Thứ sáu tuần thánh
 
 

Suy Niệm Thứ Sáu Tuần Thánh

Is 52:13-53:12; Dt 4:14-16; Ga 18:1-19:42

A. Hạt giống...

Thánh Gioan có một cái nhìn đặc biệt với cuộc chịu nạn của Chúa Giêsu. Thập giá không chỉ là con đường dẫn tới vinh quang :

- Đó là GIỜ mà từ lâu Chúa Giêsu hằng nghĩ tới và chuẩn bị, là thời điểm vinh qung mà vận động viên marathon chạy về tới đích đoạt chiếc cúp vàng.

- Do đó Gioan cho thấy Chúa Giêsu bước vào cuộc thụ nạn một cách đầy ý thức và chủ động. Gioan luôn lập đi lập lại những chữ “Ngài biết”. Chúa Giêsu biết trước những gì sắp xảy đến. Ngài luôn làm chủ những diễn biến.

- Trên Thập giá Chúa Giêsu trở thành VUA và lấy lại vinh quang Ngài vốn có nơi Chúa Cha.

Từ Thập giá, Ngài :

- Kéo mọi người lên với Ngài.

- Sinh ra Hội thánh.

- Ban cho Hội thánh một người mẹ là Đức Maria.

- Tuôn tràn thánh linh xuống cho Hội thánh.

Bởi đó, khi chúng ta cùng Gioan đi theo những chặng đường Thập giá Chúa Giêsu, tâm tình của chúng ta phải có lạc quan và biết ơn.

B...Nẩy mầm

1. Chính vì Chúa Giêsu luôn ý thức và chủ động trong mọi diễn biến của cuộc chịu nạn mà cuộc chịu nạn này mới có giá trị. Những đau khổ của chúng ta cũng thế.

2. Đối với Chúa Giêsu,Thập giá là vinh quang. Thánh Phaolô cũng nói “Vinh dự của chúng ta là Thập giá Đức Kitô”. Xin Chúa giúp chúng con có thể nói được như thế.

3. Khi George Nixon Biggs làm Thống Đốc bang Massachusetts, có ba người bạn của ông đi viếng thánh địa. Họ leo lên đỉnh núi Gôngôtha, bẻ một nhánh cây làm gậy. Khi trở về, họ tặng vị Thống Đốc cây gậy và nói : “Chúng tôi muốn Ngài biết cho rằng, khi đứng trên đỉnh đồi Canvê, chúng tôi đã nghĩ tới ngài”. Thống Đốc hết lòng cảm ơn họ, ưu ái nhận quà tặng và nói thêm : “Nhưng thưa các bạn, tôi còn nghĩ xa hơn : ở đó, có một Đấng khác cũng đã nghĩ tới tôi” (Góp nhặt).

4. Có một lần nhà truyền giáo hỏi lớp Giáo Lý Thánh kinh : “Nếu các bạn thấy một nhóm 12 người đàn ông rất giống nhau, trong đó có Đức Kitô, làm sao các bạn nhận ra Ngài ? Nhiều người bảo không biết. Nhưng một em bé nói : “Nhờ những dấu đanh trên tay Ngài” (Góp nhặt).

5. Mầm khác.

THỨ SÁU :

Thập giá Đức Kitô

Trong tập hồi ký, một người Do Thái từng ở trại tập trung thời Đức Quốc Xã bên Ba Lan có kể lại câu chuyện sau : Những người lính Đức quốc xã treo cổ hai người Do Thái và một thiếu niên trước sự chứng kiến của tất cả trại viên. Hai người đàn ông chết tức khắc vì kiệt sức, nhưng cơn hấp hối của cậu thiếu niên kéo dài cả nửa tiếng đồng hồ. Nhìn thấy cảnh tượng đó, một trại viên đứng sau tôi đã thốt lên : "Thiên Chúa đang ở đâu ?" Khi người thiếu niên đang cố gắng vùng vẫy trong vòng giây thắt cổ, tôi lại nghe một người khác thốt lên : "Bây giờ Chúa ở đâu ?" Và, tôi nghe từ tận đáy tâm hồn tôi : "Ngài đang ở đây, Ngài đang bị treo cổ kia".

"Bây giờ Chúa đang ở đâu ?". Mỗi lần bóng tối của Thập giá làm dấy lên trong chúng ta câu hỏi như thế, chúng ta nghe vọng lên từ nỗi đớn đau của chúng ta câu trả lời duy nhất là : "Ngài đang có mặt đó". Ngài đang có mặt đó, bởi vì Ngài là Tình yêu. Chỉ có Tình yêu mới có thể đến tận cùng của khoan dung và tha thứ. Thập giá vẫn mãi mãi là tột đỉnh của sự độc ác dã man của con người, sự độc ác dã manh đó càng bộc lộ, thì tình yêu Thiên Chúa càng bày tỏ.

Lý luận thông thường không thể hiểu cạn được tại sao một Thiên Chúa lại có thể chịu treo trên Thập giá. Nhưng đó lại là sức mạnh, là sự không ngoan của tình yêu. Dù tội lỗi con người có ngập tràn, dù sự độc ác của con người có chất ngất, Thiên Chúa vẫn yêu thương và tha thứ.

Thập giá không chỉ là biểu trưng của sự độc ác và tội lỗi con người, mà còn là vẻ đẹp của chính tình yêu Thiên Chúa. "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài. Ngài không sai Con Ngài đến để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Một Ngài mà được cứu thoát". Đó phải là xác tin của chúng ta khi ngắm nhìn Thập giá Chúa Giêsu. Thiên Chúa yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta còn là tội nhân. Thiên Chúa yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta khước từ. Không có tình yêu nào cao cả hơn.

Vì yêu thương chúng ta, Ngài chấp nhận chịu treo trên Thập giá. Vì yêu thương chúng ta, Ngài trải qua mọi khốn cùng của kiếp người. Không phải đinh sắt đã đóng Ngài vào Thập giá, mà chính là tình yêu. Đó là tất cả vẻ đẹp cao vời của Thập giá. Thập giá là nơi ngự trị của Thiên Chúa. Chính trong những nơi cơ cực, nghèo hèn, bỉ ổi và đớn đau nhất mà sự hiện diện của Thiên Chúa lại càng mãnh liệt hơn. Chính từ Thập giá mà tiếng gọi yêu thương của Ngài càng thắm thiết hơn.

Từ trên Thập giá, Chúa Giêsu ôm trọn từng nỗi khổ đau của con người. Nhìn ngắm Thập giá của Ngài, đôi mắt chúng ta càng phải mở rộng ra để nhận thấy bao nỗi thống khổ cơ cực của những người xung quanh. Lúc đó, Thập giá không còn vắng bóng Thiên Chúa mà trái lại là điểm xuất phát của những cử yêu thương, từ đó tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa sẽ bừng dậy.

THÁNH GIÁ CỨU ĐỘ

Trên phạm vi nhân loại xa xưa, thánh giá là một cực hình của dân Do thái dành để phạt những tội nhân nặng nề nhất. Nhưng trên phạm vi siêu nhiên mang nhiều ý nghĩa.

1. Thánh giá Chúa Kitô tượng trưng cho sự cứu chuộc giải thoát loài người theo đúng chương trình Thiên Chúa đã hoạch định và thực thi qua lịch sử loài người.

2. Thánh giá Chúa Kitô biểu trưng cho quyền năng vô địch của Thiên Chúa (1C 1,18). Quyền năng ấy đã xử dụng đúng mức trong kế hoạch giải phóng nhân loại ra khỏi ách nô lệ của satan, ra khỏi hình phạt đời đời, ra khỏi quyền lực tội lỗi, ra khỏi quyền uy vô hình nguy hại trong vũ trụ.

3. Thánh giá Chúa Kitô là hiện thân của sự hòa giải lớn lao giữa Thiên Chúa và con người sau một quá trình xung khắc giữa Thiên Chúa và nhân loại.

Thế đó là những ý nghĩ chiều cao, chiều dọc của thánh giá, còn đây là ý nghĩa chiều ngang của Thánh giá.

4. Thánh giá Chúa Kitô là giao điểm bình an giữa con người và tha nhân. Chúng ta biết sau những thăng trần của lịch sử phân ly chua xót, thánh giá Chúa đã đến để phá đổ những hàng rào ngăn cách giữa người với người và xây lại con đường trên căn bản bác ái (Eph 2,16).

5. Thánh giá Chúa Kitô là con đường của con cái Chúa đi vào. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình...” (Mt 26,24. Ga 12,26)... Lịch sử đã minh chứng chân lý này. Ta thường nói “cha nào con nấy”. Chúa Giêsu là cây xanh mà còn đi vào con đường hẹp của thánh giá huống chi là những cây khô. Từ các môn đệ đầu tiên của Giáo hội khởi đầu như Stêphanô, Phêrô, Giacobê... cho đến những người con cái Chúa của 20 thế kỷ đã đều hăm hở vác thánh giá bước theo vết chân Chúa cho đến hơi thở cuối đời (Mc 8,34).

6. Thánh giá còn là sự liên tục vâng phục Chúa Kitô hằng từ bỏ trong tham vọng hằng đòi hỏi của con người dục vọng và cả những đòi hỏi cao thượng được phép để rồi chọn Chúa làm gia nghiệp làm tất cả mà treo mọi: tham sân si  lên cây thánh giá. Một người theo chân Chúa không phải hỏi “Tôi muốn làm gì đây ?” Nhưng phải  hỏi “Chúa muốn con làm gì đây ?”.

7. Đối với người theo Chúa, thánh giá cũng là những gian khổ sỉ nhục mà mỗi người phải chịu vì vinh danh Ngài (Dt 10,32. Gal 2,19). Nếu đồng lao cộng khổ với Chúa Kitô thì cũng đồng vinh với Ngài (Rm 6,6-8). Theo đó thánh giá tượng trưng cho sự hiệp nhất đau khổ của mình với thánh giá Chúa Kitô. Sự liên kết hiệp nhất đau khổ của mình với thánh giá Chúa Kitô. Sự liên kết huyền nhiệm trong sự cùng khổ, cùng sống, cùng chết thì cùng được vinh quang với Chúa phục sinh. Chết cho những gì ngăn cách ta với Chúa Giêsu; sống cho những gì thuộc về Chúa. Chúa Giêsu nhấn mạnh tới việc vác thánh giá trong sự tình nguyện, tự hiến (Mc 8,34). Chúa không bao giờ ép buộc ai phải theo Ngài. Ngài không buộc ai phải đóng đinh vào thánh giá của Ngài. Nhưng một khi đã cân nhắc, đắn đo theo chân Chúa là người ấy đương nhiên phải đóng đinh mình vào thánh giá và tự nguyện chịu đựng, vác thánh giá đó đi theo Chúa.

8. Cũng như  xưa con rắn đồng nơi sa mạc (Ga 12,32). Chính cái chết treo lơ lửng của Chúa Giêsu đã lôi kéo bao nhiêu tâm hồn, ít là hơn 1.000 triệu người hôm nay ăn năn sám hối. Hai chiều thánh giá ngang dọc cũng là biểu hiện tính cách vô biên của Chúa. Thiên Chúa trong việc ban ơn cứu độ và tính cách công giáo của Chúa. Chiều ngang dọc chỉ về đông tây nam bắc. Chiều cao lẫn chiều sâu đến nỗi các linh hồn ở ngục tổ tông còn được hưởng hạnh phúc thánh nhan. Vậy người tình nguyện theo Chúa là người mang một tâm hồn sống để cứu nhân độ thế bằng thánh giá của mình. Ngọn lửa phừng phừng cháy tim họ là làm sao cứu độ các linh hồn. Trong khi đó thì họ cũng chia sẻ phần nào những đau khổ xác hồn mà Giêsu Cứu thế đã chịu để cho tình yêu nên trọn...

Chính Chúa Giêsu đã phán ra từ núi Sọ cách đây hai ngàn năm chữ “Ta khát”. Nhưng tiếng vang ấy cần vang trong hơn nữa, vang tới mỗi tâm hồn sinh ra đời hôm nay và trên mặt đất này cho đến tận thế. Biết đâu ngày mai đây vòng triều thiên nước trời chói ngời vì có những linh hồn trở về do công chúng ta, do cây thánh giá chúng ta vác hôm nay. Ôi thánh giá Chúa Kitô.

SUY NIỆM THỨ SÁU TUẦN THÁNH

Is 52:13-53:12; Dt 4:14-16; Ga 18:1-19:42

Liên Đới Trong Đau Khổ

Hình ảnh người Tôi trung của Giavê mang lấy gánh nặng đau khổ không phải của chính mình nhưng "đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta" (bài đọc 1). Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô theo Thánh Gioan nhấn mạnh đến tình yêu của Đức Giêsu dựa trên tình liên đới với mọi người : "vì yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở trần gian, Người đã yêu thương họ đến cùng". Trong bài đọc 2, trích từ Thư gởi tín hữu Do Thái, Đức Giêsu Kitô được ví như vị thượng tế biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện như ta, nhưng không phạm tội.

SỨ ĐIỆP NIỀM TIN

Chịu Đau Khổ Thay Cho Kẻ Khác

Thật khó hiểu quan niệm này. Theo kinh nghiệm, chúng ta biết rằng đau khổ là điều con người phải gánh chịu một mình. Ngay cả khi có ai đó cùng đồng hành và an ủi chúng ta trong cơn đau khổ, chúng ta vẫn đơn độc vì cô đơn chính là một phần trong toàn bộ nỗi khổ của con người. Đồng thời, kinh nghiệm con người cũng cho chúng ta biết rằng trong tâm hồn con người, nhất là trong lòng những người yêu thương nhau, luôn cháy lên một khát vọng không thể diễn đạt được nhưng cũng rất thực, đó là được chịu khổ thay cho người mình yêu. Ví dụ, trường hợp người mẹ hoặc người cha muốn được chết thay cho con mình. Kinh nghiệm phổ quát này một cách nào đó giúp ta hiểu được việc Đức Kitô chịu khổ thay cho chúng ta trong suốt cuộc sống trần gian của Ngài, nhất là trong cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá.

Nơi Vườn Giếtsêmani, trên đường lên Canvê và trên đỉnh Golgotha, Đức Giêsu chịu đau khổ vì gánh lấy nỗi khổ, sự buồn phiền, cơn hấp hối và cái chết của chúng ta. Ngài đau khổ vì gánh lấy tội lỗi chúng ta, tất cả mọi tội, vì đó là căn nguyên gây ra mọi đau khổ cho con người. Có thể nói rằng cuộc khổ nạn của Đức Kitô chính là cuộc khổ nạn của chúng ta. Sự buồn phiền nơi Vườn Giếsêmani phải chính là nỗi buồn phiền của chúng ta hơn là của Đức Giêsu. Nhưng Ngài đã gánh lấy tất cả. Những cơn co thắt trên thập giá trong những giờ phút hấp hối chính là của chúng ta. Ngài đã chịu tất cả vì chúng ta. Hình ảnh Người tôi trung của Giavê là biểu trưng của dân tộc Do Thái (bài đọc1) giờ đây trở nên một thực tế phủ phàng nơi thân xác và tâm hồn của Đức Giêsu Kitô. Do đó, người Kitô hữu đã mất quyền chịu đau khổ một mình rồi. Đức Kitô, con người đau khổ, đã chịu đau khổ trước thay cho mọi kitô hữu, và giờ đây vẫn còn chịu khổ với họ.

Ai Phải Chịu Đau Khổ Trong Đức Giêsu Kitô Nagiarét ?

Trước hết phải kể đến Đức Giêsu, con người chịu đau khổ. Chính những giọt mồ hôi máu của Ngài đã đổ ra nơi Vườn Giếsêmani, chính máu của Ngài đã đổ xuống trên thân thể bị roi đòn và đóng đinh, chính Ngài phải cảm nhận những đau nhói khi bị vòng gai đâm vào, chính Ngài bị xấu hổ khi bị người ta vả mặt, chính Ngài bị tước mất đi nhân phẩm trong cơn hấp hối khi bị cười nhạo và phỉ báng. Đức Giêsu Thượng tế cũng phải chịu đau khổ. Vị thượng tế trong giao ước cũ trút đổ tội lỗi của dân trên một con dê trong ngày lễ xá tội. Đức Kitô Thượng Tế của giao ước mới gánh lấy mọi tội lỗi trên thân mình, đưa cao lên thập giá, thanh tẩy bằng chính máu của mình, và thiêu hủy bằng ngọn lửa của tình yêu nhân hậu (Bài đọc 2).

Đức Giêsu, Người tôi trung của Giavê, biểu trưng cho dân Ítraen mới, Hội Thánh của Đức Kitô, vẫn đang chịu đau khổ. Mọi tội lỗi của các Kitô hữu đều có trong cuộc khổ nạn của Đức Kitô. Và tất cả đều được xóa bỏ nhờ vào công nghiệp của Đấng chịu đóng đinh.

Sau hết, Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống, cũng chịu đau khổ. Duy chỉ với tư cách này, mà sự đau khổ của Ngài mới có hiệu quả chết thay cho chúng ta, và có giá trị cứu độ muôn người. Là anh em với chúng ta trong nhân tính, Ngài cảm thương những nỗi yếu hèn của con người. Là Con Thiên Chúa trong ngôi vị và bản tính, Ngài có thể hiến thân mình, chịu đau khổ cho chúng ta, một quyền lực siêu phàm mang lại hiệu quả vô tận cho mọi người qua mọi thời.

Xin Cám Ơn Con- Người- Chịu- Đau- Khổ

Trong Ngày thứ Sáu Tuần Thánh này, thật là hợp lý và là một vinh dự khi mọi Kitô hữu và toàn thể nhân loại tỏ lòng cámt ơn với Đấng bị treo trên thánh gía, Con Thiên Chúa nhưng đã tự mình trở thành người nô lệ, không còn là một con người nữa, để chúng ta đừng quên rằng chúng ta được mời gọi sống trọn vẹn kiếp làm người.

Xin cám ơn Đấng chịu đóng đinh bởi vì Ngài đã muốn chịu đau khổ vì chúng ta đến độ không còn hình dáng bên ngoài là con người và cũng không có biểu hiện của con người. Xin cám ơn Chúa vì Ngài đã tự để cho đau khổ tràn ngập nơi mình cũng như trở nên quen thuộc với những đau khổ để chúng ta cảm nhận sự hiện diện của Ngài ở giữa chúng ta. Chúng ta tạ ơn Chúa Giêsu, ngai tòa của lòng thương xót và của tha thứ, vì Ngài muốn chịu đau khổ vì lợi ích cho chúng ta và để chữa lành các vết thương nơi chúng ta.

Chúng ta tạ ơn Đấng Cứu Độ vì Ngài đã hy sinh cho đến chết và chia sẻ số phận của kẻ tội lỗi. Xin cám ơn Chúa vì Ngài đã để con người bắt bớ Ngài, vì Ngài đồng hành với những người bị bắt bớ trong lịch sử và trong thời đại của chúng ta mà đôi khi họ cũng là những người vô tội như Ngài. Xin cám ơn Chúa, Ngưởi anh của nhân loại, vì qua cái nhìn dù là lâu giờ, Ngài đã bỏ qua sự chối từ của Phêrô cũng như của những ai ngày nay đang khước từ Ngài dù đôi khi không có lý do gì cả. Xin cám ơn Đấng là Chân Lý Tuyệt đối vì trong những giờ phút quan trọng nhất cũng như trong suốt cuộc sống Chúa đã đặt chân lý lên trên chính mạng sống như nhiều vị tử đạo từ xưa đến nay vẫn làm để theo bước Ngài.

Xin cám ơn Ngài, Đấng xứng đáng nhất trong nhân loại, vì Ngài đã chấp nhận sự ô nhục của kẻ bị xem là tội phạm như là Baraba, dù Ngài là Đấng vô tội. Xin tạ ơn Ngài, con người tự do nhất trong lịch sử, vì Ngài đã không khinh miệt khước từ cái chết của kẻ nô lệ và đã biến đổi những dấu hiệu vô ơn trở thành dấu hiệu của vinh quang chiến thắng.

Nghệ Thuật Chịu Đau Khổ

Đau khổ gắn liền với thân phận con người nhưng chúng ta phải học cách biết chịu đựng đau khổ. Vấn đề này đòi hỏi phải được giáo dục thường xuyên và lâu giờ. Đối với người Kitô hữu cũng như đối với mọi người, Thứ sáu Tuần thánh là một trường học tuyệt hảo để dạy chúng ta về đau khổ.

Chúng ta học đón nhận đau khổ trong thinh lặng, với Đức Giêsu và như Ngài. Ngài dạy chúng ta bài học cao quí về cách chấp nhận khổ đau và thánh giá, dù Ngài là Đấng vô tội, chấp nhận vì một lý do cao cả hơn, đó là tình yêu đối với Thiên Chúa và với anh chị em của Ngài. Ngài còn dạy một bài học tuyệt vời về tha thứ cho những ai làm điều xấu với chúng ta, về cầu nguyện cho những ai nhạo báng và gây đau khổ cho chúng ta.

Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh cũng giống như là ngôi trường nơi chúng ta học chịu đau khổ với sự kiên nhẫn và lòng yêu thương, để đón nhận mọi biến cố và hoàn cảnh bởi vì Thiên Chúa muốn hoặc cho phép những điều này vì lợi ích cho chúng ta. Đường thánh gía vào Thứ Sáu Tuần thánh cũng giống như con đường khổ giá của cuộc sống con người, nơi đó hoà lẫn yêu thương và thù hận, đánh đập và an ủi, có thượng tế cũng như các trợ tế, có nhục mạ và nước mắt, có những người trộm cướp xúc phạm đền Ngài nhưng cũng có những ngườ biết sám hối ăn năn, có người mẹ đau khổ đi theo Ngài và cũng có những môn đệ bỏ rơi Ngài, có những người chia nhau áo của Ngài và có những người mua vải và khăn liệm xác Ngài. Đức Kitô đón nhận tất cả. Ngài đau khổ bởi vì thân xác yếu hèn của Ngài bị đánh đập trở nên nặng nề do sức nặng tâm lý cũng như thể lý. Ngài đau khổ bởi vì Ngài làm cho những ai Ngài yêu thương phải khổ đau và vì Ngài gây nên đau khổ cho nhiều người thật tình yêu thương Ngài. Ngài gánh chịu khổ đau để chúng ta có thể cùng chịu đau khổ với Ngài và như Ngài.

TÔN KÍNH THÁNH GIÁ,
TƯỞNG NIỆM ĐỨC GIÊSU CHỊU CHẾT

Sợi chỉ đỏ

 Bài đọc I : Ngôn Sứ Isaia tiên báo về Người Tôi Tớ.

 Đáp ca : Lời cầu nguyện của người Công chính bị bách hại "Con xin phó linh hồn con trong tay Cha"

- Bài đọc II : Chúa giêsu là Vị Thượng Tế chịu chết để cứu nhân loại. Tin Mừng : Bài Thương khó theo Thánh Gioan.

I. LỜI CHÚA

Bài đọc I : Is 52,3-53,2 : Đây là bài ca thứ tư về Người Tôi Tớ trong sạch Isaia, bài tiêu biểu nhất trong 4 bài. Có 3 ý lớn :  - Người Tôi Tớ ấy phải chịu rất nhiều đau khổ về cả thể xác lẫn tinh thần. - Nhưng bản thân Người Tôi Tớ thì vô tội Sở dĩ Người chịu khổ như thế là vì tội của người khác. - Vì thế những đau khổ của Người đem lại ơn tha thứ và ơn cứu rỗi cho nhiều người khác.

2. Đáp ca : Tv 30  : Đây là lời cầu nguyện của tín hữu trong lúc bị đau khổ Người. Tín hữu bày tỏ niềm trông cậy vào Thiên Chúa và phó thác đờ mình trong tay Chúa. Trong lúc tắt hơi, Chúa Giêsu đã cầu nguyện bằng một câu của Tv này "Con xin phó linh hồn con trong tay Cha" (Lc 23,46)

3. Bài đọc II : Dt 4,4-6-5,7-9 : Tác giả thư Do thái coi Chúa Glêsu chịu nạn chịu chết là Vị Thượng Tế tự nguyện chịu khổ để mang ơn cứu độ.

4. Bài Thương khó theo Thánh Gioan : Ga 8-9 : Những ý tưởng mà Thánh Gioan muốn nhấn mạnh đặc biệt trong bài tường thuật này :

a/ Chúa Giêsu là người tự do : Ngài biết trước mọi việc sắp xảy đến, nhưng Ngài không trốn tránh, trái lại hoàn toàn ý thức và tự nguyện đi vào những biến cố bi thảm đó. Như thế cuộc chiu nạn chịu chết của Ngài là một chuỗi những hành động tự do. b/ Chúa Giêsu là Vua : trong vụ án này, bề ngoài xem ra Chúa Giêsu là tội nhân, là bị cáo. Nhưng Gioan đã nhận ra Ngài là Vua, là kẻ chủ động và là quan tòa.

c/ Qua việc chịu chết, Chúa Giêsu tuôn đổ Thánh Thần xuống cho các môn đệ .

II. GỢI Ý GIẢNG

Những lời cuối cùng

Có thể căn cứ vào những lời nói cuối cùng của một người sắp chết mà biết được người đó như thế nào, bởi vì trước khi chết người ta chỉ nói những gì mình tha thiết nhất, chỉ nói những lời xuất phát từ tận đáy lòng. Nếu đúng như vậy, chúng ta hãy tìm hiểu những lời cuối cùng của Đức Giêsu trước lúc tắt hơi trên Thập Giá, chúng ta sẽ hiểu rõ con người của Đức Giêsu hơn.

Triết gia Sénèque nói về tâm lý của những người bị xử tử như sau : thường là họ chửi rủa: chửi rủa những kẻ đang giết mình, chửi rủa những kẻ đứng xem, có người còn nguyền rủa thân phận xấu số của mình, nguyền rủa ngày mình sinh ra, nguyền rủa chính người mẹ đã sinh ra mình. Bởi thế, như văn hoài Cicéron cho biết thêm, trong những cuộc xử tử ở đế quốc Lamã, khi thấy tên tử tội nào hung dữ, người ta cắt lưỡi hắn trước, để khỏi phải nghe tiếng chửi rủa. Và trong cuộc xử tử chiều thứ sáu tuần thánh ấy, chúng ta cũng đã thấy có một tên trộm bị đóng đinh chung với Đức Giêsu đã chửi rủa lung tung, chửi cả Đức Gtêsu là người chẳng thù oán gì với hắn.

Chiều hôm đó, có lẽ mọi người cũng đang chờ nghe những lời chửi rủa của Đức Giêsu : những tên lý hình chờ, vì họ là những người đang trực tiếp hành hình Ngài : các Tư tế và biệt phái chờ, vì họ là những kẻ đầu xỏ vận động kết án xử tử Ngài ; dân chúng đứng phía dưới thập giá chờ vì họ đoán rằng Ngài rất tức giận họ bởi họ đã từng chịu ơn rất nhiều của Ngài mà bây giờ quay ra chống lại Ngài. Tất cả mọi người đều chờ, họ sẵn sàng nghe chửi rủa. Họ tin chắc rằng cái tên Giêsu ấy, cái người đã từng rao giảng rằng : “Hãy thương yêu kẻ thù... Hãy làm ơn cho kẻ ghen ghét mình” giờ đây sắp nói khùng, sẽ quên hết những giáo huấn Tin mừng kia mà thay vào đó bằng những lời chửi rủa thậm tệ.

Thế nhưng khi Đức Giêsu lên tiếng, thì ai nấy đều ngạc nhiên sửng sờ. Không phải những lời chửi rủa, mà là những câu dịu dàng. Câu thứ nhất : "Lạy Cha, xin Cha tha cho họ”; câu thứ hai “Tôi hứa thật với anh, ngay hôm nay anh sẽ được lên nơi vui vẻ cùng tôi" ; và câu nói thứ ba : “Thưa Bà này là con Bà".

Ngoài giọng điệu dịu dàng và nội dung chan chứa lời yêu thương của những câu nói đó, chúng ta hãy còn chú ý đến thứ tự của chúng : Câu thứ nhất "Lạy Cha...” là nói đến những kẻ thù ghét Ngài; câu thứ hai "Ngay hôm nay...” là nói với người tội lỗi, tên trộm bên cạnh Ngài; câu thứ ba : "Thưa Bà...” là nói với Đức Mẹ, một người thánh thiện nghĩa là : cho đến phút sắp chết, tình thương  của Đức Giêsu vẫn bao la, và còn bao la hơn bao giờ hết. Tình thương đó dành cho ai ? Trước hết là cho kẻ thù, kế đến cho người tội lỗi, và thứ ba là cho kẻ thánh thiện. Con người là đức Giêsu là như thế là do căn cứ vào những lời nói cuối cùng của Ngài trước lúc chết.  

A/ Hôm nay chúng ta đã thấy Đức Giêsu trong khi chết đã tỏ lòng yêu thương trước nhất không phải là đối với Mẹ Ngài, cũng không phải là đối với các môn đệ của Ngài, mà là những kẻ thù ghét Ngài. Vậy chúng ta hãy cố gắng noi gương Chúa. Hãy tha thứ cho nhau và hãy sống hoà thuận lại với nhau.

B/ Hạng người thứ hai được Đức Giêsu yêu thương nhớ đến trong lúc hấp hối là những người tội lỗi : Chúa không bao giờ ghét người tội lỗi, không bao giờ ruồng bỏ người tội lỗi, nhưng Chúa rất thương người tội lỗi. Nếu biết rằng chính chúng ta là những người tội lỗi thì chúng ta phải cảm động biết bao. Và nếu có ai đó khi nào ngã lòng vì cho rằng tội mình quá nặng hay tội mình quá nhiều, thì người ấy hãy nhớ lại tấm lòng của Đức Giêsu trong những phút giây trước khi Ngài chết.

C/ Còn nếu chúng ta cho rằng mình thánh thiện, hoặc có thiện chí muốn trở thành thánh thiện, thì chúng ta hãy cố gắng bắt chước gương thánh thiện của Chúa chúng ta, là hãy hết lòng yêu thương những kẻ thù ghét mình và cũng hết lòng yêu thương những người tội lỗi.

2. Tâm trạng của Baraba

Bài tường thuật cuộc thụ nạn của Đức Giêsu tuy đã dài mà vẫn chưa đủ, vì chưa mô tả tâm trạng của những người tham dự vào cuộc xử án Đức Giêsu. Và bây giờ chúng ta hãy đi vào tâm trạng của một trong những người đó, Baraba.

Sáng Thứ Sáu, Baraba đang ngồi trong tù thì cửa tù mở ra, viên cai ngục bước vào gọi Baraba đi ra. Baraba giật mình sợ hãi vì tin chắc người ta sẽ dẫn mình đi xử tử. Hắn là một tên cướp của giết người mà tử hình là điều chắc. Nhưng người ta không dẫn hắn ra pháp trường, mà lại đến dinh Philatô, ở đó đã có sẵn một người tù khác đang bị trói, thân thể tả tơi vì bị tra tấn. Philatô ra lệnh đưa cả hai ra trước công chúng và hỏi : Trong hai người này : Một là Giêsu, hai là Baraba, các người muốn ta tha ai ? Baraba cảm thấy nhẹ nhõm ; thì ra người ta dẫn hắn đi không phải để giết mà để hỏi ý dân có muốn tha cho hắn không ? Tuy nhiên chỉ nhẹ nhỏm trong phút chốc thôi, Baraba lại lo sợ : thế nào dân chúng cũng đòi tha người kia đồng thời đòi giết hắn : tội hắn quá rõ và quá lớn mà : Thế nhưng Baraba không tin vào tai mình khi nghe dân gào ta : Hãy tha cho Baraba và đóng đinh Giêsu.

Đến khi Philatô hỏi lại lần thứ hai và dân chúng lại kêu gào lần thư hai y như lần trước thì Baraba mới tin đó là sự thật. Người ta mở trói hắn và dẫn Giêsu đi. Hắn bước xuống đi về phía đám dân, tưởng rằng người ta sẽ chào đón hoan hô hắn, vì người ta đã thương hắn và xin tha cho hắn mà. Nhưng lạ thay chẳng ai còn quan tâm tới hắn nữa, người ta vẫn còn mải mê gào thét đòi giết Giêsu.

Khi đó hắn hiểu ra mình không phải dân chúng yêu thương gì hắn, mà chỉ vì dân chúng đang thù ghét Giêsu. Baraba đi theo đám đông áp tải Giêsu đi đến pháp trường. Giêsu là ai vậy ? Chắc là một tên tội phạm còn hung ác hơn hắn nhiều nên mới bị thù ghét như vậy. Khi người ta đã đóng đinh Giêsu xong trên lên thập giá, hắn mới có dịp nhìn kỹ khuôn mặt của người đã chết thay cho mình : chẳng có gì là hung ác, chẳng một lời nguyền rủa những kẻ hành hạ mình.

Hai bên Giêsu, Baraba nhận ra mặt của hai tên đã từng ở tù chung với hắn. Tương truyền tên của hai người này Dicma và Ghetta. Ghetta thì luôn mồm chửi rủa, chửi lý hình, chửi dân chúng và chửi luôn Giêsu. Nhưng Giêsu cũng vẫn im lặng. Còn dicma thì nói với đồng nghiệp : Mình bị như vậy là đáng tội rồi, còn ông này có làm chi nên tội đâu.

Baraba hiểu thêm ý chi tiết nữa : Giêsu là người vô tội bị kết án oan. Dicma lại quay sang Giêsu và nói: “Thưa Ngài, khi Ngài lên trời, xin cho tôi được đi theo”. Và Giêsu đáp : “Tôi hứa với anh ngay hôm nay anh sẽ lên thiên đàng với tôi”. Vậy nghĩa là Giêsu lại cứu thêm một người nữa, không phải chỉ một mình Baraba mà cả tên Dicma đầu trộm đuôi cướp kia. Baraba còn đang suy nghĩ về lòng nhân ái của Giêsu thìn nghe Giêsu kêu lớn : “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ”. Baraba lại càng ngạc nhiên hơn nữa : Giêsu chẳng những cứu hắn, cứu Dicma, mà còn muốn cứu tất cả những người đã lớn tiếng gào thét giết Ngài. Rồi Giêsu lại kêu lớn: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha”. Và Ngài gục đầu tắt thở. Bấy giờ tên đại đội trưởng lên tiếng : “Đúng thật người này là Con Thiên Chúa”. Baraba thầm nghĩ : “Đúng vậy, chỉ có Con Thiên Chúa mới có được một tấm lòng như vậy”. Baraba rời đồi Golgotha, vừa đi vừa tiếp tục suy nghĩ. Tương truyền rằng kể từ đó Baraba hoán cải, không còn trộm cướp nữa mà trở nên một người lương thiện.

Chúng ta có thể đoán rằng, trong dòng suy tư của mình, Baraba đã suy nghĩ rất nhiều về Luật :

- Trước hết là luật công bình : theo Luật này thì cả hắn, cả Dicma và Ghetta nữa đều phải bị xử tử vì cả 3 đều là những tên cướp của giết người. Nhưng hôm nay Luật này đã không được thực hiện.

- Kế đến là Luật rừng, luật bị thúc đây bởi lòng thù ghét muốn loại bỏ người mình không ưa. Đức Giêsu đã bị xử tử vì thứ luật rừng.

- Nhưng khám phá lớn nhất của Baraba là Luật tình thương. Luật Giêsu đã thực hiện: do luật tình thương này mà Đức Giêsu cam lòng chịu chết nhưng cũng nhờ luật này mà Baraba được thả, Dicma được lên thiên đàng và những kẻ thù của Đức Giêsu được tha thứ. Luật tình thương này đã mở mắt mở lòng viên đại đội trưởng và hoán cải tâm hồn Baraba.

Tối thứ Năm trước khi bước vào cuộc thụ nạn, Đức  Giêsu đã nói với các môn đệ Thầy ban cho chúng con  một điều luật mới, là chúng con hãy thương yêu nhau.  Không có tình thương nào cao cả cho bằng tình của người  dám thí mạng sống vì người mình thương. Và Đức Giêsu là người đầu tiên thực hiện điều luật đó. Không nên sống theo Luật rừng, không chỉ bằng lòng sống theo luật công bình, mà người môn đệ Chúa còn phải biết sống theo luật tình thương.

Chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu. Chúng ta phải noi gương Ngài sống luật tình thương.

ĐỨC KITÔ CHỊU ĐÓNG ĐINH VÀ CHỊU CHẾT
(THỨ SÁU TUẦN THÁNH)

Huyền nhiệm ngày thứ Sáu Tuần thánh (ngày Đức Giêsu chết) khủng khiếp đến độ phải thấy run sợ khi công bố Lời Chúa mà chính Lời thì lại im lặng

Tuy nhiên ta có thể để mình được hướng dẫn bởi những bản văn Kinh thánh được đọc trong Phụng vụ cử hành cuộc khổ nạn.

- Hai đoạn đầu trích sách ngôn sứ Isaia:

“Đức Chúa là Chúa thượng

đã cho tôi nói năng như một người môn đệ

để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai đã kiệt sức

Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi

Để tôi lắng tai nghe như một ngườiì môn đệ

Đức Chúa là Chúa thượng đã mở tai tôi

  Còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui

Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn

Giơ má cho người ta giật râu

Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ

Có Đức Chúa là Chúa thượng phù trợ tôi

Vì thế, tôi đã không hổ thẹn

Vì thế, tôi trơ mặt ra như đá

Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng (Is 50, 4-7)

Isaia đang nói về một nhân vật huyền nhiệm, người tôi tớ của Giavê, chấp nhận những đau đớn và bách hại bằng cách tín thác nơi Chúa. Một người tôi tớ báo trước những dấu chỉ và biến cố trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu.

Ông còn nói tiếp:

“Người bị đời khinh khi ruồng rẫy

phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật

Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn

Bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới

Sự thật,

Chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta,

đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta,

Còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt

Bị Thiên Chúa giáng họa, phải nhục nhã ê chề

Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội

Bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm

Người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an,

Đã phải mang thương tích để chúng ta được chữa lành.

(Is 53, 3-5)

Những lời trên đánh động, làm ta hốt hoảng và khẳng định : bằng cách nào mà một vị sứ giả bị ruồng bỏ lại có thể cứu vớt nhân loại. Chúng là chìa khóa giải thích cuộc sống của Đức Giêsu và đạt đến cường độ tối đa trong cái chết của Đức Kitô.

Những lời đó giúp chúng ta nắm được ý nghĩa của ngọn lửa Thập giá, chiều kích nội tâm của cuộc khổ nạn. Đức Giêsu là Người tôi tớ huyền nhiệm của Đức Chúa tự hiến mình cho định mệnh chịu đau khổ và chịu chết vì niềm vâng phục trọn vẹn.

Như chúng ta đọc trong trình thuật Tin mừng theo thánh Mathêu, Đức Kitô đã chịu đau khổ là Đấng cầu nguyện với Chúa Cha và phó thác nơi Ngài. Phó thác sâu sắc này của Đức Giêsu được lộ ra trong một vài tình huống và ngang qua một vài tiếng của Tin mừng, đã được các bài đọc trích sách các ngôn sứ minh họa.

Người tôi tớ đau khổ phó thác nơi Chúa Cha không chỉ là một dấu hiệu ngời sáng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, nhưng còn trở thành người đại diện cho con người trước mặt Thiên Chúa, con người chịu đau khổ vì thảm kịch của tội lỗi lại mở ra cho những người khác con đường quay trở về với Thiên Chúa.

Người tôi tớ của Giavê xuất hiện liên đới với toàn thể dân tộc, ông mang trên mình mọi tội lỗi, kéo người ta vào cùng một con đường tình yêu đau khổ và đền tội.

- Dọc theo trình thuật về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, rút ra từ Tin mừng theo thánh Mathêu, phải đọc toàn bộ trình thuật này với nhiều chú tâm, tôi chỉ nhấn mạnh ở đây phần cuối :

"Đức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi trút linh hồn. Và kìa, bức màn trướng trong Đền thờ bị xé ra làm hai từ trên xuống dưới, đất rung đá vỡ. Mồ mả bật tung và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được chỗi dậy. Sau khi Chúa chỗi dậy, các Ngài ra khỏi mồ, vào thành thánh, và hiện ra với nhiều người. Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giêsu đều rất đỗi sợ hãi và nói: "Quả thực ông này là Con Thiên Chúa”(Mt. 27,50-54)

Bức màn trong Đền thờ bị xé ra, đất rung chuyển, đá vỡ ra, các hầm mộ mở ra đều là biểu tượng cho cuộc đảo lộn vĩ đại trong vũ trụ và cho cuộc chiến kinh khủng giữa sức mạnh của sự thiện và sức mạnh của điều ác, giữa sự sống và cái chết, được ghi dấu bằng những điều dữ cá nhân, xã hội và trong vũ trụ liên tiếp xảy ra. Đến một điểm nào đó mọi sự được đúc kết lại nơi cuộc khổ nạn của Đức Giêsu. Ngài bị nhạo báng, chế giễu, lăng nhục, đánh đập, đòn vọt. Bởi vì Ngài muốn sống mối âu lo của nhân loại, sự cô độc của con người. Ngài muốn mang trên mình những bạo lực, độc ác, bất công, dối trá, nói xấu xảy ra trong thế giới. Ngài cũng muốn sống sự bỏ rơi của Chúa Cha như sự đau đớn nhất của con người để đền bù tội lỗi. Chính tình yêu của Ngài đối với chúng ta dẫn đưa Ngài đến ranh giới sự sầu não của con người để cứu chuộc nó trong chính bản thân Ngài và đưa con người quay về lòng yêu mến Chúa Cha.

Chính vì điều đó Ngài đã chết bằng cách làm dừng lại cái chết, trở thành sự chiến thắng của tình yêu Thiên Chúa nếu muốn nói như thế.

Ta thử đắm mình trong tâm trạng của viên đại đội trưởng đứng trước cuộc đảo lộn vũ trụ sau cái chết của Đức Giêsu và chứng kiến thái độ nhân từ và dịu hiền của Đức Giêsu trong cái chết đã thốt lên: "Quả thực, người này là Con Thiên Chúa". Đây là lời tuyên xưng đức tin đầu tiên trước thập giá. Một cuộc tuyên xưng kỳ lạ nếu ta nghĩ nó xuất phát từ một người có trách nhiệm chính thức dẫn Chúa đến cái chết.

Như người lính của thời đó, chúng ta thấy chính mình liên lụy với cái chết và đồi Canvê của Đức Giêsu. Chính chúng ta là những người chủ chốt chứ không phải chỉ là khán giả của biến cố này.

Như viên đại đội trưởng, ta cảm thấy mình không ở trong những điều kiện tương xứng để hiểu sự việc xảy ra.

Có lẽ một cách hầu như lơ đãng, lúc đầu viên đại đội trưởng tham dự vào một chuỗi các biến cố chỉ vì mệnh lệnh chính thức mà ông lãnh nhận.

Chắc ông ta ngạc nhiên khi nghe đám đông la lên : "Xin tha Baraba" Ông ghi nhận sự chọn lựa phi lý này : một bên là một con người dáng vẻ thanh thản hầu như một bậc đế vương vừa bị kết án, và bên kia một con người mà đối với viên đại đội trưởng vốn đã quá quen với hạng người như thế, rõ ràng là một tên bất lương; tuy vậy lại được người ta thả tự do.

Tất cả những điều đó làm ông ta phải suy nghĩ. Kế đó, trong cuộc khổ hình. Ông chứng kiến những cách đối xử xấu xa mà những tên lính giáng xuống trên Đức Giêsu và có lẽ quen với chuyện nhìn thấy những điều độc ác tương tự, nên ông ta đã không hiểu được bao nhiêu. Nhưng có lẽ sự nhẫn nại của Đức Giêsu đã bắt đâu xâm nhập cõi lòng ông ta.

Lần lượt cây thập giá được Đức Giêsu rồi ông Simon vác tiến bước về nơi đóng đinh, thì có một điều gì đó đã xảy ra nơi tâm hồn của người lính chứng kiến.

Đến lúc nào đó, ông bắt đâu chăm chú nhìn Đức Giêsu theo một cung cách mới và ngỡ ngàng để đạt đến trực giác về sự vĩ đại huyền nhiệm của người bị kết án này.

Tự nền tảng, con đường của ông ta cũng là con đường của chúng ta chiêm ngắm Đấng chịu đóng đinh. Những người không hoàn toàn dự phần vào đời sống Giáo hội, đến từ bến bờ xa xôi, họ cũng mượn con đường này theo cung cách của viên sĩ quan ngoại giáo.

Ngày thứ Sáu Tuần thánh dành cho hết mọi người ở trong thế giới này, ngay cả những người Kitô hữu chúng ta cũng phải trải qua lại con đường chiêm ngưỡng thập giá, đôi mắt nhìn Đức Giêsu. Bởi vì mỗi người trong chúng ta có thể làm chín mùi trong tâm hồn lời thốt lên đó như thể đó là lần đầu tiên : Lạy Đức Giêsu, Ngài là Con Thiên Chúa !

Như viên sĩ quan, ta nhìn gương mặt Đức Giêsu và thấy những người qua lại lắc đầu và không tin Ngài là Thiên Chúa. Một số lớn những người đương thời trong chúng ta đi ngang qua cách lẹ làng, không dừng lại trước mặt Ngài.

Có lẽ họ có những dấn thân khác, những mục đích khác để đạt tới và biến cố "Giêsu" ở bên lề đối với họ. Đối với một vài người, Tuần thánh và lễ Vượt qua chỉ đơn thuần là những ngày tháng trên quyển lịch làm người ta nghĩ đến mùa xuân, kỳ nghỉ và những ngày lễ.

Có lẽ ngay cả trong chúng ta cũng có những điều hời hợt như vậy. Chúng ta khám phá ra chúng ta là những người qua đường hối hả trước Đức Giêsu chịu chết. Chắc hẳn chúng ta mang trong mình những tư tưởng, khát vọng, ràng buộc, những mối lưu tâm nằm ở ngoài ơn cứu độ được ban cho chúng ta.

Tuy nhiên Đức Giêsu mời gọi chúng ta dừng lại và nhìn Đấng chịu đóng đinh, làm như viên sĩ quan không đi vượt quá, nhưng dừng lại chăm chú nhìn Ngài, đặt mình trước mặt Ngài và trong thời điểm như thế, làm cho mình có khả năng sống ngày thứ sáu Tuần thánh vĩ đại ấy. Người lính của thời đại ấy cuối cùng đã hiểu được những biến cố xảy ra chung quanh Đức Giêsu - bóng tối, động đất - như liên kết với vẻ uy nghi cao cả của Đấng chịu chết với Tình yêu và vì tình yêu.

Viên đại đội trưởng ngoại giáo đã nhận ra tình yêu này vượt ngoài những sự kiện phi thường chỉ làm ông ta khiếp sợ. Ông ta chỉ còn sững sờ trước Đấng chịu đóng đinh vàđpán ra huyền nhiệm tình yêu của con người này sắp đương đâu với cái chết mà không bao giờ có một người nào khác đương đầu như thế.

Ông đoán ra điều đó nhờ vào nhiều sự kiện nho nhỏ: cách Đức Giêsu đón nhận những lời lăng mạ, những cử chỉ ngắn gọn và cách ra dấu hiệu khi người ta đưa cho Ngài miếng bọt biển thấm dấm chua, lời cầu nguyện than thở và thánh thiện của Ngài với Chúa Cha, tiếng kêu quyền năng mà qua dó Ngài đi vào cõi chết.

Huyền nhiệm tình yêu mà con người Đức Giêsu mặc khải ngang qua nhịp đập của trái tim Ngài trên thập giá thực sự quá vĩ đại, để bất cứ ai có can đảm dừng lại một lúc thinh lặng đối diện với Ngài, mà lại không cảm thấy mình có liên lụy trong sâu thắm con người của mình.

Bấy giờ ta nghĩ mình là ai điều đó không quan trọng. Chỉ có một điều đáng kể là ta nhìn xem mầu nhiệm cao cả của Đấng chịu đóng đinh. Viên sĩ quan trở thành biểu tượng cho chân lý của người tín hữu: khi hướng tầm nhìn về Đức Giêsu chịu đóng đinh, những cái khác bị rối bời, chẳng còn gì đáng kể và chỉ còn lại một mình với Đấng cứu độ tất cả chúng ta.

Sứ điệp của Đức Giêsu chịu đóng đinh rất rõ ràng. Thiên Chúa là Đấng có thể hủy diệt điều dữ bằng cách tiêu diệt tất cả những kẻ xấu xa, nhưng lại chấp nhận đi vào điều dữ thong thân xác Người Con của Ngài là Đức Giêsu, Đấng công bố tin tha thứ và hoán cải, chịu đựng những hậu quả của sự dữ trên chính bản thân mình để cứu chuộc trong thân xác bị đóng đinh của mình. Đây chính là luật của Thập giá, là nguyên lý mà theo đó sự dữ không bị khử trừ nhưng được biến đổi thành điều thiện nhờ vào sức mạnh sự chết của Đức Kitô chẳng han. Thập giá trở thành luật tối thượng của tình yêu và người nào muốn dự phần vào con đường tái sinh được Đức Giêsu khởi đầu, họ phải đi vào trong sự dữ của thế giới để rút ra từ đó điều thiện của đức tin, của niềm hy vọng và của đức ái, của tình yêu đối với kẻ thù. Luật của Thập giá thực tuyệt vời, nó có hiệu năng tối thượng trên lãnh vực tinh thần và có thể áp dụng cho mọi lịch sử con người. Đó là huyền nhiệm vương quốc của Thiên Chúa, huyền nhiệm của Tin mừng. Đây không phải là luật chấp nhận được đối với trí khôn đơn sơ tự nhiên của con người. Người ta không thể chứng minh được điều đó nếu không có sự trợ giúp của Đức Giêsu. Trí khôn tự nhiên con người chối từ nó, không hiểu nổi bao lâu nó chưa được nhìn bằng đức tin.

Tuy nhiên Chúa chịu đóng đinh là trung tâm thu hút đối với mọi người nam nữ ở tràn gian này, trung tâm thu hút đối với lịch sử, trung tâm thu hút đối với mọi tôn giáo trên thế giới. Tất cả mọi tôn giáo tìm thấy nơi Thập giá điểm đến, kỳ hạn của mình, mục đích của mọi sự ủy nhiệm tạm thời có thể xảy ra, bởi vì mọi sự đạt đến đỉnh cao nhất nơi sự uy nghi phổ quát và vĩnh cửu của Đức Giêsu Kitô, nơi giao ước của Thiên Chúa với nhân loại mãi mãi.

Nơi cõi lòng của Đấng chịu đóng đinh tất cả những gì là "không" có thể trở thành "tiếng vâng", và từ sự bội phản nảy sinh tình bằng hữu, từ việc chối từ nảy sinh ơn tha thứ, từ sự ghen ghét nảy sinh tình yêu, từ dối trá nảy sinh chân lý . Đây chính là sức mạnh của Đức Giêsu trong và ngang qua thập giá.

Fr. Jude Siciliano, OP.

Ghi chú về bài thương khó

Bài thương khó theo thánh Gioan, bài duy nhất cho cả ba năm, không có bài nào khác. Hội Thánh chọn như vậy là có một chủ đích. Bởi vì Tin Mừng theo thánh Gioan được đọc hàng ngày suốt trong 3 tuần lễ mùa Chay, rồi suốt mùa Phục Sinh tiếp theo. Như vậy vị trí của bài thương khó là rất quan trọng để hiểu rõ hơn về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cuối cùng đã đến giờ của Ngài như trong Phúc âm thứ 4 nói rõ (Ga 13,1). Tính cách của ngài khác với Chúa Giêsu của những bài thương khó nhất lãm. Chúa Giêsu của Phúc âm thứ 4 luôn luôn ý thức về sự tồn tại đời đời trước khi sinh xuống làm người.

Vì vậy, qua cái chết, Ngài trở về tình trạng đó (17,5). Ngài không phải là nạn nhân bất đắc dĩ của những kẻ chống đối Ngài. Bởi Ngài tự chọn hy sinh mạng sống để rồi lấy lại (1,17-18). Nếu như Ngài phải vật lộn trong khổ nạn thì không phải là vật lộn vô định. Chính Ngài tuyên bố Ngài đã thắng thể gian rồi (16,33). Chúa Giêsu của thánh Gioan là toàn tri - Omniscient (2,25-6,6) Ngài không thể nào không biết trước những điều sẽ xảy đến cho Ngài trong cuộc khổ nạn. Khi chọn Giuda, Ngài cũng đã biết hắn sẽ phản bội (6,70-71). Chính Ngài thúc giục hắn ra khỏi nhà tiệc ly để thực hiện chương trình đen tối của hắn (13,27-30).

THỨ SÁU TUẦN THÁNH 2003 (Is 52, 13-53)

Thưa quí vị. Năm vừa qua tôi đã viết suy niệm về bài thương khó Chúa Giêsu theo thánh Gioan. Năm nay về vai trò người tôi tớ trong sách tiên tri Isaia. Người tôi tớ này kích thích nhiều suy tư của các nhà chú giải. Người thì cho chỉ có một nhân vật tôi tớ, tác giả khác lại đưa ra ý kiến có nhiều, thậm chí cả một dẫy dài, kẻ khác chủ trương có một, nhưng trong ý nghĩa tập thể, tức đại diện cho toàn dân Israel ! Theo nguyên văn thì khó xác định ai đúng, ai sai. Trong Isaia có bốn bài ca về người tôi tớ. Bài đọc hôm nay là bài ca số 4.

Tác giả John Mc Kenzie, dòng Tên, trong cuốn Từ điển Thánh kinh nói rằng từ “tôi tớ” có nghĩa rất rộng. Nó ám chỉ nô lệ hạng sang như khi nói: “Thần là nô lệ của nhà vua”. Rõ ràng một tước vị thuộc hàng khanh tướng. Ngược lại, người ta cũng có thể dùng để nói nhún nhường như Moisen, David được gọi là tôi tớ Đức Chúa. Các ngôn sứ cũng thường được dùng trong nghĩa này. Dân tộc Do thái được gán danh hiệu “tôi tớ” khi đối chiếu với toàn thể thế giới. Đây là ý nghĩa sứ mệnh của dân Israel. Như vậy từ “tôi tớ” được gán khi ai đó là “dụng cụ” Thiên Chúa dùng để ban ơn cứu độ. Trong dòng văn của ngôn sứ Isaia, từ tôi tớ không bao hàm chức Thiên sai. Nhưng từ đầu Hội thánh, chữ này được áp dụng cho Chúa Kitô chịu thương khó, bài đọc hôm nay chẳng hạn. Đoạn văn này và nhiều đoạn văn tương tự được các Hội thánh tiên khởi sử dụng để đối phó với việc Chúa Giêsu gặp thất bại, bị khước từ, khổ nạn và cái chết nhục nhã.

Các bài thơ người tôi tớ được Tân ước trích dẫn rõ ràng hoặc chỉ qui chiếu gián tiếp. Thí dụ, trong các trình thuật về phép rửa của Đức Giêsu hoặc lễ biến hình. Nếu chúng ta đổi từ Con sang từ tôi tớ của lời phán bởi trời thì chúng ta có được hầu như nguyên văn Isaia 42,1. Quan niệm về cái chết cứu độ của người tôi tớ trung tín trong Isaia ảnh hưởng trực tiếp đến giọng văn của Tân ước mô tả cuộc đời và sự nghiệp của Chúa Giêsu. Nội dung đoạn văn chúng ta đọc hôm nay cũng là căn bản giáo lý của Hội thánh về vai trò Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi. Như vậy chúng ta thấy có hai vế song hành: Người tôi tớ Giavê đối với dân tộc Israel giống như Chúa Giêsu đối với Hội thánh. Chúa Giêsu chịu khổ nạn để thánh hoá giáo hội thì người tôi tớ Cựu ước cũng phải chịu bầm dập để làm cho dân Do thái trong sạch, nên thánh. Ngày nay hình ảnh tôi tớ Giavê vẫn được sử dụng để minh hoạ cho việc Chúa Giêsu tiếp tục chịu đau khổ trong các chi thể Hội thánh để làm cho Hội thánh được thanh sạch.

Mở đầu của bài đọc 1 hôm nay là : “Này đây, người tôi trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật và được suy tôn đến tột cùng.” Xin nhớ rõ điều này, bởi lẽ những dòng tiếp theo thật u ám. Một bản mô tả rất sống động về sự thất thế, đau khổ cũng của người tôi tớ đó. Ông sẽ không còn được nhận ra nữa : “Khi thấy tôi trung của Ta, mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa.” Mọi người ngoảnh mặt đi chẳng dám nhìn người tôi tớ đau khổ. Điều gây sửng sốt nhất là hình phạt này xem ra là do Thiên Chúa gây nên. Xưa nay vẫn giải thích như vậy. Thực thế bản văn có một câu làm tôi lưu ý mãi : “Đức Chúa hài lòng khi thấy người bị nghiền nát trong yếu đuối.” Đức Chúa này là Thiên Chúa nào mà lại hài lòng vì người vô tội bị nghiền nát?

Chắc chắn khi nghe đọc đến đây, nhiều thính giả lương thiện sẽ nghĩ trong lòng “Ông Trời đáng ghét của Cựu ước.” Nhưng nhìn kỹ hơn vào toàn thể bài ca thì đoạn văn này được viết dưới dạng kịch nghệ. Tức có sự thay đổi về người nói. Khởi đầu thì Thiên Chúa nói, sau đó đến các khách bàng quan bàn tán khi quan sát người tôi tớ trong khổ đau. Đối với những người này thì rõ ràng Thiên Chúa đang nghiền nát người tôi tớ vô tội. Chuyện này giống như khi chúng ta kêu ca về những đau đớn của mình: “Chúa thử thách đức tin của tôi quá sức chịu đựng. Thật ngã lòng, chẳng thể còn kiên nhẫn hơn nữa.” Đúng vậy, thượng đế đã đẩy người ta đến bờ vực thẳm của thất vọng ?

Rồi thay đổi vai trò của khách bàng quan: Họ cố gắng tìm hiểu căn do sự đau khổ của người tôi tớ, và khám phá ra rằng chính vì tội lỗi của mình mà người tôi tớ phải chịu cực hình. Thật là điều gây ngỡ ngàng hết cỡ. Ông ta chịu đựng đau khổ để cứu chuộc thiên hạ. Họ đã sai lầm khi lên án ông, coi ông như kẻ có tội. Họ ăn năn hối lỗi, thú nhận sai lầm của mình. Sự thật là người tôi tớ đã gánh lấy tội thiên hạ và chính họ là những kẻ được hưởng sự tha thứ của Thượng đế: “Tôi trung của Ta sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ”.

Do đó, ý muốn của Đức Chúa Trời là tội lỗi nhân loại được tẩy sạch nhờ đau khổ và cái chết của người tôi tớ. Đúng là một màu nhiệm. Đường lối suy nghĩ của chúng ta hoàn toàn phá sản, bởi lẽ công việc vĩ đại như xoá tội trần gian lại không theo quy trình quyền lực bình thường kiểu mọi người mong đợi. Thay vào đó, trong người tôi tớ, Thiên Chúa tỏ lộ cho chúng ta gương khiêm nhường, nhịn nhục của một nhân vật yếu đuối, dễ bị tổn thương, một dấu chỉ của sự chống đối. Cho nên chẳng lạ gì các tác giả Tân ước sử dụng những bài ca này để nói về Chúa Giêsu và lòng nhân từ, thương xót của Đức Chúa Trời. Thí dụ, thánh Phaolô nhiều lần đã chỉ ra cho chúng ta thấy quyền năng của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô khi Ngài bị dân Do thái khước từ, chối bỏ. Chính trong công việc này mà nhân loại được lợi không kể xiết. Tác giả thơ Do thái cũng thường khích lệ độc giả của ông không nên hổ thẹn vì thập giá Đức Ki-tô, ngược lại “hãy mạnh dạn tiến lại gần Ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần”. Bởi lẽ Thiên Chúa đã cho phép Đức Giêsu, người tôi tớ, chia sẻ những yếu hèn và đau khổ với nhân loại. Cho nên quan niệm về “ông Trời đáng ghét của Cựu ước” là sai lầm. Chính qua người tôi tớ khiêm nhường mà Thiên Chúa mặc khải gương mặt yêu thương, nhân từ của Ngài.

Người tôi tớ Giavê đứng làm trung gian cho cả Thiên Chúa và loài người. Một sự tổng hợp kỳ lạ giữa thần linh và nhân loại. Ông là đại diện cho thần linh, đứng về phía Thiên Chúa, Ngài gọi ông : “Tôi tớ của Ta”. Trong ông, ý muốn của Đức Chúa hoàn toàn được thành tựu. Ông cũng đại diện cho nhân loại tội lỗi, mặt mày tan nát, chịu khổ đau đến cùng cực, chịu chung số phận với loài người, đồng hoá với anh em mình. Chúng ta nhìn nơi ông hành động của thượng đế trên nhân loại và vì nhân loại. Chính trong nơi người tôi tớ mà chúng ta cảm thấy được Thiên Chúa cứu độ.

Nhưng người tôi trung cũng có tham gia phần của mình vào cuộc đau khổ mà Thiên Chúa đã chỉ định cho ông. Ông đồng ý với chương trình của Đức Chúa, gánh chịu hậu quả của tội lỗi người khác, vâng lời Thiên Chúa cho đến mức bằng lòng chịu chết thay cho thiên hạ. Ông là một nhân tố tự do và tự nguyện, không ai ép buộc ông, nhưng hoàn toàn hiến dâng cho Thượng đế. Đây là một sự cộng tác lạ lùng giữa Thiên Chúa và nhân loại để mưu ích cho loài người. Kết quả là một công trình vĩ đại. Bởi người tôi tớ đã “xoá tội trần gian và tranh thủ được ơn tha thứ cho những kẻ xúc phạm”. Ai đã thi hành cuộc hy sinh ? Thiên Chúa hay người tôi tớ ? Câu trả lời là cả hai. Thiên Chúa đã hy sinh người tôi trung. Người tôi trung đã bằng lòng hiến tế. Trường hợp của Abraham và người con duy nhất Isaac. Trong văn bản, kẻ có lỗi dùng ở đại từ “chúng ta”: “Sự thật, chính Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta… Chính Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội… Chúng ta đã đi lạc như chiên cừu v.v…” Hoá ra người tôi tớ này không phải là kẻ phạm tội. Đau khổ của ông có mục đích duy nhất là thức tỉnh ý thức tội lỗi của nhân loại !

Tóm lại, Thiên Chúa toàn năng có thể đổi ngược những tình huống vô vọng. Điều chúng ta bất lực, thì Ngài làm được dễ dàng. Trước mắt thiên hạ, người tôi tớ vô tội và nín tiếng bị những kẻ gian ác tố cáo bất công, lôi đi hành hạ, trừ khử, mai táng. Ông ta hoàn toàn thất bại và rơi vào quên lãng, quá khứ. Nhưng Thiên Chúa đã nâng ông trỗi dậy, thành công hiển hách. Đấng khởi sự nói và ban lời đoan hứa trong bài đọc hôm nay chính là thượng đế, Tạo hoá dựng nên muôn loài muôn vật (51, 9-10). Đấng ấy đã giải cứu Israel khỏi kiếp nô lệ Ai cập, dẫn đưa họ qua Biển đỏ khô chân, gây dựng họ từ chỗ ô hợp thành một dân tộc. Trong tay Ngài bây giờ là người tôi trung đã chết, chỉ có Ngài mới làm được cho kẻ qua đời sống lại. Hiện thời, thì Satan thắng thế, sự dữ ngự trị trên thân phận con người và xem ra là vĩnh viễn. Nhưng Thượng đế có thể thực hiện những chi loài người, tự thân, không làm được. Ngài có thể phục hồi sự sống cho những xác chết và ban cho một tương lai tươi sáng, phát đạt ! Các bài đọc Thánh kinh hôm nay luôn nhắc nhở cộng đồng tín hữu về sự kiện đó. Thiên Chúa sẽ toàn thắng tội lỗi và sự chết, gây dựng chúng ta từ bất trung, phản bội thành dân thánh trung thành, từ những kẻ từ khước Chúa Giêsu, Người tôi tớ Giavê thành những tín hữu, khao khát ơn cứu độ. Amen.

Suy Niệm Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh

CHỦ ĐỀ CÁC BÀI ĐỌC

Trong toàn bộ phụng vụ, đại danh từ “chúng ta” được vang lên như chưa bao giờ thấy trước đây, cả đến sở hữu tĩnh từ “của chúng ta” và những từ tương đương, như là nguyên do chính gây ra cuộc khổ nạn và cái chết cùa người tôi tớ Giavê và cùa Đức Giêsu Nagiarét. Bài đọc 1 nêu rõ: “chính người đã mang lấy bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng họa, phải nhục nhã ê chề. Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm. Người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành…

Nhưng Đức Chúa đã đổ trên đầu người tội lỗi của tất cả chúng ta… “người đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi.” Thánh sử Gioan diễn giải cuộc thương khó, ngược lại với bối cảnh của bài ca thứ tư về người tôi tớ Giavê. Tuy nhiên, từ đầu đến cuối, ông cũng đã mang lại ý nghĩa cho cuộc thương khó nhờ hai đoạn sấm ngôn. Đoan sấm ngôn thứ nhất nói về thượng tế Caipha : “Một người chết cho cả dân được nhờ.” Đoạn thứ hai : “Chúng sẽ nhìn xem Đấng chúng đã đâm thâu qua.” trích từ sách tiên tri Zacharia, vị ngôn sứ đang đề cập đến việc các dân nước quay về và được ơn cứu độ do Đức Giêsu Kitô. Với lý lẽ sắc bén, tác giả thư Do thái đã khuyên các tín hữu : “bởi thế ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần..” Vì Đức Giêsu Kitô “đã trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.”

Sứ Điệp Niềm Tin.

Trong niềm tin của Hội Thánh, nguyên do căn bản đưa đến mầu nhiệm khôn dò của việc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu Kitô, chính là “Người đã yêu tôi và phó mình vì tôi (Thánh Phaolô) và “vì loài người chúng tôi và để cứu độ chúng tôi” (Kinh tin kính). Vấn nạn chính không phải là cuộc khổ nạn của Chúa, cũng chẳng phải lý do đưa đến cuộc khổ nạn, nhưng chính là quan điểm về con người. Con người là gì? Sao chỉ mình đức Giêsu Kitô mới có thể cứu được con người ? Chính đây là cái nhân của giáo điều giúp ta thấu hiểu phụng vụ của ngày thứ Sáu Tuần Thánh. Quan niệm của Thánh kinh và của kitô giáo về con người cho ta biết rằng con người không phải là một sinh vật vô tội, hoàn toàn tự do nhưng tự bên trong còn mang mầm mống của sự dữ.

Con người là hình ảnh bị gãy vỡ của Thiên Chúa. Con người phải mang nơi mình cái gọi là “nguyên tội”. Không có quyền lực nào của con người, dù mạnh mẽ đến đâu, có khả năng rút mầm mống sự dữ ấy ra khỏi con người, hàn gắn lại hình ảnh đã bị gãy vỡ, giải thoát khỏi vết thương truyền kiếp này. Đây không chỉ là học thuyết cho riêng người kitô hữu nhưng còn là cảm nghiệm của nhân loại, dù con người đó có niềm tin tôn giáo hay không. Thuyết ‘nhân chi sơ tính bổn thiện’ của Rousseau thuộc loại không tưởng, hoàn toàn bị hủy diệt bởi thực tế của cuộc sống.

Vậy nếu con người không thể tự cứu chính mình, ai sẽ cứu được nó ? Dĩ nhiên, duy chỉ có mình Thiên Chúa. Bằng cách nào ? Từ trời cao, với một cử chỉ thân thiện ? Tuy nhiên chúng ta biết rằng chẳng có ai thấy Thiên Chúa bao giờ. Qua một thần sứ ? Nhưng bổn phận của thần sứ là người loan tin, chứ không phải là vị cứu tinh. Chỉ có thể nhờ một Đấng vừa là Chúa vừa là người. Đức Giêsu Kitô, khổ nạn và chết trên thập giá, một hành vi yêu thương tột cùng, hủy diệt mấm mống tội lỗi ăn rễ sâu trong lòng con người, tái tạo lại hình ảnh của Thiên Chúa và nhỗ bật rễ “nguyên tội”. Một lần cho tất cả, người giải thoát con người khỏi chính mình (kiêu căng và nhục dục) và ban cho con người khả năng vượt thắng Thần Dữ. Con người sẽ khám phá ra ngay trên thập giá của Đức Kitô, căn tính đích thực của mình, nguồn gốc và cùng đích của mình.

Gợi ý Mục Vụ

Xã hội ngày nay hình như cung cấp cho mọi người nam nữ, đặc biệt các kitô hữu, thật nhiều thứ “được xem như vị cứu tinh”. Có lúc đó chính là khoa học và người chị em song sinh, là kỹ thuật, được trình bày như là những vị cứu tinh cho tương lai nhân loại. Đối với một số người thì đó chính là ý thức hệ, chẳng cần quan tâm đến màu sắc hoặc hình dáng của nó ra sao cả. Đối với đa số, đó là chế độ dân chủ, là sự tự do tham gia của mọi người vào thể chế chính trị, được quảng cáo như một dược liệu trị bá bệnh. Và chẳng phải ít người đã xem cuộc sống tiện nghi vật chất như vị cứu tinh đích thực cho con người. Thực ra, những thực tại ấy cũng chứng minh cho thấy còn nhiều sai lạc, bất toàn và mang lại thất vọng ê chề cho những ai đặt hết tin tưởng vào chúng. Những hình thái “cứu độ” như thế không đầy đủ. Ta cần hội ngộ với Vị Cứu Tinh duy nhất, thực vậy, đây là vị duy nhất có thể cứu thoát con người cách toàn diện, tận căn, ngay đời này và vĩnh viễn mai sau nữa.

Sự chân thành gặp gỡ của mỗi người với Đức Kitô Đấng cứu độ là nền tảng giúp niềm tin trưởng thành và có trách nhiệm, vững vàng và mang tính truyền giáo. Các linh mục phải là những người trước tiên sống niềm tin đó, nhưng các ngài còn cần phải làm cho các nhóm tín hữu và từng cá nhân biết tin tưởng sâu xa nơi Đức Kitô, Đấng Cứu Độ, biết phục vụ như men, như người khởi xướng sự trung thực của kitô giáo. Một cuộc đời được Đức Kitô cứu độ, có sức lan tỏa ra những môi trường chung quanh, để nhiều người khác cũng muốn được cứu độ, hoặc ít ra, cũng có chút trân trọng và kính phục đối với Đấng Cứu Độ, Đấng mang lại ý nghĩa tròn đầy cho cuộc sống. Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê

Bài Suy Niệm của Lm. Ignatio Trần Ngà

1. Chết thay

Một anh đệ tử nọ, sau một thời gian dài học hành tu luyện với một vị đạo sư danh tiếng, khao khát thoát li khỏi cuộc đời ô trọc, muốn vĩnh biệt vợ con yêu quý vào nơi thâm sơn cùng cốc để tìm giác ngộ và giải thoát. Nhưng anh ta rất bịn rịn với vợ con nên dùng dằng mãi mà chưa thể dứt bỏ gia đình ra đi được.

Anh trình bày sự việc với vị đạo sư và xin vị nầy chỉ giáo. Vị đạo sư nói : "Con đừng lầm tưởng là vợ con trìu mến con lắm đến độ không thể sống thiếu con. Nếu con muốn, ta sẽ giúp con biết sự thật."

Thế rồi, vị đạo sư dạy cho anh phương pháp Yoga bí truyền, giúp anh có thể chết giả cả mươi tiếng đồng hồ mà không ai hay biết. Thế là hôm ấy, người đệ tử đột nhiên lăn ra chết. Vợ con anh gào khóc thảm thiết như trong bất cứ một đám tang bi thảm nào.

Hay tin người học trò thân tín đột ngột qua đời, vị đạo sư vội đến thăm. Chứng kiến sự tiếc xót khôn nguôi của người vợ goá và đàn con côi cút dành cho chồng, cho cha, vị đạo sư tỏ cho vợ con người chết biết là ông ta có phép thuật cao cường, có thể làm cho người chết kia sống lại, với điều kiện là có người nào đó trong gia đình chịu chết thay cho người xấu số.

Khi ông đề nghị người vợ chết thay cho chồng, thì người vợ nức nở than rằng : "Chị còn cả một gánh nặng gia đình. Nếu chị chết đi thì lấy ai nuôi đàn con thơ dại… Không ai có thể thay thế chị được trong việc chăm sóc gia đình và con cái…" Nói tóm lại, chị cần phải sống, chị không thể chết thay cho anh được !

Đến phiên người con cả thì anh cũng viện đủ mọi lý do để chứng tỏ rằng anh cần cho gia đình, anh cần giúp mẹ để chăm lo cho đàn em. Gia đình không thể thiếu anh. Anh không thể chết thay cho cha được !

Rồi đến lượt đứa con thứ hai, thứ ba… thứ năm được vị đạo sư đề nghị chết thay cho cha, nhưng tất cả đều nêu ra nhiều lý do để minh chứng rằng chúng cần phải sống, không ai có thể chết thay cho người cha được. Thôi thì để cho người cha chết như vậy phải hơn.

Người cha nằm giả chết biết hết sự tình. Anh chợt nhận ra rằng trên đời nầy không có ai chết thay cho anh cả. Dù là người vợ mà anh hết dạ yêu thương, coi như xương thịt của mình; dù là những đứa con ngoan mà anh đã từng đặt hết hy vọng và tình thương nơi chúng. Không ai chết thay cho anh cả, không ai thực sự hy sinh quên mình cho anh. Giác ngộ được điều nầy, anh thoát ly gia đình ra đi không thương tiếc.

Giá như chúng ta có được phép thuật nhiệm mầu để giả chết xem sao. Các ông thử nằm xuống xem người vợ hiền hay những đứa con yêu có dám chết thay cho mình không ? Các bà thử giả chết xem sao ? Ai chịu chết cho các bà nào ? Chẳng có ai đâu ! Chúng ta có thể tin chắc gần như trăm phần trăm là như thế. Trái lại biết đâu, lại có kẻ mừng thầm…!

Thế nhưng, có một người, chỉ có một người duy nhất trên thế gian nầy đã chết thay cho tôi, cho bạn, cho từng người trong chúng ta. Người đó đã chấp nhận chịu chết rất đau thương, rất tủi nhục, rất bi đát… chịu một cái chết đau đớn khủng khiếp để cho chúng ta được sống. Người đó chính là Chúa Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, chỉ có Ngài mới thực sự là Người yêu thương chúng con. Chỉ có Ngài mới là Người dám hy sinh tất cả vì chúng con. Chỉ có Ngài là Người duy nhất trên cõi đời nầy chết thay cho chúng con mà thôi. Ngoài ra, không còn ai khác!

Vì thế, hôm nay chúng con họp nhau để thờ lạy Chúa, để cảm tạ Chúa, để suy tôn Chúa là Đấng đã nộp mình chịu chết đau thương, tủi nhục trên thập giá vì chúng con.

Xin cho chúng con cảm nghiệm được tình yêu trời bể của Chúa và biết đền đáp phần nào bằng bằng cách sống xứng đáng với tình yêu cao vời Chúa dành cho chúng con. Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin tôn thờ và cảm tạ tình yêu của Chúa.

Linh mục Ignatio Trần Ngà

2. Lẽ nào ...

Lẽ nào sinh mạng vô cùng cao cả và lớn lao của Ngôi Hai Thiên Chúa vẫn còn là chuyện nhỏ đối với tôi ?

Tại sao Thiên Chúa lại phải chịu chết đau thương quá đỗi vì tội lỗi con người ? Nếu Thiên Chúa muốn cứu loài người khỏi tội thì Ngài cứ việc tuyên bố tha tội cho loài người là xong, chứ sao lại phải nhọc công chết thay để đền tội loài người. Ngài làm gì mà chẳng được !

Thưa quý ông bà anh chị em ! Sự việc không giản đơn như thế. Ai phạm tội thì người đó phải chết. Đó là quy luật muôn đời, một quy luật hết sức nghiệt ngã. Quy luật nầy không miễn trừ cho bất cứ ai.

Quy luật nầy được thánh Phao-lô trình bày trong thư Galát : "Ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt, thì sẽ gặt được hoa trái của Thần Khí là sự sống đời đời." (Galat 6,7-8)

Cũng theo chiều hướng đó, Đức Giêsu bảo Phê-rô: "Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm." (Mt 26:52)

Và "Khi có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giêsu đáp lại rằng : "Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao ? Tôi nói cho các ông biết : không phải thế đâu ; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao ? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu ; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy." (Lc 13,1-5)

Theo quy luật nầy, loài người sa ngã phạm tội nên loài người không thể thoát chết, trừ phi có một đại diện xứng đáng chết thay cho loài người.

Thiên Chúa đã không đành để loài người phải chết, vì như thế thì đau lòng cho Thiên Chúa quá. Thế nên, Ngài phải cho Con Một yêu dấu của Ngài chết thay.

Để thực hiện kế hoạch nầy, Ngôi Hai Thiên Chúa phải xuống thế làm người, trở thành vị Đại Diện xứng đáng nhất cho loài người. Ngài là "Chiên Thiên Chúa đến gánh tội trần gian" (Ga 1,29). Ngài mang hết tội lỗi nhân loại nơi thân mình Ngài. Thế là Đức Giêsu Ki-tô là "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người." (II Co 5:21)

Một khi Đức Giêsu đã trở thành tội nhân, chiếu theo quy luật "Ai mang tội, người đó phải chết", thì Ngài cũng phải chịu chết. Quy luật nầy không miễn trừ cho bất cứ ai. Ngày xưa các thiên thần phản nghịch cùng Thiên Chúa thì các thiên thần bị đẩy ra khỏi thiên đường và phải trầm luân đời đời trong hoả ngục. Tổ tông loài người đã phạm tội thì phải bị rơi vào kiếp đoạ đày. Nay Con Thiên Chúa mang tội cho loài người thì Con Thiên Chúa cũng phải chết, không thể nào tránh được.

Trước cái chết man rợ sắp đến, Đức Giêsu đã thực sự kinh hoàng. Một vì Thiên Chúa cao cả ngàn trùng như Đức Giêsu không thể để cho loài người khốn hèn xỉ vả vào mặt Ngài, khạc nhổ vào mặt Ngài, đánh Ngài rách thịt, chế giễu nhạo cười Ngài… Một Thiên Chúa cao cả quyền năng như Đức Giêsu không thể chấp nhận để cho loài người khốn kiếp hành hạ, bắt đội mão gai, bắt vác thập giá đến nỗi phải ngã xuống nhiều lần, bị lột trần rồi đóng đinh đau đớn nhục nhã trên thập giá giữa hai tên đạo tặc … Như thế là quá quắt đối với một vì Thiên Chúa rất đỗi cao sang. Thế nên Đức Giêsu dường như không chịu nỗi. Ngài toát mồ hôi lạnh, Ngài phải đổ mồ hôi máu vì kinh hoàng! (Lc 22,44)

"Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết." (He 5:7).

Ngài đã tha thiết dâng lời khẩn nguyện lên Chúa Cha: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin tha cho con khỏi uống chén nầy. Tuy vậy, xin đừng theo ý Con. Một xin theo ý Cha thôi." (Lc 22,42)

Dầu vậy, quy luật: 'ai mang tội thì phải chết' cũng không miễn trừ cho cả Thiên Chúa Ngôi Hai.

Kinh khủng thay hậu quả khôn lường của tội lỗi ! Và cũng bao la thay, tình thương cao vời của Thiên Chúa từ nhân !

Lời thánh Phê-rô trong thư thứ nhất giúp chúng ta cảm nghiệm sâu xa hơn công trình cứu độ yêu thương nầy:

"Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em,

Để lại một gương mẫu

Cho anh em dõi bước theo Người.

Người không hề phạm tội;

Chẳng ai thấy miệng Người

          Nói một lời gian dối.

Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại,

          Chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe;*

Nhưng một bề phó thác

Cho Đấng xét xử công bình.

          Tội lỗi của chúng ta,

          Chính Người đã mang vào thân thể

Mà đưa lên cây thập giá*

Để một khi đã chết đối với tội,

          Chúng ta sống cuộc đời công chính.

          Vì Người phải mang những vết thương

          Mà anh em đã được chữa lành." (1 Pr 2,21-24)

          Thiên Chúa đã chết vì tội chúng ta. Thiên Chúa đã phải trả giá quá đắt để cứu loài người khỏi chết. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian như thế đó ! Vậy mà tôi nào có quan tâm. Ai chết mặc ai ! Chúa chết mặc Chúa ! Tôi còn vui hưởng cuộc đời bao lâu thì tôi cứ tận hưởng.

Lẽ nào sinh mạng vô cùng cao cả và lớn lao của Ngôi Hai Thiên Chúa vẫn còn là chuyện nhỏ đối với tôi ???

Trần Duy Nhiên

BÀI GIẢNG TRÊN NÚI... SỌ

    Càng đến gần Tuần Thánh, mọi người lại càng hướng về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, và cao điểm của hành trình thương khó là cái chết của Ngài trên thập giá. Thần học và truyền thống đã nói nhiều về những đau đớn thể chất và tinh thần của Đức Giêsu, Đấng muốn mang trọn vẹn thân phận của loài người để biến đau khổ thành ơn cứu độ ... Những giáo lý và truyền thống đó vẫn còn nguyên giá trị.

    Thế nhưng, Mùa Chay này, tôi bỗng nghĩ rằng mình phải trực tiếp lắng nghe tiếng Chúa chứ không thông qua một ai, dù cho đó là truyền thống đáng kính của Giáo Hội.

    Tôi tự nhủ rằng giáo huấn của Thầy thì nhiều và câu nào cũng có giá trị, nhưng những lời cô đọng nhất ắt phải là những lời trối trăn khi cái chết gần kề. Thật như vậy, trên thập giá, mỗi câu nói của Chúa Giêsu không chỉ là bản tóm lược các giáo huấn của Ngài, mà còn nói lên rõ ràng rằng Ngài đã sống những điều Ngài dạy từng giây từng phút trong trọn cuộc đời mình. Tôi đã biết nhiều người thầy dạy : ‘Hãy làm điều tôi nói, đừng làm điều tôi làm’.

    Tôi không đủ kiến thức để biết được từ cổ chí kim có bao nhiêu bậc thầy sống trọn vẹn điều mình dạy, nhưng khi lắng nghe những lời trăn trối của Thầy Giêsu, tôi biết rằng Thầy của tôi là vị thầy đã sống không sai một li những điều Ngài dạy dỗ các môn sinh mình. Thế rồi tôi khám phá một sự thật làm tôi ngỡ ngàng : Thập Giá là nơi mà hạnh phúc của Đức Giêsu lên cao đến tuyệt đỉnh, và từ đó tôi hiểu rằng cuộc đời của Ngài ở thế gian là một cuộc đời hạnh phúc.

    Lời nói của tôi hẳn gây chói tai. Người ta ghi khắc trong đầu tôi một Đức Kitô bất hạnh giữa thế gian này, và rồi dạy tôi phải đối diện với cuộc đời với bộ mặt u sầu đau khổ nếu tôi muốn làm một môn đệ Chúa Kitô. Nhưng những lời trăn trối của Thầy buộc tôi phải nhớ lại Hiến Chương Nước Trời, một hiến chương đặt hạnh phúc của tôi lên hàng tối thượng.

    Lời dạy dỗ đầu tiên được ghi lại trong Tân Ước là bài giảng mà Đức Giêsu thực hiện trên một ngọn đồi thành Ca-phac-na-um. Bài giảng khởi sự bằng tám mối phúc của một con người. Và nơi đồi Calvê, Chúa Giêsu cũng nói 8 lời, và mỗi lời đều chứng tỏ rằng Ngài đã sống từng mối phúc một. Chúa Giêsu đã đi đến tuyệt đỉnh của hạnh phúc nhân loại lúc Ngài hấp hối trên thập  giá, bởi vì Bài Giảng Trên Núi Galilê đã được hoàn tất nơi Bài Giảng Trên Núi Sọ.

1. Phúc cho ai có tinh Thần nghèo khó : “Lạy Cha, Con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46)

    Chúa Giêsu đã sống nghèo vật chất : ‘con chim có tổ, con cáo có hang, nhưng Con Người...’. Nhưng hơn cả nghèo vật chất, Ngài nghèo khó tinh thần. Ngài không có một ý muốn của Ngài, một tình cảm của Ngài, một lời nói của Ngài... Trọn đời Ngài, Ngài chỉ thực hiện ý muốn của Cha, chỉ truyền thông tình yêu của Cha, chỉ chuyển lại những lời Ngài nghe Cha nói. Người nghèo là một người hoàn toàn lệ thuộc một ai khác. Đức Giêsu hoàn toàn lệ thuộc Chúa Cha: ngay cả mạng sống, ngay cả linh hồn, Ngài cũng phó thác cho Cha... Trên thập giá, Ngài đã khó nghèo đến tuyệt đỉnh: Ngài hạnh phúc đến tuyệt đỉnh.

2. Phúc cho ai hiền lành : “Này Bà, đây là Con Bà” (Ga 19, 26)

    Chúa Giêsu là Đấng ‘hiền lành và khiêm nhường trong lòng’. Nhưng hành động Trên Núi Sọ cho thấy cách thể hiện của sự hiền lành đó. Đức Mẹ chia sẻ trọn vẹn cuộc khổ nạn của Chúa và Ngài mong mỏi Mẹ mình trở thành đấng “Đồng Công Chuộc Tội”. Thế nhưng đường Ngài đưa Mẹ đi vẫn là con đường hiền lành chứ không phải là con đường cứng rắn thô bạo. Trước giây phút phải vĩnh viễn xa lìa người Mẹ, Ngài giao Mẹ cho người môn đệ yêu thương để nối tiếp mình chăm sóc Mẹ. Trên thập giá Ngài đã đòi hỏi Đức Mẹ đến tột độ trong một thái độ hiền lành cũng tuyệt đỉnh : Ngài đã có phúc đến tuyệt đỉnh.

3.      Phúc cho ai sầu khổ : “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của Con, sao Ngài bỏ rơi Con !” ( Mt 27, 46 ).

    Ngài đã sầu khổ : sầu khổ cho những người bơ bơ như đàn chiên không chủ chăn, sầu khổ cho những người thấp cổ bé miệng bị gạt ra ngoài lề xã hội, sầu khổ cho những kẻ cứng lòng tin... Sầu khổ vì những kẻ nhân danh đạo đức lên án Ngài, sầu khổ vì một môn đệ phản bội Ngài, sầu khổ vì những tông đồ bỏ rơi Ngài, và nỗi sầu khổ cay đắng nhất là thấy chương trình của Cha dường như thất bại đến độ Người bỏ rơi Ngài và Ngài phải kêu van... dù cho lời kêu van ấy là câu khởi đầu cho một bài ca cảm tạ ngợi khen(Tv 22). Trên thập giá, Đức Giêsu đã sầu khổ đến tuyệt đỉnh: Ngài hạnh phúc đến tuyệt đỉnh.

4. Phúc cho ai khao khát : “Tôi  khát” (Ga 19, 28)

    Trong cuộc đời Chúa, Ngài đã có lần khát nước thực sự, chẳng hạn bên bờ giếng ở Samaria... Nhưng điều Ngài khao khát nhất, ấy là khao khát sự công chính, khao khát các linh hồn. Ngài sẵn sàng trao máu mình để cho mọi người sống bằng sự sống của Ngài, thế mà đến cuối đời, có vẻ như không ai nhận lấy sự sống ấy: Cơn khát của linh hồn và cơn khát trong thể lý đã lên đến tột đỉnh trên Núi Sọ, khiến Ngài phải mở miệng than vãn lần đầu tiên và duy nhất trong đời: ‘Tôi Khát’. Trên thập giá, cơn khát của Ngài đã lên đến tuyệt đỉnh: Ngài đã hạnh phúc đến tuyệt đỉnh.

5.      Phúc cho ai có lòng thương xót: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên Đàng” (Lc, 23, 43).

    Suốt đời, bất cứ lời nói hành vi nào của Ngài cũng đầy tâm tình xót thương. Chính vì lòng xót thương mà Ngài buộc phải làm phép lạ; chính vì xót thương mà Ngài đã khóc cho Lazarô và cho Giêrusalem, chính vì xót thương mà Ngài đã bảo vệ cho người nữ ngoại tình, chính vì xót thương mà Ngài đã tha thứ cho Phêrô trước khi ông chối Ngài... Nhưng lòng thương xót ấy đạt đến cao điểm khi Ngài hứa đồng hành về Thiên Đàng với một kẻ trộm mà không hề thắc mắc gì về tội lỗi của người ấy: Ngài chỉ biết rằng người ấy là một kẻ bị đóng đinh bên cạnh Ngài, như Ngài. Trên thập giá, lòng thương xót của Ngài đạt đến tuyệt đỉnh : Ngài đã hạnh phúc đến tuyệt đỉnh.

6.      Phúc cho ai có lòng trong sạch :
Này Anh, đây là Mẹ anh” (Ga 19,27)

    Có lòng trong sạch nghĩa là không bao giờ có một ý nghĩ nào sai lệch. Người có lòng trong sạch là người mà lời nói luôn trung thực với ý nghĩ mình. Trong xã hội loài người, không thiếu gì trường hợp người ta nghĩ một điều mà lại nói một điều khác, vì cả nể, vì tư lợi, hay vì sợ hãi. Ngài là Đấng mà suốt đời ‘Có thì nói có và không thì nói không”. Khi trao phó thánh Gioan cho Mẹ mình, Đức Giêsu thực sự muốn Mẹ Ngài yêu thương Gioan như yêu thương chính Ngài, và qua Gioan, tất cả nhân loại trở nên thực sự anh em Ngài. Ý nghĩ tha thiết nhất của Ngài tuôn ra thành lời nói cũng thiết tha nhất. Trên thập giá, lòng trong sạch của Ngài đã lên đến tuyệt đỉnh: Ngài hạnh phúc đến tuyệt đỉnh.

7.      Phúc cho người xây dựng hoà bình : “Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34)

    Trong sứ điệp Mùa Chay năm nay, Đức Thánh Cha ghi lại một chân lý muôn đời : “Những biến cố trong cuộc sống hàng ngày chứng tỏ rõ ràng rằng sự tha thứ và hòa giải cần thiết biết bao cho sự canh tân cá nhân và xã hội” Muốn xây dựng hòa bình, bình an, điều đòi hỏi tối cao là phải tha thứ, và cái tha thứ khó thực hiện nhất là tha thứ cho kẻ làm hại mình. Chúa Giêsu xây dựng Hoà Bình bằng cách tha thứ, và hơn thế nữa, Ngài cầu nguyện để xin Cha cũng tha thứ cho họ. “Hãy yêu kẻ thù, và cầu nguyện cho kẻ bách hại”. Lời nói ngược đời này đã được chính Ngài thực hiện đến tuyệt đỉnh trên thập giá để kiến tạo hoà bình: Ngài hạnh phúc đến tuyệt đỉnh.

8. Phúc cho kẻ bị bách hại vì lẽ công chính. “Mọi sự đã hoàn tất”. (Ga 19, 30)

    Cứ như thể Chúa Giêsu nói lời kết thúc cho bài giảng khởi sự trên núi Galilê và đến Núi Sọ mới chấm dứt. Cuộc đời Ngài là một cuộc đời bị bách hại vì lẽ công chính. Bị bách hại ngay từ ngày Ngài nhìn thấy đền thờ Cha Ngài ‘biến thành hang kẻ trộm’ và vắng bóng Thiên Chúa. Bị bách hại trong anh em nghèo khó của Ngài: ‘Ta đói các người không cho ta ăn, Ta khát các ngươi không cho Ta uống...’. Bị bách hại vì lời Ngài bị coi là chói tai và họ ném đá Ngài. Và để cho ‘mọi việc hoàn tất’ cuộc bách hại ấy đã đưa Ngài lên Núi Sọ. Trên thập giá, cuộc bách hại đã đi đến cùng, đã được hoàn tất: Hạnh phúc của Ngài ở đấy đã hoàn hảo.

    Trong ngôn ngữ Phúc Âm, tuyệt đỉnh của hạnh phúc là được kết hiệp với Thiên Chúa, và sự kết hiệp này còn được gọi là ‘hưởng Nước Trời’ hoặc ‘chết cho xác thịt’. Và chúng ta lại thấy sự trùng hợp giữa những lời thốt lên ở cả hai ngọn núi. Tại Galilê, mối phúc của người nghèo khó (thứ nhất) và của người bị bách hại (thứ tám) được kết bằng : “vì Nước Trời (hiện nay) là của họ’. Trên Núi Sọ, lời ‘phó thác linh hồn’ (tương ứng với nghèo khó) và lời ‘mọi sự hoàn tất’ (tương ứng với bách hại) đều được tiếp nối bằng ‘rồi ngài tắt thở’.

    Khi một người hấp hối thì không còn tâm trí đâu mà kìm hãm miệng lưỡi mình, điều khiển phản ứng mình; chính vì thế mà trên thập giá con người thật của Đức Giêsu được bộc lộ không che chắn: Tám Mối Phúc Thật toát lên qua 8 lời nói cuối cùng của Ngài, lúc Ngài hưởng niềm hạnh phúc tuyệt đỉnh. Những lời này làm chứng cho giáo huấn của Ngài: Hiến Chương Nước Trời là con đường để cho môn đệ Ngài cảm nhận hạnh phúc khi họ chịu đóng trên thập giá như Ngài.

    Tôi biết rằng những suy tư của mình rất gượng ép, rất chủ quan, và không có một cơ sở thần học nào. Nhưng có một điều hẳn không chủ quan tí nào, đó là Chúa Giêsu trên thập giá đã đạt đến tuyệt đỉnh của hạnh phúc trần gian. Nếu thập giá chỉ là khổ đau thì Ngài đã không đem thập giá mà bắt môn sinh Ngài vác. Tại sao chúng ta cứ nhất định biến Thầy Chí Thánh của mình thành một tay sadique, một kẻ bạo tàn thích gây đau đớn cho những người mình thương ? Chính thập giá là nơi duy nhất mà Kitô hữu sẽ tìm thấy hạnh phúc, với điều kiện là phải chấp nhật ‘trút linh hồn’. Cái mất mát lớn nhất của Kitô hữu là không nhìn thấy hạnh phúc của mình trên thập giá: họ tiếp tục sống đời sống của những người chưa bao giờ cảm nghiệm thập giá, để rồi rao giảng một Đức Kitô tách rời với thập giá, nghĩa là một Đức Kitô vô phúc.

    Nếu đến giờ này chúng ta vẫn còn nghĩ rằng thập giá là điều khổ nhục mà mỗi Kitô hữu phải nai lưng gánh chịu, để đền tội (chẳng lẽ Chúa Giêsu chưa đền đủ ?), để lập công (chẳng lẽ chúng ta được cứu nhờ công trạng mình chứ không phải nhờ Chúa Giêsu ?) hầu mai sau được hưởng phước đời đời; nếu ta nghĩ như thế, thì có nghĩa là chúng ta chưa hiểu gì về tám mối phúc thật mà Chúa Giêsu đã sống; và tội nghiệp hơn nữa, chúng ta không cảm nhận được cái hạnh phúc tuyệt đỉnh nơi thập giá. Có lẽ vì thế ngay từ Chúa Nhật thứ II mùa Chay, Giáo Hội đã nhắc lại trong bài đọc II lời kêu gào của thánh Phaolô trong khi ngài đang ở tù, đang bị đóng đinh, đang cảm nếm hạnh phúc: “Tôi đã nói nhiều lần và y giờ tôi phải khóc mà nói lại: có nhiều người sống đối nghịch với Thập giá Đức Kitô” (Pl 3, 18)

    Trong Tuần Thánh, và nhất là vào ngày Thứ Sáu Tôn Vinh Thánh Giá, Kitô hữu mọi nơi thường hát : ‘Vinh quang của ta là Thánh Giá Chúa Kitô, nơi Người ơn Cứu Độ của ta...” Lời hát này sẽ mãi là một ‘sáo ngữ’ ngày nào bạn và tôi chưa chịu đóng đinh với Chúa trên thập giá để cảm nếm được cái hạnh phúc tuyệt đỉnh của một người nghèo, hiền lành, đói khát, sầu khổ, trong sạch, bình an, xót thương và bị bách hại. Và nếu hạnh phúc Thánh Giá của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh - của hôm nay - chưa trở thành thành hiện thực trong mỗi một chúng ta, thì e rằng hạnh phúc Sống Lại của ngày Chúa Nhật Phục Sinh - của mai sau - sẽ chỉ là một ảo tưởng.

3. Cái chết buổi trưa Thứ Sáu
(Trich trong "Death on a Friday Afternoon", Father Neuhaus)

Trong cái chết của Đấng bị treo trên Thập Giá, chúng ta ngộ ra được sự thật đáng kinh hoàng về chúng ta : Chúng ta đã lang thang rong chơi và phí phạm bao nhiêu thời gian ở một xứ sở xa xăm cách biệt quê nhà muôn vạn dặm. Thập Giá của người là biển chỉ đường về với Cha, Đấng đang mong chờ chúng ta

Quá thường một cách đáng ngạc nhiên, tôi gặp gỡ những người mà khi nói về Thập Giá Đức Kitô, họ thú nhận "Không hiểu gì hết". Nhiều người là người Công Giáo lâu năm, có khi rất sốt sắng đạo đức. Cũng có người đang tìm hiểu về đạo. Cũng có những người nói thẳng ra rằng chính cái cảnh máu đổ đầm đìa ngày Thứ Sáu Tuần Thánh là cái lý do chính làm cho họ không thể nào là người Kitô hữu được.

Những nhà giảng thuyết, những vị truyền giáo thường xuyên nói "Đức Giêsu đã chết vì tội chúng ta". Người Kitô hữu đạo đức gật đầu tán thành. Nhưng đâu là ý nghĩa thực sự của việc Đức Giêsu chết vì tội chúng ta ? Tại sao cái chết ấy là cần thiết ? Mà có cần thiết thật không ? Mà vì cái tội nào của chúng ta mà ngài phải chết ? Mà rồi làm sao cái chết thương tâm của một người lành thánh sống cách đây đã hơn 2000 năm lại có thể gây ra hệ quả gì cho cái thế giới này ? Cái chết ấy có liên can gì đến cuộc sống mà chúng ta phải sống và cái chết mà chúng ta phải chết ?

Người Kitô hữu gọi ba ngày cuối trong Tuần Thánh là Tam Nhật Thánh, ba ngày thánh thiêng nhất trong năm Phụng Vụ, ba ngày thánh thiêng nhất trong mọi thời đại. Ngày thứ nhất, Ngày Thứ Năm Ủy Thác (Maundy Thursday), được gọi như vậy vì trong đêm trước khi bị phản bội, Đức Giêsu đã ban ra một mệnh lệnh, một ủy nhiệm, rằng chúng ta phải yêu thương nhau. Tình yêu đó không nhất thiết là thứ tình theo lòng mong muốn của ta. Nhưng có thể là một thứ tình yêu đòi buộc phải yêu thương, thậm chí phải chịu nhục nhã khốn khổ như phải rửa chân cho những bè bạn không có lòng tin, những kẻ sẵn sàng bỏ chạy để ta trơ trọi một mình trong tay kẻ gian ác.

Ngày thứ hai là Ngày Thứ Sáu mà người ta gọi cách trớ trêu là "Good Friday". Và ngày thứ ba là đêm Vọng Phục Sinh. Xin chớ vội vã. Hãy để lòng ta tan nát bởi những điều tệ hại trong ngày Thứ Sáu mà chúng ta gọi là "good". Nhiều học giả đoán rằng từ "Good Friday" là do từ "God's Friday" như chữ "good bye" là do từ chữ "God be by you". Nhưng cũng vẫn là trớ trêu khi gọi là "God's Friday" ngày mà chúng ta "good bye" vinh quang của Thiên Chúa. Mặc kệ những từ ngữ, hãy để lòng ta lắng đọng trong ngày này. Ngày nghỉ mùa Phục Sinh còn dài mà !

Qua ba ngày thánh thiêng này, tất cả thế giới được mời gọi để chú ý. Mọi điều quá khứ, hiện tại và tương lai, chuyện lớn, chuyện bé, dải ngân hà bao la, vi sinh vật li ti – mọi thứ đều liên can huyền nhiệm đến những điều đã xảy ra, đang xảy ra trong những ngày này : Trên cây thập tự, Đấng mà người Kitô hữu gọi là Alpha và Omega, là nguyên thủy và là cùng đích, Đấng là sự sống của mọi loài đang hấp hối.

Trong cái chết mà một số người cho là vô nghĩa này, chúng ta tìm lại được trí khôn của mình. Ở đây, chúng ta tìm lại được căn tính thực sự của chúng ta, bởi vì đây chính là Đấng đã chỉ cho chúng ta thấy chúng ta phải trở nên như thế nào. Con người bị đóng đinh ấy đã kêu mời "Hãy đến đây, và hãy theo ta". Theo ngài đến đồi Golgotha đó chăng ? Sao được ? Chúng ta nhắm mắt, bịt tai lại và ...chạy. Chạy hối hả đến những bàn tiệc Phục Sinh. Nhưng chúng ta còn biết làm gì đây với ánh sáng Phục Sinh khi chúng ta đã trốn tránh con đường dẫn đến ánh sáng vinh quang này ?

Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh mang đến cho chúng ta trí khôn của chúng ta vì trong sự sống và cái chết của Đức Giêsu, ta tìm lại được cuộc sống và cái chết của chúng ta. Sự thật về cái chết của Chúa là sự thật của chính chúng ta. "Hãy biết chính mình". Các triết gia cổ đã từng khuyên ta như thế vì biết mình là nguồn gốc của trí khôn. Trong cái chết của Đấng bị treo trên Thập Giá, chúng ta ngộ ra được sự thật đáng kinh hoàng về chúng ta: Chúng ta đã lang thang rong chơi và phí phạm bao nhiêu thời gian ở một xứ sở xa xăm cách biệt quê nhà muôn vạn dặm. Trong Đấng bị treo trên Thập Giá kia, ta tìm lại được căn tính thực sự của chúng ta. Thập Giá của người là biển chỉ đường về với Cha, Đấng đang mong chờ chúng ta.

Các thánh giáo phụ nói về biến cố Đức Kitô như là bản tóm lược toàn bộ thảm kịch của nhân loại. "Ta là đường, là sự thật và là sự sống". Không phải là đường giữa những con đường, không phải là sự thật giữa những sự thật, và không phải là sự sống giữa những sự sống. Bản Tóm Lược. Hiểu đơn giản và thẳng thắn thì đây là cuộc sống của anh, của chị, của tôi và rằng chúng ta không giác ngộ được chính mình chừng nào chúng ta không tư duy về chính chúng ta trong sự sống và cái chết của Đức Kitô.

Trong thư gởi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô viết : "Thưa anh em, khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá." (1 Cr 2: 1-2). Đừng vội vã vất bỏ thánh giá để chạy đến với niềm vui Phục Sinh vì chúng ta chỉ biết đến Chúa Phục Sinh vinh quang qua Đức Kitô và là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá. Triết gia Alfred North Whitehead cho rằng cái đơn giản duy nhất khả tín là cái đơn giản tìm thấy ở phía bên kia của sự phức tạp. Niềm vui duy nhất đáng tin là niềm vui gặp được ở phía bên kia của một cõi lòng tan nát, sự sống đáng tin duy nhất là sự sống gặp được ở phía bên kia của sự chết. Hãy dừng lại và lắng đọng tâm tư với Đức Giêsu Kitô, và là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá.

Chúng ta đã suy niệm một lúc về ý nghĩa của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh và chúng ta trở lại với cái mà chúng ta gọi là thế giới thực tại với công ăn việc làm, mua sắm và những chuyến xe đi về. Khi chúng ta bước ra khỏi một rạp chiếu bóng, ta lắc đầu để xua đi cái thế giới khác mà chúng ta vừa sống qua một thời gian trong tình trạng nửa tin nửa ngờ, và cố định vị lại mình trong thực tại của thế giới trước mặt; Cũng vậy, sau một thời gian suy niệm, chúng ta đóng sách lại, bước ra khỏi nhà thờ – nơi chúng ta vừa trải qua một thế giới có thể, khả tín và ngay cả thực sự. Nhưng ta lại bảo ta rằng cái thế giới thực không phải là cái thế giới ta vừa trải qua trong nhà thờ mà là một thế giới khác. Thế giới của những hạn chót phải hoàn thành, của những cuộc hẹn phải cố đến, của thuế má phải trả, của con cái phải nuôi nấng.

"Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng quên mất đường về nhà. Chúng lầm lẫn thế giới thực của chúng".

Hãy bỏ lại đàng sau chúng ta những hành trang nặng nề lỉnh kỉnh của những hạn chót, những bổn phận, những lo sợ thất bại, những phập phồng cho tương lai, những người thân chưa trở về, những chán chường thất vọng, những đứa con ngỗ nghịch, những đổ vỡ hôn nhân không hàn gắn được để chúng ta có thể trở về với một thực tại –thực tại mà ta đã bỏ lại khi chúng ta lầm lẫn với thế giới chóng qua này. "Tôi sẽ trỗi dậy và về với cha tôi và tôi sẽ thưa với người: 'Lạy cha, con đã lỗi phạm với Trời và với cha, con không đáng được gọi là con cha nữa' .". Đức Kitô đã vác lên vai Ngài những hành trang lỉnh kỉnh của chúng ta để chúng ta nhẹ gánh mà quay về với Cha. "Hãy đến với ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng và ta sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi". Hãy đưa hành lý của ta cho Ngài.

Linh mục Fx Nguyễn Hùng Oánh

4. Thánh Giá Chúa Kitô

Chúa Kitô vác thập giá Roma và chết trên cây Thập tự đó. Hình phạt nầy không phải là sáng kiến của vua quan Roma. Có lẽ là hình phạt của Ba tư, đế quốc Hy lạp du nhập, rồi tới đến đế quốc Roma dùng, dành cho dân thuộc địa và dân nô lệ nổi loạn.

Ta hãy hình dung xem : một người bị lột trần truồng, hai tay bị giang thẳng trói siết chặt vào thanh gỗ ngang, hai chân bị trói vào thanh gỗ dọc, phơi ngoài trời cho đến chết. Chết vì nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co vào để phổi thu nhận và tống không khí. Tử tội nào thay vì bị cột dây, bị đóng đinh nơi cổ tay, bàn chân, càng thê thảm bội phần vì đau đớn, nhức nhối, sức người rớn lên để thở mau kiệt quệ, dĩ nhiên là chóng chết hơn. Sử gia Joseph Flavius kể lại năm 70, thành Giêrusalem bị vây hãm, rồi bị phá bình địa, ba người bạn thân của ông mang tội xử thập giá lúc ông vắng mặt. Hay tin, chiều hôm đó, ông tới xin tướng Titus tha. Người ta tháo ba nạn nhân còn thoi thóp trên thập giá xuống và nhờ các y sĩ phục dược. Kết quả : hai người bị đóng đinh chết, người bị treo bằng dây thừng hồi sức được.

Nạn nhân chịu cực hình như vậy, chết cũng không được đoái thương. Thây chết cứ để trên thập giá làm mồi cho chim muông ăn. Cũng có trường hợp quan cho phép gia đình tháo xác, đưa về chôn cất.

Hình phạt thập giá đau khổ như vậy mà Chúa Kitô mong muốn chịu ! Ngài phán : "Nầy chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và ký lục. Người ta sẽ kết án tử hình Ngài, sẽ nộp Ngài cho dân ngoại, để họ nhạo báng, đánh đòn, và treo Ngài lên thập giá, nhưng ngày thứ ba, Ngài sẽ sống lại" (Mt 20,18-19). Thánh Tông đồ Phêrô khiếp sợ, can gián Chúa, bị Chúa mắng là Satan (Mt 16,21). Chúa còn dạy mọi người : "Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo Thầy" (Mt 16,24). Chúa còn tiên đoán số phận của người theo Chúa : "Đầy tớ không lớn hơn chủ. Nếu họ bắt bớ Thầy, tất nhiên, họ cũng bắt bớ các con" (Gioan 15,20) và Chúa dạy phải cam lòng mà chịu : "Ai tát má phải, hãy giơ má kia nữa. Ai muốn kiện đoạt áo trong, hãy trao áo ngoài luôn cho nó" (Mt 16,39-40).

Như vậy, phải chăng Chúa Kitô xuống trần gian để chết đau khổ trên thập giá và Ngài muốn chúng ta cũng chịu như vậy? Ngài bị treo trên thập giá, phải chăng ai theo Ngài cũng phải bắt chước Ngài leo lên thập giá ? Phải chăng Ngài đã chịu ngược đãi, bị tử hình thập giá, Ngài cũng muốn chúng ta theo Ngài thì phải cam chịu mọi đau khổ để theo gương Ngài ? Đạo lý của Ngài có trái ngược với khoa học kỹ thuật đang giúp mọi người sống hạnh phúc không ? Đạo lý của Ngài có đi ngược lại với trào lưu tư tưởng của nhân loại là giải thoát con người khỏi bất công đau khổ, khỏi cái chết bất công không ?

Thật là "kỳ quặc" nếu ta đồng hóa "thập giá Roma" với "Thánh giá Chúa Kitô". Cũng thật "kỳ quặc" khi ta nghe Chúa phán : "Ai tát má phải, hãy giơ má kia nữa" (Mt 5,39) mà không biết phản ứng của Chúa khi thuộc hạ của ông Anna tát Chúa : "Nếu tôi nói sai, anh hãy nói tôi nói sai ở điểm nào, nếu tôi nói đúng, sao anh lại đánh tôi" (Gioan 18,23).

Trong vụ án giết Chúa Kitô, ai cũng biết nhóm Biệt phái, Ký lục và Tư tế đã phạm một tội tầy trời là giết Chúa Kitô, Đấng Thánh của Thiên Chúa. Chính Chúa Kitô đã bảo âm mưu giết Ngài là việc làm của ma quỷ (xem Gioan 8,40-41 và 44). Thánh Gioan không ngớt lời chỉ Satan gieo vào lòng Giuđa ý định nộp Chúa Kitô (xem Gioan 13,27,30) và Satan nhập vào Giuđa giúp ông thi hành (Gioan 13,27). Chúa Kitô phản đối vụ bắt bớ Ngài (Lc 22,52-53), phản đối hành động vũ phu của thuộc hạ của Hanna (Gioan 18,23) và tuyên bố trước quan Philatô tội đồng lõa của quan với nhóm nộp Ngài (Gioan 19,11). Một vụ án do Satan giật dây, Chúa Kitô tại sao không tránh đi, lại chỉ chống đối cách bất bạo động ? Câu trả lời thâu gọn trong động từ "vâng lời".

Xuống thế làm người, giống người ta ngoại trừ tội lỗi, Chúa Kitô trở nên bạn hữu của tất cả mọi người để cứu độ mọi người. Xuất hiện trong một thế giới bị tội ác đánh độc, Ngôi Hai làm người phải đương đầu với tội ác. Tự căn bản, tội ác muốn loại trừ Ngôi Hai làm người khỏi trần gian giống như tội Ađam phạm để loại trừ Thiên Chúa. Vì thế, công cuộc nhập thể cứu độ của Ngôi Hai mặc lấy hình thức chiến đấu, đau đớn và đẫm máu mà phần kết thúc sẽ là phần tử nạn tàn nhẫn trên thập giá.

Xét về mặt tự nhiên, Chúa Kitô thắng về tinh thần. Thí dụ : Trần Bình Trọng nói với quân Phương Bắc: “Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm Vương đất Bắc”, ông bị giặc giết, ông thắng về ý chí, về tinh thần bất khuất. Nơi Chúa Kitô thì khác, vì Người là Thiên Chúa nên cái chết của Ngài toàn thắng về mọi mặt.

Cái chết của Ngài có ý nghĩa :

- Chứng minh Giáo lý của Ngài là của Chúa Cha trao cho Ngài, sai Ngài xuống rao giảng (Gioan 7,16).

- Biểu lộ ra bên ngoài Ngài vâng lời tuyệt đối hoàn toàn lệnh của Chúa Cha sai Ngài giáng trần (Nếu sợ chết mà trốn đi thì chẳng khác "lính đào ngũ").

- Tố cáo tội ác của nhân loại : cho biết nhân loại phạm tội ác ghê gớm nhất (Ađam Avà xưng mình là Thiên Chúa để loại trừ Thiên Chúa, bây giờ con cháu ông bà giết Đấng Thánh của Thiên Chúa để loại trừ Thiên Chúa).

- Biểu lộ tình thương của Chúa Cha thương nhân loại đến nỗi ban Con Một của mình cho thế gian.

Nếu Chúa Kitô tránh né cuộc thương khó, tức là bỏ cuộc, chịu thua vì sợ chết thì Giáo lý của Ngài không thể chứng minh được là chân lý, là của Chúa Cha, tội ác của nhân loại không lấy gì chỉ cho thấy ghê gớm vô cùng, và đức vâng lời của Ngài không còn nữa và tình yêu của Chúa Cha đối với nhân loại không được chứng minh cụ thể, không có sức thuyết phục.

Trong cuộc thương khó, chính Chúa Kitô còn phải tranh đấu với bản thân mình để hoàn toàn vâng phục Chúa Cha, lãnh nhận Thánh Ý Chúa Cha trọn vẹn. Qua cái chết, Ngài đã cắt đứt mọi thứ ràng buộc, mọi thứ nương tựa để sinh sống, không chút bỉn rỉn thứ gì nên Ngài ra trống không (Philip 2,7) và Ngài đã vâng phục Thánh Ý Chúa Cha hoàn toàn, đã lãnh nhận Chúa Cha hoàn toàn, được tôn lên là Chúa (Kurios = Giavê, Philip 2,11).

Ngài đã thực hiện trọn vẹn đức bác ái là mến Chúa và yêu người bằng đời sống rao giảng và đến mức hy sinh mạng sống mình. Rao giảng chân lý Nước Trời để quét đi bóng tối lầm lạc của Ađam Evà và của nhân loại xem mình là Thần linh có quyền ra luật "biết lành biết dữ", đưa nhân loại tới đúng địa vị và cao quý : là thụ tạo được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, địa vị làm con cái Thiên Chúa. Rao giảng Thánh giá của mình, Ngài rao giảng sự chiến thắng của Ngài bằng cái chết vâng phục để đánh gục sự kiêu căng của Ađam Evà và nhân loại đồng thời là sống lại lên trời vinh hiển của Ngài để kéo nhân loại về trời, kéo cả vũ trụ về với Thiên Chúa Cha.

Trong mầu nhiệm Vượt Qua (chết và sống lại lên trời vinh hiển), Chúa Kitô vâng phục để đánh bại sự bất vâng phục, sự kiêu căng của loài người, Chúa Kitô chịu đau khổ để xóa hết mọi đau khổ của nhân loại, Chúa Kitô chịu chết để tiêu diệt cái chết cho nhân loại, Chúa Kitô sống lại lên trời vinh hiển để cứu độ nhân loại nghĩa là kéo mọi người về trời. Tội lỗi, sự chia rẽ, kỳ thị chủng tộc v.v, sự chết đã bị Thánh giá Chúa Kitô tiêu diệt và đem lại hạnh phúc đời này nhờ bác ái và hạnh phúc đời đời được trả lại cho nhân loại nhờ Thánh giá Chúa Kitô.

Thánh giá Chúa Kitô đã thắng thập giá của Roma, của loài người trở thành dấu hiệu của thực tại chiến thắng do Chúa Kitô "lập công" cho nhân loại. Sức mạnh của Chúa Kitô có cờ hiệu là Thánh giá đang chinh phục thế giới và sẽ đạt được thành công hoàn toàn trong ngày Ngài quang lâm, khánh thành công trình cứu độ trần gian và vũ trụ. Thánh giá của bác ái nên tất cả mọi hoạt động bác ái, thăng tiến con người, cho con người bớt khổ, bớt hận thù, cho con người sống hạnh phúc đều góp phần vào Thánh giá Chúa Kitô. Trái lại, những ai gây đau khổ cho con người, những ai gây căm thù, những ai gây chết chóc cho con người là những kẻ đưa thập giá Roma đến cho con người.

Thánh giá Chúa Kitô còn là dấu hiệu của thời gian cánh chung, thời gian cận Quang lâm tức là thời gian chúng ta đang sống, lời xét xử của Chúa Kitô đã vang lên : "Hỡi những kẻ Cha thầy đã chúc phúc, hãy vào Nước Trời đã dọn sẵn cho anh chị em từ tạo thiên lập địa vì từ xưa Thầy đói anh chị em đã cho ăn, Thầy khát, anh chị em đã cho uống, Thầy là khách lạ, anh chị em đã tiếp rước, Thầy trần truồng, anh chị em đã cho mặc, Thầy đau yếu, anh chị em đã đến chăm nom, Thầy ngồi tù, anh chị em đã đến viếng thăm" (Mt 25,34-36) nghĩa là "anh chị em đã làm những điều bác ái nầy cho những người khốn khổ là anh chị em đã làm cho chính Thầy" (Mt 25,40).

Trong Thánh giá Chúa Kitô, đau khổ và cái chết là do thập giá Roma gây nên, vì thế ta nên nhớ rằng đau khổ và cái chết của Chúa Kitô không phải là lễ vật mà Chúa Kitô dâng lên Chúa Cha. Chúa Cha trong công trình sáng tạo đã không tạo ra đau khổ và sự chết nơi loài người. Lễ vật Chúa Kitô hiến dâng Chúa Cha trên thập giá chính là tâm tình hiến dâng và vâng phục Chúa Cha hợp với yêu mến loài người đang bị hư vong. Trong mảnh đất đau khổ và chết chóc do Chúa Kitô chịu mọc lên bông hoa cực đẹp là tâm tình hiến dâng, và vâng phục Chúa Cha. Kẻ gây ra đau khổ và cái chết cho Chúa Kitô đã phạm một tội ác lớn hết sức : giết Con Thiên Chúa.

Trong cái chết biểu lộ sự hy sinh cao cả và tột đỉnh, giá trị hy sinh chịu chết thể hiện con người sống bác ái. Cái chết đền tội cho cả nhân loại, cái chết để cho nhân loại khỏi chết.

Đến lượt mọi Kitô hữu, trong bí tích Thánh tẩy (Rửa tội) đã được cùng chết với Chúa Kitô (bỏ con người tội lỗi), đã cùng được an táng với Chúa Kitô và cùng được sống lại với Chúa Kitô (Colossê 3,3 ; Roma 6,4). Như vậy, ta được sự sống của Thiên Chúa trong ta khiến ta là con Thiên Chúa Cha, là con Chúa Cha trong người con duy nhất là Chúa Kitô (filius in Filio) tức là em của Chúa Kitô, là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Cái chết đến với ta chỉ là phương tiện bỏ đi những chướng ngại của con người trần gian để sự sống của Chúa trở thành viên mãn, ta hưởng Nhan Thánh Chúa.

Còn đau khổ hiện tại ta đang phải vác ?

Chúng ta đã biết đau khổ, cái chết tự nó không có giá trị, và loài người đang tìm cách đẩy lui nó, Thánh giá Chúa Kitô tiêu diệt nó. Tuy nhiên phải phân biệt :

- Đau khổ như Giuđa sau khi đã bán Chúa do hối hận quá sức đưa tới tự vận, thứ đau khổ nầy, xét về mặt tự nhiên, có một cái gì đáng nói, đáng suy nghĩ và cảm phục một phần nào, nhưng xét về mặt siêu nhiên, đau khổ và cái chết của Giuđa không thể xem như một lễ vật đền tội được.

- Đau khổ của Thánh Phaolô : một cái dằm đâm vào thân Ngài, một thần sứ satan (2 Cor 12,7), thánh nhân đã ba lần xin Chúa cho thoát khỏi khổ nầy (2 Corintô 12,7-8), nhưng Chúa lại cho thánh nhân biết : "Ơn Chúa bảo trợ cho thánh nhân là đủ rồi, và cũng nhờ đó, sức mạnh của ơn Chúa rõ ràng nơi hèn yếu, bất lực" (xem 2 Cor 12,19).

Trên bước đường truyền giáo, thánh nhân đã chịu rất nhiều đau khổ : bị người Do Thái đánh đòn 5 lần, bị đắm tàu 3 lần, bị ném đá một lần… và Ngài đã nói thực đang mang trong mình cuộc tử nạn của Chúa Kitô (xem 2 Cor 4,10) để bù đắp đầy đủ những gì còn thiếu sót nơi cuộc tử nạn của Chúa Kitô (xem Colossê 1,24).

Những đau khổ nầy tự nó không phải là lễ vật, nhưng từ đó nở bông hoa bác ái : yêu mến Chúa Kitô cao độ và hy sinh vì ơn Chúa đã gọi Ngài đi truyền giáo… là lễ vật hợp với lễ vật của Chúa Kitô.

Sách Công vụ Tông đồ ghi nhận tâm trạng của thánh Phêrô và thánh Gioan sau khi ra khỏi Công nghị Do thái : "Các ngài hân hoan mà ra khỏi công nghị vì đã thấy mình chịu sỉ nhục vì danh Chúa Kitô" (CvTđ 5,41).

Vậy, đau khổ có phúc khi kết hiệp với đau khổ của Chúa Kitô để đạt tới cứu cánh là thực thi đức bác ái, là cứu độ, là đem lại hạnh phúc. Ở đời, người ta đánh giá rất cao loại đau khổ đạt tới đức bác ái : người mẹ chịu đau khổ vì con để cứu con khỏi đường tội lỗi (thánh Monica v.v) bà mẹ chịu khổ sở giúp con cai nghiện ma túy v.v.

Đau khổ loại nầy không phải là thứ cam chịu, nhưng là một cuộc chiến đấu. Người Kitô hữu chịu đau khổ vì phải giữ Đạo… là một cuộc chiến đấu với Chúa Kitô, kết hiệp với Chúa Kitô phát triển và làm lan tỏa đức bác ái thánh thiện.

Còn những đau khổ do : - Không giữ gìn sức khỏe nên mắc nhiều bệnh tật. - Không chịu học hành nên sống trong cảnh ngu dốt. - Lười biếng nên phải lâm cảnh nghèo đói v.v Nếu nói đó là Thánh giá Chúa Kitô gửi đến thì chẳng khác gì "lăng nhục" Thánh giá Chúa Kitô.

5. ASTY/98 : THINH LẶNG CỦA THÁNH GIÁ

Trong suốt ngày thứ sáu hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta đi vào thinh lặng. Phải, thinh lặng để ngắm nhìn Chúa Giêsu trên thập giá. Thinh lặng để lắng nghe tiếng nói từ thập giá, bởi vì thập giá mãi mãi vẫn là một màu nhiệm. Tại sao điều đó có thể xảy ra cho Thiên Chúa ? Tại sao con Thiên Chúa lại có thể chịu chết treo trên thâp giá ? Trong một cuộc đối thoại tưởng tương với người trộm lành, thánh Augustinô đã hỏi người đó như sau : Làm sao anh có thể hiểu được những gì xảy ra bên cạnh anh, trong khi đó chúng tôi là những nhà chuyên môn, là những tiến sĩ luật, chúng tôi không hiểu được những lời ứng nghiệm của Kinh thánh. Ngay trước mắt chúng tôi ông có đọc Kinh thánh không ? Ông có biết tiên tri Isaia đã loan báo về cuộc tử nạn của Chúa như thế nào không ? Người trộm lành trả lời như sau : Không. Tôi chưa bao giờ học hỏi về Kinh thánh, nhưng Chúa Giêsu đã nhìn tôi và trong cái nhìn của Ngài, tôi đã hiểu được tất cả mọi sự. Một vị Hồng y già trong cơn hấp hối đã nhắn nhủ như sau : Chúng ta nói rất nhiều những lời hay ý đẹp về sự đau khổ, tôi cũng đã từng hăng say làm như thế, nhưng xin hãy nhắn với các linh mục rằng : đừng nói gì cả. Chúng ta không biết gì về đau khổ.

Về cuộc tử nạn và cái chết của Chúa Giêsu, thiết tưởng chúng ta chỉ nên giữ thinh lặng. Trong thinh lặng, chúng ta mới cảm nhận được cái nhìn yêu thương trìu mến của Chúa Giêsu. Và trong cái nhìn ấy, chúng ta mới nghe được chính tiếng nói của Ngài. Chỉ có kẻ đau khổ mới có thể đưa chúng ta vào nỗi khổ đau của họ. Chỉ có Chúa Giêsu mới có thể đưa chúng ta vào nổi khổ đau của Ngài. Sự thinh lặng đưa chúng ta vào mâu nhiệm của khổ đau. Trong hai người cùng chịu treo trên thập giá bên cạnh Chúa Giêsu, một người đã không ngừng lên tiếng kêu gào rủa xả, trong khi đó kẻ được mệnh danh là người trộm lành chỉ biết thốt lên với lời van xin cứu vớt : Đối với chúng ta điều đó thật là phải lẽ xứng với tội lỗi chúng ta. Nhìn lên thập giá, mỗi người chúng ta chỉ có thể đấm ngực ăn năn về chính tội lỗi của mình mà thôi. Thập giá của Chúa Giêsu vẫn luôn có đó để chiếu rọi vào thân phận tội lỗi của con người. Thập giá không chỉ mạc khải về tội lỗi của con người, mà còn tỏa chiếu ánh sáng của Tình yêu. Cái chêt của Chúa Giêsu trên thập giá là biểu lộ của một tình yêu tha thứ cho đến cùng. Có lẽ người trộm lành đã hiểu được điều đó khi anh quay sang nhìn Chúa Giêsu. Trong ánh mắt của Ngài, người trộm lành chỉ có thể thấy bừng lên tình yêu nhân từ và tha thứ. Bên cạnh Chúa Giêsu, người trộm lành được ôm ấp với cái nhìn tha thứ và trìu mến của Ngài. Với chúng ta cũng vậy, hãy để cho Ngài ôm ấp trọn alý chúng ta trong tình yêu khoan dung và tha thứ. Hãy để cho ánh mắt yêu thương của ngài đốt cháy tâm hồn khô khan, nguội lạnh và tội lỗi của chúng ta.

7. CS/48- PHẢN TRẮC

Trong bữa tiệc mừng lễ Vượt qua giữa Chúa Giêsu và các tông đồ ngày xưa, nếu như không xảy ra câu chuyện của ông Giuđa Iscariot thì có lẽ bữa tiệc sẽ trở thành một kỷ niệm rất đẹp và đáng nhớ về tình thầy trò, về nghĩa yêu thương. Và nếu không xảy ra sự việc đáng tiếc ấy thì có lẽ trong lịch phụng vụ của Hội thánh đã có ngày lễ kính thánh Giuđa Iscariot rồi.

Nhưng ông Giuđa là ai ? Ông đã làm gì đến nỗi phá vỡ những giá trị cao quí ấy ? Thiết tưởng ta không thể nói về ông một cách hàm đồ do những suy nghĩ thiếu cơ sở. Ta chỉ có thể dựa vào Tin mừng để tìm hiểu đôi điều về ông mà thôi.

- Ông Giuđa là tông đồ của Chúa Giêsu :

Điều đầu tiên ta có thể nói được về ông đó là ông đã được Chúa Giêsu tuyển chọn làm tông đồ của Người. Cũng như các tông đồ khác, ông đã được Chúa Giêsu tuyển chọn một cách kỹ lưỡng qua một đêm thức trắng để cầu nguyện. Tên của ông đã được liệt vào số 12 tông đồ. Ông còn được Chúa Giêsu và các anh em tín nhiệm trao phó cho công tác thủ quỹ của cộng đoàn. Như các tông đồ khác, ông đã đi theo Chúa Giêsu trên khắp các nẻo đường truyền giáo, đã được nghe những lời giảng dạy của Người, đã được thấy những phép lạ Người làm, đã cùng ăn, cùng ở với Chúa Giêsu. Và như các tông đồ khác, chắc chắn khi được Chúa Giêsu kêu gọi, ông cũng đã từ bỏ mọi sự và mau mắn đáp lại tiếng gọi của Người.

- Ông Giuđa là kẻ phản bội :

Tuy nhiên, ông Giuđa đã không giữ mãi được danh hiệu tông đồ của mình, bởi ông đã phản bội. Ông đã trở thành một kẻ chỉ điểm cho người ta bắt thầy mình. Ông đã tự ý rời bỏ anh em, những người cùng chung một lý tưởng, một sứ mạng với ông. Nhưng vì đâu từ một tông đồ nhiệt tình, một tông đồ có khả năng, ông lại trở thành kẻ phản bội? Vì đâu một người đã từng chia vui, sẻ buồn với Chúa Giêsu trong suốt ba năm trời lại có thể bán đứng thầy mình như vậy?

Kinh thánh nói rằng :”Vì Satan nhập vào ông”. Thì ra đầu mối của sự phản bội là ở đó. Thật vậy, hành vi tội lỗi nào của con người cũng đều có sự xúi giục của satan. Việc chống lại Thiên Chúa bao giờ cũng do Satan cầm đầu, bởi Satan là kẻ thù không đội trời chung với Thiên Chúa. Nhưng điều đáng nói là Satan không thể tông cửa mà vào, nếu ông Giuđa đã không mở cửa lòng để đón nó. Có lẽ ông Giuđa đã không hiểu được sự khôn khéo của Satan là nó không xuất hiện dưới dạng kẻ thù của Thiên Chúa hay của ông, nhưng nó xuất hiện như một người bạn. Chính vì thế mà ông đã rơi vào cạm bẫy của nó. Và một điều khôn khéo khác của satan là nó không đẩy ông xuống vực thẳm ngay, nhưng từng bước một. Chắc hẳn từ ban đầu Satan đã không thúc đẩy ông Giuđa phản bội thầy mình. Nhưng có lẽ nó đã dập tắt lửa nhiệt tình tông đồ nơi ông và hướng cái nhìn của ông về phía các tạo vật, cụ thể là tiền bạc. Chẳng hạn khi bà Maria xức dầu thơm vào chân Chúa Giêsu, ông đã phản đối:”Sao không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng mà cho người nghèo?” Sau này thánh Gioan đã viết về ông rằng :”Ông Giuđa nói điều ấy không phải vì lo lắng cho người nghèo, nhưng vì ông là một tên ăn cắp. Ông giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung”. Thì ra là thế. Và một khi lòng tham đã lên tới cực điểm, khi tiền bạc đã che mờ đôi mắt thì người ta có thể làm bất cứ điều gì dù là điều tồi tệ nhất.

Một điều đáng nói khác về ông Giuđa đó là : Trong quá trình ông đi dần tới vực thẳm, Chúa Giêsu đã dùng mọi cách để nhắc nhỡ, để cảnh tỉnh, để kêu gọi lương tri và để cảm hóa ông, nhưng tất cả đều vô ích. Ông mở rộng cửa tâm hồn cho ma quỉ nhưng lại đóng chặt cánh cửa ấy trước Thiên Chúa, và vì thế, cuối cùng ông đã trở thành kẻ phản bội, trở thành kẻ thù của thầy mình.

Nhưng thật xót xa cho ông, chỉ sau khi đã phản bội, đã bán thầy mình với giá của một tên nô lệ là ba mươi đồng bạc, ông mới bừng tỉnh để thấy rõ tội lỗi tầy trời của mình. Ông đã cay đắng hét lên : “Tôi đã phạm tội vì làm đổ máu người vô tội”. Bây giờ thì ông không còn một chút ham muốn nào đối với điều mà trước đây ít phút ông đã từng khao khát. Những vẻ hấp dẫn của tội lỗi mà Satan đã tô vẽ trước mắt ông không còn nữa. Cuối cùng chỉ còn lại sự ân hận và day dứt khôn nguôi.

Dầu vậy, cánh cửa trời vẫn chưa đóng lại trước mắt ông. Ông vẫn còn có thể làm lại cuộc đời. Thầy Giêsu vẫn giang rộng đôi tay để đón lấy ông, ôm ông vào lòng và tha thứ cho ông. Chính Người đã từng nói : “Khi nào tôi được giương lên cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. Hoặc : “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em. Thầy muốn rằng : Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó với Thầy”. Nhưng ông Giuđa không còn nhớ gì nữa, không còn nghe thấy gì nữa, bởi đã từ lâu ông không còn thói quen nghe tiếng Thầy mình mà chỉ quen nghe tiếng nói của Satan. Ông đã tự chọn chỗ ở cho mình mà ông đi đến chỗ mà ông đã chọn. Chỗ của Satan. Chỗ của cái chết ngàn thu.

Phải chăng mỗi người chúng ta lại chẳng từng cưu mang một ông Giuđa trong tâm hồn và trong cuộc đời mình ? Một ông Giuđa phản bội lại Đấng đã yêu thương mình. Một ông Giuđa đã luôn mở rộng tâm hồn để đón Satan vào. Một ông Giuđa chai đá trước những lời cảnh tỉnh của Thầy chí thánh. Một ông Giuđa coi trọng của cải vật chất hơn chính Thiên Chúa của mình. Một ông Giuđa tuyệt vọng trước một Thiên Chúa luôn mở ra những cánh cửa hy vọng cho con người.

Nếu cuộc đời chúng ta như thế thì chỗ ở của ta cũng sẽ là chỗ mà ông Giuđa đã chọn.

6. Suy Niệm của Lm An tôn Trần Thế Phiệt, DCCT

I. Như ta đã biết, cả 4 tác giả sách Tin mừng đều kể lại tỉ mỉ cuộc Thương khó của Chúa, nhưng mỗi tác giả nhấn mạnh một số điểm riêng. Trong bài viết của mình, thánh Gioan trước hết muốn làm nổi bật tư cách cao cả của Đức Giêsu.

+ Ngài chính là vị Thượng tế của đạo mới, cũng như niềm tin của tác giả thư Do Thái mà ta vừa nghe trong bài đọc I. Thánh Gioan khéo léo giới thiệu như thế qua đoạn kể lại sự đối diện giữa Đức Giêsu và thượng tế Caipha, trong đó tư cách của Đức Giêu trổi vượt hơn và chức thượng tế của đạo cũ tỏ ra không còn giá trị gì nữa.

+ rồi qua chi tiết cái áo dài một đường chỉ, gợi lên hình ảnh cái áo dài của vị thượng tế - chi tiết Đức Giêsu không bị đánh dập ống chân, nhưng bị đâm vào cạnh sườn, khiến nước và máu chảy ra, gợi đến lễ tế chiên vượt qua ở đền thờ và công bố Đức Giêsu là đền thờ Giêrusalem mới có nước ban sự sống mới chảy ra từ bên hông.

+ Tư cách cao cả thứ hai của Đức Giêsu , đó là Ngài là Vua . Thánh Gioan cho thấy điều đó qua lời giới thiệu của Philatô " Đây là vua các ngươi…", qua việc ông đặt Ngài trên toà đá và không sửa lại bảng viết trên thập giá ghi…. "Giêsu Nagiaret , vua dân Do thái".

+ Đồng thời, ở nhiều chỗ trong bài Thương khó, thánh Gioan nhấn mạnh đến vẻ uy nghi lẫm liệt của Đức Giêsu. Cụ thể là ở vườn Cây dầu, Ngài vừa phán bọn lính đã ngã lăn - rồi trước mặt Caipha và ở phủ đường Philatô: đâu đâu Ngài cũng cho thấy cái oai của Ngài. Ngài thật là vị Chúa của hoàn cảnh, chính Ngài rõ biết mọi sự đang và sắp xảy ra, chính Ngài điều hành mọi việc, chứ không phải Giuđa hay các đối thủ của Ngài. Thậm chí Ngài còn mạc khải mình là Thiên Chúa qua nhiều lần xưng nhận "Chính là Ta" như Giavê vẫn thường mạc khải trong Cựu ước.

II. Thế nhưng mặt khác, bài Thương khó của thánh Gioan cũng nhấn mạnh thái độ của Đức Giêsu là chấp nhận đi vào cuộc khổ nạn , theo thánh ý Chúa Cha. Ở vườn cây dầu, Ngài để cho các đối thủ bắt mình, Ngài ra lệnh cho Phêrô xỏ gươm vào bao. Ở dinh philatô, Ngài nói rõ với quan ấy " Ông không có quyền gì trên Tôi, nếu từ trên không ban xuống cho". Rõ ràng Ngài không phải là kẻ thất thế, Ngài dư sức thoát mọi mưu toan của đối thủ, dư sức vô hiệu hóa mọi sức mạnh của chúng, nhưng Ngài tự nguyện uống chén đắng Cha ban, coi khổ nạn là thánh ý từ muôn đời của Cha và như một hồng ân Cha ban. Ngài hoàn toàn tự do và sáng suốt chấp nhận trở nên Người Tôi Tớ thống khổ như Isaia từng báo trứơc ( Bài đọc I). Ngài không dùng quyền năng chống lại con người nhưng để cho họ hành động, tôn trọng tự do của họ.

III. Và đến đây, lòng dạ độc ác của con người, tội của thế gian mới lộ hiện hết mức. Khi được toàn quyền hành động trước một Đức Giêsu không kháng cự, hàng lãnh đạo Do thái mới để lộ hết lòng dạ thâm độc của mình. Khi Philatô hỏi " các người tố cáo ông này về tội gì?" họ đáp lại một cách mơ hồ, không kể ra một tội nào. Điều đó nói lên rằng đầu óc người Do thái chỉ có một ước muốn là giết Đức Giêsu. Vậy chính ở sân phủ đường Philatô, thế gian đã cho thấy tội của nó có thể đi tới tận mức độ nào , nó có thể vô ơn, khinh mạn đối với Thiên Chúa đến mức phủ nhận chối từ mọi mặc khải của Người, và thậm chí khử trừ Người khỏi cõi thế.

IV. Đạo chúng ta là đạo tôn thờ thánh giá Chúa. Hình ảnh thánh giá này luôn nhắc chúng ta vì tình thương thí thân tự hủy mà Chúa đã biểu lộ vì ta, nhắc cuộc Thương khó và sự chết của Chúa là phương thế cứu chuộc ta, mà cũng luôn buộc ta nhớ đến mức tối đa của tội thế gian: mức khước từ Chúa, mức giết Chúa. Liệu chúng ta có dám sống ngược thế gian không, có thực sự thuộc số những kẻ mến thương Chúa, tôn thờ Chúa và không đóng đinh Chúa không? Cái hôn giờ đây mỗi người chúng ta sắp đăt trên chân Chúa sẽ là gì? Là cái hôn giả hình, phản bội của Giuda, hay là cái hôn yêu mến, xin lỗi, thề hứa yêu mến?

Xin Chúa kéo tất cả chúng ta lên gần Ngài, như lời Ngài phán "một khi Ta được giương cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lại với Ta".

9. CSTM/90- CÁC NHÂN VẬT

Bài Tin Mừng hôm nay được gọi là bài Thương Khó. Kể lại đầy đủ diễn tiến cuộc xét xử và kết án Chúa Giêsu. Đây không phải là một vụ án chính trị mà là một vụ án tôn giáo. Chúa Giêsu bị kết án tử hình không phải vì đã xưng mình là vua nhưng vì đã xưng mình là con Thiên Chúa. Ngài bị giết chết không phải vì có những lời phạn động hay những việc làm chống đối chính quyền hay giáo quyền thời đó, nhưng vì Tin Mừng người công bố đụng chạm đến những sai trái của mọi người và những việc Ngài làm thể hiện tình yêu thương nhân từ của Thiên Chúa. Vì thế, mãi mãi bản án Phi-la-tô dành cho Chúa vẫn là bản án bất công nhất. Nó là tiêu biểu cho biết bao hành động bất công và dã man mà những người vô tội phải gánh chịu qua suốt dòng lịch sử nhân loại.

Thực vậy, Chúa Giêsu chẳng những đã chia sẻ phận làm người mà Ngài còn chia sẻ thân phận của những người yếu thế. Khi suy nghĩ về cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta không thấy đó là chuyện xa xôi, nhưng là chuyệt rất thực của hôm nay. Trên thế giới, mỗi ngày có biết bao Giêsu vô tội bị kết án bất công, bị làm nhục, bị khinh khi, bị hành hạ và đối xử tàn tệ cho đến chết. Và như thế Chúa Giêsu còn bị đónh đinh cho đến tận thế, bao lâu còn những người anh chị em của Ngài ngược đãi, bị khốn khổ. Suy nghĩ về thập giá của Chúa, giúp chúng ta nhạy cảm hơn với thập giá của tha nhân, và nhận ra mình có trách nhiệm trước những đau khổ đang diễn ra trên toàn cầu.

Suy nghĩ về cuộc thương khó của Chúa, tức là vụ án xét xử Chúa, chúng ta  còn thấy điều gì nữa không ? Theo tôi, chúng ta thấy mình không phải là những kẻ đứng ngoài cuộc, mà thấy mình có những nét giống nhân vật này hay nhân vật khác, một cách nào đó, những nhân vật đặc biệt có mặt trong vụ án xét xử Chúa.

Chẳng hạn chúng ta thấy mình có nét giống Giuđa : một người được chọn, được yêu, được theo Thầy rất gần. Được chứng kiến bao phép lạ, được nghe bao lời vàng ngọc. Nhưng tất cả đã tan vỡ khi Giuđa bán thầy với giá ba mươi đồng bạc cùng với một cái hôn giả dối. Chúng ta có nét giống Giu-đa khi chúng ta bán rẻ lương tâm mình vì một sự giả dối hay tham lam gì chăng?

Chẳng hạn chúng ta thấy mình có nét giống Phêrô : ông tự hào về tình yêu của mình đối với Thầy, thế mà lại dễ dàng chối Thầy trước một cô đầy tớ. Thật là tầm thường và hèn nhát. Nhưng tiếng gà gáy khiến Phêrô chợt tỉnh, và nhất là ánh mắt Chúa nhìn ông khiến ông hết sức hối hận và khóc lóc ăn năn thống hối. Trong cuộc đời, vẫn có những tiếng gà và ánh mắt của Chúa, chúng ta có òa khóc, có ăn năn thống hối không ?

Chẳng hạn chúng ta thấy mình có nét giống Philatô : ông bị trói chặt bởi sự sợ hãi : sợ dân nổi loạn, sợ mất chức mất quyền Ông không đủ bản lãnh và không đủ cương quyết để tha một người vô. Chính ông đã chuẩn nhận bản án tử hình của tòa án tôn giáo Do Thái. Chúng ta có im lặng không dám bênh đỡ mà lại còn a dua để xét đoán hoặc kết án ai không ?

Tuy nhiên, suy nghĩ cuộc thương khó của Chúa, chúng ta thấy cũng có những điểm sáng, những điều tốt đẹp. Đó là Simon vác đỡ thập giá Chúa. Đó là các phụ nữ than khóc Chúa : họ tội nghiệp Chúa, họ thương hại Chúa chăng ? Dù sao họ cũng thể hiện được một nét đặc biệt của người phụ nữ là dễ mũi lòng, dễ xúc động trước một cảnh thương tâm, khổ cực. Chúng ta có dễ động lòng trắc ẩn và nhất là có biết giúp đỡ trước nổi thương đau của người khác chăng ?

Sau hết, một điểm sáng nhất, một khuôn mặt rực rỡ hơn cả là người trộm lành : một người bị đóng đinh tin vào một người bị đóng đinh khác. Anh không những nhìn nhận tội lỗi của mình mà còn tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu. Anh tin Chúa vô tội và anh xin Ngài nhớ đến anh : “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Chính vì thế mà anh là người đầu tiên được chính Chúa phong thánh, qua lời tuyên bố : “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”. Thật là một gương sáng cho con tội lỗi của chúng ta.

Tóm lại, trong tuần thánh này, chúng ta hãy suy niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu, để xác tín vào tình yêu thương của Chúa và khiêm nhường nhìn nhận những sai lỗi, những thiếu sót của mình để quyết tâm sửa đổi và sống tốt đẹp hơn.

8. CS/51- NGƯỜI CHIẾN SĨ

Vào một buổi chiều ngày thứ sáu cách đây hơn 2000 năm, ba cây thập giá đã được dựng lên trên ngọn đồi Golgotha. Ba cây thập giá mang ba con người tơi tả vì đòn roi và vì những cực hình. Máu nhuộm đỏ thắm những tấm thân tơi tả ấy. Trước mắt những nhà cầm quyền thì đây là một chiến công, vì đã khử trừ được những tên phản động, những kẻ gây rối trật tự trị an. Đối với những tên lý hình thì đây là một trò giải trí thú vị, vì nó thỏa mãn bản năng dã thú nơi họ. Đối với quần chúng thì biến cố xem ra đã tăng thêm niềm vui cho ngày đại lễ Vượt qua mà họ đang nô nức cử hành…

Cả một rừng người có mặt hôm ấy đã chứng kiến cuộc hành hình này, nhưng dường như tất cả đều bị mù trước sự bất công của bản án. Chỉ có một người không bị mù, đó là một trong hai người cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu mà ta quen gọi cách bình dân là “anh trộm lành”. Anh không mù vì anh biết người, biết ta. Anh không mù vì anh biết nạn nhân bị đóng đinh bên cạnh anh là người vô tội. Khi bạn anh đồng lõa với lý hình để chế nhạo Chúa Giêsu, anh đã lên tiếng bênh vực  Người : “Chúng ta phải chịu như thế này là đích đáng vì xứng với việc chúng ta đã làm. Còn người này có làm chi nên tội”. Và liền sau đó anh đã thưa với Chúa Giêsu: “Ông Giêsu ơi ! Khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi”.

Chỉ mấy lời ngắn ngủi ấy thôi, anh đã xứng đáng được phong danh hiệu là Người Chiến Sĩ. Chiến sĩ của công lý, chiến sĩ của tình yêu và chiến sĩ của lòng thống hối.

- Là chiến sĩ của công lý vì anh đã dám lên tiếng bênh vực cho công lý. Quan tòa xử phạt anh, anh công nhận điều đó đúng vì anh có tội. Nhưng xử phạt ông Giêsu thì lại không đúng chút nào, bởi “người này có làm chi nên tội” ? Anh công khai bênh vực Chúa, công khai tuyên bố đứng vào cánh quân của Người. Chỉ mình anh là trạng sư của phiên tòa. Chỉ mình anh là nhân chứng duy nhất đã dám phản kháng bản án. Giữa lúc Chúa Giêsu bị cô thế, cô thân, anh đã không đồng lõa với bạo cường như bạn anh để lên án Chúa, nhưng đã tố giác sự bất công của bản án.

- Là chiến sĩ của lòng thống hối vì anh ý thức về tình trạng tội lỗi của mình và đã dám nhận tội, không biện minh, không bào chữa, không đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho người khác, không phàn nàn về hình phạt, nhưng chấp nhận như bày tỏ lòng sám hối. “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng vì xứng với việc đã làm”. Biết mình có tội và anh đã xin Chúa thứ tha. “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Một lời kinh phát xuất tự đáy lòng, rất chân thành, rất tin tưởng và rất khiêm tốn. Anh không đòi hỏi, không câu thúc, không ép buộc Thiên Chúa làm bất cứ điều gì cho mình. Anh chỉ dám xin Chúa nhớ tới anh thôi.

- Là chiến sĩ của tình yêu bởi lời kinh của anh tuy đơn sơ nhưng lại có giá trị như một giờ đền tạ. Trừ anh ra, không có một người nào, kể cả các môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu đã làm giờ đền tạ lúc Người bị nhạo cười, bị hành hạ và bị đóng đinh. Trong khi mọi người câu kết với nhau để chống lại Chúa, trong khi các đệ tử của Người bỏ trốn đi hết, thì chỉ mình anh đã bênh vực Người, đã nói với Người những lời thật an ủi. Và Chúa Giêsu đã bắt được làn sóng tình yêu của anh. Tội lỗi của anh đã được tha thứ. Tình yêu của anh đã được đền bù. “Tôi bảo thật anh : ngay hôm nay, anh sẽ được ở trên thiên đàng với tôi”.

Mỗi người chúng ta có thể học được nơi “anh trộm lành” bài học về thái độ can đảm bảo vệ chân lý, về lòng thống hối và về tình yêu. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể rút ra từ sự kiện này một chân lý của cuộc sống. Những người mà chúng ta chờ đợi lúc chúng ta đau khổ và thất vọng lại không đem đến cho ta một an ủi nào hết. Chúng ta không nên ngạc nhiên vì điều đó. Chính Chúa Giêsu đã trải qua kinh nghiệm này. Trái lại, những người chúng ta không ngờ sẽ đến với chúng ta như một trò chơi thú vị đầy những xoa dịu ngọt ngào.

- Ông Simon đã không cho Chúa nước rửa chân nhưng là Mađalêna. - Những người ăn bánh lại đã không vác đỡ thập giá cho Chúa, nhưng là ông Simong bị bắt cóc một cách bất ngờ. - Dân thành Giêrusalem khóc thương Chúa, nhưng chỉ mình “anh trộm lành” đã dám lên tiếng phản đối vụ án bất công và phạm thượng ấy…

SCĐ/152- LỜI CUỐI CÙNG

Có thể căn cứ vào những lời nói cuối cùng của một người sắp chết mà biết được người đó như thế nào, bởi vì trước khi chết người ta chỉ nói những gì mình tha thiết nhất, chỉ nói những lời xuất phát từ tận đáy lòng. Nếu đúng như vậy, chúng ta hãy tìm hiểu những lời cuối cùng của Đức Giêsu trước lúc tắt hơi trên thập giá, chúng ta sẽ hiểu rõ con người của Đức Giêsu hơn.

Triết gia Sénèque nói về tâm lý của những người bị xử tử như sau : thường là họ chửi rủa : chửi rủa những kẻ đang giết mình, chửi rủa những kẻ đứng xem, có người còn nguyền rủa thân phận xấu số của mình, nguyền rủa ngày mình sinh ra, nguyền rủa chính người mẹ đã sinh ra mình. Bởi thế, như văn hào Cicéron cho biết thêm, trong những cuộc tử xử ở đế quốc Lamã, khi thấy tên tử tội nào hung dữ, người ta cắt lưỡi hắn trước, để khỏi phải nghe tiếng chửi rủa. Và trong cuộc xử tử chiều thứ sáu tuần thánh ấy, chúng ta cũng đã thấy có một tên trộm bị đóng đinh chung với Đức Giêsu đã chửi rủa lung tung, chửi cả Đức Giêsu là người chẳng thù oán gì với hắn.

Chiều hôm đó, có lẽ mọi người cũng đang chờ nghe những lời chửi rủa của Đức Giêsu : những tên lý hình chờ, vì họ là những người đang trực tiếp hành hình Ngài : các Tư tế và Biệt phái chờ, vì họ là những kẻ đầu sỏ vận động kết án xử tử Ngài; dân chúng đứng phía dưới chân thập giá chờ vì họ đoán rằng Ngài rất tức giận họ bởi họ đã từng chịu ơn rất nhiều của Ngài mà bây giờ quay ra chống lại Ngài. Tất cả mọi người đều chờ, họ sẵn sàng nghe chửi rủa. Họ tin chắc rằng cái tên Giêsu ấy, cái người đã từng rao giảng rằng : Hãy thương yêu kẻ thù… Hãy làm ơn cho kẻ ghen ghét mình, giờ đây sắp nói khùng, sẽ quên hết những giáo huấn Tin mừng kia mà thay vào đó bằng những lời chửi rủa thậm tệ.

Thế nhưng khi Đức Giêsu lên tiếng, thì ai nấy đều ngạc nhiên sững sờ. Không phải những lời chửi rủa, mà là những câu dịu dàng. Câu thứ nhất “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ”; câu thứ hai “Tôi hứa thật với anh, ngay hôm nay anh sẽ được lên nơi vui vẻ cùng tôi”; và câu thứ ba “Thưa bà này là con bà”.

Ngoài giọng điệu dịu dàng và nội dung chan chứa yêu thương của những câu nói đó, chúng ta hãy còn chú ý đến thứ tự của chúng : câu thứ nhất “Lạy Cha…” là nói đến những kẻ thù ghét Ngài; câu thứ hai “Ngay hôm nay…” là nói với người tội lỗi, tên trộm bên cạnh Ngài; câu thứ ba “Thưa bà…” là nói với Đức Mẹ, một người thánh thiện. Nghĩa là : cho đến phút sắp chết, tình thương của Đức Giêsu vẫn bao la, và còn bao la hơn bao giờ hết. Tình thương ấy dành cho ai? Trước hết là cho kẻ thù, kế đến cho người tội lỗi, và thứ ba là cho kẻ thánh thiện. Con người là Đức Giêsu là như thế là do căn cứ vào những lời nói cuối cùng của Ngài trước lúc chết.

1. Hôm nay chúng ta đã thấy Đức Giêsu trong khi chết đã tỏ lòng yêu thương trước nhất không phải là đối với Mẹ Ngài, cũng không phải là đối với các môn đệ của Ngài, mà là những kẻ thù ghét Ngài. Vậy chúng ta hãy cố gắng noi gương Chúa. Hãy tha thứ cho nhau và hãy sống hòa thuận lại với nhau.

2. Hạng người thứ hai được Chúa Giêsu yêu thương nhớ đến trong lúc hấp hối là những người tội lỗi. Chúa không bao giờ ghét người tội lỗi, không bao giờ ruồng bỏ người tội lỗi, nhưng Chúa rất thương người tội lỗi. Nếu biết rằng chính chúng ta là những người tội lỗi thì chúng ta phải cảm động biết bao. Và nếu có ai đó khi nào ngã lòng vì cho rằng tội mình quá nặng hay tội mình quá nhiều, thì người ấy hãy nhớ lại tấm lòng của Đức Giêsu trong những phút giây trước khi Ngài chết.

3. Còn nếu chúng ta cho rằng mình thánh thiện, hoặc có thiện chí muốn trở thành thánh thiện, thì chúng ta hãy cố gắng bắt chước gương thánh thiện của Chúa chúng ta, là hãy hết lòng yêu thương những kẻ thù ghét mình và cũng hết lòng yêu thương những người tội lỗi.

12. SNVGLMN/ 327- THINH LẶNG

Trong suốt ngày thứ sáu hôm nay, Giáo Hội như muốn mời gọi chúng ta đi vào thinh lặng, từ các trang trí cho đến những bài ca phụng vụ, tất cả đều đưa chúng ta vào cõi thinh lặng. Thinh lặng để nhìn ngắm Chúa Giêsu trên thập giá, thinh lặng để lắng nghe tiếng nói từ thập giá. Thập giá vẫn mãi mãi là một mầu nhiệm. Tại sao điều đó có thể xảy ra cho Thiên Chúa ? Tại sao Con Một Thiên Chúa lại có thể chịu chết treo trên thập giá?

Trong một cuộc đối thoại tưởng tượng với người trộm lành chịu treo bên phải Chúa Giêsu, thánh Augustinô đã hỏi người đó như sau : “Làm sao ông có thể hiểu được những gì xảy ra bên cạnh ông, trong khi đó chúng tôi là những nhà chuyên môn, là những nhà tiến sĩ luật, chúng tôi lại không hiểu được những lời ứng nghiệm của Thánh kinh. Ngay trước mắt chúng tôi ông có đọc Thánh kinh không? Ông có biết tiên tri Isaia đã loan báo về cuộc tử nạn của Chúa như thế nào không ?” Người trộm lành mới trả lời như sau : “Không. Tôi chưa bao giờ học hỏi về Kinh thánh, nhưng Chúa Giêsu đã nhìn tôi và trong cái nhìn của Ngài, tôi đã hiểu được tất cả mọi sự”.

Một vị Hồng y già trong cơn hấp hối đã nhắn nhủ như sau : “Chúng ta đã nói rất nhiều lời hay ý đẹp về sự đau khổ, tôi cũng đã từng hăng say làm như thế, nhưng xin hãy nhắn với các linh mục : Đừng nói gì cả, chúng ta không biết gì về đau khổ cả”.

Về cuộc tử nạn và cái chết của Chúa Giêsu, thiết tưởng chúng ta chỉ nên giữ thinh lặng. Trong thinh lặng, chúng ta mới cảm nhận được cái nhìn yêu thương trìu mến của Chúa Giêsu. Và trong cái nhìn ấy chúng ta mới nghe được chính tiếng nói của Ngài. Chỉ có kẻ đau khổ mới có thể đưa chúng ta vào nỗi khổ đau của họ. Chỉ có Chúa Giêsu mới có thể đưa chúng ta vào những nỗi khổ đau của Ngài. Sự thinh lặng đưa chúng ta vào mầu nhiệm của khổ đau.

Trong hai người cùng chịu treo trên thập giá bên cạnh Chúa Giêsu, một người đã không ngừng lên tiếng kêu gào rủa xả, trong khi đó kẻ được mệnh danh là trộm lành chỉ biết thốt lên lời van xin cứu vớt. Đối với chúng ta, điều đó thật là phải lẽ, xứng với tội lỗi chúng ta. Kẻ trộm lành quả thực đã đi sâu vào mầu nhiệm của thập giá, ông đã nhận ra thân phận tội lỗi của mình. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá trước tiên là một bày tỏ về bộ mặt tội lỗi của nhân loại. Mãi mãi thập giá vẫn là biểu trưng của sự độc ác của con người. Đó là đỉnh cao trí tuệ của con người trong việc sáng chế ra những phương thế để hành hạ nhau, để loại trừ nhau, để chém giết nhau. Đó là bản án của tội lỗi nhân loại trải qua mọi thời đại.

Nhìn lên thập giá Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta chỉ có thể đấm ngực ăn năn về chính tội lỗi của mình mà thôi. Thập giá của Chúa Giêsu vẫn luôn có đó để chiếu rọi vào thân phận tội lỗi của con người. Thập giá không chỉ là mạc khải về tội lỗi của con người, nhưng tội lỗi còn là mặt trái của một nguồn ánh sáng vô biên. Đó là ánh sáng của tình yêu. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là biểu tỏ của một tình yêu tha thứ cho đến cùng. Có lẽ người trộm lành đã hiểu được điều đó khi ông quay nhìn sang Chúa Giêsu trên thập giá. Trong ánh mắt của Chúa Giêsu, người trộm lành chỉ có thể thấy bừng lên tình yêu nhân từ và tha thứ khi được tình yêu Chúa Giêsu chiếu dọi vào. Bên cạnh Chúa Giêsu, người trộm lành được ôm ấp với cái nhìn trìu mến và tha thứ của Ngài.

Dưới chân thập giá của Ngài còn có Mẹ và một số người bạn dõi theo Ngài cho đến cùng. Mẹ và những người đó đứng nhìn lên Chúa trong lặng yên. Với Mẹ và những người bạn đó, Chúa Giêsu cũng tôn trọng bằng ánh mắt yêu thương trìu mến của Ngài. Ngài cũng đưa Mẹ Maria và những người đó vào trong những mầu nhiệm khổ đau của Ngài. Cùng với Mẹ, chúng ta cũng hãy để cho tâm hồn chìm lắng xuống, hãy để cho bao bận tâm, sầu muộn và khổ đau riêng tư chìm xuống và hòa nhập vào mầu nhiệm thập giá của Chúa Giêsu. Hãy để cho Ngài ôm ấp trọn lấy chúng ta trong tình yêu bao dung, tha thứ của Ngài. Hãy để cho ánh mắt yêu thương của Ngài đốt cháy tâm hồn khô lạnh vì tội lỗi và ích kỷ của chúng ta.

14. Suy Niệm của Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Lối buồn tuyệt vọng

Giuđa Iscariot có lẽ anh rất buồn, có biết bao người nhắc tên anh như một lời nguyền rủa hay khinh bỉ. Khi anh ra khỏi phòng tiệc trời đã tối. Cái tối trời của dự định trao nộp chính Thầy. Bao nhiêu năm theo Thầy, anh cũng đã từng thấy những điều tốt lành Thầy đã làm, anh cũng như bao môn đệ khác, hy vọng được chia vào vương quyền nào đó khi Thầy lên nắm quyền. Một khát vọng rất người của anh, anh không khéo che giấu, nên vì thế anh bán nộp chính Thầy. Anh đã quyết định đẩy đưa Thầy đến chỗ bày tỏ vương quyền của Thầy khi đến cùng đường sự chết. Cái tối trời của lòng tham vọng đã che mờ mắt lương tâm của anh, giá bán Thầy chỉ bằng giá của một người nô lệ, không chắc vì anh đã tham tiền cho bằng sự tham quyền. Sự ước ao quyền vị ấy đâu chỉ riêng anh mới có mà các môn đệ khác cũng thế. Sự mù tối của tâm hồn muốn chiếm được địa vị cao khiến có người môn đệ đi lối đường cửa sau, như trường hợp bà mẹ của hai người con ông Dê-bê-đê đến xin Thầy chia vương quyền.

Sự tối trời mà Gioan đã ghi chép lại có phần nào mang sắc thái diễn tả của tâm hồn người A Đông, khi người ta nói đến sự mê muội. Sự tối trời cũng như sự tối lòng của các môn đệ. Đã hẳn nhiều làn Thầy đã nói với các môn đệ: "Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em" (Mt 20, 26), tiếc thay lời nói ấy cũng như giọt nước đọng trên những chiếc lá, mau khô đi vì nắng lên. Con người đam mê danh vọng có sự mờ tối của lối đường, họ không nhìn thấy nhau, không nhìn thấy gì khác ngoài quyền lực. Giuđa anh cũng thế, không ai dám bỏ cả cuộc đời cuộc đời mình cho những điều được coi là sự điên rồ của Thập Giá, nếu chưa hiểu hết lối đường ấy dẫn mình đi tới đâu. Phêrô tuyên tín khi Thầy sắp ra đi mạnh mẽ như thế nào, khi nói: "dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi chăng nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã" (Mt 26, 33). Lời nói ấy chưa kịp nguội đi, thì đã bắt đầu bội phản. Sự bội phản của con người cũng dễ như trở bàn tay. Nếu không đi qua vấp ngã làm sao có thể khẳng định với lòng mình, để gọi Đức Giêsu "Là Thầy và là Chúa". Sự vấp ngã của anh Giuđa, cũng là do tối trời vậy thôi.

Anh Giuđa giao nộp Thầy, để Thầy mau sớm tỏ bày vinh quang, cái nóng hổi của lòng nhiệt thành khi chưa hiểu biết hết vị Thầy, cũng là cái vấp ngã. Giống như Phêrô thay mặt cho các anh em của mình vừa tuyên xưng: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16), để rồi cũng lại ngăn cản ngay khi Thầy báo cuộc thương khó lần thứ nhất : "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy" (Mt 16, 22). Sự nóng vội cũng là sự tối trời mà người ta thường nói "tối mặt, tối mày". Cái tối trời của lòng nhiệt thành, khi anh trách Maria lấy dầu thơm để xức chân Thầy mà không lấy cho tặng người nghèo. Việc làm của tình yêu đáp trả là một việc làm xem ra vô lý, nhưng lại là việc làm đầy ý nghĩa. Có lẽ anh chưa bao giờ cảm nghiệm sự bao dung của Thầy, có thể vì anh vô tình không nghe lời Thầy trách khẽ: "người nghèo, thì anh em luôn có bên cạnh; còn Thầy anh em không có mãi đâu" (Ga 12, 8). Đâu biết lần xức dầu này là lần báo trước ngày mai táng Thầy trong mộ. Anh tối trời nên anh vẫn vô tình trước lời Thầy loan báo.

Ba mươi đồng anh quăng trả lại cho người mua chuộc, giống như Phêrô nghe tiếng gà gáy và chợt tỉnh lời Thầy loan báo : "Nội đêm nay gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy 3 lần" (Mt 26, 34). Giống như mọi người, anh Giuđa, cũng chợt tỉnh như khi trong bàn tiệc, khi Thầy báo có người trong anh em sẽ nộp Thầy. "Thưa Thầy chẳng lẽ con sao ?" (Mt 26, 22). Một câu hỏi giật mình cho các môn đệ chứ chẳng riêng anh, trong thâm tâm của anh chắc có lẽ buồn khi nghe chính Thầy trả lời: "chính anh nói đó" (Mt 26, 25). Buồn quá phải không anh, ba năm theo Thầy đổi lấy ba mươi đồng bạc thôi sao. Thế mà đâu chỉ riêng anh, bao người theo Thầy cũng mong đổi chác được cái này và cái kia chứ đâu tìm kiếm chính Thầy. Sự bội phản của con người là điểm tìm kiếm thấp hèn ấy, sự tối trời cũng là điểm u mê ấy.

Cuối cùng khi nghĩ về anh Giuđa, tôi cũng chỉ tiếc cho anh, không thấy được lòng bao dung của Thầy. Phêrô gặp được ánh mắt của Thầy để giật mình thống hối, các môn đệ khác, người về quê thì gặp đấng Phục Sinh bẻ bánh, người khác ở lại cầu nguyện cũng gặp Đấng Phục Sinh hiện ra giữa họ. Riêng anh cái tối trời của thân phận đeo đuổi tới cùng để kết liễu đời mình bằng chiếc thòng lọng. Đã bao lần theo Thầy, chẳng lẽ không thấy được lòng thương xót của Thầy? Có lẽ có mà chỉ là quên chưa bao giờ anh thực hành lời Thầy dạy. Chính sự quên ấy, giống như cuộc đời chuẩn bị một chiếc thòng lọng để kết thúc đời mình trong vô vọng. Người không thực hành Lời Thầy, là người đem theo sự tuyệt vọng dệt thành chiếc thòng lọng, phải không anh ? Và tôi nhớ lại lời Thầy nhắc : "Tại sao anh em gọi Thầy: ' Lạy Chúa ! Lạy Chúa !', mà anh em không làm điều Thầy dậy?" (Lc 6, 46)

Ai cũng vấp ngã nhưng mình anh kết thúc sự vấp ngã của mình cách tuyệt vọng. Tôi cũng tự nhủ, lối đường tuyệt vọng ấy cũng là con đường của tôi, nếu tôi không bắt đầu thực hành yêu thương như Thầy đã yêu thương. Sự mù loà về Tình Yêu là sự tối trời đáng sợ hơn cả. Tình yêu khám phá ra niềm hy vọng, và mở lối cho anh em, phải không anh. Tình Yêu Thập Giá trả lời câu hỏi đó và để nhắc nhở mình : "Hãy Yêu như Giêsu".

Suy Niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Phêrô và Giuđa

Sau một đêm thức trắng để cầu nguyện cùng Thiên Chúa, đến sáng Chúa Giêsu kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông gọi là Tông Đồ (Lc 6,12-13). Như thế Phêrô –Giuđa là những môn đệ được Chúa tuyển chọn. Hai ông được chọn không phải để quay lưng để phản bội Thầy mà là được sống, được huấn luyện để trở thành những chứng nhân rao giảng Tin Mừng. Những năm tháng chan chứa tình Thầy trò đẹp làm sao. Cho đến những ngày cuối cùng khi Chúa bước vào cuộc khổ nạn thì hai Ong đã từng bước đi dần đến sa ngã thảm thương.

Phêrô - Giuđa đều được kêu gọi làm Tông đồ, giữa 2 ông không có gì cách biệt, thế mà trong phút chốc lại có sự phân biệt rõ ràng : một người là Thánh, một người là ma quỷ.Chúa Giêsu đã xử với 2 ông như là quỹ dữ. Người gọi Phêrô là Satan (Mt18,23; 8,33),Phêrô đã cám dỗ Người khi ông cố gắng ngăn cản Người dâng mình làm lễ hiến tế trên Thánh giá.Ở caphanaum, Chúa Giêsu cũng gọi Giuđa là thủ quỹ. Chúa đã nói với các môn đệ : Chẳng phải Thầy đã chọn anh em là nhóm 12 sao ? Thế mà một người trong anh em lại là quỹ (Ga 6,70). Chính “Satan đã nhập vào Giuđa’ (Ga 13,27) trong bữa ăn tối sau cùng.

Chúa báo trước cho Phêrô và Giuđa rằng cả hai ông sẽ sa ngã. ”Đêm nay, tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Phêrô liền thưa : dẫu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã. Đức Giêsu bảo ông : Thầy bảo thật anh, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh chối Thầy ba lần “ (Mt 26,31-34). Lập tức Phêrô phản ứng lại ngay lời cảnh cáo đó. Ông quả quyết : “Dẫu có phải chết vì Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mt 26,35). Giuđa cũng được báo trước như thế “Người giơ tay cùng chấm một đĩa với Thầy,đó là kẻ nộp Thầy” ( Mt 26,23).

Phêrô và Giuđa đã hành động bội phản mà Chúa đã báo trước. Phêrô đã vấp ngã cách thảm hại trước một đứa đầy tờ gái vô danh tiểu tốt “Tôi không biết cô nói gì …Ong thốt lên những lời độc địa và thề rằng : tôi không biết người ấy” (Mt 26, 69-74). Giuđa bán Thầy giá 30 đồng bạc bằng nụ hôn giả dối, chỉ điểm Thầy mình cho đám đông đến bắt bớ (Mt 26,47-51).

Chúa Giêsu đã cố gắng cứu hai ông ra khỏi cảnh yếu hèn của họ. ”Chúa quay lại nhìn Phêrô” ( Lc22,61). Chúa gọi Giuđa là bạn “Này bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi” (Mt 26, 50) và để cho Giuđa hôn mình “Giuđa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao ?” ( Lc 22.48). Chúa nhìn Phêrô và nói với Giuđa. Như thế Chúa dùng nghĩa cử bằng mắt đối với ông này, bằng miệng đối với ông kia.

Cả hai đều hối tiếc về lỗi lầm của mình, nhưng mỗi người mỗi cách, khác nhau vô cùng !

- “Phêrô ra ngoài khóc lóc thảm thiết” ( Lc 22,62) - “Bấy giờ, Giuđa kẻ đã nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận. Hắn đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các Thượng tế và Kỳ mục mà nói : ”Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan !” nhưng họ đáp: “Can gì đến chúng tôi. Mặc kệ anh !”. Giuđa ném số bạc vào Đền Thờ rồi lui ra và đi thắt cổ” ( Mt 27,3-5).

Giuđa đã phản bội Chúa, Phêrô đã chối Chúa. Cả hai đều đánh mất tình con cái. Giuđa không còn tiếp tục tin tưởng mình vẫn là con của Chúa nên đã thắt cổ tự vẫn. Phêrô khi ở giữa sự tuyệt vọng đã muốn nối lại mối tình đó nên thống hối với những giọt lệ ăn năn.Phêrô hối hận vì yêu Chúa,còn Giuđa thì chỉ vì yêu mình. Giuđa đã nhận biết mình nộp máu ”Người vô tội” nhưng ông không muốn ngụp lặn trong Máu Vô Tội ấy để tìm lại sự trong trắng. Phêrô cũng biết mình có tội nhưng lại muốn mình được cứu rỗi. Giuđa chọn cái chết. Phêrô chọn sự sống. Sau này Thánh Phaolô đã giải thích lòng sám hối vì yêu Chúa và sự hối hận vì ích kỷ, sự khác biệt trong thái độ sám hối của Phêrô và của Giuđa “Ưu phiền theo ý Thiên Chúa làm cho chúng ta hối cải để được cứu độ : đó là điều không bao giờ phải hối tiếc ; còn ưu phiền theo kiểu thế gian thì gây ra sự chết” ( 2Cor 7,10).

Cả hai môn đệ đã được sống với Chúa những năm tháng tuyệt vời, được nghe Chúa nói, được chứng kiến việc Chúa làm, được Chúa sai đi rao giảng Tin mừng Nước Trời, được làm chứng nhân cho Chúa. Bỏ lại tất cả mọi sự để theo tiếng gọi Chúa Giêsu không chút do dự, hai ông đã sống ba năm trời bên cạnh Thầy Chí Thánh. Thế mà tại sao một ông lại đứng đầu sổ các Tông Đồ, một ông lại đội sổ ? Bởi lẽ Phêrô yêu Chúa, còn Giuđa chỉ vì yêu mình.

Sau khi sống lại, Chúa Phục sinh đã hỏi Phêrô đến ba lần câu hỏi : “Con có yêu mến Thầy không ?” (Ga 21,15-17). Phêrô xác định cả ba lần càng về cuối càng cương quyết hơn. Ba lần chối Chúa đi từ chối nhẹ đến chối nặng thì hôm nay ba lần xác định tình yêu từ nông đến sâu.Ba lời xác định là bình minh rữa tội quá khứ. Sau ba lần Phêrô đáp lại,Chúa giao phó sứ mạng lớn lao : “Hãy chăn dắt đàn chiên của Thầy” (Ga 21,17).Cuối cùng Chúa nói với Phêrô : “Hãy theo Thầy” (Ga 21,19).Phêrô chỉ chờ đợi lời mời gọi đó và lập tức lên đường theo Chúa viết nên những trang sử hào hùng, những thiên anh hùng ca cho Giáo Hội buổi đầu.

Nhìn cuộc đời Phệrô, tôi thấy một điều rất rõ là trong trái tim ông lúc nào cũng yêu Chúa. Ông để Chúa mắng mà không bao giờ giận Chúa. Ngay khi Chúa bảo ông là Satan ông cũng không giận. Cả khi vì sợ hãi yếu đuối mà chối Chúa ông vẫn yêu mến Chúa. Không vì tội lỗi hay yếu đuối mà Chúa bỏ ông, chính tình yêu chân thành trong tâm hồn ông làm Chúa giữ ông lại và trao phó đàn chiên của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, Xin Chúa cho con có tình yêu chân thành với Chúa. Nếu con có vấp ngã, xin Chúa thức tỉnh con như Chúa đã thức tỉnh ký ức của Phêrô bằng tiếng gà gáy-một âm thanh quen thuộc mà Phêrô đã nghe hàng ngàn lần, nhưng được mặc một ý nghĩa mới : lời cảnh cáo của Thầy chí Thánh. Xin Chúa cũng nhìn con bằng ánh mắt yêu thương đầy cảm thông tha thứ của Chúa. Nhờ đó con can đảm đứng lên, sám hối, trở về trong tình yêu của Chúa để đón nhận sự sống, ân sủng Chúa ban.

Suy Niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Như thế là những thượng tế, biệt phái và luật sĩ đã thành công theo cái nhìn trần tục của họ : họ đã đóng đinh được Chúa Giêsu. Vâng, những thượng tế và ngay cả nhiều người Do Thái lúc đó đã mở cờ trong bụng, đã ăn mừng vì Giêsu người ta gọi là ĐẤNG CỨU THẾ đã chết ! Nếu nhiều người thời đó và ngay cả ngày nay đã có những suy nghĩ, đã có cái nhìn về Chúa Giêsu như thế: Họ đã lầm hay nói cách nôm na hơn họ đã u tối thật sự vì cái chết của Chúa Giêsu theo ý Chúa Cha đã làm cho Ngài được vinh quang, chiến thắng. Chết mới nói lên lời. Chết mới mở ra sự sống mới. Bản án của Chúa Giêsu mà dân chúng thời đó bị mua chuộc, bị xúi giục la ó : đóng đinh Chúa vào thập giá vẫn muôn đời còn đó và bản án cho người công chính vô tội mà Philatô tuy biết vì ghen ghét, họ đã trao nộp Chúa Giêsu cho Ông sẽ đời đời hằn sâu trên mặt Philatô vì Ông đã hèn nhát, thiếu bản lãnh để nói ít nhất là một câu cho Chúa Giêsu : Người vô tội .

I . Hạng người đã không gặp Chúa : Đám đông người qua đường. Những người qua đường, đám đông đã không thông cảm với Chúa Giêsu, họ đã hoàn toàn xấu xa, nhẫn tâm, chửi rủa, mắng nhiếc Chúa Giêsu, muôn đời họ đã không gặp được Chúa.

II. Hạng người không gặp được Chúa : Bọn lính. Những người thi hành lệnh của cấp trên, nếu xét về lý họ không có tội, nhưng họ đã hùa theo, không cảm thông với Chúa Giêsu, họ đã đánh đập, mắng nhiếc Chúa. Họ quả thực dã tâm đã không thương tiếc Chúa dù rằng họ chả có quyền gì. Họ đáng tội vì hùa theo mà thách thức làm nhục Chúa Giêsu.

III. Hạng người không gặp được Chúa : Trưởng tế, Biệt Phái, Luật Sĩ. Chính họ đã ganh ghét Chúa Giêsu, luôn rình rập để bắt bẻ và kén án Chúa Giêsu. Họ đắc chí vì đã mua chuộc được Giuđa phản bội, bán Chúa Giêsu 30 đồng bạc. Họ qúa dã man và ác tâm .

IV. Hạng người không gặp được Chúa : tên trộm dữ. Tin mừng cho thấy rõ tội của y tầy trời, nhưng y đã tỏ ra nhỏ nhen vào hùa với người khác để mắng nhiếc,nói lời lộng ngôn và thách thức Chúa Giêsu.

V. Hạng người đã gặp được Chúa : người trộm lành. Người trộm lành chấp nhận tội lỗi của mình và nhận bản án của mình là đúng, đồng thời bênh vực Chúa Giêsu là người vô tội và chê trách tên trộm dữ là lộng ngôn, vô phép không biết điều. Người trộm dữ đã được Chúa thương cứu độ, phong thánh và cho vào nước Chúa ngay vào lúc ông nại tới tấm lòng thương xót của Chúa Giêsu. "Lạy Ngài khi nào Ngài về nước Ngài xin nhớ đến tôi với". Người trộm lành đã gặp được Chúa vì ông có lòng thương người. Chính lòng thương người đã giúp ông nhận ra Chúa trong khi biết bao người đã hùa theo, la ó đòi đóng đinh Chúa vào thập giá. không một ai dám lên tiếng bênh vực Chúa Giêsu vộ tội, ngay cả các môn đệ cũng thế.

Đối diện với bản án của Chúa Giêsu và đi hết cuộc hành trình thập giá tiến về núi sọ. Ta thuộc hạng người nào ? 

Lm. TRẦN THẾ PHIỆT, DCCT, Đà Lạt

CUỘC VƯỢT QUA CỦA ĐỨC GIÊSU

Chắc chắn người Do-thái càng theo Đức Giêsu trong những ngày cuối đời của Ngài thì lại càng thất vọng. Và khi ở sân phủ đường Phi-la-tô, có thể nói họ đã thực sự vỡ mộng. Bao nhiêu đợi chờ và hy vọng của họ đều như tan thành mây khói. Thay vì được reo hò tung hô một vị vua oai hùng, thì họ đang phải chứng kiến một kẻ thất thế, một khuôn mặt thảm thương, không còn dáng vẻ con người, đúng như những gì các ngôn sứ từng mô tả về Người Tôi Tớ Thống Khổ (như ta vừa nghe trong bài đọc I ).

Thay vì được nhìn thấy Ngài và chính mình trong cảnh chiến thắng, trong vinh quang, trong quyền lực, thì kìa họ chẳng thấy Ngài thực hiện một cuộc Vượt Qua. một cuộc giải phóng nào cả, mà lại thấy Ngài từ bỏ vinh hoa, thậm chí đời Ngài sắp kết thúc nơi đích điểm là cái chết cầm chắc trong tay.

Họ đâu có ngờ là đúng lúc họ vỡ mộng như thế, một biến cố lớn lao đang xảy ra, đâu có ngờ là chưa khi nào và chưa một thế hệ nào có phúc như họ hôm đó, bởi vì chính hôm đó Thiên Chúa thực hiện cuộc Vượt Qua mới đích thực. So với cuộc Vượt Qua xưa kia, cuộc Vượt Qua mới có ba sự khác biệt lớn :

1. Sự khác biệt trước hết là trong lần này, Thiên Chúa ở cùng hơn khi xưa: hồi ở Ai-cập, chắc chắn ai trong số những người Do-thái cũng đều quý mến và nể phục ông Mô-sê, nhưng đồng thời ai cũng biết rằng đàng sau ông và bên trên ông, đang có Đức Chúa vô hình, Đấng lớn lao hơn và đang điều khiển mọi sự. Qua khuôn mặt, lời nói, hành động của ông Mô-sê, họ thấy Thiên Chúa thật gần họ và thấy như mình rờ đụng được sự hiện diện của Người.

Thế nhưng ở sân phủ đường Phi-la-tô, qua Đức Giêsu. Thiên Chúa của họ còn gần hơn nữa. vì Người đang ngự sờ sờ ra đó ngay trước mặt họ. Khi Phi-la-tô chỉ vào Đức Giêsu và nói : “Này người đó !” cả ông ta lẫn chính họ đâu có biết nghĩa của câu đó là: này là chính Thiên Chúa bằng xương bằng thịt, Thiên Chúa hiện ra rành rành, Thiên Chúa tỏ mình tỏ tường, Thiên Chúa đã đến nơi đây, đang ngồi đây, tại sân phủ đuờng này, thành một con người bằng xương bằng thịt. Thiên Chúa gần hơn, thật hơn, rõ hơn xưa kia biết bao. Họ đâu có ngờ được.

2. Sự khác biệt thứ hai là hôm nay, cuộc Vượt Qua đích thực đang xảy ra, không còn chỉ là biểu tượng, không còn chỉ là kỷ niệm. Tuy đối với họ, cuộc Vượt Qua khỏi Ai-cập ngày xưa là biến cố vô cùng lớn lao, đáng mọi thế hệ mừng nhớ, nhưng thật ra nó chỉ là hình ảnh báo trước về cuộc Vượt Qua lần này mà thôi. Nó chưa phải là cuộc Vượt Qua đích thực. Nó có mang lại cho Ít-ra-en sự tự do và sự tồn tại đã nhiều thế kỷ, nhưng chắc chắn nó không có tính cách đời đời. Đồng thời người Do-thái mừng Lễ Vượt Qua một cách long trọng và họ coi trọng lễ sát tế chiên Vượt Qua đang diễn ra ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. nhưng cuộc lễ ấy và việc tế hiến ấy cũng chỉ là kỷ niệm về một biến cố đã qua, đâu có phải là thực tại, như khi Đức Giêsu chết trên thập giá, khi Ngài là Chiên Vượt Qua chính hiệu (vì Ngài giống con chiên Vượt Qua, không bị đánh dập cái xương nào, mà chỉ bị đâm thủng cạnh sườn ) khi Ngài là Thượng Tế đích thực.

Các cử hành ở Đền Thờ chỉ là nghi lễ và kỷ niệm, còn lúc Đức Giêsu tắt thở trên thập giá, thực tại đã xảy đến, đó chính là thời điểm Con Thiên Chúa và cả nhân loại vượt từ cõi chết sang cõi sống

3. Sự khác biệt thứ ba, vô cùng đáng buồn, đó là trong cuộc Vượt Qua khi xưa, toàn dân phấn chấn quây quần chung quanh Mô-sê, vồn vã đón chờ từng mệnh lệnh một của Đức Chúa và sẵn sàng lên đường, không một phút chậm trễ, còn trong hiện tại, họ không nhận ra thời điểm mình sắp được đời đời giải phóng và đang thẳng thừng từ khước Mô-sê Mới của mình. Đối với Đức Giêsu vô tội cũng là chính Đức Chúa đang sờ sờ trước mặt, họ điên cuồng la lên “Đóng đinh nó vào thập giá”.

Đúng là không có ngày nào bẽ bàng cho Thiên Chúa cho bằng hôm thứ sáu ấy. Sau hàng ngàn năm yêu thương và chuẩn bị con người cho Ngày vĩ đại, Người đã gặt hái sự phản trắc của đoàn con nghĩa thiết. Lời lên án và cái chết thập giá họ dành cho Đức Giêsu tố giác sự chọn lựa sai lầm của họ đúng vào dịp may ngàn năm một thuở. Nhưng không phải chỉ người Do-thái mới phản ứng như thế, mà rất có thể chính chúng ta cũng đang phản ứng như thế, qua Đức Tin sa sút, qua nếp sống tầm thường của mình. Thập giá Chúa luôn luôn còn là câu hỏi, là sự cật vấn đối với chúng ta.

Lát nữa đây, chúng ta sẽ lên hôn kính Thánh Giá. Mỗi người hãy tự nghĩ về cái hôn mà mình sắp dành cho Chúa. Mình muốn cái hôn ấy của mình mang ý nghĩa một cái hôn phản bội, giả hình, hay một cái hôn yêu mến và gắn bó ?

Pio Hà Văn Thanh

ĐỨC GIÊSU, CON CHIÊN HIẾN TẾ VÌ TỘI NHÂN LOẠI

Is. 52,13- 53 ; Dt.4,14-16;Ga.18,1- 19,42

Kính thưa quý ông bà anh chị em ! Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo hội bốn phương tưởng niệm cuộc tử nạn của Đức Giêsu, Ngài là một vị Thiên Chúa đầy nhân hậu và quyền năng, nhưng vì yêu thương chúng ta đang chìm trong bóng tối tội lỗi, Ngài đã đến trần gian, mặc lấy thân xác yếu hèn của con người, chia sẻ những nổi thống khổ với họ. Ngài dùng chính cái chết của mình để minh chứng cho thấy tình thương của Thiên Chúa đối với con người, vì Ngài đã từng nói : “Không có tình thương nào cao cả hơn tình tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga. 15, 13)

Có câu chuyện thần thoại kể rằng: Xưa ở đất  Etiôpi có nàng công chúa tên là Anđrômeđ rất xinh đẹp, tính tình thuỳ mỵ nết na, được toàn dân kính trọng vì nàng có bản lãnh cao thượng và thương dân. Nàng là con gái duy nhất của vua Kêphê, vua này cũng rất yêu thương dân, cai trị dân một cách rất công minh, thanh liêm, chính trực. Đất nước Etiôpi trải qua một thời thịnh vượng như thế thì bỗng nhiên có một con quỷ biển nổi lên và tiến vào đất liền tàn phá đất đai, vườn tược trên khắp nước. Nó không chỉ phá hoại mùa màng mà còn bắt đi và ăn thịt rất nhiều người. Đau lòng vì tai hoạ này, vua Kêphê đành phải đem lễ vật đến thần Ammôn để xin một lời chỉ dẫn. Lời thần truyền dạy thật ác nghiệt “phải dâng hiến nàng Anđrômeđ cho quái vật mới thoát khỏi tai họa”. Trước lời sấm ác nghiệt đó, vua rất đau khổ và ưu phiền, bỏ ăn uống, công chúa thấy vậy đến an ủi vua cha và khi biết được lời sấm thì nàng cũng rất đau khổ, nhưng nàng không thể ngồi nhìn cảnh dân mình bị tàn phá một cách dã man như thế, nên nói với vua cha trong nước mắt : “Con sẵn sàng hy sinh tấm thân này vì dân chúng”.

Nhà vua rất đau lòng trước thảm trạng này, như vì thương dân, nên đành phải hy sinh người con gái yêu quý nhất của mình cho quái vật; và từ đó, đất nước Êtiôpi mới được an bình trở lại.

Thưa cộng đoàn, câu chuyện trên đây diễn tả phần nào sự hy sinh của Đức Kitô đối với chúng ta. Ngài chết đi để đem lại sự sống cho muôn người. Vì Ngài đã từng ví mình như hạt giống phải thúi mục đi mới đem lại kết quả dồi dào. Qua bài tin mừng hôm nay, chúng ta được Thánh Gioan tường thuật khá chi tiết về cuộc thương khó của Đức Giêsu, đặc biệt là thái độ của ngài khi đối diện với cái chết. Đó là thái độ bình thản, an nhiên, tự tại. Hơn nữa, cái chết của Chúa Giêsu có một ý nghĩa đặc biệt khi nó trùng vào ngày áp lễ vượt qua, đây là những giây phút linh thiêng nhất của người Gio-thái, họ giết chiên vượt qua để tưởng niệm sự Thiên Chúa giải thoát dân Ngài khỏi kiếp lưu đày, đem họ vượt biển đỏ một cách oai hùng, thì giờ đây, con Chiên đích thực bị giết để đền thay tội lỗi muôn dân. Giá máu của Ngài là nguồn ơn cứu độ cho muôn người.

Trong bài đọc một, tiên tri Isaia đã loan báo một khuôn mặt của người tôi trung đau khổ của Gia-vê; Ngài phải chịu trăm ngàn sự khốn khó và cực hình; Ngài như con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt, không kêu ca hay phản kháng; Ngài hy sinh hiến thân làm lễ vật đền tội là vì chúng ta lỗi lầm. Lời tiên tri đó đã hoàn toàn ứng nghiệm nơi con người Giêsu. Trong bài đọc hai, tác giả thư Do-thái còn nhấn mạnh hơn. Chính con người Giêsu đó là thượng tế siêu phàm, băng qua các tầng trời đến với chúng ta để chia sẻ những nỗi đau khổ của chúng ta, để rồi trở nên ơn cứu độ cho những ai tuân phục Ngài. Như vậy, cái chết của Ngài không phải là chỉ để tha tội, nhưng là để nhân loại nhờ tin vào Đấng đã chết thay cho mình mà được sống đời đời, và sống hiệp thông với Thiên Chúa ba ngôi.

Giá trị cái chết của Chúa Giêsu là cái chết tự nguyện, để qua đó đem lại nguồn ơn cứu độ cho mọi người và mọi tạo vật, cái chết này thức tỉnh mọi con người để họ sống chân lý. Ngài ngang qua cái chết để bước vào đời sống vĩnh cửu. Ngài đem lại một ý nghĩa cho cái chết để những ai tin tưởng vào Ngài thì không phải sợ chết nữa. Vì chính Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Qua cuộc thương khó này, Ngài bộc lộ chân tánh của mình một cách rõ nét: Ngài là đường nên ai cũng có thể bước lên, chà đạp, khạc nhổ vào đó; Ngài vẫn an nhiên tự tại, không kêu ca hay phản kháng lại. Ngài sẵn sàng đón nhận hết những gì là hèn kém, nhơ nhớp: tượng trương cho những tội lỗi xấu xa nhất của con người mà đem lên cây thập giá. Tại đây, Ngài đã hiến tế thân xác của mình cùng với tội lỗi của tất cả nhân loại, để rồi phục sinh tất cả.

Hôm nay Đức Kitô đã đem lại cho nhân loại một ý nghĩa mới về sự đau khổ. Chắc hẳn không ai trong chúng ta lại muốn đau khổ, nhưng nó vẫn theo đuổi chúng ta vì người ta thường nói “Đời là bể khổ”. Hơn nữa, vào thời cựu ước, người ta thường đồng hoá đau khổ với tội lỗi, họ cho những người bệnh hoạn tật nguyền là những người bị Thiên Chúa chúc dữ và trừng phạt. Điều này chúng ta thấy nhan nhản trong Kinh thánh. Nhưng hôm nay đây, Đức Giêsu đã cho chúng ta thấy giá trị đích thực của đau khổ, vì đó là phương thế mà Ngài dùng để cứu độ muôn dân.

Trong cuộc sống hôm nay, đau khổ, chết chóc còn hiện diện trước mắt chúng ta, con người Giêsu bị đòn vọt, đau thương vẫn còn đó, chúng ta có thể thấy được khuôn mặt của Ngài nơi những kẻ đang bị áp bức, những người đang chịu cảnh tàn sát chiến tranh, những trẻ thơ vô tội bị chính người mẹ vô tâm giết chết, bao trẻ em vô tội bị bắt phải “làm nhục” vì nhu cầu tình dục của người khác… thử hỏi chúng ta có cảm nghĩ gì trước những thực trạng ấy, hay là chúng ta cũng dửng dưng, trốn tránh như Philatô rửa tay nói lên lòng vô tội

Thưa anh chị em, trong cuộc sống của chúng ta, chắc hẳn là không ai cảm thấy có những lúc đau khổ vàchán nản đè nặng trên vai mình, chúng ta gặp những trục trặc trong gia đình hay ngoài xã hội. Thử hỏi chúng ta có biết hân hoan đón nhận nó một cách tích cực như là một phương thế cứu độ chăng? Hay chúng ta cứ than phiền trách móc, trốn trách trách nhiệm, đổ tội cho người này, người khác… Qua bài tin mừng hôm nay, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy có một cái nhìn tích cực về cuộc đời, biết đón nhận đau khổ một cách thanh thản, an vui, đồng thời có một tâm hồn nhiệt tình và hy sinh đối với tha nhân như Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta. Thánh Gioan đã từng nhắc nhở chúng ta “Đức Giêsu đã thí mạng vì chúng ta, như vậy cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga. 3,16). Là người Kitô hữu, chúng ta hãy bắt chước Đức Giêsu đón nhận những hy sinh và đau khổ một cách tích cực. Nhất là chúng ta cần phải khám phá ra ý nghĩa đích thực của cuộc thương khó của Đức Giêsu trong thực tại, hãy ý thức rằng, chính Ngài đã cất hết mọi nỗi nhục nhằn và đau khổ của chúng ta. Như vậy chúng ta không còn phải lo lắng hay buồn phiền nữa, nhưng hãy biết sống một cách thanh thản, an vui trong mọi hoàn cảnh như ý Chúa mong muốn. Amen.

Lm. Giu-se NGUYỄN HƯNG LỢI, DCCT

TƯỞNG NIỆM CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA

CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA GIÊSU

Hôm nay toàn dân Chúa tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu. Phúc Âm nhất lãm và Tin Mừng của thánh Gio-an đều tường thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Mỗi tác giả đều có những nét đặc biệt cho Tin Mừng của mình. Tuy bốn Phúc Âm đều tường thuật lại như nhau về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, nhưng đặc biệt thánh Gio-an cũng đã để lộ những nét cá biệt của Người trong việc tường thuật này. Trong cuộc tưởng niệm cuộc khổ hình của Chúa Giêsu, ta dừng lại ở Mầu Nhiệm Thập Giá mà Chúa Giêsu ngang qua cái chết: ”Khi nào Ta bị treo lên khỏi đất Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta“ (Ga 12,32) hoặc “Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình” (Ga 15,13).

HẠT LÚA MÌ RƠI XUỐNG ĐẤT...

Thập giá của Đức Ki-tô vẫn tàng ẩn ngay sau bản án mà người Do-thái gán Chúa Chúa Giêsu. Đối diện với thập giá, thế gian được chia làm hai hoặc tin nhận hoặc khước từ. ”Kẻ nghe lời Ta và tin vào Đấng đã sai Ta, thì có sự sống đời đời, và khỏi phải đến tòa phán xét nhưng đã ngang qua sự chết mà vào sự sống” ( Ga 5, 24 ) hoặc ”Kẻ tin vào Ngài, thì không bị án xử, kẻ không tin thì đã bị án xử rồi, bởi vì không tin vào Danh Con Một của Thiên Chúa” ( Ga 3, 18 ).

Thật thế, Thiên Chúa vì quá yêu thế gian dù rằng nhân loại tội lỗi, thế gian phản bội, Ngài không loại bỏ thế gian, nhưng đã sai Con của Ngài là Chúa Giêsu đến gian trần. Chúa Giêsu đã thi hành chương trình cứu rỗi trần thế theo ý Đức Chúa Cha. Chúa Giêsu đã thực hiện luật yêu thương của Tin Mừng: ”...Hạt lúa mì gieo xuống đất, thúi đi và chết đi, thì sinh nhiều hoa trái” ( Ga 12, 24 ).

Chúa Giêsu Kitô đã sống cái cùng tận của định luật tình yêu là chấp nhận cái chết nhục hình trên thập giá vì yêu nhân loại, dù Ngài hoàn toàn vô tội (Mt 27,4). Chúa Giêsu Kitô đã chấp nhận như một tội nhân nặng nhất để bị nguyền rủa (Ga 3,13) và phải kết án tử hình bằng việc bị đóng đinh, hình phạt ghê gớm và nhục nhã nhất lúc đó (Ga 19,16). Ngài làm thế để ứng nghiệm lời Ngài nói: ”Và Ta, một khi Ta được giương cao khỏi đất Ta sẽ kéo mọi người lại với Ta” (Ga 12,32)

Đây là mầu nhiệm sâu thẳm của tình thương giữa Thiên Chúa và nhân loại: ”Quả vì Thiên Chúa đã yêu thế gian như thế đó, đến nỗi đã thí ban Người Con Một...” (Ga 3, 16) và “Đức Giêsu biết rằng đã đến giờ Ngài qua khỏi thế gian này để đến cùng cha…thì Ngài đã yêu mến họ đến cùng” (Ga 13, 1). Chúa Giêsu đã hoàn tất công trình cứu độ nhân loại trên thập giá. Chính trên thập giá, Đức Giêsu Ki-tô kéo mọi người đến cùng Ngài để hình thành nên một cộng đoàn mới của dân Thiên Chúa. Hình ảnh Đức Giêsu chịu chết, treo trên thập giá làm tôi liên tưởng tới ông tổ của người dân tộc Kơho là Xơrơđen,: ”Ông Xơrơđen cũng đóng khố có kết tua xinh đẹp, cũng mặc áo thêu hoa đỏ tươi, cũng vác xà gạc sắc (wiăs nhơr) như nước trên vai, mang gùi nặng sau lưng, cũng đánh chiêng, uống rượu cần...” ( K’ Bon và ông Mang Xăng kể ) và Ong tổ người Kơho đã hy sinh chết hiên ngang cho dòng tộc Kơho của mình, cho sự tồn vong của con cháu và như thế niềm tin của người Kơho cũng thấp thoáng, cũng ẩn tàng một cái gì đó rất bình dị, nhưng cũng rất linh thiêng.

NIỀM TIN NHÂN LOẠI NƠI THẬP GIÁ CHÚA GIÊSU

Mầu nhiệm thập giá là mầu nhiệm tình thương. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã qui tụ muôn dân muôn nước và cũng chỉ nơi thập giá ơn cứu độ của Chúa mới tuôn tràn nơi mọi người. Ông Caipha thượng tế đã nói một lời phán quyết về Chúa Giêsu như một lời ngôn sứ: ”Điều ấy, ông đã nói ra, không phải tự mình, nhưng vì là Thượng Tế năm ấy, ông đã nói ngôn sứ là Đức Giêsu sắp phải chết thay cho cả dân tộc; và không chỉ thay cho dân tộc mà thôi nhưng còn để thâu họp con cái Thiên Chúa tản mác về lại làm một” (Ga 11,51-52).

Chúa Giêsu đã thực hiện ý nhiệm mầu của Thiên Chúa Cha là hy sinh mạng sống, gánh tội trần gian, chết vì yêu thương gian trần. Đây là mầu nhiệm của lòng tin và chỉ có đức tin sâu thẳm, con người mới nhận ra điều đó. Nhân loại ở muôn thời vẫn hiểu rằng bao lâu còn Ki-tô giáo bấy lâu thánh giá còn vươn cao. Thập giá là biểu hiệu của người Ki-tô hữu và đó là dấu hiệu của tình thương, của sự hiệp nhất, của sự cảm thông, chia sẻ và tha thứ.

Tôi còn nhớ trong một lớp Giáo Lý cho người tân tòng Kơho, tôi nói rằng : ”Chúa Giêsu là Con Chúa Cha, đã yêu thương con người, giống như anh chị em thương con cái của anh chị em, khi thấy con cái mình bị đau ốm, bị thú rừng tấn công nguy hiểm, anh chị em đem hết tình thương để cứu con mình dù rằng tính mạng mình có thể hiểm nguy, anh chị em vẫn cứu con. Chúa Giêsu cũng vậy vì yêu chúng ta, yêu mọi người, Chúa đã chấp nhận lời của Cha Ngài là Chúa Cha, vâng ý Chúa Cha, chấp nhận cái chết mặc dù Ngài không có tội gì. Chúa Giêsu bị bắt, bị kết án và bị đóng đinh trên thập giá như anh chị em vẫn thấy trong nhà thờ, trên ngực người mang Thánh Giá và tôi rút trong túi áo ra một cây Thánh Giá Truyền Giáo, rồi giơ cho lớp Giáo Lý tân tòng coi. Tất cả đều trầm trồ khen Chúa dễ thương và vỗ tay tán thành vang dội, trước sự xúc động cao độ của tôi...”

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi người chúng con suy niệm kỹ càng lời mời gọi kính thờ Thánh Giá: ”Đây là cây thánh giá, nơi đã treo Đấng Cứu Độ trần gian”.

Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG, Giáo Phận Phú Cường

SỰ PHẢN BỘI CỦA A-ĐAM

Hôm nay Thứ Sáu Tuần Thánh, Giáo Hội dành nhiều giờ long trọng tưởng niệm mầu nhiệm đau khổ và tử nạn của Chúa Ki-tô. Nhất là cả cộng đoàn vừa lắng nghe cả một bài ca Thương Khó dài. Và một lý do khác nữa, có lẽ ngày hôm nay mọi miệng lưỡi phải thinh lặng thật lâu và thật sâu để sống lại thời khắc thánh thiện và cao điểm nhất của cả Năm Phụng Vụ.

Vì thế thay vì chia sẻ Lời Chúa như thường lệ, chúng ta hãy cùng nhau quay về với nguồn gốc mà từ đó phát sinh tội lỗi để chúng ta thật lòng sám hối chính những tội lỗi của mình. Đó chính là những hình ảnh của sách Sáng Thế: “Đức Chúa là Thiên Chúa nói: Này con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ đừng để nó giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi” (St 4, 22).

Thật đáng tiếc cho A-đam, giữa một bên là lời yêu thương nhắn nhủ của Thiên Chúa: “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn. Nhưng trái cây cho biết điều thiện, điều ác, thì ngươi không được ăn. Vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết” (St 2, 16-17). Còn bên kia là lời xảo quyệt mưu mô của tên cám dỗ: “Các ngươi cứ ăn đi, Thiên Chúa cấm vì Người biết ngày nào các ngươi ăn, các ngươi sẽ nên những vị thần biết thiện biết ác. Các ngươi cứ ăn, không chết chóc gì đâu” (St 3, 4-5).

Vậy mà A-đam đã đánh đổi chính lời của Thiên Chúa để nghe lời xảo quyệt của kẻ cám dỗ. Cùng với hành động tội lỗi, con người đã đạt mục đích: trở thành một bậc hiểu biết điều lành sự dữ ! Nhưng cái giá phải trả cho sự hiểu biết này quá đắt : Con người mất tất cả và mất cả chính mình. “được sống mãi” đâu không thấy, chỉ có nỗi nhục nhã, đau khổ, chết chóc là bám lấy con người. Rốt cuộc “biết lành biết dữ” cũng không phải là cái được, nhưng là cái mất. Biết làm chi để rồi nhận ra mình trần trụi. Sự kiêu ngạo đã làm cho con người vong thân nghiệt ngã.

Kinh nghiệm tội lỗi dù đã làm con người khiếp sợ nhưng nó vẫn không thể tự mình đứng vững. Sau mỗi lần phạm tội là mỗi lần đổ vỡ, là ray rứt, là mất mát, nhưng nó vẫn cứ lao vào. Vong thân đẩy con người đi từ nghiệt ngã này đến nghiệt ngã khác.

Giữa lúc bi thương ấy, Lời Hứa Cứu Độ: “Ta sẽ đặt hận thù giữa mi và người nữ, giữa dòng dõi mi và dòng dõi bà. Dòng dõi bà sẽ đạp đầu mi” ( St 7, 14 ) được thực hiện. Ngày xưa khi A-đam bị đuổi khỏi Ê-đen, cửa trời khép lại, hạnh phúc khép lại. Ngày nay, chính Chúa Ki-tô đến ôm trọn nỗi khổ đau của con người, chia sớt đến cùng những khắc khoải của con người về lẽ sống. Nhờ Ngài, cửa trời lại mở ra, hạnh phúc mở ra, Ơn Cứu Độ mở ra.

Kiêu ngạo của A-đam là độc tố giết chết tương quan giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với nhau và với chính mình. Bản chất kiêu ngạo ấy hình như vẫn tồn tại nơi mỗi người. Bởi thế chúng ta hãy khiêm tốn cúi đầu, đấm ngực mình để thống hối. Sau mỗi lần gợi ý sám hối, chúng ta dừng lại trong thinh lặng, xin Chúa tha thứ cho ta.

Phải chăng vì kiêu ngạo, chúng ta chưa tha thứ cho nhau ? Phải chăng vì kiêu ngạo, chúng ta không nói được một lời xin lỗi nhau ? Phải chăng vì kiêu ngạo, chúng ta không đón nhận lời góp ý của anh chị em với mình ? Phải chăng vì kiêu ngạo, chúng ta không vui khi thấy người khác hơn mình, hay ngược lại, vui vì nghĩ rằng mình hơn hẳn người khác ? Và phải chăng, vì kiêu ngạo, chúng ta luôn phàn nàn, chê trách, bàn tán, phẩm bình về những thiếu sót của anh chị em mình ?

Chúng ta xin Chúa tha thứ và hoán cải để mỗi ngày một trở nên hiền lành, khiêm nhường như Chúa.

CHỨNG TÁ:

ĐƯỜNG THÁNH GIÁ VÒNG QUANH THẾ GIỚI

Theo tạp chí KIẾN THỨC NGÀY NAY 1996.

Kỷ lục Guiness năm 1996 ghi lại một chuyện đánh động mọi người : Anh Arthur Blessit người Hoa Kỳ, 55 tuổi đã ròng rã suốt 26 năm vác trên vai một cây Thập Giá bằng gỗ, dọc 3m60 và ngang 1m80, nặng 18 ký, đi bộ vòng quanh thế giới. Khi khởi hành tại Los Angeles vào năm 1969, anh đã ngỏ lời xin nhận cuộc hành trình của mình như là một cống hiến mang tính tôn giáo cho tất cả những ai đang khao khát sống yêu thương theo gương Đức Giêsu.

Tính đến 1996, anh đã trải qua 26 mùa Giáng Sinh rong ruổi trên đường xa, cứ mỗi 4.800 cây số, anh lại phải thay một đôi giày. Dọc đường, tại London, thủ đô nước Anh, anh đã kết hôn với chị Denise. Điều trớ trêu là không ít Nhà Thờ trên lộ trình của anh đã không muốn đón tiếp vì cho rằng anh là một người điên điên khùng khùng, hoặc có ý đồ khích động gì đấy ! Tuy nhiên, anh đã có vinh dự được đồng hành với một số vị thủ lãnh tôn giáo như Đức Gio-an Phao-lô 2, Billy Graham ... Anh đã từng bị các loài như : voi, cá sấu, khỉ, rắn và cả con người tấn công. Anh thuật lại :

“Tôi đã đi qua các sa mạc, rừng rậm. Tôi đã băng ngang những nơi đang có chiến tranh hoặc bạo động. Tôi đã từng bị cảnh sát các nước bắt giam 21 lần vì những tội vớ vẩn như đi tha thẩn, cản trở giao thông, hoặc bị tình nghi là có mưu đồ xúi bẩy bạo động...

Tôi đã từng một lần phải đối mặt với một đội hành quyết năm 1978 tại nước Nicaragua. Hôm ấy, tôi đang cùng một người bạn đi dọc con lộ mang tên Pan America, còn người thông dịch của tôi thì theo sau trên một chiếc xe tải quá giang. Bỗng có 7 người đàn ông mang súng chặn đường và lôi tôi ra cột vào một gốc cây. Họ bảo họ sắp xử bắn tôi. Tôi bảo họ rằng tôi không thể chết nếu không có một cuốn Kinh Thánh trên tay. Họ đồng ý mở trói để tôi đón chiếc xe tải sắp đến và lấy cuốn Kinh Thánh. Thế rồi, tôi đã lấy được trong ba lô cất trên xe đem tặng cho mỗi người một cuốn Kinh Thánh nhỏ. Họ có vẻ bối rối, và rồi họ đã đồng loạt hạ súng, tha cho tôi được ra đi bình an...”

Tính đến năm 1996, anh Arthur Blesitt đã đi được 50.140 cây số, qua 227 nước khác nhau. Anh cho biết : còn phải đến 50 nước nằm trên 7 lục địa lớn nhỏ...

TÀI LIỆU:

SUY NIỆM ĐƯỜNG THÁNH GIÁ

I. DẪN NHẬP :

Kính thưa cộng đoàn ! Thiên Chúa yêu thương con người. Và thập giá là bằng chứng của tình yêu cao cả ấy. Trong lời đầu của Sứ Điệp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ năm 2000, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2 đã viết: “Cách đây 15 năm (1985), Cha đã giao cho các con một cây Thập giá lớn bằng gỗ, mời gọi các con vác nó đi khăp thế giới như dấu chỉ lòng Chúa Giêsu yêu thương loài người và để loan báo rằng chỉ nhờ Đức Ki-tô tử nạn và Phục sinh chúng ta mới được cứu rỗi”. Từ đó, Thập Giá Chúa Giêsu được nhiều cánh tay và quả tim quảng đại của các bạn trẻ khắp năm châu vác lấy, làm nên một cuộc lữ hành dài không ngơi nghỉ qua các đại lục.

Thật vậy, Thập Giá mà chúng ta suy tôn chiều nay như muốn minh chứng một chân lý : Vì yêu thương chúng ta, Chúa Ki-tô đã không ngần ngại một hành vi nào, cho dù phải đổ máu. Qua câu khẳng định của thư Do-thái : “Không có đổ máu sẽ không có ơn cứu độ” chúng ta mới hiểu được thế nào là cái giá của hy sinh, của đau khổ của tình yêu và cho tình yêu.

Dừng lại ở các chặng thứ 1, 4, 5, 9, 12, tiêu biểu cho cả Hành Trình Thập Giá, chúng ta được mời gọi tham dự vào những đau khổ của Chúa, nhận ra bộ mặt tội lỗi của trần gian; đồng thời, khám phá muôn hồng ân mà chúng ta đã, đang và sẽ được lãnh nhận qua mỗi chặng đường Thương Khó đó.

Lạy Chúa Giêsu ! Chúng con muốn hướng lòng theo Chúa tiến về Can-vê. Chúng con muốn tưởng nghĩ đến nỗi thống khổ và cái chết của Chúa để hiểu rõ tình Chúa đã yêu thương chúng con thế nào. Đây cũng là dịp giúp chúng con biết tránh xa tội lỗi, gạt bỏ tất cả những gì làm chúng con xa Chúa.

Lạy Mẹ Ma-ri-a ! Mẹ đã đồng hành với Chúa trên con đường khổ nạn này. Xin Mẹ nhắc nhở chúng con những điều mà Mẹ đã thấy, đã nghe và những đau khổ mà chính Mẹ đã chịu, để việc suy niệm cuộc Thương Khó của Chúa giờ đây mang lại nhiều ích lợi cho chúng con (Chọn một bài hát ngắn thích hợp ).

2. CHẶNG ĐÀNG THÁNH GIÁ:

CHẶNG THỨ 1: PHILATÔ KẾT ÁN ĐỨC GIÊSU

Đọc Tin Mừng Lc 23, 20 – 24

Trong tất cả những gì đã viết về Chúa Ki-tô, có lời nào bi đát hơn lời của thánh Gio-an ở lời tựa sách Tin Mừng thứ 4: “Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà Ngài đã không tiếp nhận”: Bê-lem không có chỗ cho Ngài sinh hạ, Na-da-rét không có chỗ cho Ngài sinh sống, Giê-ru-sa-lem không có chỗ cho Ngài chịu chết.

Các sách Tin Mừng cũng cho chúng ta biết: từ tối hôm bị bắt, Đức Giêsu bị trói và bị điệu đến dinh thượng tế. Ngài bị những kẻ canh giữ nhạo báng, xúc phạm và đánh đòn. Đến khi trời sáng, ĐGS lại bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng Do-thái, các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng định giết ĐGS nhưng họ lại không có quyền xử tử ai. Họ điệu Ngài đến dinh tổng trấn. Đức Giêsu đến đó không một người thân, các môn đệ tản mác, Phêrô thì chỉ đứng xa xa nhìn theo. Tất cả đều bỏ Ngài mà chạy trốn.

Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta bước vào pháp đình. Trước mặt Chúa là hai kẻ chủ xướng. Một là đám đông đang la ó vì bị kích động và giật dây. Họ là nạn nhân của chính sách mị dân và trở thành kẻ đồng lõa với tội ác nên không đủ sâu sắc và khả năng để đưa ra một phán đoán trung thực. Vì thế họ chỉ biết hô hoán hoặc la ó cho thỏa lòng thù hận và háo thắng. Hai là Phi-la-tô, kẻ nắm giữ và vận dụng quyền hành cách khéo léo. Ông biết rõ Chúa không đáng chết và ông lập lại hai lần như vậy khi bảo sẽ cho đánh đòn và thả Người. Thực ra đó chỉ là hình thức mị dân. Cuối cùng dù biết Chúa Giêsu vô tội, Phi-la-tô vẫn phó mặc Người cho họ đem đi giết. Những kẻ chống đối tìm cách giết Đức Giêsu đều thuộc giai cấp thống trị. Họ đều là thành phần Thượng Hội Đồng. Họ giết Đức Giêsu để bảo vệ tôn giáo của họ. Đúng hơn là để bảo vệ danh dự và quyền lực của họ, vì họ sợ toàn dân sẽ theo Chúa Giêsu.

Qua dòng lịch sử, những ý đồ chính trị, những mưu toan trục lợi và những thủ đoạn bị ổi khác, đã kéo dài bất tận danh sách những nạn nhân vô tội bị ngược đãi và hành hình. Danh sách ấy ngày một gia tăng, thấm đẫm máu hồng. Bao thảm kịch, bao bất công vẫn diễn ra từng ngày, máu bao người vô tội vẫn đổ ra cách oan uổng. Những nạn nhân của chiến tranh, những thai nhi bị sát hại, những trẻ em bị đánh mất tuổi thơ, những người nghèo phải chết đói... Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị lên án, bị kết tội, bị giết chết qua những con người ấy.

Các bạn trẻ thân mến ! Chúa Giêsu nhận một bản án bất công do lòng đố kỵ, ghen ghét của những người lãnh đạo Do-thái, do sự bạc nhược sợ hãi và vô trách nhiệm của Phi-la-tô. Chính sự thù hận, ghen ghét, nhát đảm, ích kỷ, vụ lợi đã tạo nên biết bao bất công trong xã hội loài người chúng ta. Một khi sợ hãi không dám nói sự thật, khi đố kỵ và ích kỷ trong các mối quan hệ, khi yếu đuối buông mình cho các cám dỗ, khi thiếu can đảm chống trả các tệ nạn là chúng ta đang góp phần tạo nên những bản án bất công cho chính mình và cho người khác.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã bị xét xử tàn nhẫn và bất công. Xin Chúa thương đến những người phải lãnh án tử hình trên khắp thế giới, những kẻ bị kết tội mà không hề được chống án, những người vô tội phải chết oan uổng bởi chiến tranh, những thai nhi bị sát hại vì sự ác độc và ích kỷ của con người, và nhiều nạn nhân là hậu qủa của các bất công khác nữa. Xin cũng giúp chúng con luôn biết sống chân thật, công bằng, bác ái và can đảm bảo vệ sự sống là hồng ân Chúa ban. (Chọn một bài hát ngắn thích hợp )

CHẶNG THỨ 4: MẸ MA-RI-A GẶP CHÚA GIÊSU VÁC THẬP GIÁ

Các bạn trẻ thân mến, chúng ta đang dừng chân chiêm ngắm và suy niệm cuộc gặp gỡ giữa Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Một cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ, xót xa, nhưng cũng đầy ý nghĩa.

Mẹ gặp Chúa. Chúa gặp Mẹ. Thực ra là chuyện thường tình của cuộc sống. Nhưng khác với những lần gặp trước, lần gặp này nghe sao mà bất ngờ quá! Trước mắt Mẹ như cả một khung trời xa lạ, vì Giêsu, người con duy nhất mà Mẹ hằng yêu quý, giờ đây, vai mang nặng thập giá, thân hình tiều tụy, bê bết máu, lê lết đến pháp trường giữa bao tiếng thét gào ồn ào chế nhạo, đợi chờ giờ hành quyết. Một cái chết nhục nhã. Một cái chết thê lương.

Đâu rồi lời của Gáp-ri-en thiên sứ ngày nao đã báo tin cho Mẹ, rằng: “Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận” ? Đâu rồi một Giêsu uy quyền đã chinh phục con tim bao người bằng những dấu lạ điềm thiêng; kể cả phong ba bão táp cũng đã phải nghe lời ? Đâu rồi một Giêsu oai phong lẫm liệt, hiển hách cưỡi lừa tiến vào Thành Thánh giữa muôn lời ngợi khen chúc tụng: vạn tuế, vạn vạn tuế Thái Tử nhà Đa-vít ?        

Một Giêsu chan chứa tình người và tràn đầy tình Chúa lại phải bị điệu đi hành quyết bởi những bàn tay đê hèn, xấu xa và tội lỗi như vậy sao ? Bất ngờ quá ! Một cảnh đời thật là trớ trêu, nghiệt ngã. Ai có thể phác họa chân dung của Mẹ Ma-ri-a lúc này ? Hình ảnh một lưỡi gươm đang xuyên thủng trái tim của Mẹ, như cụ già Si-mê-on đã báo trước cho Mẹ ư ? Vâng. Và cả lời của tiên tri Giê-rê-mi-a cũng phù hợp với hoàn cảnh của Mẹ Ma-ri-a lúc này: ”Hỡi những kẻ qua đường, hãy nhìn xem. Có nỗi thống khổ đớn đau nào hơn nỗi đớn đau thống khổ tôi phải chịu không ? Chẳng khác gì lưỡi lửa xoi thấu tim gan tôi”. Và còn hơn cả một lưỡi gươm xuyên thấu hay lưỡi lửa nung cháy trái tim Mẹ nữa. Lòng Mẹ đã tan nát. Bởi lẽ, không ai thương con bằng mẹ.

Lòng thì đã tan nát, nhưng Mẹ đã phản ứng ra làm sao? Thất vọng ê chề ư ? Không thể ! Vì Mẹ luôn vững tin vào Thiên Chúa. Khóc lóc, kêu gào thảm thiết ư ? Chắc chắn là điều không sao tránh khỏi, vì Giêsu là khúc ruột của Mẹ. Nhưng thiết nghĩ, những giọt nước mắt của Mẹ có rơi chăng, cũng chỉ là những giọt nước mắt được rơi từ thâm sâu tâm hồn, những giòng máu được tuôn chảy từ đáy con tim, rất kín đáo mà mãnh liệt, vì bản tính của Mẹ – như Tin Mừng đã cho biết – là con người của nội tâm. Trước mọi vấn đề, Mẹ luôn khắc ghi và suy đi nghĩ lại trong lòng.

Thật vậy, Đức Tin thay cho nghi vấn, hành động thay lời giải thích. Trong hoàn cảnh này, Mẹ chỉ biết cứ bước, bước đi trong âm thầm lặng lẽ, theo sát những vết chân của Chúa Giêsu, con Mẹ, mặc cho những đau xót tựa như cơn giống tố mỗi lúc một phũ phàng, xô đẩy đôi chân hiền thục của Mẹ.

Và với Đức Tin kiên trung, lòng mến yêu tha thiết, niềm cậy trông vững vàng, Mẹ đã từng bước, cùng Chúa Giêsu hoàn tất hành trình thập giá. Đỉnh đồi Can-vê năm nào vẫn còn đó, ghi dấu bóng dáng thướt tha của Mẹ. Thánh sử Gioan viết: “Đứng gần thập giá Chúa Giêsu, có thân mẫu của Người”.

Ôi Ma-ri-a ! Một tâm hồn quả cảm. Vượt qua mọi đau khổ thử thách, Mẹ luôn theo sát Chúa Giêsu như một môn đệ trung tín. Hơn ai hết, Mẹ đã chia sẻ trọn vẹn Mầu Nhiệm Thập Giá với Chúa Giêsu. Vì Mẹ không những đã gặp, mà còn bước theo, cùng hiện diện với Chúa Giêsu dưới chân thập giá. Con đường Chúa đã đi qua, cũng là con đường Mẹ đã tiếp bước. Đau khổ của Chúa chính là đau khổ của Mẹ. Thập giá của Chúa chính là thập giá của Mẹ. Sự chết của Chúa chính là sự chết của Mẹ. Và hiến tế của Chúa cũng chính là hiến tế của Me. Mẹ là Đấng Hiệp Công Cứu Chuộc chúng con.

Thưa các Bạn Trẻ ! Bên hành trình thập giá của Chúa, có Mẹ. Bên cuộc sống trần gian gian khổ của chúng ta cũng có Mẹ kề bên. Dù bạn có đón nhận hay từ chối thì Mẹ Ma-ri-a vẫn là mẹ hiền của chúng ta. Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2, trong sứ điệp gởi cho giới trẻ trên toàn thế giới năm nay cũng đã nhắc nhở chúng ta sự thật này. Ngài nói: “Như với Thánh Gio-an dưới chân thập giá, Chúa Giêsu cũng ban Mẹ Ngài cho các con, để Mẹ hiền yên ủi các con”. Ngài cũng khuyên chúng ta noi gương thánh Gio-an, đón nhận Mẹ về nhà, sống gắn bó với Mẹ và yêu mến Mẹ nhiều hơn, qua việc đọc Kinh Mai Khôi. Để, nhờ việc đọc và suy gẫm Kinh Mai Khôi, chúng ta sẽ được nhìn Chúa với đôi mắt của Mẹ, yêu mến Chúa với trái tim của Mẹ. Ước gì lời dạy bảo của Đức Thánh Cha được chúng ta tích cực hưởng ứng trong Năm Mai Khôi này.

Lạy Mẹ Ma-ri-a, Mẹ luôn hiện diện bên cuộc sống của chúng con, thế mà nhiều lúc chúng con nào đâu có hay. Mẹ luôn gìn giữ, chăm sóc và an ủi chúng con, thế mà nhiều khi chúng con nào đâu có biết. Nhiều lần trong cuộc sống, Mẹ đã cứu giúp chúng con, thế mà chúng con lại ơ hờ vô ơn trước sự hiện diện yêu thương của Mẹ. Chúng con đã phạm tội và đã nhiều lần làm cho lòng Mẹ phải phiền muộn. Chúng con cũng đã nhiều lần làm phiền lòng cha mẹ của chúng con. Biết bao bà mẹ đang phải ngày đêm âu sầu phiền muộn vì những người con hư hỏng ngỗ ngịch. Vẫn biết là lòng mẹ bao la tựa biển Thái Bình, nhưng chúng con lại chưa ý thức và thiếu nỗ lực để đáp đền công ơn trời bể ấy. Cách này hay cách khác, chúng con còn rất thường xuyên làm khổ cha mẹ của chúng con.

Xin Mẹ thương nâng đỡ, ủi an những người mẹ đang đau khổ vì con cái của mình. Xin Mẹ cũng luôn đồng hành và nâng đỡ chở che chúng con trên mọi bước đường gian nguy của cuộc sống. Để cùng Me, chúng con vững bước tiến về Quê Trời và gặp được Chúa Giêsu, con Mẹ, là Đấng Cứu Độ duy nhất, hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Amen. ( Chọn một bài hát ngắn thích hợp )

CHẶNG THỨ 5: ÔNG SI-MON VÁC ĐỠ THÁNH GIÁ CHÚA GIÊSU

Đọc Tin Mừng Mc 15, 21: Khi điệu Đức Giêsu đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Si-mon, gốc Ky-rê-nê, đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Đức Giêsu.

          Theo các Thánh ghi chép Tin Mừng, con người nghĩa hiệp vác đỡ thập giá Chúa Giêsu ở đây có tên gọi là Si-mon, người thành Ky-rê-nê, một nông dân chất phác. Và theo Thánh Mác-cô, Ông Si-mon đã có gia đình và là cha của hai ông A-lê-xan-đê và Ru-phô. Như thế, ông không phải là một người trẻ trai tráng nữa, mà là một người đã cao niên. Thiết nghĩ điều này cũng giúp chúng ta dừng lại để suy nghĩ. Các người trẻ đâu hết mà lại để cho một người đã có tuổi như thế vác đỡ thập giá cho Chúa ? ( Thinh lặng giây lát )

          Các bạn trẻ thân mến ! Giới trẻ là sức mạnh, là rường cột, là tương lai của xã hội, của Giáo Hội. Thế nhưng, mỉa mai thay, người ra tay nghĩa hiệp giúp Chúa Giêsu vượt qua chặng đường thập giá lại không phải là một người trẻ, mà là một gia trưởng chất phác quê mùa. Thế mới hay rằng, sức bật không ở cơ bắp nhưng ở chính trái tim. Chắc các bạn sẽ biện giải rằng: đó là chuyện ngày xưa, còn ngày nay thì khác rồi. Thực ra nếu ta chân thành nhìn vào lớp người trẻ trong Giáo Phận và các Giáo Xứ, ta sẽ thấy, câu chuyện về ông Simon vẫn mang tính thời sự.

Thật vậy, so với các đoàn Gia Trưởng, Hiền Mẫu, Thiếu Nhi, thì giới Thanh Niên vẫn là giới có sức khoẻ nhất, có trình độ nhất, có điều kiện nhất để xấy dựng và phát triển Giáo Xứ. Nhưng trong thực tế, nó lại là giới trì trệ nhất, đóng góp ít nhất cho sự phát triển của Giáo Phận, Giáo Xứ. Giáo Xứ trong hành trình theo bước Chúa Ki-tô trên con đường thập giá thay vì được vác đỡ bởi người trẻ, thì lại chỉ thấy xuất hiện những Simon và Vêrônica, trong khi những người trẻ vẫn cứ thờ ơ trước lời gọi mời dấn thân phục vụ Giáo Xứ.

Không những thế, nhiều khi bước đi của Giáo Xứ, của đoàn thể, gia đình càng trở nên nặng nề hơn bởi những thập giá do những người trẻ chất lên. Thập giá ấy chính là những thói hư tật xấu như: cờ bạc, rượu chè, hút sách, lập băng đảng trộm cắp, đánh nhau gây rối xóm làng; chạy xe quá tốc độ gây tai nạn cho kẻ khác; bất tín với Chúa, bất trung với bạn bè, bất nghĩa với anh em và bất hiếu với mẹ cha. Có thể nói rằng, lắm lúc người trẻ chúng ta đã tự đánh mất trái tim trẻ trung của mình, và thế vào đó là một quả tim già cỗi, thiếu sức sống, chỉ biết nghĩ đến mình mà quên mất trách nhiệm đối với người khác.

Có khi chúng ta lại tự đặt vấn đề: Mỗi người đều có thập giá của riêng mình để vác. Tại sao còn phải vác thập giá cho người khác ? Mỗi người đều có nhu cầu của riêng mình. Tại sao lại phải rước vào thân những vấn đề của người khác ? Mỗi người đều có nỗi khổ của riêng mình. Tại sao lại phải cảm thương trước nỗi khổ đau của người khác ? Câu trả lời cho các câu hỏi trên chính là tình yêu đòi hỏi như thế ! Tình yêu đòi hỏi phải chia sẻ. Tình yêu đòi hỏi phải trao ban. Tình yêu đền đáp tình yêu. Chính tình yêu Thiên Chúa đã ban cho chúng ta qua Đức Giêsu Ki-tô đòi hỏi mỗi người chúng ta cũng phải đối xử với nhau như thế. Các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu thương các con.

Giới trẻ phải đi đầu về lòng hào hiệp và quảng đại, vì điều kiện và bản tính của người trẻ đòi hỏi như thế. Thế nhưng, lời mời gọi của Thánh Phao-lô: “Cho thì có phúc hơn là nhận” là bản chất của tình yêu vẫn còn là điều xa lạ đối với người trẻ. Vì lòng ích kỷ, nhiều người trẻ vẫn còn ngại ngùng thực hiện lời khuyên này.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến và đập tan trong người trẻ chúng con quả tim chai đá, quả tim đã bao lần chết lạnh giữa tiếng khóc của bao người. Xin hãy thế vào trong tâm hồn chúng một trái tim mới, trái tim luôn biết rung cảm trước mọi khổ đau của đồng loại, để chúng con dám yêu người và yêu Chúa, luôn can đảm ghé vai vác lấy trách nhiệm xây dựng Giáo Hội, Giáo Xứ và gia đình, hầu trở nên ánh sáng và muối men cho trần gian. Amen (Chọn bài hát ngắn thích hợp)

CHẶNG THỨ 9:
CHÚA GIÊSU NGÃ XUỐNG ĐẤT LẦN THỨ BA

Đọc Tin Mừng Lc 22, 66 – 71.

Đoạn đường từ dinh Phi-la-tô đến đồi Gôn-gô-tha rất ngắn, nhưng đường rất khó đi vì gập ghềnh và nhiều dốc đứng. Chúa Giêsu đã mệt là vì những trận đòn ác nghiệt và thập giá đè nặng trên vai. Sự phản bội của môn đệ, tiếng gào thét của quân lính và sự hờ hững của kẻ qua đường. Tất cả như muốn liên kết với nhau tạo nên một sức nặng đè lên cây thập giá, khiến Chúa Giêsu ngã gục, không chỉ một lần nhưng tới 3 lần. Tất cả sức lực như đã tàn và thân thể Chúa cũng không còn đứng vững được nữa.

Càng đến gần Núi Sọ, Chúa Giêsu càng cảm thấy yếu nhược đến tột cùng và mọi cố gắng cũng đến mức giới hạn. Ngài đã đến nơi phải đến và không còn đủ hơi sức nữa. Ngài ngã gục lần cuối. Cây thập giá đổ xuống trên vai với toàn bộ sức nặng trĩu. Toàn thân Chúa Giêsu cảm thấy như bị nghiền nát, bị phân tán thành ngàn mảnh vụn. Đớn đau và kiệt sức. Nhưng Chúa đã đứng dậy tiếp tục vác thập giá bước đi đến Núi Sọ nơi Chúa sẽ bị treo lên cách ô nhục, để hoàn tất sứ mạng cứu chuộc nhân loại, để hiến tế tình yêu được hoàn tất trọn vẹn.

          Trượt ngã lần thứ ba trên chặng đường thập giá, phải chăng đó là tội lỗi của một xã hội không còn chân lý ? Những kẻ cậy dựa quyền lực đang xúc phạm đến những con người nghèo hèn, không uy thế, thấp cổ bé miệng. Những con người nhân danh điều này điều kia để rồi chà đạp lên quyền được sống của con người. Văn minh kỹ thuật ngày càng tiến bộ vừa gia tăng tiện nghi vật chất, vừa giam hãm con người trong ích kỷ. Càng có con người càng muốn có nhiều hơn, nhu cầu giả tạo ngày càng nhiều, cuộc săn lùng lạc thú ngày càng mãnh liệt, từ đó nhiều nỗi lo sợ phát sinh. Những nỗi sợ ngày càng chồng chất khiến con người thời đại dù có thừa của cải vật chất vẫn cảm thấy thiếu thốn và không tìm được niềm vui đích thực trong cuộc sống.

          Giới trẻ hôm nay cũng bị cuốn hút vào vòng xoáy của sự hưởng thụ ích kỷ. Có nhiều bạn trẻ ngã quỵ vì tiện nghi vật chất, trượt ngã theo bóng mờ hạnh phúc giả tạo. Biết bao người trẻ đã đắm chìm trong men rượu, trong ma tuý và truỵ lạc. Họ cần lắm Ơn Thánh Chúa ban để can đảm đứng dậy, dũng cảm từ bỏ gánh nặng tội lỗi để canh tân đổi mới đời sống. Họ cần lắm sự nâng đỡ, sẻ chia, đồng cảm của chúng ta.

          Các bạn trẻ thân mến ! Cuộc đời chúng ta cũng có biết bao lần vấp ngã. Cuộc đời là sự giằng co giữa yếu đuối và dũng mãnh, giữa trọn vẹn và dang dở. Trái tim chúng ta có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng và cũng lắm lúc có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại. Biết sám hối để hoán cải đó là dấu chứng của một tâm hồn chân thành, có thiện chí muốn thăng hoa đời mình.

Lạy Chúa Giêsu, một lần chúng con sa ngã phạm tội là một lần chúng con chối Chúa, là xô đẩy khiến Chúa ngã nhào đau đớn. Mỗi lần chúng con thất bại, mỗi lần chúng con vấp ngã là mỗi lần chúng con cảm thấy chán chường, thất vọng. Chúng con tỏ ra bất mãn than trách, kêu ca và nhiều lúc muốn bỏ cuộc buông xuôi. Xin cho chúng con cảm thấy rằng Chúa không bao giờ tuyệt vọng về chúng con mà luôn luôn muốn chúng con cứ cậy trông, phó thác, đặt niềm hy vọng nơi Chúa. Chúng con biết trong thân phận người lắm lúc chúng con vấp ngã. Xin cho chúng con biết chỗi dậy trong niềm tin tưởng Chúa sẽ đỡ nâng, khuyến khích và dìu dắt chúng con. Amen. (Chọn một bài hát ngắn thích hợp)

CHẶNG THỨ 12 :
CHÚA GIÊSU CHẾT TRÊN THẬP GIÁ

Đọc Tin Mừng Mc 15, 33 – 39.

Có thể nói, ngày Thứ Sáu Chịu Nạn là ngày đen tối nhất trần gian. Bởi vì giữa trưa mà mặt trời lại lặn mất, như có vẻ xấu hổ không dám soi chiếu vào một con người vô tội lại bị kết tội và giết chết trên Núi Sọ, con người mang tên Giêsu. Bóng tối bao trùm trái đất in mờ thập giá Đức Ki-tô trên nền trời đen thẳm. Đức Giêsu tắt thở. Ngài chết trong sự cô đơn và đau đớn tột cùng về thể xác cũng như tinh thần, đến nỗi, Ngài phải thốt lên : “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài nỡ bỏ con ?”

Ta hãy hình dung một con người vô tội, bị lột trần truồng, hai tay bị giang thẳng trói siết chặt vào thanh gỗ ngang, hai chân bị trói chặt vào thanh gỗ dọc, đinh xuyên thủng cả hai bàn tay chân, phơi ngoài trời giữa nắng trưa chát chúa; người thân thì bỏ rơi, quân dữ thì nhạo cười xỉ vả; lại phải chứng kiến cảnh mẹ hiền đang xót xa nhìn con đợi chờ giờ chết. Đau đớn, nhục nhã và xót xa biết chừng nào !

Chúng ta hãy thinh lặng trong giây lát để tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa...

Thế nhưng, vì tình yêu đối với nhân loại và vì vâng phục Chúa Cha, Đức Giêsu Ki-tô – Con Thiên Chúa làm người, đã chấp nhận tất cả sự oan nghiệt, nhục nhã, xót xa và đau đớn ấy. Ngài đã uống cạn đến những giọt đắng cuối cùng. Để rồi, trong mảnh đất đau khổ và chết chóc ấy, mầm sống cứu độ đã mọc lên và rợp bóng chở che cho con người tìm về đây nương náu. Cũng như từ cạnh sườn bị đâm thâu, giòng suối hồng ân đã được tuôn trào và làm cho bao người thỏa thuê ơn phước. Cái chết của Chúa Ki-tô đã trở nên nguồn sống cho con người.

Lạ lùng thay ! Thập giá là biểu tượng của đau khổ, chết chóc. Nhưng, nhờ tâm tình vâng phục và dâng hiến, Đức Ki-tô – Con Chiên vô tội – đã làm cho thập giá trở nên Thánh Giá, Giá Thánh để cứu độ muôn người. Từ đây, Thánh Giá trở thành bằng chứng và là biểu tượng của tình yêu và vinh quang Thiên Chúa, cũng là vinh quang của con người. Thánh Phao-lô đã nói: “Vinh dự của chúng là thập giá Đức Ki-tô”.

Hơn hai ngàn năm đã trôi qua, bao thế hệ, thế lực trần gian đã sụp đổ và bị chôn vào dĩ vãng. Riêng Thánh Giá của Đức Ki-tô vẫn còn đó hiên ngang, vững vàng và rực rỡ nguyên vẹn một màu hồng của tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu và vinh quang của Thiên Chúa mãi mãi vẫn được phô bày và vang dội đến tận cùng trái đất. Từ Thập Giá Chúa, bao con người lầm lạc đã tìm về nẻo chính đường ngay, bao vết thương tâm hồn đã được chữa lành, bao tội nhân đã quay đầu hối cải, bao con người yếu đuối đã tìm được sức mạnh, bao trái tim sầu khổ đã tìm được an vui.

Qua Thập Giá Đức Ki-tô, đất với trời đã được nối kết, người với người lại được gặp nhau. Vạn vật hòa hợp. Hình thù của thánh giá với hai thanh ngang dọc kết hợp như muốn diễn tả chân lý ấy. Thanh dọc tượng trưng cho tương quan đối với Thiên Chúa. Còn thanh ngang diễn tả mối liên hệ đối với tha nhân. Tất cả được kết nối nhờ thập giá Chúa Ki-tô. Vì thế sẽ không có con đường nào khác để gặp gỡ Thiên Chúa và con người ngoài Con Đường Thập Giá mà Chúa đã đi. Đó là sự hy sinh, chấp nhận đau khổ trong tình yêu và vì tình yêu.

Các bạn trẻ thân mến ! Thánh Phao-lô đã nói: ”Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đức Ki-tô bị đónh đinh, điều mà Do-thái cho là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngọai cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” ( 1 Cr 1, 22 – 24 ).

Là người Ki-tô hữu, mỗi lần nhìn lên Thánh Giá, chúng ta đã nhận ra tình yêu, sức mạnh và quyền năng của Thiên Chúa được phô bày nơi Thánh Giá chưa ? Là người tin Chúa Ki-tô, chúng ta đã dám mạnh dạn loan báo mầu nhiệm thập giá cho những người chưa nhận biết Chúa chưa ? Là người môn đệ của Chúa, chúng ta được mời gọi vác thập giá bước theo chân Chúa. Chúng ta đã dám hy sinh và từ bỏ những đam mê, tiền tài, danh vọng để vác thập giá mình mỗi ngày bước đi theo Chúa chưa ?

Lạy Chúa Giêsu ! Chúa đã biến thập giá trở thành Thánh Giá nhờ vâng phục và yêu mến. Còn đối với mỗi người chúng con, vì chưa đủ vâng phục và yêu mến, nên thập giá của chúng con vẫn còn rất nặng nề. Vì chưa đủ vâng phục và yêu mến, nên thường chúng con còn e ngại trước những chông gai cuộc sống. Vì chưa đủ vâng phục và yêu mến, nên đời chúng con còn nhiều lắm những gian nan.

Xin ban cho mỗi người trẻ chúng con đây có được tâm tình yêu mến và vâng phục như Chúa, dám sống như Chúa: một cuộc đời quên mình vì hạnh phúc của tha nhân. Amen. (Chọn một bài hát ngắn thích hợp )

3. KẾT THÚC:

Các bạn trẻ thân mến ! Thánh Phê-rô đã nói: “Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người” (1 Pr 2, 21). Chúng ta vừa tưởng niệm Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ học hỏi điều gì nơi Mầu Nhiệm Thập Giá Chúa ? Phải chăng là quyết tâm theo Chúa ? Vâng. Bước theo Chúa trên Con Đường Thập Giá là sứ điệp đầu tiên mà Chúa muốn gởi tới mỗi người chúng ta hôm nay. “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mỗi ngày mà theo Thầy” (Lc 9, 23).

Nhưng con đường thập giá là con đường khó đi, gian khổ, khiến cho bao người phải ngập ngừng lui bước. Đúng vậy ! nhưng qua cái chết của Chúa Giêsu, một luồng ánh sáng đã chiếu dọi vào từng nỗi khổ đau của con người và cho đau khổ một ý nghĩa mới: “Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Dt 2, 18). Thập Giá Chúa sẽ nâng đỡ chúng ta. Từ nay thập giá không còn là một chướng ngại trong cuộc sống, nhưng là con đường dẫn đến sự sống đích thực, nếu chúng ta dám hy sinh cùng chấp nhận mọi khổ đau trong cuộc sống với tâm tình yêu thương và vâng phục.

Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2 mời gọi các bạn trẻ đừng sợ đi trên con đường Chúa đã đi, hãy ghi dấu ấn của niềm hy vọng và lòng nhiệt thành. Đức Thánh Cha còn xác định rằng không ai ngoài Chúa Ki-tô có thể mang lại cho các bạn hạnh phúc chân thật. Khi theo gương Mẹ Ma-ri-a, các bạn sẽ biết thưa cùng Chúa tiếng xin vâng một cách vô điều kiện, các bạn phải trở thành “những tuần canh của rạng đông”, những ngôi sao loan báo ánh bình minh và mùa xuân mới của Tin Mừng, một mùa xuân ló dạng những mầm sống.

Hiện nay nhân loại rất cần những người trẻ can đảm dám đi ngược dòng đời và mạnh mẽ nhiệt thành công bố niềm tin của mình lên Thiên Chúa là Chúa và là Đấng Cứu Thế. Đức Thánh Cha cũng phó thác các bạn trẻ cho Mẹ Ma-ri-a, Mẹ Chúa Ki-tô, Mẹ Giáo Hội, để xin Người hướng dẫn cùng đồng hành với các bạn trẻ trong cuộc sống Đức Tin.

Lạy Mẹ Ma-ri-a, xin Mẹ ghi sâu trong lòng chúng con những nỗi thống khổ của Chúa Giêsu, Con của Mẹ, để giúp chúng con yêu mến Ngài hơn, để chúng con dâng hiến đời sống chúng con cho Ngài và để chúng con được cùng Mẹ và các Thánh dự phần vào cuộc Phục Sinh của Ngài. Amen. (Chọn bài hát ngắn thích hợp). Lm Giu-se NGUYỄN HỮU AN

Fr. Jude Siciliano, OP.

THỨ SÁU TUẦN THÁNH 2003 (Is 52, 13-53)

Thưa quí vị. Năm vừa qua tôi đã viết suy niệm về bài thương khó Chúa Giêsu theo thánh Gioan. Năm nay về vai trò người tôi tớ trong sách tiên tri Isaia. Người tôi tớ này kích thích nhiều suy tư của các nhà chú giải. Người thì cho chỉ có một nhân vật tôi tớ, tác giả khác lại đưa ra ý kiến có nhiều, thậm chí cả một dẫy dài, kẻ khác chủ trương có một, nhưng trong ý nghĩa tập thể, tức đại diện cho toàn dân Israel ! Theo nguyên văn thì khó xác định ai đúng, ai sai. Trong Isaia có bốn bài ca về người tôi tớ. Bài đọc hôm nay là bài ca số 4.

Tác giả John Mc Kenzie, dòng Tên, trong cuốn Từ điển Thánh kinh nói rằng từ “tôi tớ” có nghĩa rất rộng. Nó ám chỉ nô lệ hạng sang như khi nói: “Thần là nô lệ của nhà vua”. Rõ ràng một tước vị thuộc hàng khanh tướng. Ngược lại, người ta cũng có thể dùng để nói nhún nhường như Moisen, David được gọi là tôi tớ Đức Chúa. Các ngôn sứ cũng thường được dùng trong nghĩa này. Dân tộc Do thái được gán danh hiệu “tôi tớ” khi đối chiếu với toàn thể thế giới. Đây là ý nghĩa sứ mệnh của dân Israel. Như vậy từ “tôi tớ” được gán khi ai đó là “dụng cụ” Thiên Chúa dùng để ban ơn cứu độ. Trong dòng văn của ngôn sứ Isaia, từ tôi tớ không bao hàm chức Thiên sai. Nhưng từ đầu Hội thánh, chữ này được áp dụng cho Chúa Kitô chịu thương khó, bài đọc hôm nay chẳng hạn. Đoạn văn này và nhiều đoạn văn tương tự được các Hội thánh tiên khởi sử dụng để đối phó với việc Chúa Giêsu gặp thất bại, bị khước từ, khổ nạn và cái chết nhục nhã.

Các bài thơ người tôi tớ được Tân ước trích dẫn rõ ràng hoặc chỉ qui chiếu gián tiếp. Thí dụ, trong các trình thuật về phép rửa của Đức Giêsu hoặc lễ biến hình. Nếu chúng ta đổi từ Con sang từ tôi tớ của lời phán bởi trời thì chúng ta có được hầu như nguyên văn Isaia 42,1. Quan niệm về cái chết cứu độ của người tôi tớ trung tín trong Isaia ảnh hưởng trực tiếp đến giọng văn của Tân ước mô tả cuộc đời và sự nghiệp của Chúa Giêsu. Nội dung đoạn văn chúng ta đọc hôm nay cũng là căn bản giáo lý của Hội thánh về vai trò Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi. Như vậy chúng ta thấy có hai vế song hành: Người tôi tớ Giavê đối với dân tộc Israel giống như Chúa Giêsu đối với Hội thánh. Chúa Giêsu chịu khổ nạn để thánh hoá giáo hội thì người tôi tớ Cựu ước cũng phải chịu bầm dập để làm cho dân Do thái trong sạch, nên thánh. Ngày nay hình ảnh tôi tớ Giavê vẫn được sử dụng để minh hoạ cho việc Chúa Giêsu tiếp tục chịu đau khổ trong các chi thể Hội thánh để làm cho Hội thánh được thanh sạch.

Mở đầu của bài đọc 1 hôm nay là: “Này đây, người tôi trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật và được suy tôn đến tột cùng.” Xin nhớ rõ điều này, bởi lẽ những dòng tiếp theo thật u ám. Một bản mô tả rất sống động về sự thất thế, đau khổ cũng của người tôi tớ đó. Ông sẽ không còn được nhận ra nữa: “Khi thấy tôi trung của Ta, mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa.” Mọi người ngoảnh mặt đi chẳng dám nhìn người tôi tớ đau khổ. Điều gây sửng sốt nhất là hình phạt này xem ra là do Thiên Chúa gây nên. Xưa nay vẫn giải thích như vậy. Thực thế bản văn có một câu làm tôi lưu ý mãi: “Đức Chúa hài lòng khi thấy người bị nghiền nát trong yếu đuối.” Đức Chúa này là Thiên Chúa nào mà lại hài lòng vì người vô tội bị nghiền nát? Chắc chắn khi nghe đọc đến đây, nhiều thính giả lương thiện sẽ nghĩ trong lòng: “Ông Trời đáng ghét của Cựu ước.” Nhưng nhìn kỹ hơn vào toàn thể bài ca thì đoạn văn này được viết dưới dạng kịch nghệ. Tức có sự thay đổi về người nói. Khởi đầu thì Thiên Chúa nói, sau đó đến các khách bàng quan bàn tán khi quan sát người tôi tớ trong khổ đau. Đối với những người này thì rõ ràng Thiên Chúa đang nghiền nát người tôi tớ vô tội. Chuyện này giống như khi chúng ta kêu ca về những đau đớn của mình: “Chúa thử thách đức tin của tôi quá sức chịu đựng. Thật ngã lòng, chẳng thể còn kiên nhẫn hơn nữa.” Đúng vậy, thượng đế đã đẩy người ta đến bờ vực thẳm của thất vọng?

Rồi thay đổi vai trò của khách bàng quan: Họ cố gắng tìm hiểu căn do sự đau khổ của người tôi tớ, và khám phá ra rằng chính vì tội lỗi của mình mà người tôi tớ phải chịu cực hình. Thật là điều gây ngỡ ngàng hết cỡ. Ông ta chịu đựng đau khổ để cứu chuộc thiên hạ. Họ đã sai lầm khi lên án ông, coi ông như kẻ có tội. Họ ăn năn hối lỗi, thú nhận sai lầm của mình. Sự thật là người tôi tớ đã gánh lấy tội thiên hạ và chính họ là những kẻ được hưởng sự tha thứ của Thượng đế: “Tôi trung của Ta sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ”.

Do đó, ý muốn của Đức Chúa Trời là tội lỗi nhân loại được tẩy sạch nhờ đau khổ và cái chết của người tôi tớ. Đúng là một màu nhiệm. Đường lối suy nghĩ của chúng ta hoàn toàn phá sản, bởi lẽ công việc vĩ đại như xoá tội trần gian lại không theo quy trình quyền lực bình thường kiểu mọi người mong đợi. Thay vào đó, trong người tôi tớ, Thiên Chúa tỏ lộ cho chúng ta gương khiêm nhường, nhịn nhục của một nhân vật yếu đuối, dễ bị tổn thương, một dấu chỉ của sự chống đối. Cho nên chẳng lạ gì các tác giả Tân ước sử dụng những bài ca này để nói về Chúa Giêsu và lòng nhân từ, thương xót của Đức Chúa Trời. Thí dụ, thánh Phaolô nhiều lần đã chỉ ra cho chúng ta thấy quyền năng của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô khi Ngài bị dân Do thái khước từ, chối bỏ. Chính trong công việc này mà nhân loại được lợi không kể xiết. Tác giả thơ Do thái cũng thường khích lệ độc giả của ông không nên hổ thẹn vì thập giá Đức Ki-tô, ngược lại “hãy mạnh dạn tiến lại gần Ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần”. Bởi lẽ Thiên Chúa đã cho phép Đức Giêsu, người tôi tớ, chia sẻ những yếu hèn và đau khổ với nhân loại. Cho nên quan niệm về “ông Trời đáng ghét của Cựu ước” là sai lầm. Chính qua người tôi tớ khiêm nhường mà Thiên Chúa mặc khải gương mặt yêu thương, nhân từ của Ngài.

Người tôi tớ Giavê đứng làm trung gian cho cả Thiên Chúa và loài người. Một sự tổng hợp kỳ lạ giữa thần linh và nhân loại. Ông là đại diện cho thần linh, đứng về phía Thiên Chúa, Ngài gọi ông: “Tôi tớ của Ta”. Trong ông, ý muốn của Đức Chúa hoàn toàn được thành tựu. Ông cũng đại diện cho nhân loại tội lỗi, mặt mày tan nát, chịu khổ đau đến cùng cực, chịu chung số phận với loài người, đồng hoá với anh em mình. Chúng ta nhìn nơi ông hành động của thượng đế trên nhân loại và vì nhân loại. Chính trong nơi người tôi tớ mà chúng ta cảm thấy được Thiên Chúa cứu độ.

Nhưng người tôi trung cũng có tham gia phần của mình vào cuộc đau khổ mà Thiên Chúa đã chỉ định cho ông. Ông đồng ý với chương trình của Đức Chúa, gánh chịu hậu quả của tội lỗi người khác, vâng lời Thiên Chúa cho đến mức bằng lòng chịu chết thay cho thiên hạ. Ông là một nhân tố tự do và tự nguyện, không ai ép buộc ông, nhưng hoàn toàn hiến dâng cho Thượng đế. Đây là một sự cộng tác lạ lùng giữa Thiên Chúa và nhân loại để mưu ích cho loài người. Kết quả là một công trình vĩ đại. Bởi người tôi tớ đã “xoá tội trần gian và tranh thủ được ơn tha thứ cho những kẻ xúc phạm”. Ai đã thi hành cuộc hy sinh? Thiên Chúa hay người tôi tớ? Câu trả lời là cả hai. Thiên Chúa đã hy sinh người tôi trung. Người tôi trung đã bằng lòng hiến tế. Trường hợp của Abraham và người con duy nhất Isaac. Trong văn bản, kẻ có lỗi dùng ở đại từ “chúng ta”: “Sự thật, chính Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta… Chính Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội… Chúng ta đã đi lạc như chiên cừu v.v…” Hoá ra người tôi tớ này không phải là kẻ phạm tội. Đau khổ của ông có mục đích duy nhất là thức tỉnh ý thức tội lỗi của nhân loại !

Tóm lại, Thiên Chúa toàn năng có thể đổi ngược những tình huống vô vọng. Điều chúng ta bất lực, thì Ngài làm được dễ dàng. Trước mắt thiên hạ, người tôi tớ vô tội và nín tiếng bị những kẻ gian ác tố cáo bất công, lôi đi hành hạ, trừ khử, mai táng. Ông ta hoàn toàn thất bại và rơi vào quên lãng, quá khứ. Nhưng Thiên Chúa đã nâng ông trỗi dậy, thành công hiển hách. Đấng khởi sự nói và ban lời đoan hứa trong bài đọc hôm nay chính là thượng đế, Tạo hoá dựng nên muôn loài muôn vật (51, 9-10). Đấng ấy đã giải cứu Israel khỏi kiếp nô lệ Ai cập, dẫn đưa họ qua Biển đỏ khô chân, gây dựng họ từ chỗ ô hợp thành một dân tộc. Trong tay Ngài bây giờ là người tôi trung đã chết, chỉ có Ngài mới làm được cho kẻ qua đời sống lại. Hiện thời, thì Satan thắng thế, sự dữ ngự trị trên thân phận con người và xem ra là vĩnh viễn. Nhưng Thượng đế có thể thực hiện những chi loài người, tự thân, không làm được. Ngài có thể phục hồi sự sống cho những xác chết và ban cho một tương lai tươi sáng, phát đạt ! Các bài đọc Thánh kinh hôm nay luôn nhắc nhở cộng đồng tín hữu về sự kiện đó. Thiên Chúa sẽ toàn thắng tội lỗi và sự chết, gây dựng chúng ta từ bất trung, phản bội thành dân thánh trung thành, từ những kẻ từ khước Chúa Giêsu, Người tôi tớ Giavê thành những tín hữu, khao khát ơn cứu độ. Amen.

Xin con đừng ngủ nữa

Chúng ta phải chiêm ngắm Chúa trên đường tới Núi Sọ. Chúng ta phải cùng Người đi lại con đường Thánh giá để có thể cảm nhận sâu xa tình yu của Người đối với chúng ta.

Nhưng cuộc khổ nạn của Người vẫn chưa hoàn tất. Chúa Cứu Thế đ sống để mang gánh tội lỗi và khổ đau của con người 2000 năm trước, ngày nay vẫn tiếp tục như thế nơi thế giới này và cịn ko di cho tới ngy sau hết. Cha sống giữa đám dân Người, tiếp tục khổ đau và chết cho ta ngay trước mắt ta. Con đường Thánh giá ngoằn nghèo trong các phố phường, đô thị, dẫn đến các bệnh viện và nhà máy, ra tới ngoài trận địa; đó là con đường nghèo nàn và khổ đau dưới mọi hình thức.

Chính là trước những chặng đường Thánh giá mới này khiến ta phải ngừng lại, suy niệm và cầu xin với Chúa khổ nạn cho ta yêu thương Người mạnh mẽ đủ để biến thành hành động.

Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thch Đức Ki-tô cịn  phải chịu, tơi xin mang lấy vo thn cho đủ mức, vì lợi ích cho thn thể Người là Hội Thánh. (Colosê 1:24)

Cha nĩi: Ta sẽ cịn hấp hối cho đến ngày sau hết. Ta sẽ cịn bị đóng đinh cho tới hết thời gian. Con cái của Ta là các Kitô hữu dường như không nhận ra điều đó. Ta bị đánh đập, bị tát vả, bị kéo căng ra, bị đóng đinh: Ta chết ngay trước mặt chúng mà chng khơng hay. Chng khơng nhìn thấy gì, chng m lịa.

Chúng đâu phải là Kitô hữu đích thực, vì nếu phải thì chng đ chẳng cứ tiếp tục sống trong lc ta đang chết.Chúa ơi, con không hiểu gì, chẳng thể như thế được, Chúa thổi phồng lên đó thôi.

Con sẽ bảo vệ Chúa nếu quả Ngài bị tấn công
Con sẽ ở bên cạnh Chúa nếu quả Ngài đang chết
Vì Cha ơi, con yêu mến Ngài mà.

Chúa bảo: Trật lất hết. Con người đang tự lưà dối mình đấy thôi. Chúng nói chúng yêu mến Ta, chúng tin là chúng yêu mến Ta, và Ta cũng sẵn lịng chấp nhận l nhiều lc chng thnh thực đấy, nhưng chúng lầm lẫn quá chừng. Chúng không hiểu, chúng không nhìn thấy.

Mọi chuyện lần lần bị xuyên tạc, khô cạn dần đi, rồi mất hẳn. Chúng tưởng chúng mến yêu Ta vì mỗi thng một lần chng tơn kính Thnh Tâm Ta, Cứ làm như là Ta yêu chúng chỉ có 12 lần một năm thôi !

Chúng tưởng chúng mến yêu Ta vì thường xuyên giữ các việc tôn kính, dự chầu Thánh Thể, kiêng thịt ngày thứ sáu, đốt một ngọn nến hay đọc một kinh trước ảnh Thánh Tâm Ta.

Nhưng mà, Ta đâu có phải làm bằng thạch cao, đâu phải bằng đá, đâu phải bằng đồng.

Ta có xác thịt sống động, trái tim đang đập, đang đau khổ. Ta ở giữa loài người nhưng chúng đ khơng nhận ra Ta
Ta được trả lương rẻ mạt, Ta thất nghiệp, Ta sống trong khu nhà ổ chuột, Ta mắc bệnh lao, Ta ngủ dưới gầm cầu, Ta ở trong tù, Ta bị áp bức, Ta bị coi khinh

Thế Ta đ chẳng từng nĩi với chng: “Những gì cc ngươi làm cho các anh em của Ta, dù là hèn mọn thế nào đi nữa, là làm cho chính Ta.” Thật r rng m.

Điều tệ hại là chúng biết điều đó, nhưng chẳng coi là quan trọng Chúng làm trái tim Ta tan nát và Ta đ trơng mong coi cĩ ai thương xót Ta không, nhưng nào thấy ai đâu.

Ta lạnh. Ta đói. Ta trần truồng
Ta bị cầm tù, bị chê cười, bị xỉ nhục

Nhưng đó mới chỉ là cuộc thương khó nhỏ thơi, vì con người đ pht minh ra những thử thch kinh hồng hơn thế nữa
Trang bị bằng tự do của chúng, trang bị dữ dằn bằng tự do của chúng Chúng đ pht minh ra.

“Lạy Cha, xin tha thứ cho chng, vì chng khơng biết việc chng lm” Chng đ pht minh ra chiến tranh, chiến tranh thật sự. Chúng đ pht minh ra cuộc Tử nạn, cịn tồi tệ hơn thế nữa.

Vì Ta ở bất cứ nơi đâu có con người ở.

Kề từ ngày Ta trà trộn giữa bọn chúng,
trong sứ mạng cứu độ hết cả mọi người
Kể từ ngày Ta nhất định cam kết
cố sao qui tụ chng lại với nhau

By giờ thì Ta vừa l người giầu có,
vừa là kẻ nghèo nàn, vừa là thợ vừa là chủ

Là công nhân nghiệp đoàn và là người ngoài nghiệp đoàn, là người đình cơng v l kẻ phản lại cuộc đình cơng, vì chính con người, than ôi, làm cho Ta phải làm đủ trị đủ chuyện.

Ta về phe với bọn biểu tình,
m lại về phe với đám cảnh sát, bởi vì chính con người, than ôi, biến đổi ta thành một cảnh sát viên.

Ta là người tả phái, là người hữu phái, và lại cả là kẻ đứng trung dung. Ta đứng bên này bức màn sắt và cả ở bên kia
Ta là người Đức mà lại là người Pháp, là người Nga mà lại là người Mỹ. Một người Trung hoa quốc gia mà lại là người Trung cộng. Ta là người Việt quốc gia mà cũng là anh Việt cộng. Ta ở bất cứ nơi đâu có con người ở.

Chúng đ đón tiếp Ta, mà lại bắt bớ Ta, quân phản bội!
Dạ, xin chào Thày !
Và lúc này Ta đang ở với chúng, làngười trong bọn chúng, chính là bọn chúng
Này để coi chúng làm gì cho Ta no
Chng đang đánh đập Ta, chúng đang đóng đinh Ta
Chúng xé Ta ra mỗi khi chúng cấu x nhau

Chúng giết chết Ta mỗi khi chúng giết nhau
Con người đ sng tạo ra chiến tranh

Ta đạp phải mìn,
Ta ngoi ngĩp thở hơi cuối cùng trong hố cá nhân
Ta rên rỉ, mình Ta lỗ chỗ vết đạn,
Ta gục ng dưới tràng nổ của súng đại liên
Ta đổ mồ hôi thấm máu con người trên các trận địa
Ta la lối trong đêm và chết cô đơn nơi trận chiến
Oi một thế giới xung đột, đó là cây thập giá vĩ đại trên đó mỗi ngày con người dằn ngửa Ta ra
Cây thập tự gỗ trên đồi Golgotha xưa chưa đủ hay sao ?

Có cần chăng cái bàn thờ lớn lao này để Ta hiến tế vì tình yu ?
Giữa lc chung quanh Ta, con người tiếp tục la hét, hát hỏng, nhảy múa, và như điên khùng,
đóng đinh Ta giữa một tràng cười vĩ đại.

Chúa ơi! Chúa nói vậy đủ rồi, xin tội nghiệp con!
Chẳng phải thế đâu! Không phải con đâu.
Con à, phải đó, chính là con đó
Chính con và các anh chị em con, bởi vì
Cần nhiều nht ba mới đóng được một cây đinh
Cần nhiều vết roi mới làm bờ vai nứt nẻ
Cần nhiều gai nhọn mới làm được một mo gai
V con thuộc vo ci đám nhân loại đ tất cả đồng lịng kết n Ta

Cũng chẳng khc gì nhau nếu con ở giữa đám người đánh đập hay giữa những kẻ đứng nhìn,
giữa những kẻ thực hiện
hay giữa những người để cho sự viêc xảy ra.
Tất cả đều có tội, dù là diễn viên hay là khán giả
Nhưng này con, trên hết cả, đừng là một trong đám người đang ngủ, một trong những kẻ cịn
cĩ thể rơi vào giấc ngủ trong an bình tự tại. Ngủ ư!
Ngủ thì qu lắm!
“Con khơng tỉnh thức với Ta được một giờ sao?”

Hy quỳ xuống đi con. Con nghe không tiếng ầm ầm của trận chiến ? Chuông đang đổ hồi
Thánh lễ đang khởi sự
Thiên Chúa bị con người đóng đinh
Đang chết vì con.
Viết theo Michel Quoist - Phạm Hồng Nghị

Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn

Cái chết đem lại ơn cứu độ
Is 52, 13-53, 12 / Dt 4, 14-16; 5, 7-9 / Ga 18, 1-19, 42

Kính thưa, Như chúng ta đ nghe trong lời dẫn đầu lễ, hôm nay là ngày duy nhất trong năm không có thánh lễ. Toàn bộ phụng vụ hôm nay nhằm tưởng niệm lại cuộc tử nạn của Đức Giêsu. Với việc chấp nhận cái chết tủi nhục trên thập giá, Đức Giêsu đ đi trọn con đường tự huỷ, để đem lại ơn cứu độ cho tất cả loài người chúng ta.

Con đường hạ mình của Đức Giêsu đ được diễn tả thật r rng trong phần phụng vụ lời Cha hơm nay.

Trước hết, là bài ca thứ tư về “người tôi tớ Giavê” trong sch ngơn sứ Isaia m chng ta vừa nghe trong bài đọc một. Trong đó, vị ngôn sứ phác hoạ cho chúng ta chân dung của Đấng Cứu Thế, đó là một người tôi tớ hèn hạ, bị mọi người khinh dể. Ngài đến để “mang lấy sự đau yếu của chúng ta…gánh lấy sự đau khổ của chúng ta… bị thương tích vì tội lỗi của chng ta, bị tan nt vì sự gian c của chng ta”.

Người tôi tớ đó đ sẵn sng gnh chịu tất cả những đau khổ đó không phải vì tội của Ngi, nhưng là vì tội của chng ta như lời vị ngôn sứ: “Người không làm chi bất chánh, và miệng Người không nĩi lời gian dối”. Ngơn sứ Isaia cịn cho chng ta thấy rằng: Người chịu tất cả những sỉ nhục đó thay cho chúng ta, vì yu thương chúng ta và để cho chúng ta được ơn cứu độ

Người lnh lấy hình phạt cho chng ta được chữa lành … Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hoá nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ”.

Tất cả những lời loan báo của ngôn sứ Isaia về người tôi tớ Giavê, giờ đây đ được ứng nghiệm trọn vẹn nơi con người của Đức Giêsu. Ngài là một vị Thiên Chúa, vô tội, nhưng đ hạ mình mặc lấy xc phm để có thể cảm thông thân phận yếu hèn của chúng ta, như lời tác giả thư Do thái đ nĩi: “Vì chưng, không phải chúng ta có thượng tế không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đ từng chịu thử thch bằng mọi cch như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi”. Những thử thách Đức Giêsu phải chịu đó là sự phản bội của Giuđa, chối Thầy của Phêrô, sự bội bạc vô ơn của đám đông dân chúng, những kẻ đ từng mang ơn Ngài. Đúng là “hoạ vô đơn chí”, đau khổ chồng chất đau khổ. Những đau khổ mà Đức Giêsu chịu như vượt quá sức chịu đựng của một con người. Cảm nghiệm điều đó, tác giả thư Do thái đ nĩi: “khi cịn sống ở đời này, Chúa Kitô đ lớn tiếng rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Đấng có thể cứu mình khỏi chết”.

Tuy phải chịu đựng nhiều đau khổ trên thân xác cũng như tâm hồn cho đến chết như thế, Đức Giêsu vẫn chưa lấy làm đủ, thánh sử Gioan thuật lại khi tên lính “đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đ chết, nn khơng đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì mu cng nước chảy ra”. Vì yu thương chúng ta đến cùng, Đức Giêsu đổ ra đến giọt máu và giọt nước cuối cùng để khai mở nguồn ơn cứu độ cho từng người chúng ta.

Vắn tắt vài lời suy niệm về cuộc Thương Khó của Đức Giêsu, mời gọi chng ta nhìn lại cuộc sống thường ngày của mình. Quả thật, Thin Cha qua Đức Giêsu đ yu thương chúng ta thật nhiều, nhiều lắm. Thế nhưng, chúng ta lại quá bội bạc, vô ơn đối với Ngài, chúng ta chỉ dành cho Ngài những thời giờ dư thừa, rảnh rỗi, chúng ta chỉ giúp đỡ Ngài qua anh chị em những gì mình khơng cịn sử dụng được nữa. Có lẽ đây là cơ hội thuận lợi nhất để chúng ta cảm nghiệm nhiều hơn chữ “như” trong lời dạy của Đức Giêsu: “Cc con hy yu mến nhau như Thầy đ yu thương các con” (Ga 15, 12).

Noi gương Đức Giêsu, Đấng đ chịu đâm thâu, và trong tâm tình mở ra với mọi người, giờ đây, xin quý ơng b anh chị em cng hiệp ý dng lời cầu nguyện chung cho hết mọi thnh phần, mọi nhu cầu trong cũng như ngoài Giáo Hội; cho những người tin cũng như chưa tin.

Bẩy di ngơn trn Thnh Gi

Có hai sứ điệp nổi bật nhất của Chúa Cứu Thế được gởi đến cho loài người. Sứ điệp đầu tiên là Tm Mối Phc Thật được Chúa công bố trên một sườn núi. Sứ điệp cuối cùng là Bảy Di Ngơn trn thnh gi.

Tuần Thnh, chim ngắm cuộc thương khó của Chúa, dừng lại nơi 7 Lời Di Ngôn của Đấng Cứu Thế để nhận thấy Calvê là ngọn núi đầy hấp dẫn, lôi cuốn chúng ta hưởng nếm tinh yêu hiến dâng phục vụ.

1. Lạy Cha xin tha thứ cho họ vì họ chẳng hiểu biết việc họ lm (Lc 23, 34)

Lẽ thường, vào giờ hấp hối, tự đáy lịng con người bộc lộ những lời tha thiết với người thân yêu, người lân cận. Lời đầu tiên của Chúa là xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ bách hại, kết án, lăng nhục, đóng đinh Ngài.

Triết gia Xê-nê-ca kể lại rằng người bị treo trên thập giá trù ẻo cha mẹ, nguyền rủa ngày sinh tháng đẻ, mắng nhiếc lý hình, thậm chí cịn khạc nhổ vo bất cứ ai qua lại, đứng ngồi dưới chân cây thập giá. Nhà hùng biện Si-sê-rô cịn cho biết rằng đôi khi phải cắt lưỡi người bị đóng đinh vào thập giá, để họ thôi buông lời phạm thượng. Bởi the, dân chúng bồn chồn, đám lý hình, luật sĩ, biệt phi chờ đợi tiếng la thét, mắng nhiếc, nguyền rủa của người bị đóng đinh đang hấp hối. Nhưng, cũng như loại hương mộc tiết hương thơm ra cho cả chiếc rìu hạ chng, Thnh Tm trn cy Tình Thương tự đáy lịng đ thốt toả ra một lời nguyện thầm thỉ đầy êm ái về sự dung thứ và xá tội “Lạy Cha xin tha cho họ vì họ chẳng hiểu biết việc họ lm”.

Tha thứ, vì họ khơng biết. Giả m họ biết tội họ phạm kinh tởm đến đâu khi lên án chết cho Đấng ban sự sống; giả mà họ biết rằng họ đang đổ máu Đức Giêsu dùng để cứu chuộc họ, giả mà họ biết như thế thì đời nào họ lại được tha ?

Giả mà ta biết tội lỗi khủng khiếp dường nào mà cứ phạm tội; giả mà ta biết Chúa yêu ta đến nổi nhập thể làm người mà ta vẫn khước từ không chịu đón nhận và tin yêu; giả mà ta thấu hiểu tình yu tha thứ trong bì tích giải tội thật l vơ bin m khơng chịu xưng tội; giả mà ta biết bí tích thánh thể hàm chứa một sức sống vô song mà cứ khước từ không chịu ăn Mình Thnh v uống Mu Thnh. Giả m ta biết r những điều ấy, ta sẽ bị hư mất. Ta không thấu hiểu lịng lnh Thin Cha, đó là lý lẽ độc nhất rộng thứ cái tội chưa chịu làm thánh của ta.

Chúa không chấp nhất, nhưng lại tha thứ, thì ta cũng phải tha thứ cho nhau. ( x Mt 6, 12; 6, 15; 18, 23-35)

2. Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng (Lc 23, 43)

Kẻ tử tội bị đóng đinh bên hữu ngoảnh đầu nhìn sang đọc được tấm bảng : Gisu Nazareth, Vua dn Do thi. Trong tâm hồn người đạo chích này dậy lên những tâm tình nồng nàn. Một tia sáng từ Thập giá chiếu ra làm rực sáng đức tin của anh nên anh đ dng lời khẩn cầu : Xin Ngài nhớ đến con khi Ngài về nơi vương quốc. Chính lc tử thần rình rập bn cạnh, chỉ cĩ một người nhìn biết Cha Kitơ l minh chủ một vương quốc. Chúa đ cứu chữa anh khi phn : Hôm nay, con sẽ ở trên thiên đàng cùng với Ta.

Trước đó đ chẳng cĩ ai được hứa ban như vậy, cho dù la Môisen hay Gioan, Mađalêna hay cả Đức Maria.

Người đạo chích đ g cửa, đ cầu xin chỉ cĩ một lần, anh đ dm lm tất cả nn đ được tất cả. Liệu có thể nói được rằng : Người trộm này đến chết vẫn cịn hnh nghề đạo chích, vì đến lúc chết, cịn ăn trộm được thiên đường ?

Lịng từ i của Cha đối với người trộm gợi nhớ lời sấm ngôn : Tội lỗi con có thắm như hồng điều, cũng sẽ nên trắng sạch như tuyết, có thẫm như vải đỏ, cũng sẽ mịn mướt như lông chiên.

Ơn dung thứ Chúa ban cho người trộm thống hối càng làm chúng ta hiểu hơn lời Chúa phán :” Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi kẻ tội lỗi …không phải người mạnh khoẻ nhưng người bệnh tật mới cần đến lang y …một người tội lỗi thống hối làm cho cả thiên đường vui mừng hơn là 99 người công chính không cần phải thống hối. ”.

Người trộm biết sám hối ăn năn tiêu biểu cho thế giới dân ngoại tin và tuyên xưng Đức Giêsu là Vua. Miễn là con người biết sám hối, Thiên Chúa luôn bao dung, từ ái.

3. Thưa Bà, đây là con Bà (Ga 19, 26 )

Những lời Sứ thần Gabriel nĩi tại Nazareth :” Kính chào Bà đầy ân phúc” (Lc 1, 28) cũng soi sng cho khung cảnh Calv. Biến cố Truyền tin bo hiệu một khởi đầu, Thánh giá đánh giá một kết thúc. Trong cảnh Truyền tin, Mẹ Maria trao ban bản tính loài người cho Con Thiên Chúa trong cung lịng Mẹ; dưới chân Thánh giá, nơi Thánh Gioan, Mẹ đón nhận toàn thể nhân loại vào tâm hồn Mẹ. Là Mẹ Thiên Chúa ngay từ lúc đầu tiên của biến cố nhập thể, Mẹ đ trở thnh mẹ của lồi người trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu, con Mẹ. Dưới chân Thánh giá, Mẹ đón nhận từ Chúa Giêsu như một lời truyền tin thứ hai : “Hỡi B ny l con B ” (Ga 19, 26). ( SĐGT lần thứ 18)

Lời truyền tin thứ nhất do Sứ thần đem đến, lần truyền tin thứ hai lại do chình Cha phn ra. Lời truyền tin thứ hai long trọng, Đức Giêsu Ngôi Lời truyền tin cho Mẹ mình, cơng bố vai trị vai trị Đức Maria là Mẹ Nhân Loại, Mẹ Giáo Hội.

Ở gốc cây biết lành biết dữ, Evà đ mất chức lm mẹ lồi người. Ở dưới chân Thánh giá, Đức Mẹ đón nhận chức vị làm Mẹ loài người.

Đức Maria là mẹ Thiên ân vì l mẹ của Tc giả ơn thánh. Các con hy hồn tồn tín nhiệm phĩ thc cho Mẹ ! Hy chiếu toả rạng ngời vẻ đẹp của Chúa Kitô khi cởi mở đón nhận hơi thở của Thánh Linh. ( SĐGT lần thứ 18)

4. Lạy Thiên Chúa !lạy Thiên Chúa của con ! sao Ngài bỏ rơi con ( Mt 27, 46 )

Ba Lời Di Ngôn đầu từ thánh giá phán ra được gởi đến các kẻ được Thiên Chúa yêu thương theo thứ tự : kẻ thù địch, kẻ tội lỗi, người lành thánh. Hai lời thứ tư, thứ năm biểu lộ sự đau khổ của TC làm người trên thánh giá. Lời thứ tư biểu lộ sự khốn khổ của con người bị Thiên Chúa phế bỏ. Lời thứ năm nói lên nổi cay cực của Thiên Chúa bị con người chối bỏ.

Ngày Thứ Sáu Chịu Nạn là ngày đen tối nhất trần gian. Bóng tối bao trùm trái đất in mờ Thập Giá Đức Kitô trên nền trời đen thẳm. Mọi sự đều tối tăm mịt mùng !Ngài tử bỏ Mẹ hiền và môn đệ yêu dấu, Thiên Chúa xem ra cũng như từ bỏ Ngài luôn. ” Eli ! Eli ! Lamma sabacthani ! Chúa ơi ! sao Chúa bỏ con ? ! Tiếng ku than ny, trong ngơn ngữ huyền nghĩa Do thi tit diễn một mầu nhiệm kinh khủng về sự kiện : Thin Cha từ bỏ Thin Cha. Cha Con gọi Cha Cha l Thin Cha. Khc hẳn lời cầu ngy no Ngài dạy :”Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Chúa Cha cũng có vẻ như ngoảnh mặt đi, khi Ngài hứng chịu lấy tội lỗi trần gian. Ngài cam chịu nổi đớn đau bi thống đó vì con người để chúng ta hiểu rằng : Khi con người mất Thiên Chúa thì tình trạng khủng khiếp chừng no.

5. Ta Kht ( Ga 19, 28 )< br>Đây là lời ngắn nhất trong bảy Di Ngôn, chỉ vỏn vẹn một tiếng Ta khát. Tân đáy tâm hồn Chúa chỉ bật ra một nổi thao thức : Ta Kht .

Hiện tượng khát nước là sự kiện bình thường của một người tử tội đóng đinh thập giá, do việc người đó mất quá nhiều máu trong người. Nhưng ở đây, chắc chắn Gioan không có ý nói tới điều đó mà nói đến nghĩa thiêng liêng. Đức Giêsu khao khát thông truyền hiệu quả cuộc khổ nạn của Người là Ơn cứu độ cho tất cả mọi người và như thế thì lời Kinh thnh mới nn trọn. Ý nghĩa của lời Ta Kht gắn liền với việc “để lời kinh thánh được nên trọn” . Lời Kinh Thánh có thể hiểu là Lời các Tiên tri trong Cựu ước loan báo về sứ mạng Cứu thế của Đấng Messia; Lời Kinh Thánh cịn cĩ thể hiểu l chính cơng việc cứu thế của Đức Giêsu. Vì thế Đức Giêsu biết rằng sứ mạng cứu thế của Người đ được thi hành trọn vẹn và đầy đủ; kể từ nay bắt đầu giai đoạn mới của lịch sử cứu độ, con người sẽ lnh nhận hiệu quả do cuộc khổ nạn người đem đến thì Ngi nĩi: Ta Kht.

Trong Phc m Gioan, từ ngữ kht thường chỉ nguyện vọng sâu xa của con người khát mong những hồng ân của Thiên Chúa vào thời Đấng Messia “Ai uống nước Ta ban thì đời đời sẽ không cịn kht nữa, nước Ta ban sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời ” (Ga 4, 13); ” Ai đến với Ta sẽ không hề đói, và kẻ tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ” ( Ga 6, 35) “ Ai khát hy đến với Ta, ai tin vào ta hy đến mà uống ! Như kinh thánh đ nĩi : Tự lịng Ngi sẽ tuơn chảy những dịng nước hằng sống” ( Ga 7, 37).

Như thế Di Ngôn Ta Kht chính là nguyện vọng sâu thẳm của Chúa muốn mọi người lnh nhận ơn cứu độ mà cuộc khổ nạn Ngài đem đến cho thế gian.

6 . Mọi sự đ hồn tất ( Ga 19, 30)

Mọi sự l sự gì ? thưa là Thánh ý Cha Cha. Lật trong sch Tin mừng rất nhiều chỗ nói “để ứng nghiệm lời Thiên Chúa, để lời các Ngôn sứ được hoàn tất”. Trong cuộc đời dương thế, Đức Giêsu luôn thực thi Thánh ý. V giờ đây trong giây phút cuối đời trên thập giá, hình như đức giêsu làm bảng tổng kết : mọi sự Chúa Cha đ hoạch định, Ngài đ chu tồn, mọi sự đ hồn tất từ ngy lọt lịng mẹ tại B-lem xcho đến nghiêng đầu trước khi chết.

Công cuộc cứu độ trần gian đ được thể hiện. Đây là lời Ngài trình lại với Cha Cha v đây cũng chính là lời loan báo sự chiến thắng của Ngài. Quyền lực bóng tối đ giết được thân xác Ngài, vị vua Messia. Nhưng qua cái chết này, ơn cứu độ được trao ban cho mọi người và giải thoát con người khỏi vịng cương toả của bóng tối, tội lỗi, satan. Đúng như Thánh Gioan đ suy niệm “Sự sáng đ rạng trong tối tăm và tối tăm đ khơng triệt được ánh sáng’ ( Ga 1, 5).

7. Lạy Cha ! con phĩ thc linh hồn con trong tay Cha (Lc 23, 46 ) Lời thứ su l lời biệt ly trần gian. Lời thứ bảy l lời khải hồn thin quốc.

Chúa Kitô, Đấng từ trời xuống, đ chu tồn nhiệm vụ, hồn thnh cuộc hnh trình, nay lại trở về cng Cha Cha để tỏ niềm tôn phục Đấng đ phi Ngi đi thực thi công cuộc cứu chuộc thế gian ; “Lạy Cha, Con phĩ thc linh hồn con trong tay Cha

Ba mươi năm trước, Ngài từ bỏ Nhà Cha để đến một xứ xa lạ là trần gian. Ơ đây Ngài sống cuộc đời tiêu xài không kể mức độ nào cả, quyền năng và sự khôn ngoan được Ngài phân phát vô số kể, ân sủng và lịng i tuất được Ngài chuẩn ban cách qung đại. Đến giờ sau hết, Ngài cịn ban luơn cả bản thể của mình cho kẻ tội lỗi, và Ngài đ đổ đến giọt máu cuối cùng để làm giá cứu chuộc thế gian. Trên đường về Nhà Cha, từ Thập giá Ngài dâng lên Chúa Cha lời nguyện hoàn hảo nhất” Lạy Cha, con phĩ thc linh hồn con trong tay Cha”.

Sau khi đ hạ mình xuống ở giữa những con ci hư mất của nhà Ít-ra-en, Ngài đ phung phí thời giờ của Ngi với những người đau ốm tật nguyền, với những người tội lỗi, ngay cả với những gái điếm, Ngài cũng hứa cho họ vào Nước của Cha Ngài ; sau khi đ bị đối xử như một tên tham ăn, như một bợm nhậu, như một người bạn của bọn thu thuế và tội lỗi, như một người Sa-ma-ri-a, một người bị quỷ ám, một kẻ phạm thượng; sau khi đ hiến dng tất cả mọi sự, ngay cả thn xc v mu Ngi; v khi linh hồn Ngi cảm thấy một nỗi buồn su xa, hấp hối, phiền sầu; sau khi đ đi tới đáy của sự tuyệt vọng, Ngài muốn mặc lấy nơi mình sự bị bỏ rơi bởi Cha, lìa xa ngưồn Nước Hằng Sống, Ngài đ ku ln từ Thnh Gi nơi Ngài bị đóng đinh : “Ta kht ”. Ngài đ yn nghỉ trong bụi đất và bóng đêm sự chết. Ngài đ mang lấy tội lỗi của chúng ta, Ngài đ gnh hết những đau thương của chúng ta.

Phó thác linh hồn cho Chúa Cha, thân xác Ngài trao trong tay Đức Mẹ. Từ chén cứu chuộc những giọt máu cuối cùng nhỏ xuống nhuộm đỏ cây thập giá.

Đây cũng là giờ bi thảm nhất của Đức Mẹ. Có nổi đớn đau nào hơn cùa nổi đớn đau của người Mẹ ôm xác người con yêu dấu ? Đức Giêsu sinh ra trong vịng tay mẹ hiền, đến chết vẫn ở trong vịng tay Mẹ từ i.

Chúa Giêsu đ để lại sứ điệp cuối cùng : Bảy Di Ngơn trn thnh gi. Trong cao điểm mầu nhiệm cứu độ, Chúa đ mạc khải tình yu hiến tế qua Bảy Di Ngơn do lịng yu thương. Những lời này vang dội qua mọi thời đại, xuyên qua tâm trí nhân loại, cải hoá và dẫn đưa bao linh hồn về với Chúa.

Calvê nơi hành hình tội nhn giờ đây đ trở thnh ngọn ni đầy hấp dẫn lôi cuốn thế giới đến chiêm ngắm và đón nhận tình yu của Đấng chịu đóng đinh.

(Viết theo cuốn : Trên đỉnh cao thập giá của ĐGM Fulton Sheen) - Linh mục Giuse Nguyễn Hữu An