Chúa Nhật XXVI thường niên - Năm A
DỤ NGÔN HAI NGƯỜI CON
Suy niệm của Lm Đan Vinh

I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

1) Ý CHÍNH: DỤ NGÔN HAI NGƯỜI CON.

Qua dụ ngôn “hai người con”, Đức Giê-su muốn gián tiếp cảnh cáo thái độ giả hình của bọn đầu mục Do thái, và kêu gọi họ hoán cải để được cứu độ. Dụ ngôn trình bày hai thái độ khác nhau của hai người con trước cùng một yêu cầu của người cha như sau:

- Người con thứ nhất (c 28-29): Lúc đầu đã từ chối không vâng lời cha. Nhưng sau đó nghĩ lại mà lại đi làm vườn nho cho cha. Đứa con này tượng trưng cho các người thu thuế và tội lỗi.Tuy đã phạm tội, nhưng sau đó đã hồi tâm tin theo Đức Giê-su mà quay về với Thiên Chúa.

- Người con thứ hai (c 30-32): Lúc đầu đã ngoan ngoãn vâng lời cha. Nhưng thực tế nó lại không đi làm vườn nho theo ý cha. Đứa con này tượng trưng cho các thượng tế và kỳ mục. Tuy giữ luật Mô-sê trong từng chi tiết, nhưng họ lại từ chối không tin Gio-an Tẩy giả, là người đã đến chỉ đường công chính cho họ, tức là dạy những điều Thiên Chúa muốn (c 32).

Cuối cùng Đức Giê-su kết luận: “ Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông “ (c 31).

2) CHÚ THÍCH:

- (c 28) Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ong ta đến nói với người thứ nhất: “Này con hôm nay con hãy đi làm vườn nho”.:

+ Các ông nghĩ sao?: Các ông ở đây là các thượng tế và kỳ mục dân Do thái tại Giê-ru-sa-lem (x Mt 21,23-27). Họ đòi Đức Giê-su phải chứng minh về quyền giảng dạy của Người bắt nguồn từ Thiên Chúa (c 23). Để trả lời cho đòi hỏi ấy, Đức Giê-su đã lái vấn đề là đòi họ phải xác định nguồn gốc sứ mệnh của Gio-an Tẩy giả: “Phép rửa của Gio-an do đâu mà có? Do trời hay do người ta?”. Nếu họ bảo là do trời, thì tại sao lại không tin Đức Giê-su là Người mà Gio-an đã xác nhận là Đấng Thiên Sai?

+ Một người kia có hai con trai: Người kia là cách nói trống ngôi, ám chỉ Thiên Chúa. Cả hai con trai ở đây đều được cha đối xử công bằng và khách quan. Họ tượng trưng cho hai thành phần dân Do thái là các người tội lỗi và các người tự nhận là công chính.

+ Người con thứ nhất: ám chỉ các người thu thuế và các cô gái điếm tội lỗi. Lúc đầu những người này đã từ chối không chịu làm theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Nhưng về sau, họ đã tin theo Đức Giê-su mà ăn năn sám hối và trở thành con ngoan của Thiên Chúa.

+ Hôm nay: Hôm nay là thời điểm hiện tại, ý nói về sự cấp bách cần phải làm ngay. Chẳng hạn Đức Giê-su đã tuyên bố về thời điểm cứu độ tại hội đường Na-da-rét như sau:” Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21).

+ Con hãy đi làm vườn nho: Đi làm vườn nho tức là làm theo ý Thiên Chúa.

- (c 29) Nó đáp: “Con không muốn đâu!” Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi “:

+ Con không muốn đâu: Câu trả lời cho thấy thái độ từ chối không tuân lệnh của cha. Điều này ám chỉ những kẻ tội lỗi đã sống ngược với thánh ý Thiên Chúa thể hiện qua thái độ không tuân giữ các giới răn Thiên Chúa và lề luật Hội Thánh.

+ Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi: Ở đây không cho biết lý do tại sao người con thứ nhất hối hận. Chỉ biết rằng nó đã nhận ra lỗi mình và hoán cải để vâng ý cha mà đi làm.

- (c 30) Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: “Thưa ngài, con đây!” nhưng rồi lại không đi:

+ Ông đến gặp người thứ hai: Người thứ hai là những người có vẻ công chính, ám chỉ các đầu mục của dân Do thái là các thượng tế và kỳ mục.

+ Thưa Ngài, con đây!: Đây là câu trả lời lễ phép của một đứa con ngoan ngoãn hiếu thảo, sẵn sàng vâng nghe lời cha dạy bảo.

+ nhưng rồi lại không đi: Đứa con này mới chỉ vâng lời cha bằng môi miệng, nhưng lòng anh ta lại ở xa cha, nên sau đó đã không đi làm vườn nho theo lời cha dạy. Anh ta đã có thái độ “ngôn hành bất nhất”, “nói mà không làm”, chứng tỏ anh có một đời sống vụ hình thức bề ngoài. Đây là thái độ đạo đức giả của các đầu mục Do Thái là các thượng tế và kỳ lão. Họ giữ luật Mô-sê trong từng chi tiết nhưng lại không tin vào Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến là Đức Giê-su.

- (c 31) “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?”. Họ trả lời: “Người thứ nhất”. Đức Giê-su nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông”:

+ Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?: Đặt ra câu hỏi này, Đức Giê-su muốn gián tiếp cho thấy thái độ mâu thuẫn của các đầu mục dân Do Thái

+ Tôi bảo thật các ông: Đức Giê-su muốn nhấn mạnh sự thật mà Người sắp bày tỏ

+ Những người thu thuế và những cô gái điếm: Đây là hai hạng người bị xã hội Do Thái khinh dể, vì họ không giữ luật Mô-sê và có đời sống tội lỗi, gây gương xấu cho kẻ khác.

+ Vào nước Thiên Chúa trước các ông: Ở đây không nhằm nói đến thời gian trước sau, nhưng là sự thay thế. Những người thu thuế và gái điếm vì biết hối cải mà tin theo Đức Giê-su nên họ sẽ chiếm chỗ trong nước Thiên Chúa mà Người sắp thiết lập, để thay chỗ của các đầu mục là các thượng tế và kỳ mục Do Thái.

- (c 32) “Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy”.

* Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông: Gio-an Tẩy giả bằng một lối sống khổ hạnh và bằng việc rao giảng phép rửa thống hối, đã dạy dân chúng biết những điều cần phải làm để chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Thiên Sai. Nhờ đó mà họ sẽ được nên công chính

*Mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin: Các thượng tế và kỳ mục Do Thái đã không tin lời Gio-an Tẩy Giả. Ngược lại, các người thu thuế và các cô gái điếm đã nghe Gio-an giảng và giới thiệu Đức Giê-su cho họ nên đã tin theo Người.

*Còn các ông: Các đầu mục Do Thái dù đã nhìn thấy lối sống khổ hạnh và đã được nghe lời Gio-an Tẩy Giả rao giảng thánh ý Thiên Chúa muốn cho họ “ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”, nhưng họ vẫn cứng lòng không tin Gio-an, do đó cũng không tin Đức Giê-su, nên họ sẽ không được gia nhập và nước Thiên Chúa.

II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA

1) LỜI CHÚA: Đức Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31).

2) CÂU CHUYỆN:

- NGUYÊN NHÂN SỨC MẠNH SIÊU PHÀM CỦA MỘT CÔ GÁI ĐIẾM

Một hôm nghe tin về một cô gái điếm tuy tội lỗi, nhưng lại có một quyền năng siêu phàm, vua A-đúc (Ashoka) đã triệu vời cô ta tới và yêu cầu cô thi thố tài năng để có dịp tận mắt chứng kiến và biết rõ thực hư ra sao. Trước mặt nhà vua cùng các quần thần, các đạo sĩ và đám đông dân chúng tụ tập bên bờ sông Hằng, cô gái điếm kia đã thi thố tài năng: cô có thể ra lệnh cho dòng sông đang cuồn cuộn chảy phải thay đổi chảy ngược lại, gây ra những tiếng động ầm ầm giống như long trời lở đất. Đang khi đo, các vị đạo sĩ tuy đã dày công tu luyện nhiều năm và rất am tường Phật pháp lại đành chịu bất lực trước nạn lụt hằng năm, nước sông dâng lên tràn bờ đê, gây ra cảnh lụt lội lớn lao, làm cho nhân dân dọc theo hai bên dòng sông ngày một lầm than đói khổ! Nhà vua không thể tin đươc một cô gái điếm, thuộc hạng tiện dân và tội lỗi lại có sức mạnh siêu phàm như thế. Bấy giờ vua hỏi cô gái rằng: “Do đâu mà một kẻ tội lỗi ti tiện như ngươi lại có thể làm được việc lớn lao phi thường như thế?” Cô gái đáp:”Tâu Đức vua, đó là nhờ đức hạnh của tiện nữ!”. Đức vua lại cười khẫy và văn hỏi:”Thế đức hạnh của ngươi ra sao?”. Cô đáp: “Tâu đức vua, đức hạnh của tiên nữ chính là do cách cư xử công chính đối với mọi người. Khi tiếp chuyện với bất cứ ai, dù họ là bậc quân vương, quý tộc hay đám thường dân, tiện nữ đây cũng hết lòng tôn trọng và luôn đối xử vẹn tình trọn nghĩa. Tuyệt đối không dám khinh thường hoặc gian dối với bất cứ người nào cả!”.

Như vậy, theo lời cô gái trong câu chuyện trên: Muốn có sức mạnh làm được những việc phi thường, thì người ta phải ăn ở công chính, nghĩa là đối xử công minh chính trực với mọi người. Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su đã nêu tên Gio-an Tẩy giả và đòi những ai muốn được ơn cứu độ phải tin ông Gio-an và đi theo đường công chính của ông như sau: “Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy” (c 32).

- ĐIỀU KIỆN ĐỂ LỜI CẦU XIN ĐƯỢC CHÚA NHẬM LỜI?

Một chàng thanh niên kia cứ thắc mắc tại sao Chúa không ban những ơn cần thiết cho những kẻ tin vào Người. Một hôm Chúa đã cho anh ta nằm mơ thấy mình được đi theo Chúa Giê-su khắp đó đây. Anh đã thuật lại câu chuyện xảy ra trong chuyến đi ấy như sau:

Hôm ấy khi được Đức Giê-su cho đi theo một đoạn đường đất đỏ dẫn đến một làng nghèo nàn kia, thì anh nhìn thấy một người đàn ông đang hì hục đẩy chiếc xe thồ chất đầy hàng đang bị ngã đổ nằm nghiêng một bên đường, vì bánh xe chẳng may bị sụt ổ voi trên đường. Bấy giờ người chủ xe liền quỳ xuống giơ hai tay lên trời và lớn tiếng cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa Giê-su, xưa Chúa hay thương giúp những kẻ gặp gian nan khốn khó. Xin thương cứu giúp con:Chiếc xe của con đang bị lật ở giữa nơi thanh vắng này. Con tin vào quyền năng mạnh mẽ của Chúa. Chúa chỉ cần phán một lời là chiếc xe của con sẽ lật lại được, để con có thể tiếp tục đến chợ bán hàng. Lạy chúa, xin hãy mau đến giúp con!”. Cầu nguyện rồi, ông ta cứ quỳ mãi để chờ Chúa làm phép lạ theo ý ông xin. Bấy giờ anh chàng đi theo Chúa Giê-su cảm thấy bức xúc khi nghe lời cầu nguyện của người chủ xe. Nhưng anh rất ngạc nhiên khi thấy Chúa Giê-su làm như không nghe thấy gì và cứ tiếp tục đi qua chỗ anh ta đang quỳ cầu nguyện.

Một lát sau, hai người đến gần một cái chợ, anh chàng đi theo Đức Giê-su lại nhìn thấy một cảnh đổ xe tương tự. Anh ta nghe thấy người chủ xe chỉ cầu nguyện vắn tắt như sau: “Lạy Chúa Giê-su, con đang gặp tai nạn vượt quá sức con. Xin Chúa hãy soi sáng giúp cho con biết con phải làm gì để có thể vượt qua hoàn cảnh khó khăn này”. Cầu nguyện rồi, ông ta tìm cách dựng chiếc xe đổ lên như cũ. Sau một lúc làm không được, ông ta chạy đến nhờ người đi đường đến giúp. Bấy giờ anh chàng theo Đức Giê-su thấy Người tỏ vẻ quan tâm tới người chủ xe này. Người bảo anh ta: “Con hãy mau đến hợp sức giúp anh ta một tay!”. Khi chiếc xe đã được lật lên như cũ thì người chủ xe lại cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa đã thương sai người đến giúp con”. Sau đó, hai người lại tiếp tục lên đường. Bấy giờ anh ta mới hỏi Đức Giê-su rằng: “Lạy Chúa, tại sao người chủ xe trước tha thiết cầu xin lâu giờ mà Chúa lại dửng dưng và không làm gì để giúp đỡ ông ta? Đang khi người chủ xe sau chỉ xin Chúa một câu thôi, thì Chúa lại tận tình thúc giục nhiều người đến giúp ông ta như vậy?”. Bấy giờ Đức Giê-su mới ôn tồn giải thích cho anh ta hiểu như sau: “Con không thấy lời cầu nguyện của hai người khác nhau hay sao? Người chủ xe trước đã cầu xin Ta làm phép lạ giúp cho xe ông ta được lật lên, còn chính ông ta chỉ biết chờ đợi phép lạ. Nhưng Ta không muốn người ta làm biếng làm việc và chỉ biết ỷ lại vào Ta, nên Ta đã để mặc ông ta tự xoay sở lấy. Còn người chủ xe sau chỉ dám cầu xin ơn soi sáng, rồi cố gắng làm hết sức mình để khắc phục khó khăn. Chính vì thế mà Ta đã ra tay trợ giúp bằng cách thúc giục nhiều người khác, trong đó có con, đến giúp đỡ cho ông ta”.

Như vậy, qua câu chuyện trên, tác giả muốn nói rằng: Mỗi khi gặp một điều gì khó khăn, vượt quá sức lực tự nhiên, chúng ta hãy vừa cầu xin Chúa ban ơn soi sáng trợ giúp cho ta, nhưng đồng thời cũng phải cố gắng xử dụng những phương tiện tự nhiên Chúa ban để tự mình vượt qua sự gian nan ấy. Tục ngữ có câu: “Hãy tự cứu mình, rồi Trời sẽ trợ giúp”. Hoặc câu khác: “Hãy thắp lên một ngọn đèn, chứ đừng cứ ngồi yên mà nguyền rủa bóng tối”. Còn bạn, bạn thường có thái độ thế nào khi gặp hoàn cảnh khó khăn hoạn nạn?

3) SUY NIỆM:

Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã tuyên bố một câu khiến những người đầu mục dân Do Thái đương thời phải sững sờ: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông”. Một số nhà chú giải Kinh Thánh đã giải thích từ “vào trước” không chỉ có nghĩa là “trước” so với “sau”, nhưng là “thay thế”. Vì các đầu mục Do Thái “đã không tin” (c 32), nên họ sẽ không được vào nước Thiên Chúa, chứ không phải sẽ “vào sau”. Như vậy câu này có thể được dịch lại như sau: “Những người thu thuế và gái điếm vào Nước Thiên Chúa thay thế cho các ông”. Nếu những người thu thuế và gái điếm đã vào Nước Thiên Chúa thế chỗ của các đầu mục Do Thái rồi, thì chắc họ sẽ bị loại ra ngoài Nước ấy.

- TẠI SAO CÁC ĐẦU MỤC DO THÁI LẠI BỊ MẤT CHỖ TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA?

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong bài đọc một đã nêu ra lý do thứ nhất: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính, thì chính điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết “ (Ed 18,26). Thực vậy, người ta thường nghĩ mình vẫn đang tốt khi đã từng sống tốt và được người khác đánh giá tốt, nên không ngờ có thể một ngày nào đó mình lại trở nên xấu. Để rồi đến giờ chết, khi định vào Nước Thiên Chúa, thì mới hay mình không có chỗ trong đó! Bài Tin Mừng cho biết lý do thứ hai: Người cha đến nói với đứa con thứ hai: “Con hãy đi làm vườn nho cho cha”. Nó đáp: “Thưa vâng, con đi”. Nhưng rồi nó lại không đi (Mt 21,30). Thực vậy, người ta thường hay tự lừa dối khi nghĩ rằng mình chỉ cần nói: “thưa vâng” với Chúa là đủ. Các đầu mục Do Thái đã “thưa vâng” nhiều lần khi họ tuân giữ Luật Mô-sê trong từng chi tiết. Chính chúng ta ngày nay cũng thường “thưa vâng” như thế khi giữ một số điều luật như đi lễ, đọc kinh. Nhưng những lời “thưa vâng” như thế cũng không phải là điều kiện để ta có chỗ trong Nước Thiên Chúa sau này.

- TẠI SAO NGƯỜI THU THUẾ VÀ GÁI ĐIẾM CHIẾM CHỖ TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA?

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong bài đọc một đã cho biết lý do thứ nhất như sau: “Nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh,thì nó sẽ cứu được mạng sống mình” (Ed 18,27). Lý do thứ hai là thái độ đứa con thứ nhất lúc đầu từ chối, nhưng sau đó nó hối hận nên lại đi (Mt 21,29). Thực ra cả hai câu trên đều cho thấy một lý do là: Biết hối hận về sai lầm trong quá khứ của mình và hồi tâm hoán cải. Thực vậy rất nhiều câu chuyện được diễn tả trong phim ảnh cũng như đời thường về những người có quá khứ tội lỗi như trọm cướp, trùm ma-phi-a nhưng họ không những đã được biến đổi nên người tốt, mà còn có lòng vị tha bác ái đặc biệt. Có những tú bà hay những cô gái điếm sau khi hoàn lương, đã bỏ được nếp sống nhơ nhớp trước kia, để sống một đời sống mới dạt dào tình thương yêu người khác. Họ thật xứng đáng vào trong Nước Thiên Chúa để thay thế những kẻ đã từng sống tốt, nhưng đã biến chất trở thành những kẻ giả đạo đức như bọn đầu mục Do Thái thời Đức Giê-su.

- VẬY CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ?

Ki-tô giáo là một tôn giáo của lòng tin. Nhưng lòng tin bên trong phải được biểu lộ ra bên ngoài: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2, 17). Lòng tin không phải chỉ là tuyên xưng ngoài miệng, nhưng phải được tuyên xưng bằng chính cuộc sống như Đức Giê-su dạy: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Dòng đời luôn thay đổi, và con người cũng dễ dàng đổi thay: Hôm nay có thể ta đang là một con người tốt, nhưng ngày mai lại hoá ra xấu và ngược lại. Do đó chúng ta đừng vội hãnh diện với quá khứ đạo đức của mình, đến nỗi không thấy được là mình đã thay đổi trở thành kẻ xấu. Cần năng tự kiểm vào mỗi cuối ngày để biết rõ con người thực của mình, mình có giữ lời hứa hay không. Vì dù ta có nói giỏi nói hay và hấp dẫn bao nhiêu đi nữa, nhưng nếu ta không giữ được lời đã hứa, hoặc “ngôn hành bất nhất” thì ta tự làm mất uy tín của mình và làm cho những lời ta nói không còn được mấy ai nghe. Mỗi ngày chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta thay đổi những sai lỗi hay thiếu sót để ta ngày càng sống tốt hơn và xứng đáng được Chúa đón nhận vào Nước Thiên Chúa sau này.

4) THẢO LUẬN:

Học Lời Chúa, nghe giảng Kinh Thánh có cần hay không? Học Lời Chúa cho thông suốt để đi tranh cãi hay để đi rao giảng Tin Mừng cho người khác đã đủ chưa? Việc sống Lời Chúa giữ đời thường có giá trị thế nào trong đời sống đức tin của bạn? Người ta thường nói: “Lời nói tốt xấu ra sao, thì con người tốt xấu như vậy”. Vậy hiện tại lời nói của bạn đang là lời xây dựng hoà bình và tình yêu thương hay đang gây chia rẽ, hiểu lầm và phân tán?

III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU

1) LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con thấy việc sám hối không phải là điều dễ, vì chúng con hiện chưa đủ khiêm tốn để lắng nghe người khác phê bình chỉ trích thói hư khuyết điểm của mình. Chúng con chưa dám tự nhận lỗi về phía mình như lời kinh thú nhận: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng!”. Nhưng chúng con cũng ngỡ ngàng khi thấy Chúa dù là Đấng vô tội, nhưng đã đứng xếp hàng chung với các tội nhân để chờ đến lượt được Gio-an Tẩy Giả làm phép rửa cho. Qua hành động ấy, Chúa muốn mang thân phận tội nhân giống chúng con để nêu gương khiêm nhường cho chúng con.

LẠY CHÚA. Xin cho chúng con biết năng tự kiểm về tư tưởng lời nói việc làm và những điều thiếu xót của mình mỗi ngày. Xin cho chúng con thường xuyên điều chỉnh lối suy nghĩ nói năng và hành động của mình để tránh ảo tưởng về mình, và khỏi trở thành những Pha-ri-sêu giả đạo đức trong thời đại hôm nay. Ước gì Chúa ban cho chúng con được ơn hoán cải, dám cắt tỉa đi những thói hư tật xấu nơi bản thân con. Hy vọng sau khi đã được Chúa ban ơn tha thứ như ông Gia-kêu, chúng con sẽ yêu mến Chúa nhiều hơn, sẽ quảng đại để hiến dâng cho Chúa tất cả những gì chúng con có, để Chúa sẽ ban tất cả những gì Chúa có cho chúng con.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

2) LẠY MẸ MA-RI-A. Xin cho chúng con tránh được thái độ của người con thứ hai trong bài Tin Mừng hôm nay: Thưa vâng rồi để đó không làm. Nhiều lần chúng con đã đi xưng tội, đã tham dự các buổi tĩnh tâm sám hối, đã thưa vâng với Chúa. Nhưng rồi sau đó đâu lại hoàn đó. Chúng con vẫn sống như cũ, chẵng có gì thay đổi, chẵng thêm gì mới cả!

LẠY MẸ. Xin cho chúng con biết hoán cải giống như người con thứ nhất. Tuy lúc đầu có lỗi phạm, nhưng đã hồi tâm sửa mình, thay đổi đời sống nên tốt hơn, bằng một thái độ quyết tâm đổi mới, để sẽ sẵng sàng lắng nghe lời Chúa, tìm hiểu thánh ý Chúa muốn và quyết tâm thực hành lời Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Xin cho chúng con luôn giữ lời đã hứa, nói ít làm nhiều và nhiệt thành cải thiện môi trường sống của chúng con.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.