Chúa nhật VII Phuc Sinh - Năm B
RAO GIẢNG TIN MỪNG CHÚA CHO THẾ GIAN
Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

Các Tin mừng để lại cho chúng ta 5 trình thuật hiện ra của Chúa Giêsu phục sinh cho các sứ đồ: Mt 28,16-20; Mc 16,14-20; Lc 24,36-39; Ga 20,19-29; Ga 21,1-23. Thay vì phối hợp các chi tiết theo một thời biểu giả tạo, thiết tưởng nên theo sự gợi ý của Descamps mà xếp đặt chúng (ít nhất trong tâm tưởng) "thành 5 cột song song ... như bấy nhiêu cách diễn tả văn chương về cùng một loại thị kiến Đấng Phục sinh ban cho các sứ đồ" (Albert Descamps, La structure des récits évangeliques de la Résurrection, trong Biblica 40 (1959) tr.741, chú thích 1). Một truyền thống lịch sử vững chắc đã cống hiến cho các tường thuật gia một sơ đồ chung, theo đó các sứ đồ sau khi tỏ vẻ ngờ vực, rốt cùng đã nhận ra Chúa Giêsu đang sống qua nhiều kinh nghiệm khách quan, và đã hiểu rằng Đấng Phục sinh truyền lệnh cho họ tiếp tục chương trình thiên sai khởi từ Giêrusalem. Trên sơ đồ chung này, mỗi tác giả hình ứng đã ghép thêm nhiều khai triển riêng, tùy theo các truyền thống đặc biệt và các ý hướng thần học riêng tư của mình.

Đoạn văn Mc 16,15-20 của chúng ta là một trong năm trình thuật lịch sử-thần học đó. Nó tập trung như các trình thuật khác trên sứ mệnh phổ cập của các sứ đồ, và chia sẻ với Lc 24,36-53 - mà nó lấy cảm hứng - cái đặc điểm là kết thúc với việc Thăng thiên-hữu hình. Ngoài ra, chỉ duy mình nó là chẳng cho một xác định nơi chốn nào cả: không có gì hỗ trợ sự ưu tiên (có lẽ có) của những cuộc hiện ra tại Galilê trên những cuộc hiện ra tại Giêrusalem hay ngược lại. Cố ý hay không, tác giả chỉ tập trung tất cả chú ý của chúng ta vào điểm cốt tùy: sứ mệnh được trao cho các môn đồ.

1) SỨ VỤ LỆNH PHỔ QUÁT

c15: "Và Người (Chúa Giêsu) nói với họ (nhóm Mười một): "Hãy đi khắp cả thiên hạ, rao giảng Tin mừng cho mọi loài thụ tạo.

c16: Ai tin cùng chịu thanh tẩy thì sẽ được cứu, còn ai không tin thì sẽ bất luận tội.

c17: Và này những dấu lạ sẽ tháp tùng kẻ tin: nhân danh Ta, chúng sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng.

c18: Chúng sẽ cầm rắn thẳng tay, và dẫu có uống nhằm thuốc độc, thuốc độc cũng chẳng hại được chúng; chúng đặt tay cho kẻ liệt nào và họ sẽ được an lành mạnh khỏe".

a- Sai phái các kẻ rao giảng Tin mừng (c. 15)

Người ta thình lình đi từ lời trách móc nghiêm khắc về sự cứng lòng (c.14) sang sứ mệnh phổ cập. Tác giả giản lược hóa: chắc chắn ông giả thiết rằng nhóm Mười một, như Tôma trong trình thuật Gioan, đã chậm tin khi Chúa Giêsu tỏ mình cho họ; nhưng ông không quan tâm đến việc các môn đồ "nhận ra" Chúa Giêsu, cũng chẳng tìm cách thể chất hóa sự "tỏ hiện" của Người: ông đi thẳng vào sứ vụ lệnh.

Lời phát biểu mệnh lệnh này, "biểu lộ cách tuyệt diệu tinh thần Kitô giáo" (V.Taylor, The Gospel according to Saint Mark, London, 1957, tr.612), không thể bắt nguồn y nguyên như thể từ Chúa Giêsu, cũng như lời phát biểu tương tự trong: Mt 28,19-20. Nếu Chúa Giêsu đã ban cho nhóm Mười Một một mệnh lệnh rõ ràng và cấp thiết như thế, thì ta không cắt nghĩa được tại sao đã phải cần một sự can thiệp rất đặc biệt của Thánh Thần để thúc đẩy Phêrô rửa tội cho lương dân (Cv 10; 11,1-18; 15,7-11). Dĩ nhiên, trước khi tử nạn, Chúa Giêsu cho biết rằng những lương dân ngay chính sẽ được đón nhận vào Vương quốc Thiên Chúa trong thời cánh chung (Mt 8,11-12; 25,32; x.11,20-24; 12,41...). Nhưng khi đặt cơ cấu cho cộng đoàn thiên sai bằng lời hứa ban quyền năng tông đồ, Người đã không nói rõ khoảng cách kéo dài giữa cuộc sống lại và cuộc Quang lâm của Người, cũng chẳng loan báo việc lương dân lần hồi đi vào Giáo hội trước ngày Chung thẩm (xem J.Jeremias, Jésus et les paiens, Neuchâtel. Delachaux et Niestlé, l956; J. Dupont, Jésus et les paiens, trong Rythmes du monde, 1957, tr.76-88). Thành thử dưới ánh sáng của các sấm ngôn Cựu ước và thái độ chỉ rao giảng cho người Do thái của Chúa Giêsu, các sứ đồ có thể đã tin rằng sau cuộc Phục sinh đặt Người làm Chúa của toàn thể vũ trụ, là tiếp liền cuộc Quang lâm của Người, và rằng chính Thiên Chúa gây nên lập tức sự trở lại thình lình của toàn thể thế giới bằng những điều kỳ diệu.

Dần dần họ hiểu rằng việc trở lại này không chờ đợi sự hoàn thành tối hậu của thời cánh chung mà cuộc phục sinh của Chúa Giêsu chỉ mới mở đầu, và rằng Chúa Giêsu vinh hiển đã trao cho chính họ nhiệm vụ khai mạc, ngay từ dưới thế, Chúa Quyền (eigneurie) của Người trên mọi dân tộc. Sự ý thức này đã được Thánh Thần hướng dẫn (Lc 24,49: Cv 1,8). Đặc biệt ý thức đó đã được hối thúc nhờ việc kêu gọi Phaolô và nhờ những cuộc tranh luận mà ông này đã tự động khởi xướng (x. Cv 15; Cl 2).

Trong đoạn kết của Maccô đây, tư tưởng trên đã tiến tới đích điểm. Sứ mệnh của Giáo hội bên cạnh lương dân đã trở nên rõ ràng, không chối cãi. Người ta chẳng còn gặp thấy ở đây lời đề cập đến quyền ưu tiên được rao giảng Tin Mừng của dân Do thái, vốn đã được thánh Phaolô không ngừng tôn trọng và đã được thánh Lc gợi lên (Lc 2-1,4; 7,1 "khởi từ Giêrusalem"; Cv 1,8: "Giêrusalem” trong toàn cõi Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất (x. Cv 13-6t)

Thật vậy, lời phát biểu của c.15 xuất hiện khá trễ và tùy thuộc nhiều nguồn ảnh hưởng rất khác nhau (vốn không nhất thiết là những vay mượn trực tiếp). Tiếng đầu tiên ‘hãy đi’ cũng là tiếng dùng trong câu nói (logion) song song của Mt 28,19: các sứ đồ phải rời Giêrusalem để đi đến với mọi người "khắp muôn dân". Sứ mệnh đòi hỏi một việc khởi hành, ra đi khỏi xứ sở, khỏi môi trường xã hội hay khỏi vũ trụ tinh thần của mình. Đối với các sứ đồ, vấn đề là phải đi ra khỏi môi trường Do thái để đến "tận cùng trái đất" (Is 49,6), nghĩa là để quay về với lương dân, mặc dầu họ gần hay xa trên phương diện địa lý (x. Cv 13,46t).

Các chữ “hãy loan báo Tin mừng" thuộc ngôn ngữ truyền giáo chung của Giáo hội sơ khai; nhưng Maccô đã thích chúng cách đặc biệt, và chỉ mình ông trong bốn thánh sử viết "Tin Mừng" là không thêm một xác định nào khác, có lẽ do ảnh hưởng của Phaolô. Hai tiếng "loan báo" và "Tin mừng" được nối kết trong Mc 1,14; 13,10 (Mt 24,14); 14,9 (Mt 26,13), cũng như trong bản văn chúng ta đây. Bản văn này đặc biệt rất gần với phần Maccô thêm vào trong diễn từ cánh chung của Chúa Giêsu: trước lúc Con Người đến trong vinh quang, các môn đồ đã phải làm chứng trước quyền bính dân ngoại, "vì trước hết Tin mừng phải được loan báo cho mọi dân tộc” (13,10).

Do động từ kerussein (loan báo), thông dụng trong sách Cv, phát xuất kerugma, "lời rao giảng" hay Sứ điệp, mà trong thực tế tương đương với Tin mừng. Các sứ đồ của những kẻ truyền bá Tin mừng, là những truyền lệnh sứ của Sứ điệp cứu rỗi vui tươi. Trong các diễn từ của Công vụ, "lời rao giảng" sơ yếu và "đánh động" thường nói về cuộc sống, nhưng nhất là về cái chết, sự sống lại và sự tôn vinh Chúa Giêsu, rồi loan báo việc Người trở lại như thẩm phán và Cứu Chúa. Đoạn kết giản lược của Maccô chẳng nói gì về đối tượng này của Sứ điệp hay của lòng tin tương ứng cả. Nhưng không thể hồ nghi rằng: đối với tác giả cũng như đối với tất cả lời rao giảng sơ khai, trung tâm của Tin mừng là cuộc tử nạn và sự tôn vinh Chúa Giêsu, được quan niệm như là một hành vi cứu chuộc cao cả duy nhất của Thiên Chúa: tác giả mặc nhiên ám chỉ điều này qua việc đặt sứ vụ lệnh nằm giữa cuộc phục sinh và Thăng thiên hữu hình. Vì đã thấy Chúa Giêsu lại sống và biến dạng, các sứ đồ sẽ phải loan báo khắp nơi biến cố trung tâm của lịch sử nhân loại ấy và ý nghĩa của nó cho thế gian; vì đã thấy được nâng lên trời "Đấng mà hiện trời cao phải đón lấy cho đến thời buổi phục hồi vạn vật" (Cv 3,21), họ sẽ phải loan truyền rằng "chính Chúa Giêsu ấy sẽ đến cùng một thể như các ông đã thấy Người đi về trời".

Chính cho "mọi loài thụ tạo" mà Tin mừng được gọi đến. Thành ngữ tương đương với thành ngữ của Mc 13,10 và Mt 28,19: "mọi dân tộc". Vẫn biết chỉ con người mới có thể nghe lời rao giảng và đáp lại bằng đức tin. Nhưng chắc rằng tác giả, trong đường hướng của Phaolô (Rm 8, 19-22; Cl 1,1-23), cũng nghĩ tới âm hưởng mầu nhiệm của công trình cứu độ trên toàn thể vũ trụ.

b- Đức tin, lời đáp trả sứ điệp (c. 16)

Các lời rao giảng của Cv đều kết thúc bằng một lời kêu gọi hãy thống hối và đón nhận ơn tha tội bằng cách tin vào Chúa Giêsu và nhận lãnh phép rửa. Thành thử đức tin là sự đáp trả lời rao giảng (Cv 2,41; 8,12t; 11,20t; 14,1; 15,7; 17, 11-12.34; Rm 10, 14) và được liên kết với phép rửa một cách minh nhiên trong các bản văn (Cv 2,41; 8,12; 8,36tt; 16;33t). Ở đây cũng vậy, đức tin và việc chịu phép rửa là hậu quả tự nhiên của thái độ đón nghe Sứ điệp, được phát sinh bởi lời rao giảng, hành vi gắn bó đầu tiên với Chúa Kitô bằng đức tin (thì aoriste hy lạp chỉ một hành vi xác định, như trong Cv 2,44; 4,32) là điều kiện của ơn cứu rỗi; và ơn cứu rỗi này, được đặt tương phản với án phạt (trong ngày chung thẩm), xuất hiện như ơn cứu rỗi cánh chung, công trình của Chúa Kitô thẩm phán trong cuộc Quang lâm sau cùng của Người (x. Cv 3,20; 10,42t; 17,3ot; Rm 5, 10; 8,24; 13, 11; Pl 3,24 v.v ...). Niềm vui này được tuyên xưng cách công khai trong việc lãnh nhận phép rửa, phép rửa này trở nên như dấu ấn của niềm tin và đem lại cho tín hữu, cùng với ơn tha tội, chính ơn huệ của Thánh Thần, là hoa trái đầu mùa hay là bảo chứng của ơn cứu rỗi (x Rm 8,23; 2Cr 1,22; 5,5; Ep 1,14).

Việc nhắc đến sự luận tội các kẻ không tin, mặc dù được đưa vào theo lối đối chiếu phản đề, vẫn không phải là giả tạo. Đối với Gioan, từ chối không tin chẳng phải là trọng tội và gần như là trọng tội duy nhất đó sao? Nhưng không có vấn đề kết án hỏa ngục cho bao nhiêu người vì ngay tình mà ở ngoài giáo hội (P.Benoit, Passion ét Résurrection du Seigneur. Paris, Cerr, 1966, tr.383-384, nhấn mạnh điều này); các thần học gia giải thích rằng: họ sẽ có thể được cứu thoát nhờ đức tin và nhờ phép rửa bằng ước muốn.

c. Các dấu lạ (cc. 17- l8)

Trước khi chết, Chúa Giêsu đã thực hiện nhiều phép lạ và trừ quỷ dựa trên sức mạnh của lời Người; nhưng các Tin mừng Nhất lãm, vì phản ánh sự dè dặt của Người, nên khi nói về các việc quyền năng đó, đã tránh dùng chữ "dấu chỉ" vốn vẫn được sử dụng bởi đối phương, những kẻ ao ước chuyện ngoạn mục kỳ lạ. Nhưng sự dè dặt này biến mất trong phần còn lại của Tân ước, kể cả đoạn kết của Maccô đây, nơi hai lần đề cập tới việc "tháp tùng" của các dấu chỉ.

Ở câu 17, Chúa Giêsu hứa rằng các dấu chỉ sẽ tháp tùng "những kẻ tin" mà câu trước vừa đề cập tới. Thành thử thoạt nhìn, người ta tưởng đấy không phải là những phép lạ của các sứ đồ, song là những phép lạ được thực hiện bởi các thính giả đã tin; vì thế, Chúa Giêsu chẳng nói ‘các ngươi sẽ trừ quỷ’ nhưng ‘họ sẽ trừ’. Đàng khác, các dấu chỉ lại xuất hiện ở câu 20, với cùng việc sử dụng lạ lùng động từ "kèm theo", và chúng đóng vai trò củng cố lời của nhóm Mười Một, nhưng tác giả không nói rõ bởi tay ai mà chúng được làm.

Những điểm mơ hồ này có thể được biện minh bằng nhiều cách khác nhau. Không chối bỏ ơn làm phép lạ của nhóm Mười một, tác giả biết rằng họ là những tín hữu đầu tiên đã được hứa ban ơn đó, như Chúa Kitô trong Gioan hàm ý khi tuyên bố với nhóm sứ đồ: "Kẻ nào tin vào Ta, thì các việc làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa” (Ga 14,12). Nhưng tác giả cũng cho hay rằng đặc sủng làm phép lạ, trừ quỷ, nói các thứ tiếng cũng đã được ban cho các tín hữu (x. 1Cr 12,28t), đôi lúc còn cho nhiều môn đồ không công khai nữa (x. Mc 9,38-40). Ông biết ngoài nhóm Mười Một, có nhiều "sứ đồ" khác được hưởng cùng đặc ân, nhất là Phaolô, Barnabê (Cv 14,3 ...). Sau hết ông cũng cho hay rằng những dấu lạ kèm theo và củng cố lời rao giảng của các sứ đồ không luôn luôn được thực hiện bởi tay họ, nhưng lắm lần Thần Khí xem ra đã hành động trực tiếp trong và qua các thính giả, như trường hợp "nói các thứ tiếng" của Cornêliô (Cv 10 44-46; x. Gl 3,4t ...). Chắc hẳn đó là những lý đo giải thích cho thấy: vì vừa muốn vắn gọn vừa muốn chính xác, tác giả đã sử dụng nhiều kiểu nói hơi tối nghĩa và vụng về.

Các dấu chỉ hứa ban và vốn có giá trị như những thí dụ thích hợp với cái thời mà Kitô giáo phát sinh giữa lòng một ngoại giáo mê tín, được soi sáng nhờ sách Công vụ. Phaolô đuổi quỷ (Cv 10, 18) cùng thản nhiên giũ con rắn độc quấn vào tay ông (28,3-5; x. Lc 10, 19). Trong lễ Ngũ Tuần, nhóm Mười Một được xem như nói nhiều thứ tiếng ngoại quốc (2,3-11); trong lúc ở nhiều trường hợp khác, Cornêliô và thân thuộc (10,44-46), nhóm môn đồ của Gioan ở Êphêsô (19,6), những người Côrintô (1Cr 14) và chính Phaolô (14,18) nói một ngoại ngữ xuất thần. Nhờ việc đặt tay, Anania chữa lành Phaolô (Cv 9,12-l7) và Phaolô chữa lành cha của Publius (28,8). Theo lời Papias thì ông Giustô, kẻ từng tranh cử với Matthias để thay chân Giuđa trong Cv 1,23, "đã uống phải thuốc độc nhưng không bị khó chịu chút nào nhờ ơn của Chúa" (Eusèbe, Hiist. Eccl. III,39).

Chúa Giêsu đã tập cho các môn đồ thân tín nhất của Người sử dụng quyền trong chữa bệnh và trừ quỷ (Mt 10,8; Mc 3,15; 6,13; Lc 9,1; 10,9). Bây giờ họ sắp biểu dương, qua các dấu chỉ ấy, quyền lực cứu độ của Đấng phục sinh (chính "nhân danh Người" mà họ sẽ trừ quỷ) và như thế cho thính giả biết rằng lời của họ đáng tin tưởng. Sau họ, và bây giờ cũng thế, Chúa của Giáo hội và của thế giới đã tiếp tục và đôi khi đang tiếp tục "tỏ dấu chỉ" cho con người qua nhiều phép lạ vật lý. Tuy nhiên những phép lạ này đã trở thành một vũ khí rất đặc biệt của các tay thợ Tin mừng để hỗ trợ cho những dấu chỉ thiêng liêng hơn. Đức kiên nhẫn (2 Cr 12, l2) lòng vững tin và tính vô vị lợi (1Tx 2,2-12) Của các nhà truyền giáo, phẩm chất nội tại của Sứ điệp, sự hợp nhất và thánh thiện của một cộng đoàn (Ga 13,35; 17,21) làm nên những dấu chỉ thông thường giúp Lời tác động trong các con tim, một khi sự tự do của đức tin và hành động nội tại của Thánh Thần dã được bảo đảm.

2) LÊN TRỜI.

c19: “Vậy sau khi đã nói với họ rồi, Chúa Giêsu được nhắc về trời và ngự bên hữu Thiên Chúa".

Sau khi "đá quả giao banh" cho sứ mệnh các sứ đồ Chúa Giêsu được trình bày như được nhắc về trời để nhận lấy Chúa quyền trên tất cả nhân loại (x. Cv 10,36; Rm 14,9), quyền là các sứ đồ phải loan báo và đề ra cho đức tin của người Hy lạp cũng như người Do thái (Rm 10,9-13), trong lúc chờ đợi quyền đó thi thố hoàn toàn vào ngày Quang lâm của Thẩm phán tối cao. Thật ra, trong câu tóm tắt của mình, tác giả đã gan dạ nối kết, theo một sự liên tục thời gian giả tạo, hai thực tại không cùng một bình diện: một bên là cuộc tỏ mình hữu hình kết thúc chuỗi Kitô hiện để mô tả cuộc tỏ mình này, tác giả đã mượn công thức "nhắc về trời" từ trình thuật của Cv 1,1-11 bên kia là việc siêu tôn trên trời đi liền với việc Phục sinh (x. Ep 4,10; 1Tm 3,16; Dt 4,14; 6,19t; 9,24 v.v.) (Xem P.Benoit, L’ascension, trong Revue Biblique LVI (1949), tr.161-203 (= Exégèse ét théologie I, Cerf xb, 1961, tr.363-411); và mục Ascension của cùng tác giả trong Vocabulaire de théologie biblique). Dù việc "nhắc lên" này mà Cv 1,3 đã đặt 40 ngày sau Phục sinh và được mô tả cũng bằng những danh từ như cuộc nhắc lên của Elia (2V 2,11) có tính cách đặt chắc trên phương diện lịch sử đến đâu, thì vẫn là một biến cố tự bản chất thuộc về chứng từ nhân loại; trái lại cuộc siêu tôn trên trời là một mầu nhiệm chỉ hiểu được bằng lòng tin mà thôi.

Mầu nhiệm tôn vinh Chúa Giêsu trong nhân tính thánh thiện của Người như thế được diễn tả ở đây, cũng như nhiều nơi khác (x. Rm 8,34; Ep 1,20; Cl 3,1; Cv 7,55; Dt 1,3. 13; 8,1; 10, 12; 12,2; 1 Pr 3,2 xem J.Dupont, Etudes sur les Actes des Apôtres (Lectio divina 45), Paris, Cerr, 1967, tl'. 267, 291-294; 385-390) dưới hình ảnh việc ngự bên hữu Thiên Chúa, mượn thánh vịnh 110 (109), Chính khi trích dẫn câu thánh vịnh này phối hợp với đoạn văn Đanien (7,13) gợi lên việc xuất hiện của Con Người trên mây trời, mà Chúa Giêsu đã loan báo trước Công nghị cuộc tỏ hiện sắp tới của thiên sai tính thần linh của Người (Mt 26,64-65), và chính cùng dựa trên bản văn này mà Phêrô, theo Cv 2,34-36, sẽ công bố trong ngày Ngũ Tuần: "Thiên Chúa dã đặt Người làm Chúa và làm Kitô". Khi phục sinh Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã siêu tôn và phong Người làm Chúa: Ngài đã ban cho người "Danh hiệu vượt trên mọi đanh hiệu” (Pl 2,9) nghĩa là đã làm rạng rỡ thần tính trên nhân tính được tôn vinh của Người, và như thế thiết lập vương quyền phổ quát cho Người.

3) LÊN ĐƯỜNG THỰC THI SỨ MỆNH

c20: “Còn họ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng họ hoạt động, và củng cố lời bằng những phép lạ kèm theo". Không nhắc tới việc Thần khí đến cũng chẳng xác định họ ra đi từ đâu, nhưng "trình bày việc rao giảng Tin mừng theo gương chim bay" (Lagrange), tác giả cho ta thấy nhóm Mười Một trao ban Sứ điệp đến khắp mọi nơi mọi chốn. Mối bận tâm của ông là quả quyết rằng: trong mọi hoạt động truyền giáo của họ, các sứ đồ và sau họ là Giáo hội mọi thời, có thể tin tưởng vào sự hiện diện vô hình nhưng hữu hiệu của Chúa Kitô đang sống trên trời với tất cả quyền lực Kyrios. Không những Chúa Giêsu củng cố, bằng những dấu lạ, lời của các sứ giả Tin mừng (so sánh với Dt 2,3 1) như Người đã loan báo trong các 17-18, mà còn kết hợp "năng lực" của Đấng Phục sinh với nỗ lực của các sứ giả khiêm cung của Người. Dưới một hình thức khác, nó cũng là ý tưởng của Mt 20,28: "Hãy đi ... và này Ta ở với các ngươi mọi ngày cho tới tận thế".

KẾT LUẬN

Khi hiện ra với mười một môn đồ vốn chậm tin vào sự phục sinh của Người như thế, Chúa Giêsu đã biến cải họ đến độ thành những nhà rao giảng gan dạ của Tin mừng, thành nền móng của Giáo hội Người lập. Nhờ họ, nhờ Phaolô và nhờ biết bao kẻ khác, Giáo hội đã lan rộng khắp hoàn vũ; nhưng còn lâu Giáo hội mới tin mừng hóa được thế giới và nhiệm vụ vẫn luôn tiếp tục. Vì thế, Chúa không ngừng nhắc nhở rằng Người hằng ở bên cạnh Giáo hội, hay đúng hơn trong Giáo hội với quyền năng soi sáng và thánh hóa mà cuộc siêu tôn trên trời đã mang lại cho Người, để khắp nơi và mọi thời, Tin mừng được cống hiến cho nhân loại và để những bảo chứng của ơn cứu rỗi được đổ tràn trên họ nhờ đức tin "thi thố bằng đức mến" (Gl 5,6). Cho các Kitô hữu nguội lạnh hay xao xuyến, cho tất cả chúng ta mà lòng dấn thân truyền giáo cần được khêu gợi, phấn kích, tăng cường. Mầu nhiệm Lên Trời nhắc nhớ rằng Chúa Kitô vinh quang luôn luôn hiện diện chủ động với Giáo hội và rằng Người cần đến chúng ta để tỏ tình ra cùng thế giới, "cho tới khi người đến lại" (1Cr 11,26). Maranatha!

Paul Ternant, Assemblées du Seigneur 28. tr.38-48

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) Việc Chúa Giêsu Kitô lên trời và ngự bên hữu Chúa Cha là cao điểm của cuộc Tử nạn phục sinh vinh hiển của Người. Từ đây, một khi đã sống lại từ cõi chết, Chúa Kitô không bao giờ chết nữa, cái chết chẳng còn quyền hành chi trên người (x. Rm 6,9). Người đã tiêu diệt sự chết để chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời; Người lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền Người (x. 1Pr 3,22).

2) Giữa những đau khổ, oan ức, những giả dối, bất công, ta hãy vững vàng tuyên xưng với toàn thể dân Chúa: "Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha và Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Nước Người sẽ không bao giờ cùng" (Đường Hy vọng 679).

3) Đối với các môn đồ, việc Chúa Giêsu Kitô lên trời muốn dạy một bài học cụ thể: “Thành Đô chúng ta là ở trên trời" (Pl 3,20); "Anh em hãy tìm kiếm những điều trên cao, nơi Chúa Kitô đang ngự" (Cl 3,1). Điều đó không có nghĩa là phải xuất thế, xa lánh trần gian. Trái lại phải nỗ lực nhập cuộc, dấn thân: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho tất cả thụ tạo" (Mc 16, 15).

4) "Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và bảo đảm lời giảng bằng những phép lạ đi kèm". Khi thành công, người tông đồ không tự mãn vì ý thức rằng kết quả có được là bởi Chúa: "Không có Ta, các con không làm được việc gì" (Ga 15,5).

Lúc thất bại, người tông đồ không nản chí, tuyệt vọng: "Hãy nhìn lên Thánh giá, ôm choàng lấy Thánh giá và con sẽ thinh lặng đứng vững như Mẹ Maria" (x. Đường Hy vọng số 694).

5) Chúa Giêsu không còn hiện diện trên trái đất này như xưa, nhưng vẫn còn hiện diện cách hữu hình trong Hội Thánh hữu hình, trong lời Tin Mừng, trong các bí tích, trong những kẻ thay mặt Người. Chúa Giêsu còn hiện diện để kiện toàn Nước Thiên Chúa với chúng ta, là những kẻ phải làm chứng cho Người, phải làm cho trần gian thấy Người. Tại sao cứ đứng đó mà nhìn lên trời? Phải dùng ơn Chúa ban mà xây dựng nước Trời ngày này sang ngày khác, trong bác ái, hy sinh, khiêm tốn, để làm cho con người sống xứng đáng nhân phẩm, để loại trừ khổ đau và tội lỗi, để mọi người biết sống công bình, hòa thuận, yêu thương.