Chúa Nhật IV Mùa Vọng - Năm C
THĂM VIẾNG
Chú giải mục vụ của Hugues Cousin

Cảnh này không có cảnh tương ứng thì không có gì lạ: kết quả của nó là việc thành công sự giao liên giữa chu kỳ của Gioan và chu kỳ của Chúa Giêsu. Việc gặp gỡ của hai phụ nữ mang thai cho phép liên kết hai em bé sắp sinh ra. Trong bố cục của Luca, thực ra vị tiên hô bị tống giam trước khi Chúa Giêsu Kitô đến nhận phép rửa (3,20-21).

Đề tài của cuộc hành trình xuất hiện lần đầu tiên trong một tác phẩm mà các nhân vật di chuyển nhiều: Lời bắt đầu lên đường và cuộc hành trình (mau lẹ) sẽ dẫn Lời đến tận La Mã, tượng trưng cho ranh giới cuối cùng của miền đất có người ở (Cv 1,8; 28,30-31). Việc ngự đến của thần khí tiên tri trên bà Elizabeth chắc chắn muốn nói rằng Thiên Chúa đang hành động; nhưng sự can thiệp thần linh này cần sự thông hiệp và suy tư của những con người; ở đây cũng như ở Cv 10 với cuộc gặp gỡ giữa Phêrô và Conêliô, Lời chính là sự gặp gỡ của các nhân vật.

Thực vậy, vai trò của các nhân vật không hoàn toàn thụ động. Khi đã nhận lời thiên sứ chào, Đức Maria liền chuyển giao lời ấy; và điều đó mở đầu cho tiến trình. Khi lời chào vang đến tai bà Elizabeth, con trẻ sắp sinh nhảy mừng trong dạ mẹ. Em được đầy Thánh Thần như sứ thần đã loan báo (1,15), em bé thấy hừng lên bình minh của thời đại mới và nói tiên tri bằng việc nhảy mừng và không phải bằng lời nói, khi hân hoan nhận ra sự hiện diện của Đấng mà thiên hạ đợi trông vào thời cuối cùng. Được đầy thần khí tiên tri, lúc ấy Elizabeth hiểu được đầy đủ ý nghĩa của việc vừa xảy ra trong lòng dạ bà; bà không chỉ bằng lòng nhận ra rằng Đức Maria và đứa con bà cưu mang là đối tượng cho phúc lành của Chúa. Bà còn tuyên xưng người bà con của mình là Mẹ của Chúa tôi; bà Elizabeth nói bằng chính môi miệng mình điều mà đứa con bà đã xác nhận bằng cách nhảy mừng: con của Đức Maria là Đấng Kitô, Chúa đã loan báo trong Thánh vịnh 110, câu 1 (được trích dẫn bởi Lc 20,41-44 và Cv 2,34-36).

Như vậy tiếng kêu lớn của bà Elizabeth như vậy trước hết có ý nghĩa Kitô học: điều được nói về mẹ lại đến trước sự cao cả của Người Con. Nếu Đức Maria cưu mang Đấng Cứu Thế thì thật sự Ngài được chúc phúc hơn mọi phụ nữ. Tự nó, việc thụ thai đồng trinh đề cao Người Con chứ không phải người mẹ – như “Tin Mừng thời thơ ấu” của Mt 1-2 đã cho thấy. Tuy nhiên, Luca cũng lưu ý đến nhân vật Maria, và qua việc đó ông cho thấy một điều mới mẻ. Lời chúc phúc liên quan tới lòng tin của Đức Maria tự căn bản khác với cô thiếu nữ trong sách tiên tri Giacaria (c. 45) và những câu 42-45 cho phép Luca quy tụ trong Đức Maria hai cái phúc, phúc vì được làm mẹ và phúc vì có lòng tin mà ông tách rời ra trong đoạn 11,27-28. Khi tin rằng các lời của Thiên Chúa sẽ được thực hiện, Đức Maria trở thành mẹ; rõ ràng đức tin của người là thiết yếu để cho những lời ấy được thực hiện. Người là mẫu mực cho những ai nghe lời, là gương mẫu cho tín hữu, là Kitô hữu đầu tiên. Người ta cũng không coi thường việc Luca căn cứ vào lời cầu nguyện và suy tư sau này của Giáo Hội về người trinh nữ thành Nagiaret. Diễn ngữ Mẹ của Chúa chắc chắn cũng là dùng để tôn vinh Đức Maria: théotokos, mẹ của Thiên Chúa, cũng như lời nguyện cầu sẽ làm thành phần thứ hai của kinh “kính mừng”.

Lúc ấy, Đức Maria xướng lên bài thứ nhất trong bốn bài thánh ca của Lc 1-2. Đó là một bức tranh ghép toàn bằng những trích dẫn Cựu ước, theo bản dịch Hy Lạp Bảy Mươi. Như thánh ca của Anna (Sm 2,1-10) được Luca đường như khuôn mẫu, thánh ca ngợi khen này có một điểm nối kết với mạch văn, chỉ có câu 48 nối liền với trình thuật trước đó khi gợi lại một cách kín đáo việc truyền tin. Tuy nhiên, kinh Ngợi khen này có ý nghĩa của nó chính nhờ việc Luca đặt nó vào chỗ này. Vai trò của bản thánh ca này làm ta nghĩ đến vai trò của các giai điệu trong một bản nhạc kịch: cử điệu tạm thời bị ngưng lại và tiếng hát lời ca biểu lộ tâm lý của nhân vật trong cảnh hoặc ý nghĩa của biến cố.

Như bà Anna, người đã thụ thai một cách lạ lùng, Đức Maria bắt đầu bằng việc diễn tả điều Ngài cảm thấy (c. 46-47). Sau đó, tới lý do lời ngợi khen: bởi vì, lúc truyền tin, Người đã nhìn đến sự thấp hèn của nữ tỳ nữ Người và bởi vì, Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều kỳ diệu; lý do này bị gián đoạn giữa chừng bởi cái phúc của người tì nữ (c. 48b). So sánh bới St 30,13 thấy rằng: mọi thế hệ sẽ khen Đức Maria có phúc vì người con mà Ngài đang mang trong dạ chứ không phải do một công nghiệp cá nhân nào. Nhưng đồng thời, dường như Luca đã muốn bày tỏ qua điều diễm phúc này một thái độ tự nhiên của Kitô hữu đối với người mẹ đầy niềm tin của Chúa. Dù thế nào đi nữa, đối với nền tảng này của các suy tư sau đó về Đức Maria, điều đáng chú ý là từ câu này trở đi Thiên Chúa là chủ từ mọi động từ, trừ hai câu trong ngoặc này: Người chỉ được diễn tả là Đấng quyền năng, thánh thiện và nhân từ (c. 48-50).

Những câu 51-53 làm thành phần thứ hai cho thấy cảnh đổi lộn các tình huống và giá trị làm nổi bật bước chuyển từ thế giới này sang thế giới mới. Sự can thiệp cứu độ của Thiên Chúa, được bắt đầu với việc thụ thai con người, là Đấng Mêsia, sẽ ưu tiên xét xử công bình cho người thấp hèn, kẻ bị chà đạp. Đó là một suy tư mà Luca ưa thích và ông sẽ khai triển dài hơn khi trình bày các mối phúc và những nỗi bất hạnh (Lc 6,20-26) để giải thích luận đề này. Chúng ta hãy chỉ ghi nhận rằng bố cục của Luca đã đặt trên môi miệng Đức Maria một ngôn ngữ sẽ làm nổi bật tính cách hiển thị của Vương Quốc trong lời rao giảng của Đức Giêsu.

Trong phần kết, sự can thiệp có tính cách cứu độ bắt đầu thực hiện lời hứa với các tổ phụ, cho con cháu của Abraham (cc. 54-55). Luca cẩn thận không nói trước đến đề tài lương dân vào đạo, cũng như tô điểm cho bài thánh ca màu sắc Kitô học hậu-Phục Sinh.

Đức Maria ở lại nhà bà Elizabeth độ ba tháng. Đối với Luca, khoảng thời gian trong khi Đức Maria xa cách Giuse là một dấu chỉ, dưới mắt độc giả, xác minh cho việc thụ thai đồng trinh. Đồng thời, không có vấn đề Đấng Mêsia hiện diện – dù là trong dạ mẹ – vào ngày vị tiền hô sinh ra! Đức Maria trở về nhà mình.