Ư Niệm Chết trong
Thánh Kinh và Thần Học (6)
 
Vũ Văn An

2. Hoàn cảnh sinh hoạt thiêng liêng của con người

Muốn khám phá ra lư do tại sao tự bản chất của nó, sự chết là biến cố cực kỳ quan yếu trong hiện sinh con người, ta phải phân tích hoàn cảnh sinh hoạt thiêng liêng trong trạng thái hiện nay khi thân xác vẫn c̣n kết hợp với linh hồn và sau đó, t́m hiểu xem điều ǵ tiếp diễn khi sự kết hợp này không c̣n nữa. Sinh hoạt thiêng liêng của con người mà ta t́m hiểu ở đây là sinh hoạt tự do, có chủ tâm.

Thân xác c̣n kết hợp với linh hồn. Trong thân phận tử sinh của con người, mọi diễn tŕnh sinh dưỡng (vegetative), cảm thức, và tri thức đều được tích nhập vào đời sống chọn lựa, nhờ đó, họ chọn lựa các mục đích và tự điều hướng họ về các mục đích này. Bao lâu con người c̣n thực hiện các chọn lựa trong tư cách một hợp thể gồm cả xác lẫn hồn, th́ việc họ cam kết long trọng nhất và toàn diện nhất đối với một mục đích vẫn thiếu sự ổn định hoàn hảo ở bên trong. Bất kể họ tốt lành đến đâu, cá tính luân lư của họ cũng không tuyệt đối bất khả hủ hóa. Do đó, ngay trong cam kết đối với điều họ coi là sự thiện cao nhất, sự lựa chọn của họ vẫn có thể được sửa đổi ngay từ bên trong. Việc có thể sửa đổi này xuất phát từ các điều kiện mà vấn đề ấy đă đem vào đời sống chọn lựa của họ. Đời sống tri thức và ư chí của họ trực tiếp lệ thuộc việc nó vận hành đối với đời sống cảm thức, là đời sống liên tục tiếp xúc với thực tại vật chất luôn luôn thay đổi. Việc tiếp xúc này làm trí tưởng tượng của con người chuyển dịch không ngừng từ vật này tới vật nọ.

Sự chuyển dịch như trên của trí tưởng tượng dẫn tới sự chuyển dịch của chú ư tri thức, và sự chuyển dịch này, đến lượt nó, làm cho sự chuyển dịch về ư hướng của ư chí trở thành khả hữu trong cam kết của con người đối với một mục đích. Sự chuyển dịch trong ư chí này không nên xẩy ra, nhưng nó luôn luôn có thể xẩy ra bao lâu sự cam kết của con người c̣n lệ thuộc thứ nhận thức luôn luôn thay đổi quan điểm của ḿnh và do đó, có khả năng xem xét các chọn lựa và các cách hành động khác với mục đích mà họ đă cam kết. Bởi thế, bao lâu tinh thần con người c̣n trực tiếp lệ thuộc các điều kiện thuộc thời gian và không gian trong sinh hoạt của nó, th́ họ phải luôn tái duyệt phán đoán của họ xem điều ǵ mới cực kỳ quan trọng và đâu là cam kết của họ đối với mục đích của đời họ.

Lúc hồn ĺa khỏi xác. Nhưng một khi ĺa khỏi vật chất, tinh thần con người không c̣n lệ thuộc tính dễ thay đổi mà các điều kiện vật chất đă đem vào sinh hoạt của nó. Mục đích đă được tự do ấn định như là cùng đích của nó sẽ măi măi là nguyên lư thứ nhất của mọi chọn lựa và sinh hoạt sau đó. Mục đích này đă trở thành sự thiện tối cao đối với linh hồn, một sự thiện được linh hồn cam kết với hết cá tính của nó, với sự thông sáng và chú ư hoàn toàn và trọn vẹn của trí khôn. Việc cam kết với cùng đích này nay không c̣n có thể sửa đổi từ bên trong được nữa. Cùng đích này nay được ước muốn hoàn toàn chỉ v́ một ḿnh nó mà thôi, và bất kể việc ǵ khác có thể được ước muốn sau đó đều được ước muốn cách nào đó v́ cùng đích này mà thôi. Sự chọn lựa này chỉ có thể thay đổi nếu có thể thay đổi quá khứ, làm cho điều đă làm không xẩy ra. Nhưng linh hồn nay đă xác định hướng đi yếu tính và nền tảng cho sinh hoạt của nó từ bên trong và vĩnh viễn rồi.

3. Giây phút chuyển tiếp

Nhưng vẫn c̣n một điều phải xem xét nữa, đó là giây phút thực sự chuyển tiếp từ cách hành động này qua cách hành động nọ, tức giây phút chết. Chính ở giây phút ĺa khỏi thân xác này, mà linh hồn hết hành động một cách dễ thay đổi từ trong nền tảng và bắt đầu hành động với một ư hướng không thể thay đổi từ bên trong hướng về một cùng đích cụ thể. Nếu người nào đó chết trong Chúa Kitô, th́ ư hướng này măi măi hướng về Thiên Chúa trong yêu thương, suy phục và hân hoan. Nếu ai đó chết trong khi bác bỏ Chúa Kitô, th́ ư hướng này măi măi hướng về chính họ trong thù ghét Thiên Chúa và nổi loạn cùng khốn khổ khôn nguôi. Nhưng ư hướng này sau cùng đă xuất hiện ra sao? Vào giờ chết, con người cuối cùng đă cố định ra sao hướng đi của ḿnh nhắm tới cùng đích?

a. Quan điểm chọn lựa tự do. Các nhà thần học không hoàn toàn đồng ư với nhau về câu trả lời cho câu hỏi trên. Một số dành cho hành vi này, thực hiện lúc hồn ĺa khỏi xác, mọi đặc tính của một hành vi hoàn toàn tự do. Sau khi tự lên khuôn một phần cho ḿnh bằng man vàn các chọn lựa nhưng chưa bao giờ hoàn toàn đính kết họ vào một mục đích dứt khoát, con người giờ đây, nhờ mang trọn lịch sử các chọn lựa ấy, nên đă, một cách dứt khoát, không thể văn hồi, hoàn toàn tự do chọn một là phê chuẩn đời sống họ vốn sống hai là bác bỏ nó. Đây là một hành vi cực kỳ nhân bản, cực kỳ tự do, cuối cùng được chọn lựa giữa Thiên Chúa và sự thiện tạo dựng, chấm dứt thời gian thử thách gian nan và liên kết nó với hậu quả vĩnh viễn của nó. Cần phải nhấn mạnh rằng hành vi này, dù tự do, nhưng không diễn ra mà lại không có liên hệ hay lệ thuộc chi với đời sống trước đó. Theo các nhà thần học này, về lư thuyết, người ta rất có thể sống một đời sống hoàn toàn tội lỗi và vị kỷ nhưng đến lúc chết vẫn có thể suy phục ơn thánh cứu rỗi của Thiên Chúa; nhưng, họ nói thêm, điều này cực kỳ khó có thể xẩy ra. Như thể người ta phải đi dây qua một vực thẳm không đáy để qua bên kia an toàn. Nếu trước đây, họ chưa bao giờ nghiêm túc lưu ư tới việc phải đi dây ra sao (khi luôn có lưới an toàn ở bên dưới), th́ không có bao nhiêu hy vọng cố gắng sau cùng này sẽ thành công. Các thói quen đă thành h́nh trong cuộc sống trước đó không hề mất đi chút sức mạnh nào trong việc ảnh ưởng tới sự chọn lựa vào lúc phải quyết định sau cùng này. Một người mà trọn cuộc sống của họ chỉ hoàn toàn để thoả măn bản thân th́, vào lúc này, gần như chắc chắn càng quan tâm đến họ nhiều hơn bất cứ điều ǵ khác, và sẽ chỉ nghĩ đến Thiên Chúa như phương tiện để tạo hạnh phúc riêng của họ, chứ không phải là cùng đích đáng thờ phượng trong kính yêu. Chắc chắn họ chỉ tự do chọn sống vĩnh viễn như họ đă tự do chọn sống thời gian.

Phê b́nh quan điểm chọn lựa tự do. Một số luận điểm khác nhau đă được đưa ra để nâng đỡ lư thuyết tự do chọn lựa nói trên vào lúc chết. Không tội trọng nào phạm lúc c̣n sống mà lại xấu xa đủ để biện minh cho h́nh phạt đời đời trong hỏa ngục; nhưng một hành vi chống lại Thiên Chúa, phạm với sự hiểu biết rơ ràng hoàn toàn mới tập trung trong nó mọi sự dữ vốn nhất thiết được coi là đủ để giáng h́nh phạt khủng khiếp kia. Hành vi hoàn toàn có chủ tâm bác bỏ Thiên Chúa này tự nó đă giập tắt các thói quen của đức tin và đức cậy siêu nhiên nơi những người tội lỗi nào lúc chết đang sở hữu chúng, dù họ thiếu đức ái; v́ xem ra không thích đáng khi coi Thiên Chúa như nguyên nhân trực tiếp của việc ngưng các thói quen này, nhưng chúng phải ngưng khi linh hồn vĩnh viễn phải cắt rời khỏi Thiên Chúa mà vào hỏa ngục. Giải pháp này có thể giải thích được việc ơn thánh Thiên Chúa có thể tác động ra sao và cứu được các trẻ thơ chết mà chưa được chịu Phép Rửa; v́ vào lúc này, các em được ban cho khả năng chọn Thiên Chúa như cùng đích của các em và do đó, đạt được hạnh phúc vĩnh cửu với Người. Sau cùng, các nhà thần học này nói rằng: điều xem ra lạ lùng là hành vi mà mọi sự trong hiện hữu của con người tùy thuộc vào lại không phải là một hành vi nhân linh, nghĩa là một hành vi hoàn toàn tự do, có chủ tâm, theo nghĩa đầy đủ nhất.

Các luận điểm trên, dù có khả năng thuyết phục, nhưng không thuyết phục được ai, và chúng thiếu hỗ trợ thực chất trong Thánh Kinh và Thánh Truyền. Toàn bộ Thánh Kinh đă cho rằng con người cuối cùng sẽ bị phán xét và số phận đời đời của họ sẽ được xác định bởi các việc làm và chọn lựa đă thực hiện lúc c̣n sống cuộc sống tử sinh, lúc linh hồn c̣n kết hợp với thân xác và hành xử một cách lệ thuộc nó. Không một chỗ nào nhắc đến việc chọn lựa có tính quyết định của linh hồn vào lúc nó rời khỏi xác và không phụ thuộc thân xác nữa. Thánh Phaolô, chẳng hạn, viết rằng “Mọi người chúng ta đều sẽ xuất hiện trước ṭa án của Chúa Kitô, để nhận lănh điều tốt hay điều xấu, tùy theo những ǵ mỗi người từng làm trong thân xác” (2Cr 5:10). Các Giáo Phụ đă giả thiết một cách tỏ tường rằng thời gian thử thách và trạng thái kết hợp chỉ là một. Điều này đặc biệt rơ ràng trong các giáo huấn của các ngài về phép thống hối, trong đó, các ngài cảnh cáo các Kitô hữu rằng họ sẽ không c̣n cơ hội thống hối một khi họ đă ĺa bỏ thế giới này (xem Pseudo-Clement, Cor. 8.2–3). Ngoài ra, đức tin định tín của Công Giáo dạy rằng mọi trẻ thơ chết sau khi chịu Phép Rửa đều được cứu rỗi. Ấy thế nhưng, nếu các em tự do chọn cùng đích của ḿnh ở lúc chết, th́ xem ra không có lời giải thích tại sao một số em lại không chọn việc bác bỏ Thiên Chúa, giống như một số thiên thần đă làm lúc bị thử thách.

Hơn nữa, Giáo Hội hữu h́nh, Nhiệm Thể Chúa Kitô, được mạc khải tŕnh bầy như ḥm bia cứu rỗi, một phương thế để đạt tới sự sống đời đời. Như thế, xem ra sinh hoạt dứt khoát của con người để đạt được sự kết hợp măi măi với Chúa Kitô hẳn phải xẩy ra khi họ c̣n là chi thể của Giáo Hội hữu h́nh. Cuối cùng, khi nhớ lại rằng các trước tác đầu tiên của phái Ngộ Đạo đầy rẫy các truyện kể về các thử thách và cám dỗ cần phải vượt qua khi linh hồn không c̣n kết hợp với thân xác nữa, th́ hẳn ta sẽ lấy làm lạ, thậm chí khó hiểu, khi toàn bộ mạc khải Kitô Giáo hoàn toàn im lặng đối với các thử thách này, các thử thách mà mọi sự giả thiết phải tùy thuộc. V́ thế, nhiều thần học gia không chấp nhận thuyết chọn lựa tự do ở lúc chết và giải thích cách khác về sinh hoạt của linh hồn, một sinh hoạt khai mở trạng thái không thể thay đổi của con người vào lúc qua đời.

(Kỳ sau: b. Quan điểm tóm kết các hành vi tự do)