi sự thầy Do đóng vai giúp việc rồi nấu bếp cho một thương gia người kinh. Thầy học tiếng dân tộc và phong tục của họ. Thầy cũng khám phá ra đường đưa các vị thừa sai vượt ngoài sự dòm ngó của những thương gia người kinh. Sau sáu tháng phiêu bạt trở về, thầy Do được Đức Cha tín nhiệm cho lên đường như một nhà buôn có môn bài. Thầy sẽ có thể đi sâu vào những buôn làng bên kia An Sơn trước kia là Tây Sơn nơi 3 anh em cùng một gia đình đã nổi dậy chống chúa Nguyễn. Thầy và bốn chủng sinh phụ tá, làm nên đoàn thương gia giả hiệu, an toàn đến được với bộ lạc Hà Drông. Không ngờ nơi đoàn thương gia tới trọ lại là nơi có âm mưu cướp của và bắt người bán làm nô lệ cho dân Lào. May mà thầy sáu Do và anh em kịp thời chạy trốn, bỏ lại hành lý và đồ đạc cho bọn cướp.

 Đức Cha Thể khâm phục lòng can đảm của thầy sáu Do và anh em, và chỉ thị cho cha Cung (tức là linh mục thừa sai Paris Combes) cùng với thầy sáu Do lên đường. Vì di chuyển ban đêm, đoàn không kịp thời trông thấy để lẩn tránh một đàn voi đang chận đường họ. Một con trong đàn dẫm gãy sườn một thanh niên trong đoàn. Thôi thì mạnh ai nấy chạy. Riêng cha Cung bị một con voi rượt theo, cha liền ném chiếc nón đang đội lại phía sau. Voi ngừng đuổi, chà đạp chiếc nón và để cha chạy thoát thân.

 Lần này Đức Cha Thể tỏ ra lạnh nhạt với phái đoàn đã sớm bỏ cuộc. Đức Cha nói : "Vì thời tiết xấu còn kéo dài, tôi cho các vị 15 ngày để nghỉ ngơi. Sau thời gian này các vị sẽ lại lên đường. Và lần này cũng đừng có vô phúc mà quay về như vậy nữa." Để bảo đảm hơn cho thành quả của chuyến viễn du mới, Đức Cha ra lệnh cho cha Phạm Tân (Fontaine) sửa soạn để tháp tùng cha Cung.

 Cứ như vậy Đức Cha Thể phái các thừa sai đi loan Tin Mừng cho các dân tộc ít người ở vùng Cao Nguyên. Ban đầu phải đi ban đêm để các vị thừa sai ngoại quốc không bị phát hiện. Sau vì muốn tránh thú dữ nên phải đi ban ngày, thì các vị ấy phải được sơn phết cho đỡ trắng trẻo, phải đội nón và ăn vận như người bình dân.

 Nơi dừng chân đầu tiên là làng của một tên cướp khét tiếng cả vùng, gọi là làng của Ba Ham (cha của Ham). Cũng may gã Ba Ham lần đầu tiên đối diện với bộ mặt dị dạng và râu ria rậm rạp của hai vị thừa sai người Pháp, tự nhiên hắn cảm thấy phần nào kính nể. Dẫu vậy hắn cũng giữ hai cha lại trong nhà gần một tháng mới chịu để cho hai cha ra đi.

 Sau làng Ba Ham đến làng Bơ Lu dễ thương hơn nhiều. Rồi đến Kon Phar cách Bơ Lu hai ngày đường. Và còn nhiều làng khác nữa mà các thừa sai phải kinh qua trước khi các vị ấy được ơn làm phép rửa cho ba người dân tộc đầu tiên vào năm 1853, tức 11 năm sau khi Đức Cha Thể phái hai vị thừa sai đầu tiên lên vùng cao nguyên.

 Gương sống động của chính Đức Giêsu và các môn đệ.

 Cuộc phái thừa sai lên vùng cao nguyên Việt Nam cũng là để tiếp nối cuộc sai phái các môn đệ do chính Đức Giêsu. Tin Mừng Máccô lần lượt cho thấy Đức Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên (1,16-20), thiết lập Nhóm Mười Hai để các ông ở với Người và để chính Người sai các ông đi rao giảng (3,14). Một khi các môn đệ được sai đi từng hai người để rao giảng và kêu gọi người ta ăn năn sám hối (6,7-12), các ông trở về báo cáo cho biết mọi điều các ông đã làm và đã dậy (6,30).

 Nhưng điều quan trọng là thực chất của Nước Thiên Chúa mà các môn đệ cần nhắm tới. Các ông trừ được nhiều quỉ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh (6,13), nhưng Đức Giêsu khẳng định rằng : "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy : Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao ? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ : Ta không hề biết các ngươi." (Mt 7,21-23).

 Bài Tin Mừng hôm nay (6,30-34) cùng với phần còn lại của đoạn văn (6,35-52) minh họa cách cụ thể ý muốn của Thiên Chúa là ý muốn mà Đức Giêsu triệt để vâng theo, cũng là ý muốn mà Đức Giêsu sốt sắng huấn luyện các môn đệ, để các ông vâng theo. Sau đây là một loạt những biến cố cho thấy rõ điều đó.

 + Thiên Chúa an bài để sự việc xảy ra là các môn đệ đi sứ vụ về báo cáo với Đức Giêsu ngay vào lúc Đức Giêsu đang bị dân chúng tràn ngập đến nỗi các môn đệ chẳng còn thì giờ ăn uống (c.3).

 + Đức Giêsu ra lệnh cho các môn đệ lánh riêng ra đến nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút (c.31)

 + Thiên Chúa cũng an bài để nhiều người hiểu ý nên từ khắp các thành họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi trước các ngài (c.33)

 + Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương vì họ như bầy chiên không người chăn dắt (c.34). Tức là Đức Giêsu đọc được ý của Thiên Chúa Cha muốn Đức Giêsu tỏ ra Người chính là vị Mục Tử tốt lành từng được Cựu Ước loan báo (Tv 76,21 ; Ed 34,23 ; 37,24). Vậy Đức Giêsu đã bỏ dự định cũ, Người không tìm đến nơi hẻo lánh nữa nhưng ở lại với dân chúng để dạy họ nhiều điều (c.34).

 + Sự việc lại xảy ra là : vì giờ đã muộn nên các môn đệ đề nghị Đức Giêsu giải tán dân chúng về để họ vào các thôn xóm mà mua của ăn (c.38). Nhưng Đức Giêsu đã không theo ý các môn đệ vì Người đọc được ý Thiên Chúa muốn Người phải trở nên như Môsê từng cung cấp lương thực là Manna cho dân nơi sa mạc (Xh 16,1-36). Do đó Đức Giêsu đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho dân ăn no (cc.37-44).

 + Điều được hiểu ngầm sau phép lạ hoá bánh ra nhiều là một tình trạng lệch lạc nào đó xảy ra giữa dân chúng và các môn đệ cho nên Đức Giêsu phải bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trong khi chính Người giải tán dân chúng (c.45).

 + Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu biết họ sắp bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lánh mặt, đi lên núi một mình" (Ga 6,15). Còn trong Tin Mừng Máccô, Đức Giêsu lên núi cầu nguyện (Mc 6,46). Đức Giêsu như Môsê xưa ở trên núi chuyển cầu cho dân (Xh 33,11-17). Chính ở thế kết hợp với Thiên Chúa, Đức Giêsu thấy rõ hoàn cảnh các môn đệ đang bị thử thách trên biển hồ Galilê. Người đã đi trên mặt nước để đến mang lại bình an cho các ông.

 + Vậy tác nhân quan trọng nhất trong công cuộc huấn luyện các môn đệ là chính bản thân Đức Giêsu như tấm gương sống động về tinh thần khắng khít với Thiên Chúa trong cầu nguyện cũng như trong mọi hành động. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)

 

V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu muốn có những giây phút nghỉ ngơi với các tông đồ, nhưng thấy dân chúng bơ vơ như đàn chiên không người chăn. Người lo chăn dắt họ, Người thật là mục tử nhân hậu điển hình. Chúng ta hãy cầu nguyện :

1. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các vị chủ chăn trong Hội thánh biết tìm thời giờ để nghỉ ngơi và bồi dưỡng / để rồi lại hăng say chăn dắt đàn chiên tốt đẹp hơn.

2. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các nhà cầm quyền biết từ bỏ thói quan liêu tham nhũng và tư lợi / để tận tâm phục vụ công ích và hạnh phúc của người dân.

3. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người bơ vơ không nhà cửa, không việc làm, bị xã hội bỏ rơi / được có người biết quan tâm giúp đỡ.

4. Chúng ta hãy cầu nguyện cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng ta / năng cầu nguyện và tận tâm giúp đỡ các vị chủ chăn trong Hội thánh.

Chủ tế  : Lạy Đức Giêsu là vị chủ chăn điển hình, xin sai đến với chúng con những vị chủ chăn xứng đáng với Chúa, và xin cho chúng con trở thành đoàn chiên ngoan ngoãn của Chúa, Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. TRONG THÁNH LỄ

Trước kinh Lạy Cha : Trong tinh thần hiệp nhất của đoàn chiên quanh chủ chiên nhân lành là Đức Giêsu, chúng ta hãy sốt sắng cùng Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh chính Đức Giêsu đã dạy.

Sau kinh Lạy Cha : "Lạy Đức Giêsu Kitô, Chúa đã nói với các tông đồ rằng… Xin đoái thương ban cho Hội Thánh được bình an và hiệp nhất như ý Chúa muốn. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời".

VII. GIẢI TÁN

Thánh lễ đã xong. Anh chị em hãy ra về và sống an bình, đừng lo lắng gì cả, vì có Chúa là mục tử luôn chăm sóc mỗi người chúng ta. Chúc anh chị em được bình an.