Chúa Nhật I Mùa Vọng - Năm C
NGÀY ĐẠI HỌA
SƯU TẦM

Ngày chung cuộc sẽ đến bất ngờ. Yếu tố bất ngờ là đặc điểm trong ngày tàn của Giêrusalem và ngày thế mạt.

1. Ngày tàn của Giêrusalem

Khi nào thành phố bị quân đội ngoại bang bao vây, bấy giờ người ta mới ý thức được cái nguy cơ suy vong và huỷ diệt. Có người sẽ lên núi lánh nạn và nếu ai đang ở ngoài đồng sẽ không vào thành vì sự tàn phá thật khủng khiếp. ‘Vì chưng sẽ có sự khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị bắt đi làm tôi’. Lúc này dân chúng cảm thấy rất là yên ổn, hãnh diện về thành trì và đền thờ, nhưng một mai họ sẽ thấy cả hai chỉ còn là phế tích và sẽ chứng kiến cảnh tượng quốc gia hấp hối. Ngày đó, thật haĩ hùng. Điềm đó phải là ám hiệu báo động cho con người. Sẽ có ngày vũ trụ cũng tiêu ma như số phận của Giêrusalem.

2. Ngày tàn của thế giới

Bất thần ngày tân diệt sẽ đến, tai ương hoành hành trên trời và lòng người đầy âu lo. Đất bằng rung chuyển, ba đào dồn dập, niềm sợ hãi xâm chiếm mọi người. Lúc đó Con Người sẽ xuất hiện trong ánh huy hoàng. Đó là ngày tận số của thế giới, của các kẻ thù nghịch với Đức Kitô, của những ai quá tin nơi mình và vênh vang về công trạng của mình. Giờ phút hãi hùng ư? Đúng thế. Nhưng hãi hùng đối với những kẻ thù nghịch. Còn đối với các Kitô hữu đang sống trong hy vọng mong chờ Chúa đến. Những người thiết tha mong mỏi và khẩn nài Người trở lại thì đó lại là phút giây giải thoát. ‘Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến’. Hãi hùng sẽ đổi thành hoan lạc cho các Kitô hữu. Họ ý thức rằng cánh chung chính là khởi đầu. Vì đó là sự biến đổi, là sự quy hồi của muôn vật. Đấng Kitô mà lúc này đây ở Giêrusalem, đang bị trao nộp vào tay các kẻ thù và bị họ lên án tử mai ngày sẽ đóng vai thẩm phán uy quyền tuyên án trừng trị kẻ thù. Chúng ta đừng để thế gian lung lạc và lướt thắng…Phải nhớ đến ngày cánh chung và sống sao cho xứng vơí viễn tượng đó… Như thế cánh chung sẽ không còn là biến cố hãi hùng nhưng là bình minh hoan lạc trong tin vui Chúa quang lâm.

3. Dấu chỉ.

Không có dấu gì báo trước hay có thể tính toán chính xác ngày thế mạt. Những dấu chỉ mà Đức Giêsu cho biết nói lên tai hoạ đã bắt đầu. Lúc đó mới chuẩn bị thì đã quá muộn. Đức Kitô đã quả quyết rất rõ: người ta không thể biết ngày giờ xảy ra. Nếu có điềm báo thì chúng chỉ làm vướng víu chứ không ích lợi gì vì người ta cứ lao mình vào cuộc sống cũ và chỉ đổi đời khi nguy cơ hiện ra rõ ràng. Như thế họ sống một cuộc đời bấp bênh trong khi đáng lý họ luôn phải ở trong thế sẵn sàng.

Tuy nhiên cũng còn một dấu chỉ, một dấu chỉ duy nhất mà Đức Kitô sẽ cho thấy. Đó không phải là một thời điểm nhưng là một hiệu lệnh báo động: sự tàn phá Giêrusalem hay nói một cách rộng rãi vận mệnh của dân tộc Israel. Trong lịch sử loài người, Do thái giáo là một điểm thắc mắc to lớn. Ngay cả sự kiện hiện hữu, tính đặc thù của lòng tin, các kinh thư, nền luân lý và nhất là những chặng đường lịch sử diệu kỳ của dân tộc này đều là những hiện tương không thể giải thích theo thường tình. Israel là một vấn đề cao siêu, và xét theo bản chất sâu xa, nó là một vấn đề tôn giáo. Đó là một dân tộc thuộc về Thiên Chúa qua các sự kiện tuyển chọn, khước từ và sau cùng là cứu chuộc. Sự từ bỏ một dân đã chọn là một dấu báo động to lớn. Giêrusalem bị tàn phá và đền thờ bị triệt hạ đối với mọi người và mọi dân tộc, là một dấu chỉ cảnh cáo những kẻ từ bỏ Đức Kitô. Dấu chỉ là ở chỗ đó. Đó là lý do khiến Đức Kitô nối kết hai biến cố tận diệt Giêrusalem và thế mạt lại đến độ trùng hợp với nhau. Đức Giêsu luôn luôn trình bày hai biến cố đó song song với nhau về mặt tôn giáo chứ không phải về thời gian. Với ý nghĩa đó, sự sụp đổ của Giêrusalem là lời cảnh tỉnh nghiêm khắc mà người ta không thể im im được. Có lẽ nó sẽ giúp cho thế giới tránh khỏi một cuộc tàn phá ghê sợ. Với ngôn ngữ và diễn từ đó, Đức Giêsu chẳng màng tranh chấp với ai nữa. Những ngày còn lại trong đời, người dành để giảng dạy dân chúng. Người không đả phá đối phương và họ cũng để cho Người yên ổn. Không còn tranh chấp nữa và tất cả đều án binh bất động. Thế nên, Thánh Luca khẳng định vắn tắt: ‘ban ngày Người giảng dạy trong đền thờ, còn ban đêm thì Người đi nghỉ trên núi Cây Dầu. Và từ sáng sớm, toàn dân đến nghe Người giảng dạy trong đền thờ’. Đồng thời Thánh Luca tiết lộ thêm một chi tiết: ‘các thượng tế và luật sĩ tìm cách giết Chúa Giêsu nhưng họ lại sợ dân chúng’.