Thứ sáu tuần thánh - Năm A
CỬ HÀNH CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA
 

1. Theo truyền thống rất xa xưa, hôm nay và ngày mai Hội Thánh không cử hành bí tích nào hết.
2. Bàn thờ hoàn toàn để trống : không thánh giá, không chân đèn, không trải khăn.
3. Khoảng 3 giờ chiều, cử hành cuộc Thương Khó của Chúa, trừ khi lý do mục vụ khuyên nên làm muộn hơn. Nghi thức này gồm ba phần : Phụng vụ Lời Chúa, Kính thờ Thánh Giá, và Rước Lễ.
Hôm nay chỉ cho giáo dân rước lễ trong nghi thức tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa mà thôi; tuy nhiên vào bất cứ giờ nào trong ngày, cũng có thể đem Mình Thánh Chúa cho những bệnh nhân nào không thể tham dự nghi thức.
4. Linh mục và phó tế, mặc lễ phục đỏ như khi cử hành thánh lễ, tiến ra bàn thờ, cúi chào rồi phủ phục xuống đất hoặc quỳ gối, và tất cả mọi người thinh lặng cầu nguyện trong giây lát.
5. Linh mục và các người giúp lễ đến ghế, quay về phía giáo dân, linh mục dang tay đọc một trong hai lời nguyện sau đây :

Lời nguyện (không đọc “Chúng ta dâng lời cầu nguyện”)

Lạy Chúa, vì yêu thương chúng con vô ngần, Chúa đã vui lòng cho Con Một Chúa đổ máu đào trên thập giá, để hoàn thành mầu nhiệm Vượt Qua, đem lại ơn cứu độ cho loài người. Giờ đây, xin Chúa nhớ lại tình thương ấy mà thánh hoá và che chở đoàn con luôn mãi. Chúng con cầu xin. ..

Hoặc :
Lạy Chúa, từ lòng mẹ, chúng con đã phải mang án chết do tội A-đam truyền lại, nhưng nhờ mầu nhiệm Con Chúa chịu khổ hình, Chúa đã tiêu diệt sự chết. Vậy giờ đây, xin Chúa ban ơn thánh hoá biến đổi chúng con nên giống hình ảnh A-đam mới là Đức Ki-tô, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

PHẦN THỨ NHẤT

PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

6. Mọi người ngồi xuống, nghe đọc bài thứ nhất, trích sách I-sai-a, rồi hát đáp ca.

Bài đọc 1 Is 52,13 -- 53,12
Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội.
Lời Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a.
Này đây, người tôi trung của Ta sẽ thành đạt,
sẽ vươn cao, nổi bật,
và được suy tôn đến tột cùng.
Cũng như bao kẻ đã sửng sốt
khi thấy tôi trung của Ta
mặt mày tan nát chẳng ra người,
không còn dáng vẻ người ta nữa,
cũng vậy,
người sẽ làm cho muôn dân phải sững sờ,
vua chúa phải câm miệng,
vì được thấy điều chưa ai kể lại,
được hiểu điều chưa nghe nói bao giờ.
Điều chúng ta đã nghe, ai mà tin được ?
Cánh tay uy quyền của Đức Chúa
đã được tỏ cho ai ?
Người tôi trung đã lớn lên
tựa chồi cây trước Nhan Thánh,
như khúc rễ trên đất khô cằn.
Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong
đáng chúng ta ngắm nhìn,
dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích.
Người bị đời khinh khi ruồng rẫy,
phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật.
Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn,
bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới.
Sự thật, chính người đã mang lấy
những bệnh tật của chúng ta,
đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta,
còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt,
bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề.
Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội,
bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm;
người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an,
đã phải mang thương tích
cho chúng ta được chữa lành.
Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu,
lang thang mỗi người một ngả.
Nhưng Đức Chúa đã đổ trên đầu người
tội lỗi của tất cả chúng ta.
Bị ngược đãi, người cam chịu nhục,
chẳng mở miệng kêu ca;
như chiên bị đem đi làm thịt,
như cừu câm nín khi bị xén lông,
người chẳng hề mở miệng.
Người đã bị ức hiếp, buộc tội, rồi bị thủ tiêu.
Dòng dõi của người, ai nào nghĩ tới ?
Người đã bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh,
vì tội lỗi của dân, người bị đánh phạt.
Người đã bị chôn cất giữa bọn ác ôn,
bị mai táng với người giàu có,
dù đã chẳng làm chi tàn bạo
và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa.
Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ.
Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội,
người sẽ được thấy kẻ nối dõi,
sẽ được trường tồn,
và nhờ người,
ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu.
Nhờ nỗi thống khổ của mình,
người sẽ nhìn thấy ánh sáng
và được mãn nguyện.
Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính,
tôi trung của Ta,
sẽ làm cho muôn người nên công chính
và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ.
Vì thế, Ta sẽ ban cho người
muôn người làm gia sản,
và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt,
người sẽ được chia chiến lợi phẩm,
bởi vì người đã hiến thân chịu chết,
đã bị liệt vào hàng tội nhân;
nhưng thực ra,
người đã mang lấy tội muôn người
và can thiệp cho những kẻ tội lỗi.
Đó là lời Chúa.

Đáp ca Tv 30,2 và 6.12-13.15-16.17 và 25 (Đ. Lc 23,46)
Đ. Lạy Cha,
con xin phó thác hồn con trong tay Cha.


Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa,
xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ.
Bởi vì Ngài công chính, xin giải thoát con.
Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con,
Ngài đã cứu chuộc con,
lạy Chúa Trời thành tín. Đ.

Con đã nên trò cười cho thù địch
và cho cả hàng xóm láng giềng.
Bạn bè thân thích đều kinh hãi,
thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa.
Bị lãng quên,
như kẻ chết không người tưởng nhớ,
con hoá thành đồ hư vất bỏ. Đ.

Con tin tưởng nơi Ngài, lạy Chúa,
dám thưa rằng : Ngài là Thượng Đế của con.
Số phận con ở trong tay Ngài.
Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ,
khỏi người bách hại con. Đ.

Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời
trên tôi tớ Ngài đây,
và lấy tình thương mà cứu độ.
Hỡi mọi người cậy trông vào Chúa,
mạnh bạo lên, can đảm lên nào ! Đ.

7. Tiếp theo là bài đọc thứ hai trích thư gửi tín hữu Do-thái, và hát Tung hô Tin Mừng.

Bài đọc 2 Dt 4,14-16; 5,7-9
Người đã học được thế nào là vâng phục, và trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho những ai tùng phục Người.

Lời Chúa trong thư gửi tín hữu Do-thái.
Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giê-su, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.
Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.
Đó là lời Chúa.

Tung hô Tin Mừng Pl 2,8-9
Vì chúng ta, Đức Ki-tô đã tự hạ,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự.
Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người
và tặng ban danh hiệu
trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.

8. Rồi đọc bài Thương Khó theo thánh Gio-an, cũng theo cách thức như Chúa nhật lễ Lá.
Ký hiệu viết tắt :
+ : Đức Giê-su
nk : người kể
m : một người (Phê-rô, Hê-rô-đê. ..)
dc : dân chúng

Tin Mừng Ga 18,1 -- 19,42

Cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
nk Bấy giờ, Đức Giê-su đi ra cùng với các môn đệ, sang bên kia suối Kít-rôn. Ở đó, có một thửa vườn, Người cùng với các môn đệ đi vào. Giu-đa, kẻ nộp Người, cũng biết nơi này, vì Người thường tụ họp ở đó với các môn đệ. Vậy, Giu-đa tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pha-ri-sêu; họ mang theo đèn đuốc và khí giới. Đức Giê-su biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên tiến ra và hỏi : + “Các anh tìm ai ?” nk Họ đáp : dc “Tìm Giê-su Na-da-rét.” nk Người nói : + “Chính tôi đây.” nk Giu-đa, kẻ nộp Người, cũng đứng chung với họ. Khi Người vừa nói : “Chính tôi đây”, thì họ lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi một lần nữa : + “Các anh tìm ai ?” nk Họ đáp : dc “Tìm Giê-su Na-da-rét.” nk Đức Giê-su nói : + “Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi.” nk Thế là ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã nói : “Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai.”
nk Ông Si-môn Phê-rô có sẵn một thanh gươm, bèn tuốt ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế, mà chém đứt tai phải của y. Người đầy tớ ấy tên là Man-khô. Đức Giê-su nói với ông Phê-rô : + “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống ?”
nk Bấy giờ toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ của người Do-thái bắt Đức Giê-su và trói Người lại. Trước tiên, họ điệu Đức Giê-su đến ông Kha-nan là nhạc phụ ông Cai-pha. Ông Cai-pha làm thượng tế năm đó. Chính ông này đã đề nghị với người Do-thái là nên để một người chết thay cho dân thì hơn.
nk Ông Si-môn Phê-rô và một môn đệ khác đi theo Đức Giê-su. Người môn đệ này quen biết vị thượng tế, nên cùng với Đức Giê-su vào sân trong của tư dinh vị thượng tế. Còn ông Phê-rô đứng ở phía ngoài, gần cổng. Người môn đệ kia quen biết vị thượng tế ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phê-rô vào. Người tớ gái giữ cổng nói với ông Phê-rô : m “Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của người ấy sao ?” nk Ông liền đáp : m “Đâu phải.” nk Vì trời lạnh, các đầy tớ và thuộc hạ đốt than và đứng sưởi ở đó; ông Phê-rô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế tra hỏi Đức Giê-su về các môn đệ và giáo huấn của Người. Đức Giê-su trả lời : + “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do-thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. Sao ông lại hỏi tôi ? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì.” nk Đức Giê-su vừa dứt lời, thì một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào mặt Người mà nói : m “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư ?” nk Đức Giê-su đáp : + “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi ?” nk Ông Kha-nan cho giải Người đến thượng tế Cai-pha, Người vẫn bị trói.
nk Còn ông Si-môn Phê-rô thì vẫn đứng sưởi ở đó. Người ta nói với ông : m “Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của ông ấy sao ?” nk Ông liền chối : m “Đâu phải.” nk Một trong các đầy tớ của vị thượng tế, có họ với người bị ông Phê-rô chém đứt tai, lên tiếng hỏi : m “Tôi đã chẳng thấy bác ở trong vườn với ông ấy sao ?” nk Một lần nữa ông Phê-rô lại chối, và ngay lúc ấy gà liền gáy.


nk Vậy, người Do-thái điệu Đức Giê-su từ nhà ông Cai-pha đến dinh tổng trấn. Lúc đó trời vừa sáng. Nhưng họ không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. Vì thế, tổng trấn Phi-la-tô ra ngoài gặp họ và hỏi : m “Các người tố cáo ông này về tội gì ?” nk Họ đáp : dc “Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan.” nk Ông Phi-la-tô bảo họ : m “Các người cứ đem ông ta đi mà xét xử theo luật của các người.” nk Người Do-thái đáp : dc “Chúng tôi không có quyền xử tử ai cả.” nk Thế là ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã nói, khi ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
nk Ông Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su và nói với Người : m “Ông có phải là vua dân Do-thái không ?” nk Đức Giê-su đáp : + “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi ?” nk Ông Phi-la-tô trả lời : m “Tôi là người Do-thái sao ? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì ?” nk Đức Giê-su trả lời : + “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.” nk Ông Phi-la-tô liền hỏi : m “Vậy ông là vua sao ?” nk Đức Giê-su đáp : + “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này : làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” nk Ông Phi-la-tô nói với Người : m “Sự thật là gì?”


nk Nói thế rồi, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ : m “Phần ta, ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy. Theo tục lệ của các người, vào dịp lễ Vượt Qua, ta thường tha một người nào đó cho các người. Vậy các người có muốn ta tha vua dân Do-thái cho các người không ?” nk Họ lại la lên rằng : dc “Đừng tha nó, nhưng xin tha Ba-ra-ba !” nk Mà Ba-ra-ba là một tên cướp.
nk Bấy giờ ông Phi-la-tô truyền đem Đức Giê-su đi và đánh đòn Người. Bọn lính kết một vòng gai làm vương miện, đặt lên đầu Người, và khoác cho Người một áo choàng đỏ. 3 Họ đến gần và nói : dc “Kính chào Vua dân Do-thái !”, nk rồi vả vào mặt Người.


nk Ông Phi-la-tô lại ra ngoài và nói với người Do-thái : m “Đây ta dẫn ông ấy ra ngoài cho các người, để các người biết là ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy.” nk Vậy, Đức Giê-su bước ra ngoài, đầu đội vương miện bằng gai, mình khoác áo choàng đỏ. Ông Phi-la-tô nói với họ : m “Đây là người !” nk Khi vừa thấy Đức Giê-su, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng : dc “Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá !” nk Ông Phi-la-tô bảo họ : m “Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy.” nk Người Do-thái đáp lại: dc “Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa.”
nk Nghe lời đó, ông Phi-la-tô càng sợ hơn nữa. Ông lại trở vào dinh và nói với Đức Giê-su : m “Ông từ đâu mà đến ?” nk Nhưng Đức Giê-su không trả lời. Ông Phi-la-tô mới nói với Người : m “Ông không trả lời tôi ư ? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao ?” nk Đức Giê-su đáp lại : + “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn.”


nk Từ đó, ông Phi-la-tô tìm cách tha Người. Nhưng dân Do-thái kêu lên rằng : dc “Nếu ngài tha nó, ngài không phải là bạn của +ê-da. Ai xưng mình là vua, thì chống lại +ê-da.” nk Khi nghe thấy thế, ông Phi-la-tô truyền dẫn Đức Giê-su ra ngoài. Ông đặt Người ngồi trên toà, ở nơi gọi là Nền Đá, tiếng Híp-ri là Gáp-ba-tha. Hôm ấy là ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai giờ trưa. Ông Phi-la-tô nói với người Do-thái : m “Đây là vua các người !” nk Họ liền hô lớn : dc “Đem đi ! Đem nó đi ! Đóng đinh nó vào thập giá !” nk Ông Phi-la-tô nói với họ : m “Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao ?” nk Các thượng tế đáp : dc “Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài +ê-da.” nk Bấy giờ ông Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho họ đóng đinh vào thập giá.


nk Vậy họ điệu Đức Giê-su đi. Chính Người vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Híp-ri là Gôn-gô-tha; tại đó, họ đóng đinh Người vào thập giá, đồng thời cũng đóng đinh hai người khác nữa, mỗi người một bên, còn Đức Giê-su thì ở giữa. Ông Phi-la-tô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá; bảng đó có ghi : “Giê-su Na-da-rét, Vua dân Do-thái.” Trong dân Do-thái, có nhiều người đọc được bảng đó, vì nơi Đức Giê-su bị đóng đinh là một địa điểm ở gần thành. Tấm bảng này viết bằng các tiếng : Híp-ri, La-tinh và Hy-lạp. Các thượng tế của người Do-thái nói với ông Phi-la-tô : m +in ngài đừng viết : ‘Vua dân Do-thái’, nhưng viết : ‘Tên này đã nói : Ta là Vua dân Do-thái’.” nk Ông Phi-la-tô trả lời : m “Ta viết sao, cứ để vậy !”
nk Đóng đinh Đức Giê-su vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm bốn phần, mỗi người một phần; họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới. Vậy họ nói với nhau : m “Đừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được.” nk Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh : Áo xống tôi, chúng đem chia chác, cả áo dài, cũng bắt thăm luôn. Đó là những điều lính tráng đã làm.


nk Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng : + “Thưa Bà, đây là con của Bà.” nk Rồi Người nói với môn đệ : + “Đây là mẹ của anh.” nk Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.


nk Sau đó, Đức Giê-su biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói : + “Tôi khát !” nk Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người. Nhắp xong, Đức Giê-su nói : + “Thế là đã hoàn tất !” nk Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.


(quỳ gối thinh lặng trong giây lát)


nk Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sa-bát, mà ngày sa-bát đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Phi-la-tô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống. Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giê-su. Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin. Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh : Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập. Lại có lời Kinh Thánh khác : Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.
nk Sau đó, ông Giô-xếp, người A-ri-ma-thê, xin ông Phi-la-tô cho phép hạ thi hài Đức Giê-su xuống. Ông Giô-xếp này là một môn đệ theo Đức Giê-su, nhưng cách kín đáo, vì sợ người Do-thái. Ông Phi-la-tô chấp thuận. Vậy, ông Giô-xếp đến hạ thi hài Người xuống. Ông Ni-cô-đê-mô cũng đến. Ông này trước kia đã tới gặp Đức Giê-su ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Đức Giê-su, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do-thái. Nơi Đức Giê-su bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do-thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giê-su ở đó.
Đó là lời Chúa.



CẦU NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI


10. Phụng vụ Lời Chúa được tiếp tục bằng lời cầu nguyện cho mọi người theo cách thức sau đây : Phó tế đứng tại giảng đài, đọc lời kêu mời nói lên ý cầu nguyện. Đoạn mọi người thinh lặng cầu nguyện trong giây lát. Sau đó, linh mục đứng tại ghế hoặc tại bàn thờ (hay tại giảng đài) dang tay đọc lời nguyện. Trong suốt thời gian đọc các lời nguyện, giáo dân có thể quỳ hay đứng.
11.. Hội Đồng Giám Mục có thể tiên liệu một lời tung hô của dân chúng trước lời nguyện của linh mục, hoặc có thể quyết định giữ lại lời kêu mời cổ truyền của phó tế : Chúng ta hãy quỳ xuống -- Xin đứng lên, và mọi người quỳ gối thinh lặng cầu nguyện, rồi đứng lên.
12. Trong trường hợp cộng đoàn có nhu cầu đặc biệt quan trọng, Đấng Thường Quyền sở tại có thể cho phép hoặc ấn định một lời nguyện đặc biệt.
13. Trong số các lời nguyện ghi trong sách lễ, linh mục được phép chọn những lời nguyện nào thích hợp với hoàn cảnh địa phương, nhưng phải giữ thứ tự những ý nguyện đã được quy định để cầu nguyện cho mọi người (Quy chế tổng quát Sách Lễ Rô-ma, số 46).


I. Cho Hội Thánh
Anh chị em thân mến, ta hãy cầu nguyện cho Hội Thánh Chúa. Xin cho Hội Thánh được hiệp nhất và bình an, được Chúa bảo toàn ở khắp nơi trên hoàn cầu. Xin Chúa cũng ban cho ta được an cư lạc nghiệp hầu tôn vinh Người là Cha toàn năng.
Thinh lặng cầu nguyện. Rồi linh mục đọc :
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã cho muôn dân được thấy vinh quang Chúa tỏ hiện nơi Đức Ki-tô, là Đấng yêu thương gầy dựng Hội Thánh Chúa. Cúi xin Chúa bảo vệ giữ gìn, để Hội Thánh đang hiện diện khắp nơi, luôn tin kính một niềm mà xưng tụng danh Chúa. Chúng con cầu xin


II. Cho Đức Thánh Cha
Ta hãy cầu cho Đức Thánh Cha T. Chính Chúa đã chọn người giữa hàng giám mục, xin Chúa cũng ban cho người luôn an khang để lãnh đạo toàn thể dân thánh.
Thinh lặng cầu nguyện. Rồi linh mục đọc :
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa an bài mọi sự cách khôn ngoan lạ lùng. Chính Chúa đã tuyển chọn Đức Thánh Cha T. và trao cho người nhiệm vụ lãnh đạo dân thánh Chúa. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện, mà ân cần săn sóc giữ gìn người; để nhờ người, đức tin của mọi tín hữu luôn bền vững sắt son. Chúng con cầu xin


III. Cho hàng giáo sĩ và giáo dân
Ta hãy cầu cho Đức Giám Mục T. của giáo phận chúng ta, cho hàng giám mục, linh mục, phó tế, cũng như mọi người phục vụ dân thánh, và cho toàn thể cộng đoàn tín hữu khắp địa cầu.
Thinh lặng cầu nguyện. Rồi linh mục đọc :
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Thánh Thần Chúa luôn hướng dẫn và thánh hoá toàn thể Hội Thánh. Nay chúng con tha thiết nguyện cầu : xin Chúa thương cho mỗi thành phần Hội Thánh, biết theo ơn đặc sủng Chúa ban để trung thành phụng sự Chúa. Chúng con cầu xin


IV. Cho dự tòng
Ta hãy cầu cho anh chị em dự tòng (có mặt nơi đây). Xin Chúa thương soi sáng tâm hồn họ, để họ được hiểu biết Chúa hơn. Xin Người mở lượng từ bi ban cho họ ơn tái sinh nhờ bí tích Thánh Tẩy, để họ được thứ tha tội lỗi và trở thành chi thể của Chúa Ki-tô.
Thinh lặng cầu nguyện. Rồi linh mục đọc :
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa làm cho Hội Thánh không ngừng sinh thêm nhiều con cái. Xin cho anh chị em dự tòng (có mặt nơi đây), được thêm lòng tin kính và hiểu biết Chúa hơn, hầu xứng đáng lãnh nhận ơn tái sinh nhờ bí tích Thánh Tẩy, và gia nhập đoàn nghĩa tử của Chúa. Chúng con cầu xin.


V. Cho mọi tín hữu được hiệp nhất
Ta hãy cầu cho mọi anh chị em cùng tin vào Đức Ki-tô, và đang cố gắng sống theo sự thật, xin Chúa thương quy tụ và gìn giữ tất cả trong Hội Thánh duy nhất của Người.
Thinh lặng cầu nguyện. Rồi linh mục đọc :
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa muốn làm cho những ai ly tán được trở về đoàn tụ, và những kẻ sum vầy được luôn luôn hiệp nhất. Xin Chúa thương nhìn đến đoàn chiên của Đức Ki-tô, và cho mọi người đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy được mãi mãi đoàn kết với nhau, nhờ sống cùng một đức tin toàn vẹn, và chia sẻ một đức ái vững bền. Chúng con cầu xin


VI. Cho người Do-thái
Ta hãy cầu cho người Do-thái. Cha ông họ là những người đầu tiên đã được nghe lời Chúa phán dạy. Giờ đây xin Chúa làm cho họ ngày càng mến yêu danh thánh Chúa và trung thành với giao ước của Người.
Thinh lặng cầu nguyện. Rồi linh mục đọc :
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã hứa ban ơn cứu độ cho tổ phụ Áp-ra-ham và con cháu của người. Xin Chúa thương nghe lời Hội Thánh cầu nguyện cho dân tộc Chúa đã chọn xưa kia cũng được hưởng nhờ ơn cứu độ viên mãn của Đức Ki-tô, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.


VII. Cho người ngoài Ki-tô hữu
Ta hãy cầu cho những người ngoài Ki-tô giáo. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng dẫn đưa họ vào đường cứu độ.
Thinh lặng cầu nguyện. Rồi linh mục đọc :
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho những người tuy không tin vào Đức Ki-tô, nhưng trước mặt Chúa vẫn ăn ngay ở lành, được hồng ân tìm thấy chân lý. Xin cũng ban cho chính chúng con, ngày càng biết tương thân tương ái và thiết tha sống kết hợp với Chúa, để trước mặt thế gian, chúng con có thể minh chứng rằng Chúa chính là tình thương. Chúng con cầu xin


VIII. Cho người vô thần
Ta hãy cầu cho những người không nhận biết Thiên Chúa, nhưng vẫn sống theo lương tâm ngay thẳng : xin cho họ một ngày kia được gặp thấy Người.
Thinh lặng cầu nguyện. Rồi linh mục đọc :
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã đặt vào trái tim con người niềm khát vọng đi tìm kiếm Chúa, khiến con người chỉ được bình an khi đã gặp thấy Chúa. Xin cho mọi người khắp thế gian, dù đang sống giữa muôn vàn nghịch cảnh, vẫn có thể nhận ra những dấu chỉ của tình yêu Chúa; và khi thấy các tín hữu sống đời bác ái yêu thương, họ sẽ vui mừng tin nhận duy có Chúa là Thiên Chúa đích thực và là Cha của hết mọi người. Chúng con cầu xin.


IX. Cho những nhà lãnh đạo quốc gia
Ta hãy cầu cho những nhà lãnh đạo quốc gia. Xin Chúa thương soi trí mở lòng để họ biết hành động theo thánh ý mà tận tình lo cho dân nước được an cư lạc nghiệp và vui hưởng tự do.
Thinh lặng cầu nguyện. Rồi linh mục đọc :
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa làm chủ lòng người, và bảo vệ quyền lợi của nhân dân các nước. Xin ghé mắt nhân từ mà ban ơn soi sáng trợ lực cho những nhà lãnh đạo quốc gia, để họ biết cùng nhau làm cho thế giới được hoà bình, muôn dân được thịnh vượng, và mọi người được hưởng tự do tôn giáo. Chúng con cầu xin


X. Cho những người đau khổ
Anh chị em thân mến, ta hãy cầu xin Thiên Chúa là Cha toàn năng, dủ lòng thương giải thoát thế giới khỏi mọi sai lầm, khử trừ muôn bệnh tật, xua đuổi cơn đói kém, mở cửa ngục tù, bẻ tan xiềng xích, giữ gìn lữ khách được bình an, đưa kẻ tha hương về xứ sở, chữa lành các bệnh nhân, ban ơn cứu độ cho người đang hấp hối.
Thinh lặng cầu nguyện. Rồi linh mục đọc :
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa hằng an ủi kẻ ưu phiền, ban sức mạnh cho người vất vả lầm than. Xin nghe tiếng nhân loại khổ đau nài van Chúa, và ban cho những người lâm cơn hoạn nạn được vui mừng cảm thấy Chúa nhân hậu phù trì. Chúng con cầu xin


PhẦN THỨ HAI
KÍNH THỜ THÁNH GIÁ



14. Dứt lời nguyện cho mọi người, đến phần long trọng kính thờ thánh giá. Ở đây có hai hình thức suy tôn thánh giá, nên chọn hình thức nào thích hợp hơn với nhu cầu mục vụ.


HÌNH THỨC THỨ NHẤT


15. Đem thánh giá có phủ khăn ra bàn thờ, hai người giúp lễ cầm nến cháy đi hai bên. Linh mục, đứng trước bàn thờ, nhận thánh giá, mở phần khăn che phía đầu thánh giá, nâng thánh giá lên và hát câu kêu mời : “Đây là cây thánh giá”, phó tế hoặc ca đoàn hát giúp linh mục. Mọi người đáp : “Ta hãy đến bái thờ”. Hát xong, mọi người quỳ gối thinh lặng cầu nguyện giây lát, linh mục vẫn đứng nâng cao thánh giá.
Rồi linh mục mở khăn che cánh phải thánh giá, nâng cao thánh giá lên hát kêu mời như trên.
Sau cùng linh mục bỏ hết khăn che thánh giá, lại nâng lên và hát kêu mời như trên.


16. Rồi linh mục mang thánh giá, xuống lối vào cung thánh hoặc đến nơi nào xứng hợp có hai người cầm nến cháy đi hai bên; đến nơi, ngài đặt thánh giá tại đó, hoặc trao cho hai người giúp lễ đỡ hai bên, còn đèn nến thì đặt hai bên tả hữu. Đoạn bắt đầu việc tôn thờ thánh giá như số 18 dưới đây.


HÌNH THỨC THỨ HAI

17. Linh mục, hoặc phó tế, hay một thừa tác viên khác xứng hợp, cùng các người giúp lễ, đến cửa nhà thờ, nhận thánh giá không phủ khăn, các người giúp lễ thì nhận nến cháy, rồi đi kiệu qua lòng nhà thờ lên cung thánh. Tại ba nơi : ở gần cửa, ở giữa nhà thờ và ở lối vào cung thánh, người cầm thánh giá nâng cao lên và hát câu kêu mời : “Đây là cây thánh giá”; mọi người đáp : “Ta hãy đến bái thờ”, rồi quỳ gối thinh lặng cầu nguyện giây lát như trên. Sau đó đặt thánh giá và đèn nến ở lối vào cung thánh như trên (số 16).

LỜI MỜI GỌI KÍNH THỜ THÁNH GIÁ

X. Đây là cây thánh giá,
nơi đã treo Đấng Cứu Độ trần gian.
Đ. Ta hãy đến bái thờ.


KÍNH THỜ THÁNH GIÁ

18. Để kính thờ thánh giá, linh mục, giáo sĩ và giáo dân lần lượt tiến lên và tỏ lòng tôn kính thánh giá bằng cách bái gối, hoặc bằng một dấu hiệu nào khác thích hợp, theo phong tục địa phương, ví dụ hôn thánh giá.
Trong khi đó hát điệp ca : “Lạy Chúa, chúng con tôn thờ thánh giá Chúa”, những câu than vãn hoặc các thánh ca khác thích hợp; những ai đã tôn thờ xong thì trở về chỗ ngôi.
19. Chỉ dùng một thánh giá duy nhất trong nghi thức Kính thờ. Nếu vì số dân chúng đông, mỗi người không thể lên kính thờ thánh giá được, thì sau khi một phần tín hữu đã kính thờ, linh mục cầm thánh giá lên đứng trước bàn thờ, nói ít lời kêu mời dân chúng kính thờ thánh giá, rồi nâng cao thánh giá trong giây lát để mọi người thinh lặng tôn thờ.


20. Nghi thức kính thờ chấm dứt, mang thánh giá đặt vào chỗ của thánh giá tại bàn thờ. Còn các nến cháy đặt chung quanh bàn thờ hay đặt gần thánh giá.

NHỮNG BÀI HÁT ĐỂ KÍNH THỜ THÁNH GIÁ

Bài 1 Tv 66,2
ĐC. Lạy Chúa,
Chúng con tôn thờ thánh giá Chúa,
hát mừng Ngài sống lại hiển vinh;
ấy chính vì bởi cây thập giá,
niềm hân hoan tràn ngập địa cầu.

Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc,
xin toả ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con.
Và dủ lòng thương xót. ĐC.

Bài 2 : Thán ca “Dân Ta hỡi”
(chú ý : hai câu Xướng Đáp sau đây làm thành điệp ca. Sau mỗi phiên khúc, khi đề Đ chỉ lặp lại câu Đáp; khi đề X chỉ lặp lại câu Xướng; khi đề XĐ lặp lại cả Xướng Đáp.

ĐC :
X. Dân Ta hỡi, Ta đã làm gì ngươi ?
Đã làm chi khiến ngươi phiền lòng ?
Hãy trả lời cho Ta !
Đ. Lạy Thiên Chúa chí thánh :
Lạy Thiên Chúa oai hùng !
Lạy Thiên Chúa muôn đời hằng hữu !
Xin thương xót chúng con !

Phiên khúc :
I
1. Phải chăng vì Ta đã cứu thoát ngươi
khỏi đất Ai-cập,
mà ngươi dọn sẵn cây thập giá
cho Cứu Chúa của ngươi ? XĐ.

2. Phải chăng vì suốt bốn mươi năm trường
Ta đã dẫn dắt ngươi trong sa mạc,
lấy man-na làm bánh nuôi ngươi
dẫn ngươi vào đất hứa,
mà ngươi dọn sẵn cây thập giá
cho Cứu Chúa của ngươi ? Đ.

3. Còn có chi phải làm
mà Ta đã không làm cho ngươi ?
Ta đã gầy dựng ngươi như vườn nho quý,
nhưng ngươi chỉ cho Ta nếm mùi chua chát đắng cay
Ta khát, ngươi lại bắt Ta uống giấm,
rồi lấy đòng đâm cạnh sườn Cứu Chúa của ngươi. Đ.

II


1. Chính Ta, Ta đã đánh phạt dân Ai-cập,
sát hại các trưởng nam của chúng,
âu cũng vì ngươi !
Thế mà ngươi,
ngươi lại trao nộp và đánh đòn Ta. X.

2. Chính Ta đã dẫn ngươi ra khỏi Ai-cập,
nhận chìm Pha-ra-ô trong Biển Đỏ,
thế mà ngươi lại nộp Ta cho hàng trưởng tế. X.

3. Chính Ta đã mở lối cho ngươi
đi giữa lòng biển cả,
thế mà ngươi lại lấy đòng mở cạnh sườn Ta. X.

4. Chính Ta đã dùng cột mây để hướng dẫn ngươi,
thế mà ngươi lại điệu Ta đến toà Phi-la-tô X.

5. Chính Ta đã lấy man-na
làm bánh nuôi ngươi trong sa mạc,
thế mà ngươi lại vả mặt và cho Ta ăn đòn. X.

6. Chính Ta đã cho ngươi uống
nước cứu độ từ tảng đá vọt ra,
thế mà ngươi lại bắt Ta uống giấm chua mật đắng. X.

7. Chính Ta đã đánh phạt vua chúa miền Ca-na-an chỉ vì ngươi,
thế mà ngươi lại lấy roi đánh vào đầu Ta. X.

8. Chính Ta đã đặt vương trượng vào tay ngươi,
thế mà ngươi lại lấy vòng gai
làm vương miện đặt lên đầu Ta. X.


9. Chính Ta đã dùng quyền năng cao cả
mà cất nhắc ngươi lên,
thế mà ngươi lại treo Ta lên cây thập giá. X.

Bài 3 Thánh Thi “Vang khúc khải hoàn ca”

ĐC :
Hỡi thập tự ! Muôn rừng xanh chẳng có
một cây nào : cành, hoa, quả, sánh bằng !

Đ. Gỗ cây êm ái, mũi đinh dịu dàng
được mang lấy tấm hình hài cứu độ.


1. Vang khúc khải hoàn ca mừng đại thắng
Con Chúa Trời đã hiển hách thành công,
Vị Cứu Tinh bày chiến tích oai hùng,
cậy thập tự : nơi chính Người tự hiến. X.

2. Xưa nguyên tổ nghe Xa-tan nguỵ biện,
trái cấm vừa ăn, án tử mắc vào,
Hoá Công liền quyết định sẽ trồng cao,
cây thập tự thế vào cây nguyền rủa. Đ.

3. Mưu độc dữ sánh làm sao mưu Chúa !
Trong chương trình Người cứu độ sinh linh
đã tìm ra thần dược rất tài tình
là cây gỗ chính quỷ dùng giết hại. X.


4. Chúa Ngôi Cha, khi đến thời đến buổi,
gửi Chúa Con, Đấng sáng tạo vũ hoàn,
tự cõi trời xuống thế giữa phàm nhân
Ngôi Thiên Tử sinh làm con Trinh Nữ. Đ.

5. Một Hài Nhi nằm khóc trong máng cỏ :
Đây chính là Con Thiên Chúa giáng trần
Mẹ Đồng Trinh lấy tã quấn tay chân.
Tấm khăn nghèo bao bọc thân bé nhỏ. X.

6. Chúa đã muốn ba mươi năm cứu độ
kết thúc bằng Mùa Khổ Nạn Vượt Qua,
và giờ đây, trên thập tự chói loà
Chiên Thiên Chúa dâng mình làm tế phẩm. Đ.


7. Sầu chất nặng, thêm giấm chua mật đắng
đinh sắt, lưỡi đòng, gai nhọn đâm thâu
thân nát tan và máu nước tuôn trào
cho tội lỗi trần gian được tẩy xoá. X.

8. Rủ cành xuống, hỡi cây cao bóng cả,
giãn thớ ra cho thân cứng hoá mềm,
như chiếc giường vừa trải nệm ấm êm
chờ Vua Cả đến đặt mình nằm xuống. Đ.

9. Chỉ có cây thập tự là xứng đáng
giá chuộc đời, đem cất giữ trong tim !
Biển trần gian, tàu cờ hiệu Máu Chiên,
đón rước kẻ đắm chìm cho cập bến. Đ.
Câu kết này không bao giờ được bỏ :
10. Cung trầm bổng dệt bài ca cầu nguyện
xin khấu đầu thượng tiến Chúa Ba Ngôi
đã đổ hồng ân cứu chuộc loài người,
muôn muôn thuở, xin dâng lời vinh chúc !


PHẦNTHỨ BA


RƯỚC LỄ

21. Trải khăn phủ bàn thờ và khăn thánh, rồi đặt sách lễ lên. Đoạn phó tế hoặc chính linh mục nếu không có phó tế, đi rước Mình Thánh từ bàn thờ phụ theo đường tắt về bàn thờ chính, trong lúc đó mọi người đứng thinh lặng. Hai người giúp lễ cầm nến cháy cùng đi rước Mình Thánh với linh mục, sau đó đặt nến trên hay bên cạnh bàn thờ.

22. Khi phó tế đã đặt Mình Thánh trên bàn thờ và mở bình đựng Mình Thánh rồi, linh mục tiến lại, cúi mình và bước lên bàn thờ. Nếu không có phó tế thì chính linh mục đặt Mình Thánh trên bàn thờ, mở bình đựng Mình Thánh, cúi mình, rồi chắp tay đọc lớn tiếng :

Vâng lệnh Chúa Cứu Thế và theo lời Người dạy, chúng ta dám nguyện rằng :
Linh mục dang tay đọc chung với mọi người :
Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày; xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con; xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.

Linh mục dang tay đọc tiếp :

Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp, chúng con sẽ luôn luôn thoát khỏi tội lỗi, và được an toàn khỏi mọi biến loạn, đang khi chúng con đợi chờ ngày hồng phúc, ngày Đức Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ chúng con ngự đến.
Linh mục chắp tay. Giáo dân tung hô :
Vì Cha là Vua, là Chúa quyền năng, là Đấng vinh hiển muôn đời.

23. Linh mục chắp tay đọc thầm :
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, chớ gì việc rước Mình và Máu Chúa đừng nên cớ cho con bị xét xử và luận phạt, nhưng nhờ lòng nhân lành Chúa, gìn giữ và cứu chữa hồn xác con.

24. Linh mục cúi mình, tay trái cầm bình đựng Mình Thánh, tay phải cầm bánh thánh, giơ cao một chút, quay về phía giáo dân, đọc lớn tiếng :
Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian : Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa.

Linh mục đọc chung một lần với giáo dân :
Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự đến cùng con, nhưng xin Chúa chỉ phán một lời thì con được lành mạnh.
Rồi linh mục cung kính rước Mình Thánh Chúa.

25. Linh mục đi trao Mình Thánh Chúa cho giáo dân. Đang khi đó có thể hát một bài thánh ca thích hợp.

26. Cho rước lễ xong, một thừa tác viên xứng hợp mang bình đựng Mình Thánh đến nơi đã dọn sẵn trong phòng áo, hoặc đặt vào nhà tạm nếu hoàn cảnh đòi buộc.

27. Có thể giữ thinh lặng thánh trong giấy lát, rồi linh mục đọc lời nguyện sau đây :

Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, nhờ mầu nhiệm Đức Giê-su Ki-tô chịu chết và sống lại, Chúa đã thương đổi mới chúng con. Xin tiếp tục công trình Chúa đã thực hiện mà làm cho chúng con tích cực thông phần vào mầu nhiệm cao cả này, để suốt đời chúng con hăng say phụng sự Chúa. Chúng con cầu xin


28. Để giải tán, linh mục đứng quay về phía dân chúng, giơ tay trên họ và đọc lời nguyện sau đây :

Lời nguyện chúc lành trên dân Chúa

Lạy Chúa, cộng đoàn dân Chúa đây vừa tưởng niệm Con Một Chúa đã chịu chết vì chúng con, và tin tưởng sẽ được phục sinh với Người. Xin Chúa thương giáng phúc dồi dào, mà ban cho họ ơn tha thứ và niềm an ủi. Xin cho họ ngày càng thêm tin kính Chúa, và vững lòng trông cậy sẽ được ơn cứu chuộc muôn đời. Chúng con cầu xin
Mọi người yên lặng ra về. Vào lúc thuận tiện lột khăn bàn thờ.

29. Những ai đã tham dự nghi thức phụng vụ trọng thể ban chiều này, không buộc phải đọc giờ Kinh Chiều.
 

                   trang suy niệm hằng tu