MỤC LỤC

SUY NIỆM LỄ CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐĂ QUA ĐỜI

1. Cái chết

2. Bốn bà vợ

3. Suy Niệm & Sống Tháng Các Linh Hồn

4. Suy niệm Lễ Các Linh Hồn

5. Thân xác và linh hồn – John W. Martens

6. Suy niệm Lễ Các Đẳng Linh Hồn – Hiền Lâm

7. Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

8. Lịch sử ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn

9. Tưởng nhớ người đă ra đi

10. Bài giảng của ĐTGM. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn

11. Ḷng biết và thảo kính đối với tổ tiên

12. Bài giảng của ĐGM. Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản

13. Lễ CÁC ĐẲNG – Lm. Đaminh Vũ Đ́nh Thái

14. Nguồn nước mắt – ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần

15. Tri ân t́nh cha, t́nh mẹ - Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

16. Luyện ngục

17. Nghĩ về sự chết – ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần

18. Luyện ngục

19. Bóng câu cửa sổ

20. Họ sẽ được nh́n thấy Thiên Chúa

21. Bên kia sự chết

22. Lễ cầu nguyện cho các linh hồn – JK

23. Các tín hữu đă qua đời

24. Các linh hồn

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN – A

1. Khiêm nhường

2. Khiêm nhường

3. Quyền bính để phục vụ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

4. Hăy sống trong sự thật

5. Là anh em với nhau

6. Đạo đức thật và đạo đức giả

7. Đầy tớ

8. Đóng kịch

9. Bí quyết trở nên người cao cả – Lm. Trần Ngà

10. Biệt phái giả h́nh

11. Sống chân t́nh

12. Nói và làm

 

SUY NIỆM LỄ CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐĂ QUA ĐỜI

1. Cái chết

Hôm nay chúng ta tụ tập trong nhà thờ này để cử hành lễ các Linh Hồn, để tưởng nhớ đến những người đă khuất nhất là những người đă có một mối liên hệ thương yêu và ơn nghĩa đối với chúng ta như ông bà cha mẹ. Chính v́ thế mà tôi muốn chia sẻ một vài ư nghĩa về sự chết. Vậy cái chết là ǵ và nó đem lại cho chúng ta những bài học nào?

Cái chết là một sự dứt bỏ có tính cách cưỡng bức, nó chia ĺa hai người bạn thân thiết nhất đó là linh hồn và thể xác. Cái chết là một cuộc hành tŕnh, một chuyến đi cô đơn nhất v́ người ra đi sẽ phải để lại sau lưng tất cả những ǵ ḿnh quyến luyến nhất, từ những người thân yêu đến tiền bạc và địa vị được gầy dựng do mồ hôi nước mắt. Nó sẽ chấm dứt tất cả những ǵ chúng ta đă đầu tư trong cuộc đời. Chính v́ thế nó thường làm cho chúng ta bàng hoàng và sợ hăi.

Thế nhưng, là người Kitô hữu chúng ta phải nh́n cái chết dưới ánh sáng đức tin. Thực vậy dưới ánh sáng đức tin th́ cái chết không phải là một chấm dứt mà là một khởi đầu, không phải là một ra đi mà là một trở về nhà Cha, không phải là một chia ĺa nhưng là một kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Từ đó chúng ta rút ra được những bài học quư giá.

Bài học thứ nhất đó là ư nghĩa đích thực của cuộc sống. Ư nghĩa đó được tóm gọn trong câu giáo lư: Hỏi người ta sống ở đời để làm ǵ? Thưa, ta sống ở đời để nhận biết, thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời và thương yêu mọi người như anh em. Hầu ngày sau được mưu hạnh phúc đời đời. Câu trả lời này thật ngắn gọn và rơ rệt, giúp chúng ta giải quyết những vấn đề đă từng làm cho chúng ta băn khoăn và thắc mắc. Không hiểu được chân lư này, hay cố t́nh quên lăng chân lư này, chúng ta sẽ trở nên những kẻ lầm đường lạc lối, không c̣n thấy được phương hướng cho cuộc sống, liều ḿnh mất đi cả ch́ lẫn chài, cả đời này lẫn đời sau. Murillo, một hoạ sĩ Tây Ban Nha, đă khắc trên tường pḥng ḿnh hàng chữ như sau: Hăy sống như là sẽ phải chết. Hăy tập làm quen với cái chết bằng tinh thần từ bỏ liên tục.

Bài học thứ hai là bài học khôn ngoan. Trong mọi hoàn cảnh, hăy chuẩn bị sẵn sàng để ra trước mặt Chúa mà tính sổ cuộc đời. Đừng bao giờ quên rằng, chúng ta được xét xử dựa trên t́nh yêu: t́nh yêu đối với Thiên Chúa và đối với anh em, chứ không phải là được xét xử theo dáng bộ bề ngoài và những việc đạo đức nặng phần tŕnh diễn. Bởi vậy trong nhịp sống thường ngày, chúng ta có lo thực thi bác ái hay không, có biết thực tâm tha thứ cho kẻ lỗi phạm đến chúng ta hay không? Có biết nở nụ cười hoà giải đối với những kẻ đă gây nên xích mích, có biết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những kẻ xung quanh? Có biết làm chứng nhân cho Chúa bằng đời sống yêu thương hay không?

Nếu trong cuộc sống trần gian, chúng ta đă thực sự yêu thương anh em th́ chúng ta mới có thể tiến lại gần cùng Thiên Chúa, Đấng có một trái tim cảm thông với đau khổ sẵn sàng để tha thứ và ân thưởng những người thiện chí. Khi tâm hồn chúng ta đă giao hoà cùng Thiên Chúa, th́ bấy giờ cái chết không c̣n nhuốm vẻ tang tóc bi ai nữa. Chúng ta không c̣n nói như Laffirgue: Điều đau buồn nhất trong cuộc sống là cái chết. Trái lại chúng ta sẽ bảo: Đối với người tín hữu th́ điều an ủi và khích lệ nhất trong cuộc sống là cái chết, bởi v́ cái chết sẽ chấm dứt những đau khổ phần xác, để rồi dẫn đưa chúng ta vào niềm hạnh phúc vĩnh cửu.

2. Bốn bà vợ

(Suy niệm ngày Lễ Các Linh Hồn của Frère Trần An Phong)

Một phú gia kia cưới đến 4 bà vợ.

Ông ta rất thương bà vợ thứ nhất, mỗi khi kiếm được tiền là ông liền mua sắm cho bà đủ thứ áo quần sang trọng, dẫn bà đi ăn tại các nhà hàng trứ danh. Không những thế, ông c̣n tung tiền mua sắm cho bà đủ thứ hột xoàn, trân châu. Bà muốn ǵ ông cũng chiều chuộng. Ông cưng bà như cưng trứng, hứng bà như hứng hoa!

Và mỗi lần đi họp, hay đi kinh doanh, ông đều sung sướng và hănh diện mang theo bà vợ thứ hai. Ông luôn khoe bà với bà con lối xóm, với đồng nghiệp, khách hàng. Bà là niềm hănh diện của ông!

Mỗi khi gặp khó khăn, cho dù lớn hay nhỏ, ông đều thủ thỉ, tâm sự với bà vợ thứ ba. Ông tin tưởng bà lắm, v́ bà luôn là người cố vấn cho ông, một người cố vấn khôn ngoan, trung tín và đầy yêu thương. Bà thật là người bạn đời tri kỷ có một không hai trên đời!

C̣n bà vợ thứ tư lại rất thương ông, thương ông tha thiết, thương ông nồng nàn, thương ông chứa chan. Nàng dành hết cả cuộc đời ḿnh để lo cho cuộc sống của ông, sự nghiệp của ông. Nàng không từ chối một hy sinh nào cho chồng cả. Ngay cả những khi ông lầm lỗi, bà cũng can đảm thầm nhắc nhở, khuyên lơn, và rộng ḷng tha thứ. Thế nhưng! Ông lại chẳng mấy khi để ư đến nàng.

Rồi một ngày kia, ông phát bệnh. Bệnh ung thư của ông đă đến thời cuối cùng, các bác sĩ đều bó tay. Biết ḿnh chả c̣n sống được bao lâu, ông bèn cho mời các bà vợ đến để nói lời cuối cùng.

Bà thứ nhất mặc xiêm y lộng lẫy, nữ trang óng ánh, nước hoa lan tỏa khắp pḥng, đến bên chồng đang hấp hối.

- Em, anh sắp chết rồi. Em là người anh yêu mến nhất, chăm sóc cho em từng li từng tí. Em có muốn theo anh về bên kia thế giới để chung sống, để lo lại cho anh không?

- Không!

Nàng lạnh lùng đáp.

- Anh đi đường anh, em đi đường em. T́nh nghĩa đôi ta có thế thôi.

Nói xong, nàng ngoảnh mặt, vội vă bước ra khỏi pḥng. Lời bà như một nhát dao đâm thấu tim ông!

Người phú gia vừa cố gắng nắm tay bà vợ thứ hai, vừa run run hỏi:

- Em, suốt đời anh, em là niềm hạnh phúc, là niềm kiêu hănh của anh. Giờ đây anh sắp chết, em có muốn theo anh về bên kia, như hào quang chói sáng cho anh, như người tiến cử anh vào cuộc sống huy hoàng không?

- Không! Anh chết rồi, tôi sẽ cưới người khác. Tôi phải thuộc về người khác chứ! Ai lại theo kẻ chết xuống mồ bao giờ.

Nói xong, nàng trở gót bỏ đi. Mỗi tiếng gót giày nàng nện xuống thềm nhà, là một nhát búa đóng đinh xuyên qua tim chàng.

Đau buốt, nát tim, người phú gia quay nh́n bà vợ thứ ba và ân cần hỏi:

- Em, trong suốt cuộc đời, em là người luôn sát cánh cùng anh. Không có chuyện ǵ mà anh không chia sẻ cùng em. Em luôn bên cạnh anh, lúc vui cũng như lúc buồn. Giờ đây, anh sắp chết, em có chịu theo anh không?

- Anh yêu, em biết anh yêu em lắm, và em cũng yêu anh. Nhưng cùng lắm, em chỉ có thể theo anh ra nghĩa trang, nh́n anh đi vào ḷng đất lạnh, rồi thắp cho anh những nén hương ḷng. Em sẽ nhớ anh thật nhiều, nhưng theo anh, em không thể nào làm được.

Nói xong, nước mắt nàng tuôn trào.

Bỗng đâu, một giọng nói yếu ớt vang lên:

- Em sẽ theo anh về bên kia thế giới. Anh yêu, cho em theo anh. Đừng bỏ em!

Chàng phú gia lấy hết sức tàn ngồi chổm dậy, nh́n về phía phát xuất ra giọng nói. Và kià! Người vợ thứ tư của chàng đang ôm mặt khóc nức nở. Thân h́nh nàng qúa mảnh khảnh tựa hồ dễ bị cuốn theo chiều gió. Một người vợ yêu chàng tha thiết, nhưng đă bị chàng bỏ bê cả cuộc đời.

* * *

Trước cái chết, chàng phú gia mới chân nhận ra giá trị t́nh yêu. Ngày hôm nay, ngày nhớ đến Các Tín Hữu Đă Qua Đời, 2 tháng 11 mỗi năm, ḿnh nhớ đến cái chết, và nhận ra bốn bà vợ của đời ḿnh.

Ḿnh đă quá yêu bà vợ thứ nhất - thân xác ḿnh. Cho dù ḿnh có mặc cho nó đủ thứ lụa là gấm vóc, nuôi dưỡng bằng cao lương mỹ vị, ḿnh cũng chẳng đem theo được về bên kia thế giới.

Ḿnh đă hănh diện với chức tước, bằng cấp - bà vợ thứ hai - nhưng chức tước ấy sẽ thuộc về người khác khi ḿnh giă từ cơi thế.

Họ hàng, gia đ́nh ḿnh - bà vợ thư ba, sẽ theo ḿnh ra tận nghĩa trang, sẽ hằng năm kỵ giỗ cho ḿnh, nhưng nào ai theo ḿnh xuống huyệt.

C̣n cái linh hồn của ḿnh - bà vợ thứ tư - mà ḿnh đă v́ qúa chăm lo thể xác, chạy theo tiền tài danh vọng, bon chen chức tước quyền cao, ít khi ḿnh buồn nghĩ đến th́ sẽ theo ḿnh đi vào thiên thu.

* * *

"Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!

Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa,

Sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời.

Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế,

Nơi người phàm chẳng cứu nổi ai.

Họ tắt hơi là trở về cát bụi,

Dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan.

Phúc thay người được Chúa Trời nhà Gia-cóp phù hộ

Và cậy trông Chúa, Thiên Chúa họ thờ." (Thánh Vịnh 145: 1-5)

 

3. Suy Niệm & Sống Tháng Các Linh Hồn

(Suy niệm của Lm. Gioan B. Nguyễn Đ́nh Lưu)

"Con hăy nhớ đến mẹ mỗi khi dâng thánh lễ". Lời thánh Monica cũng chính là ư nguyện mà các linh hồn tiền nhân muốn nhắc nhở cùng chúng ta là con cháu của các ngài.

Đài truyền h́nh Thành phố Hồ Chí Minh tối Thứ Năm tuần trước có phát đi chương tŕnh: "Những đứa con hiếu thảo". Một trong những khuôn mặt được giới thiệu đó là anh Kim Sơn. Tuổi thơ của anh là những tháng ngày đen tối, bởi cha mẹ đă sớm ly dị khi đă có với nhau ba mặt con. Thiếu sự yêu thương dạy dỗ, Kim Sơn xa dần trường học để bước vào trường đời. Bài học đầu đời mà Kim Sơn học được đó là bài học lừa lọc, dối trá, đấu đá để dành quyền sống. Kết cục của những tháng ngày ngang dọc là những ngày đen tối trong chốn lao tù, là sự hận đời đen bạc, là nỗi buồn tuyệt vọng cô đơn.

Trong lúc đó, mẹ của anh vẫn tần tảo với gánh bún riêu, lê gót qua các phố chiều, chắt chiu từng đồng, để đổi lấy cho anh những hũ chao, những lon ruốc sả. Trải qua nhiều năm tháng, t́nh thương của người mẹ không hề xói ṃn, hy vọng của mẹ không hề bị dập tắc. Cuối cùng t́nh mẹ đă chiến thắng. Năm 2005, anh được ra khỏi trại và quyết tâm làm lại cuộc đời. Ổn định cuộc sống, anh lập gia đ́nh và đưa mẹ về sống chung để có dịp phụng dưỡng. Anh dứt khoát không để mẹ phải gánh bún đi bán, anh hứa với ḷng ḿnh: mẹ muốn ăn ǵ, mặc ǵ, anh sẽ mua cho mẹ. Anh c̣n tuyên bố: hạnh phúc nhất của đời tôi là được sống với mẹ, là được ở bên mẹ măi măi.

Câu chuyện của anh Kim Sơn, hẳn phải làm ấm ấp bao tấm ḷng của các bà mẹ, đang được sống trong sự chăm sóc ân cần của con cháu, sau một đời tần tảo vất vả. Tuy nhiên, không phải ai cũng được hưởng những ngày tháng hạnh phúc trong sự đùm bọc của con cái. Lại càng ít người c̣n nhớ và lo lắng cho cha mẹ khi các ngài đă qua đời. Chính v́ thế mà Giáo hội đă dành ngày 2 tháng 11 này, và trọn tháng 11 để khơi dậy ḷng hiếu thảo nơi những người Kitô hữu, cũng là những người con của gia đ́nh.

Ai trong chúng ta lại chẳng một lần sinh ra bởi cha mẹ, chẳng được ấp ủ trong mái ấm gia đ́nh. Đây chính là chiếc nôi của t́nh yêu, ngôi trường của ḷng nhân ái. Từ trong cái xă hội nhỏ bé ấy, chúng ta đă được bú mớm, nuôi dạy, và từng ngày lớn lên trong ṿng tay yêu thương của t́nh cha, và tiếng ru ầu ơ của mẹ. Để đổi lấy cho chúng ta sức khỏe, cha mẹ đă phải đổ bao mồ hôi sức lực để có bữa cơm miếng cá cho con; lại c̣n biết bao trăn trở lo lắng cho chúng ta về đường đức tin, học vấn. Hôm nay, chúng ta thành người, có địa vị, có cuộc sống an lành, có gia đ́nh ổn định, lại chính là lúc mà các ngài nhắm mắt xuôi tay. Cái giá mà các ngài phải trả cho sự thành đạt, thành nhân của chúng ta, đâu chỉ là công sức, là nước mắt, là những héo hắt khổ đau, mà có khi c̣n cả mạng sống ḿnh. Ca dao ViệtNam đă mượn h́nh ảnh rất quen thuộc để diễn tả sự hy sinh ấy:

"Con c̣ lặn lội bờ ao, gánh gạo nuôi chồng..."

hay:

"Cha mẹ thương con như biển hồ lai láng,

con thương cha mẹ tính tháng tính ngày".

Giờ phút này, nghĩ lại công ơn to lớn của các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, ai trong chúng ta lại không cảm thấy dạt dào niềm xúc động nhớ thương. Nỗi niềm trắc ẩn thôi thúc chúng ta phải làm một cái ǵ đó cho các ngài, giúp đỡ các ngài, báo hiếu các ngài.

Ai dám quả quyết: hạnh phúc đang ở trong tầm tay của các người thân yêu chúng ta, hay vẫn c̣n đang là số phận đau thương của chốn hỏa ḥa rên xiết.

V́ vậy cùng với ḷng tưởng nhớ tri ân, chúng ta hăy thực hiện điều mà các ngài ngày đêm mong chờ khao khát: đó là sớm giúp các ngài ra khỏi chốn luyện h́nh đau thương, vào chung hưởng hạnh phúc với Chúa. Công việc này, tự sức các ngài không làm được, chỉ biết trông cậy vào chúng ta là con cháu.

Theo lời khuyên bảo của Giáo hội, chúng ta hăy gửi đến cho các đẳng linh hồn nhiều lời cầu nguyện, nhiều việc lành hy sinh, nhất là những thánh lễ trên Bàn Thờ. Bài đọc sách Mikea mà chúng ta vẫn nghe trong thánh lễ an táng đă đề cao việc quyên góp xin lễ cho các linh hồn, là một điều hết sức cần thiết và quí giá. Bởi v́ khi cử hành thánh lễ, là tái hiện hy tế Thập giá của Chúa Giêsu, là hiện tại hóa Mầu Nhiệm cứu độ cho các đẳng linh hồn, là mở ra cánh cửa hy vọng cho các người thân của chúng ta, là đưa các ngài từ chốn đau khổ tối tăm vào nơi ánh sáng hạnh phúc.

Và c̣n ǵ hạnh phúc hơn, khi chúng ta biết rằng một khi được đón nhận vào tham dự hạnh phúc với Thiên Chúa, các linh hồn sẽ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta là con cháu của các ngài c̣n đang phải từng ngày chiến đấu vật lộn với những cam go thử thách. Cuộc thử thách ấy đang diễn ra từng ngày không cân sức, giữa thế lực của ma quỷ, của sự tội, của đam mê với niềm tin c̣n quá mỏng ḍn và non yếu của người Kitô hữu.

Như Đức Kitô đă từng an ủi các Tông đồ trong giờ phút biệt ly đầy nước mắt và đau thương: Ḷng các con đừng xao xuyến... th́ các đẳng linh hồn cũng đang khích lệ và ngỏ lời cùng chúng ta:

- Đừng xao xuyến v́ Con Thiên Chúa đă chết để đền thay tội lỗi của chúng ta.

- Đừng xao xuyến v́ Ngài đi là để dọn đường cho chúng ta.

- Hăy tin vào Thiên Chúa v́ Ngài là Đấng từ bi và giàu ḷng thương xót.

- Hăy tin vào Thiên Chúa và trung thành với Ngài qua các công việc bổn phận hằng ngày và việc giữ các giới răn của Chúa.

Xin v́ công nghiệp của Đức Kitô, nhờ lời cầu bầu của các thánh và cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa, Chúa sẽ tha thứ, và sớm đưa các đẳng linh hồn về hưởng hạnh phúc, sau cả đời đă tin tưởng phó thác nơi Chúa.

Kim Sơn sau cả một quăng thời gian đi hoang, không màng đến sự hy sinh vất vả và nước mắt của mẹ, nhưng cuối cùng, anh đă làm cho người mẹ ḿnh thỏa ḷng mát dạ khi đă hối hận trở về, cùng dành trọn thời gian c̣n lại để lo lắng chăm sóc tuổi già của mẹ.

C̣n phần chúng ta, được đánh thức qua câu chuyện của anh Kim Sơn, chúng ta sẽ làm ǵ cho các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, anh chị em thân yêu của ḿnh trong ngày hôm nay và trong tháng các đẳng linh hồn này?

Xin Chúa cho mỗi chúng ta, luôn biết tỏ ḷng thảo kính đối với các bậc tổ tiên ông bà, cha mẹ, anh chị em đă qua đời, bằng việc đọc kinh, dâng những hy sinh việc lành, và đặc biệt là thánh lễ mồng 2 tháng 11 hôm nay, xin v́ công nghiệp của Con Chúa trên Thập giá, mà thứ tha muôn tội lỗi và đưa các ngài về hưởng hạnh phúc tôn nhan Nước Chúa.

 

4. Suy niệm Lễ Các Linh Hồn

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên)

Trong 4 tháng lang thang trên đất Mỹ, tôi nghe và thấy nhiều cảnh ngộ của cái chết:

Một người VN ở Cali chết thật b́nh thường, nhưng nghe nói tang lễ cho cụ ít ra cũng 20,000.00 USD, riêng cỗ quan đă hết 7,000.00 rồi. Kể ra cái chết ở đấy cũng có giá cao đấy.

Ở Florida tôi nghe kể về cái chết của một Bác Sỹ VN, sau năm 75, Ông đă nỗ lực để nuôi con ăn học thành tài trên đất khách quê người, ai cũng thành tài và thành công. Bà Cụ th́ mất trước khá lâu. Ông đến tuổi hưu. Sống một ḿnh, lấy việc dạy vơ dưỡng sinh cho các đồng hương làm niềm vui. Rồi cụ phải vào bệnh viện. Cuối cùng cũng đă chết ở đó, không người thân bên cạnh. Người ta phải theo giấy tờ trong người cụ, để điện cho các con cụ. Khi các con có mặt, tất cả đă kư giấy để hiến cụ cho khoa thí nghiệm của bệnh viện: v́ tương lai khoa học! Chuyện ấy cũng rất b́nh thường, nếu như không có cái chuyện sau đó. Phải, các đồng hương của cụ, v́ mến yêu tinh thần hy sinh và phục vụ cộng đồng của cụ, muốn đến làm lễ truy điệu cho cụ tại tang gia. Nhưng ở đây con cái cụ quá ngạc nhiên về cái yêu cầu ấy, v́ gia đ́nh không làm ǵ cả, mọi việc là bệnh viện đă làm theo cách của bệnh viện rồi. Cuối cùng, v́ sự tha thiết của các đồng hương, người gia đ́nh bằng ḷng cho họ mượn một tấm ảnh cụ để tổ chức lễ truy điệu cho Thầy ở nơi khác.

Ở Arlington, tôi nghe kể về cái chết của một cụ già người Mỹ. Cụ sống với cụ Bà ở đây đă lâu, cho dù có 2 người con, cũng thành đạt, nhưng chẳng bao giờ thấy họ tới thăm các cụ. Trong trường hợp cụ bà thế nào không biết, nhưng hàng xóm thấy mùi hôi nồng nặc từ nhà các cụ, báo cảnh sát, người ta mới khám ra cụ ông đă chết mấy ngày rồi!

Tôi cũng được thông tin về cái chết của 17 thủy binh trên chiến hạm Cole. Tôi nh́n trên TV thấy người ta đang t́m kiếm Thống Đốc Missouri sau tai nạn máy bay. Tôi cũng thấy cảnh chiếu người ta quăng xác 2 cảnh sát ch́m Do Thái qua cửa sổ, và những cái chết do sự trả thù.

Cái chết vẫn ám ảnh cuộc sống con người, cho dù con người luôn tự hào về tiến bộ, văn minh, giàu sang và no đủ, dường như là đă đẩy lùi bóng ma sự chết.

Tuy nhiên, có lẽ người ta khá thành công trong việc khiến cho con người không c̣n nhiều suy nghĩ về những vấn đề siêu h́nh, kể cả cái chết. Con người hầu như chỉ c̣n kịp suy nghĩ về công việc làm mỗi ngày của họ thôi. Họ đi bên cạnh cái chết với sự rất xa lạ.

Nếu như chỉ có cái hiện tại là quan trọng, th́ tôi thiết nghĩ những cái chết cụ thể trên kia thật vô cùng phi lư. Những cái chết chỉ v́ cho một hiện tại tốt đẹp, lại bị chính đứa con ḿnh cưu mang phủ nhận cách thật phũ phàng. Cho dù bằng lư trí, con người muốn chối bỏ cái bên kia sự chết, nhưng bằng chính mỗi một cái chết của ḿnh, con người lại khẳng định họ tin vào thế giới bên kia cái chết, cho dù nó là ǵ, th́ không ai nói thành lời.

Đức Giêsu Kitô, đă đến, và cũng bằng cái chết của ḿnh, Ngài khẳng định bên kia sự chết, có thế giới của sự sống thật: Sự sống chan ḥa yêu thương. T́nh Yêu được đảm bảo bởi T́nh Yêu Vô Biên của MỘT NGƯỜI CHA. Đức Giêsu đến để đem lửa yêu thương ấy vào trần gian, để biến đổi mọi hiện tại của cơi nhân sinh nên hiện tại vĩnh hằng của T́nh Cha với con cái ḿnh.

Ngày lễ Các Linh Hồn chỉ có ư nghĩa trong T́nh Yêu Vĩnh Hằng ấy:

Cuộc sống hôm nay, không chỉ là cơm bánh, nhưng c̣n là ánh sáng yêu thương của Cha rọi soi mọi giây phút cuộc đời ḿnh. T́nh yêu phải phủ trùm mọi cảnh huống, kể cả cơi sống bên kia cái chết.

 

5. Thân xác và linh hồn – John W. Martens

(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)

"Ta sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày sau hết" (Ga 6,40).

Khi chúng ta chết, điều ǵ sẽ xảy ra? Đây là vấn nạn chúng ta thường đặt ra, đặc biệt đối với các Kitô hữu, khi mọi người đều hướng vọng về sự sống mai sau. Nhưng trước khi thân xác chúng ta được phục sinh trong ngày sau hết, trong thời gian chuyển tiếp, điều ǵ sẽ xảy ra. Khi chúng ta giă từ trần gian, chúng ta sẽ đi về đâu? Đây là điều thường gây ngộ nhận, nếu chúng ta không quán triệt giáo lư của Giáo hội. Hồi c̣n nhỏ tôi vẫn nghĩ tưởng về sự phục sinh mai sau, và cho rằng khi tôi chết, tôi sẽ được sống lại ngay lập tức trên quê trời, cùng với tất cả những ai đă được quyền năng của Chúa cho sống lại. Đây không phải là cái nh́n theo quan điểm Kitô giáo. Tuy nhiên nhiều Kitô hữu vẫn ngộ nhận rằng sau khi chết, chúng ta sẽ sống trên quê trời, tuy không mang h́nh hài thân xác, nhưng linh hồn chúng ta được giải thoát khỏi những ràng buộc của thể lư, và đó cũng là cuộc sống mà mọi người phải hướng vọng về. Cuộc sống mai hậu, khi thân xác chết đi, là một điều rất khó giải thích, bởi v́ những bản văn Kinh Thánh chỉ nói tới cách rời rạc, và không nhất quán đưa ra một cắt nghĩa tổng thể. Về cuộc sống chúng ta sau khi chết đi, Kinh Thánh chỉ mặc khải một cách tiệm tiến và dần dần.

Những người Do Thái cổ đại không đặt trọng tâm vào thế giới mai sau, nhưng họ chỉ nhắm đến cuộc sống hiện sinh với những phần thưởng và chúc lành từ nơi Thiên Chúa. Đó là một cuộc sống trường thọ của ngày hôm nay, được đông con nhiều cháu, được dư dật của cải, cụ thể có đầy tràn hoa màu ruộng đất và đàn gia súc dư giả. Theo quan niệm cổ xưa, người chết sẽ xuống âm phủ, là nơi không phải để thưởng phạt, nhưng chỉ là nơi bóng tối của sự chết bao trùm khi chúng ta an giấc ngàn thu.

Cựu ước rất ít nói về sự phục sinh. Măi về sau này, trong các bản văn thuộc thế hệ sau lưu đầy, khi dân Israel trở về kiến thiết lại Giêrusalem, sự phục sinh thân xác mới được nhắc tới. Vài thế kỷ trước công nguyên, dần dần xuất hiện sự phát triển quan điểm về số phận muôn đời của người đă chết. Muộn thời sau này, người Do Thái mới có tư tưởng, tuy không hệ thống hóa, nhưng nhấn mạnh rằng trọn vẹn con người chúng ta, cả xác lẫn hồn, sẽ được chỗi dậy trong ngày sau hết.

Trong khi khá ít những tư tưởng nói về cuộc sống con người sau cái chết để chờ đợi được phục sinh, th́ tác giả sách Khôn ngoan, bộ sách đă được viết vào khoảng từ năm 30 đến năm 40 trước công nguyên tại Alexandria, thành phố nói tiếng Hy Lạp, có đề cập đến "linh hồn những người công chính" đă chết. Tác giả viết "Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa và chẳng cực h́nh nào động tới được nữa. Bọn ngu si coi họ như đă chết rồi. Khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng ta tưởng là họ bi tiêu diệt. Nhưng thật ra họ đang hưởng b́nh an (Kn 3 1-3). Quan niệm âm phủ không c̣n nữa, nhưng thay vào đó, là t́nh trạng con người thoát khỏi cực h́nh và được an b́nh. Toàn bộ tŕnh thuật đưa ra một tiến tŕnh phán xét sau khi chết, và nói về sự hiện diện tiếp măi của Thiên Chúa. Nhưng bản văn cũng tiên báo một Vương quốc của Thiên Chúa trong tương lai, khi đó linh hồn người công chính sẽ thống trị muôn dân nước và xét xử muôn dân tộc, và Đức Chúa sẽ cai trị họ đến muôn đời (Kn 3, 7-8).

Đối với người Kitô hữu, Vương quốc tương lai này sẽ được khai mở khi Đức Giêsu trở lại, lúc đó tất cả mọi người, kẻ sống cũng như kẻ chết, sẽ được tham phần vào sự sống lại của Đức Kitô nơi thân xác họ. "V́ chúng ta đă nên một với Đức Kitô nhờ được chết như người đă chết, th́ chúng ta cũng sẽ nên một với người, nhờ được sống lại như Người đă sống lại (Rm 6,5). Đức Giêsu đă nói về sứ mạng cứu thế của Ngài, khi chiến thắng tội lỗi và sự chết " Quả thật, đây là ư muốn của Cha tôi, những ai thấy Chúa Con và tin vào Người Con, sẽ có sự sống đời đời, và ta sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày sau hết".

Tất cả những ai c̣n sống trong thân xác trần thế, chúng ta đợi chờ cái chết chắc chắn sẽ đến, và hướng vọng về Vương quốc mai sau trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Họ cũng ngóng đợi sự viên thành của Vương quốc nước trời, khi hồn và xác được kết hiệp lại để sống muôn đời. Sách Giáo lư Công giáo, điều 1005, cũng cắt nghĩa theo lời dạy của Thánh Phaolô, với một viễn cảnh tràn trề hy vọng: "Để được chỗi dậy với Đức Kitô, chúng ta phải chết với Đức Kitô, tức là chúng ta phải xa ĺa thân xác để được cư ngụ với Chúa". Sự chia ĺa tạm thời này, chính là cái chết, khi thân xác tách rời khỏi linh hồn. Linh hồn sẽ được kết hiệp lại với thân xác trong ngày kẻ chết sống lại. V́ thế, cùng với những linh hồn công chính đă ra đi trước chúng ta, các Kitô hữu sẽ chờ đợi Vương quốc của Thiên Chúa, nơi đó tất cả sẽ được viên toàn, và Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự.

 

6. Suy niệm Lễ Các Đẳng Linh Hồn – Hiền Lâm

I. THÁNH LỄ I – Tin mừng Gioan 6,37-40

Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm các thánh thông công, là sự hiệp thông mật thiết giữa ba thành phần Hội Thánh, bao gồm Hội Thánh Vinh Thắng, Hội Thánh Lữ Hành và Hội Thánh Thanh Luyện. Ngày hôm qua, trong sự tương giao, Hội Thánh Lữ Hành chúng ta hân hoan chia sẻ niềm vui và cảm tạ Chúa với Hội Thánh Vinh Thắng trên trời, th́ hôm nay, chúng ta cùng hiệp thông cầu nguyện cho Hội Thánh Thanh Luyện là các đẳng linh hồn trong luyện ngục.

Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra cho chúng ta một tiêu chuẩn giúp chúng ta sẽ đạt tới vinh thắng, đồng thời cũng nâng đỡ niềm tin cho chúng ta khi dâng lời cầu xin cho các tín hữu đă qua đời.

1) Vâng theo Thiên Ư (x.Ga 6,37-39)

Mở đầu bài Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định sứ mạng của Người là đến trần gian để làm theo ư Chúa Cha, hầu cứu độ hết mọi người, không loại trừ một ai.

- Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta sống sứ mệnh người Kitô hữu, là vâng theo ư Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để được thông phần vào cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu Kitô, mưu ích cho các linh hồn, và mai sau cũng được phục sinh với Người.

- Các tín hữu đă qua đời, cũng là những người như chúng ta, đă cùng được d́m trong nước Thánh Tẩy, được lănh lấy của ăn thần linh là Thánh Thể, và đă vượt qua cái chết thể lư. Chúng ta tin tưởng lời Chúa Giêsu hứa hôm nay rằng, những ai Chúa Cha ban cho Tôi th́ Tôi không muốn để mất một ai, mà sẽ ban sự sống đời đời cho họ, và cho họ sống lại trong ngày sau hết. Tuy nhiên, trong thời gian c̣n sống, các linh hồn c̣n vướng những vết nhơ tội lỗi và chưa được hoàn toàn xứng đáng diện kiến Chúa. Mầu nhiệm hiệp thông các thánh thông công, chúng ta tin tưởng cầu xin cho họ.

2) Tin vào Chúa Giêsu Kitô (x.Ga 6,40)

Chúa Giêsu nói rơ cho chúng ta biết, ư Thiên Chúa Cha muốn mọi người chúng ta là tin vào Con Thiên Chúa, tức là tin vào Chúa Giêsu, để nhờ đó họ sẽ được măi măi chiêm ngưỡng thánh nhan Người và được sống lại trong ngày sau hết.

- Như thế, điều kiện tiên quyết để được cứu độ là phải tin và sống niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Nên dù mặc nhiên hay minh nhiên, không qua Đức Giêsu Kitô th́ không thể vào Nước Thiên Chúa.

Sẽ khó trả lời khi nói điều này với người ngoài Kitô Giáo, nhưng hết những ai qua tôn giáo của họ hoặc qua tiếng lương tâm mà ăn ở tốt lành thánh thiện th́ mặc nhiên ở trong Đức Kitô (được rửa tội "bằng lửa"). Cũng thế, những ai dám hy sinh tính mạng v́ niềm tin hoặc v́ Đức Ái, th́ dù chưa được lănh nhận bí tích rửa tội, th́ cũng mặc nhiên ở trong Đức Kitô toàn thể (rửa tội "bằng máu"). Lại nữa, Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu mang tính vượt thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Chính v́ thế mà trong bài đọc I, ông Gióp đă nói: "Tôi tin rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng sống, và ngày sau hết khi thân xác tiêu tan, tôi sẽ được chiêm ngưỡng Người" (G 19,25-27).

- Một điều đáng khích lệ chúng ta nữa là, như trong bài đọc II, thánh Phaolo dạy: "Chúa Giêsu đă chết để cứu chúng ta là tội nhân..." (Rm 5,8). Như thế, dù tội lỗi như thế nào đi nữa, chúng ta không thất vọng, chúng ta chắc chắn sẽ được cứu độ v́ đă tin vào Chúa Giêsu Kitô, miễn là chúng sống xứng đáng với niềm tin đó.

Và đó cũng là tâm t́nh mà chúng ta dâng lên Chúa trong ngày hôm nay, để cầu nguyện cho các linh hồn. Amen.

 

II. THÁNH LỄ II – Tin mừng Luca 23,33.39-42

Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ này, tập chú nói về niềm hy vọng đạt tới thực tại tương lai vĩnh hằng:

H́nh ảnh ngôn sứ Isaia được nh́n thấy (bài đọc I), miêu tả việc Thiên Chúa bù đắp lại cho những gian lao đau khổ mà con người chịu khi c̣n sống nơi trần thế là: "...Thiên Chúa sẽ lau khô mọi ḍng lệ, xé bỏ khăn tang, xoá sạch mọi ô nhục và thiết đăi muôn dân một bữa tiệc... Chính Người là Đức Chúa ta hằng đợi trông..." (x. Is 25,6a.7-9).

Trong thư Rôma (bài đọc II), thánh Phaolô cho biết chúng ta là con cái Thiên Chúa sẽ được đồng thừa kế gia nghiệp cùng với Đức Kitô. Và gia nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian, bởi v́ những đau khổ đời này sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải (x. Rm 8,14-23).

Qua bài Tin Mừng, niềm hy vọng và khích lệ lớn dành cho chúng ta, là dù quá khứ chúng ta có đầy tội lỗi, nhưng chỉ cần một thời gian ngắn ngủi trở về với Chúa, th́ t́nh thương hải hà của Chúa sẵn sàng tha thứ và nhận chúng ta vào Nước của Người.

Tuy nhiên, để được vào Nước Chúa như người "trộm lành" kia, theo Chúa trong "giờ thứ 11", nghĩa là giờ phút cuối cùng, vẫn cần ít nhất hai thái độ:

1. Nhận ra con người tội lỗi của ḿnh.

Ở Nga, người ta vẫn coi anh chàng "trộm lành" có tên là Dismat này là một vị thánh và là bổn mạng của các tội nhân mang án tử. Anh đă nên thánh ngay phút chót của cuộc đời trần thế, chỉ v́ anh đă thống hối và tin vào Chúa Giêsu.

Người trộm lành đă ư thức tội lỗi của ḿnh và đáng chịu phạt xứng với tội lỗi anh đă gây ra.

2. Tin và cầu xin với Chúa Giêsu Kitô.

Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở sám hối mà thôi th́ chưa đủ để được vào Nước Thiên Chúa, người trộm lành cần đến niềm tin nơi Đấng bị đóng đinh kia là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ. Đây là một đặc điềm của đạo Công Giáo chúng ta. Chúng ta không chỉ sám hối mà c̣n phải tin vào Tin Mừng là tin vào Chúa Giêsu Kitô (khác với Phật Giáo), không phải tự cứu ḿnh bằng nỗ lực bản thân mà là cần kết hợp với ơn Chúa, hoàn thiện bản thân trong sự kết hợp với ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô. Cũng không phải chỉ tin là đủ, mà phải hành động cụ thể là sám hối và tin và Tin Mừng.

- Cùng hiệp thông cầu cho các tín hữu đă qua đời hôm nay. Chúng ta cùng biết ư thức về thân phận yếu đuối mỏng gịn của ḿnh, đồng thời tin tưởng vào giá máu cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, sẽ giải thoát các linh hồn đang phải thanh luyện trong luyện ngục. Các đẳng từng, là những người như chúng ta, đă tin vào Chúa Giêsu Kitô, nhưng trong đời sống niềm tin đó c̣n thiếu sót, hoặc chưa có một sự sám hối đền tội cho đủ, nên bây giờ c̣n phải thanh luyện nơi luyện ngục.

Chúng ta tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa, nhưng không ỷ lại vào giờ phút chót, v́ chúng ta không biết lúc nào Chúa gọi ḿnh ra đi, nên cần luôn có một sự tỉnh thức và sẵn sàng.

 

III. THÁNH LỄ III – Tin mừng Gioan 11,17-27

Trong thánh lễ III, Giáo Hội cho đọc đoạn Tin Mừng Gioan kể về việc Chúa Giêsu đến thăm gia đ́nh Bêtania sau khi được tin Lazarô chết. Đoạn Tin Mừng này làm nổi bật lên hai bài học sau đây:

1. Chân lư đức tin qua các lời tuyên xưng của cô Martha.

- "Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây th́ em con đă không chết"

Phải, "được Chúa th́ được tất thảy, mất Chúa th́ mất sạch tay". Lời nói của Martha như là một lời than trách v́ Chúa Giêsu đến chậm nên Lazarô em chị đă chết, nhưng đây là một cách diễn tả của Tin Mừng Gioan là: linh hồn chúng ta được coi là đă chết khi vắng Chúa Giêsu.

- "Bất cứ điều ǵ Thầy xin th́ Thiên Chúa cũng ban cho Thầy"

Nghĩa là dù em con đă chết rồi, nhưng bây giờ Thầy xin th́ Thiên Chúa vẫn cho em con được sống lại. Thật vậy, dù linh hồn chúng ta đă bao lần chết đi v́ vắng Chúa, chúng ta xưng thú tội lỗi và đón rước Chúa vào ḷng th́ Chúa Giêsu sẽ lại phục hồi cho ta sự sống thiêng liêng với muôn vàn ơn phúc.

- "Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết"

Đây là điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại". Đức tin Công Giáo chúng ta xác nhận rằng, những người lành thánh sau khi ĺa đời, linh hồn sẽ được hưởng tôn nhan Chúa, và ngày tận thế thân xác cũng sẽ được phục sinh để hưởng hạnh phúc trường cửu. Niềm tin này đă có từ thời Cựu Ước, mà trong bài đọc I, sách Macabê đă ghi lại việc quyên góp tiền để xin dâng hy lễ đền tội cho các chiến sĩ đă tử trận. Ngày nay, nơi Giáo Hội Công Giáo, trong sự hiệp thông, chúng ta vẫn cầu nguyện, dâng việc lành và xin lễ đền tội cho các linh hồn.

2. Lời khẳng định của Chúa Giêsu về sự sống.

- "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống"

Chúa Giêsu Kitô là sự sống của linh hồn. V́ thế, khi chúng ta không ăn Bánh Sự Sống th́ linh hồn chúng ta sẽ chết yểu và hư đi.

Chúa Giêsu c̣n là sự sống lại. Chính Người là Đấng đầu tiên sống lại từ cơi chết, mở đường cho những ai tin vào Người và thông hiệp trong cái chết của Người sẽ được phục sinh như Người.

- "Ai tin vào Thầy th́ dù chết rồi th́ vẫn sẽ được sống"

Hôm nay chúng ta dâng lễ và viếng nghĩa trang cầu nguyện cho các linh hồn, chính là v́ chúng ta đang tin vào điều này. Các đẳng linh hồn vẫn sống v́ đă tin vào Chúa Giêsu, nhưng c̣n mang ít nhiều vết nhơ của tội. V́ thế, lời cầu xin và việc dâng hy lễ của chúng ta là cậy nhờ ḍng Máu Sự Sống của Chúa Giêsu đến giải thoát các linh hồn cho về hưởng sự sống vĩnh cửu.

- "Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết"

Lời này hướng đến chúng ta là những người đang c̣n hiện hữu trên trần gian. V́ chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô nên sẽ không sợ cái chết, cái chết thể lư chỉ là cửa ngơ đưa chúng ta về cuộc sống vĩnh cửu.

7. Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

"Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại măi măi. Không có ǵ để thêm, chẳng có ǵ để bớt. Thiên Chúa đă hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người". (Gv 3, 14)

Suy niệm 1: Xin nhớ đến tôi

Người ta kể rằng: Có một người duy nhất sống sót trong một tai nạn đắm tàu và trôi dạt trên một hoang đảo nhỏ. Kiệt sức, nhưng cuối cùng anh đă gom được những mẫu gỗ trôi dạt và tạo cho ḿnh một túp lều nhỏ để trú ẩn và cất giữ một vài đồ đạc c̣n sót lại. Ngày ngày anh nh́n về chân trời cầu mong được cứu thoát, nhưng dường như vô ích.

Thế rồi một ngày, như thường lệ anh rời khỏi cḥi để t́m thức ăn trong khi bếp lửa trong lều vẫn cháy. Khi anh trở về th́ túp lều nhỏ đă ngập trong lửa, khói cuộn bốc lên trời cao. Điều tồi tệ nhất đă xảy đến. Mọi thứ đều tiêu tan thành tro bụi. Anh chết lặng trong sự tuyệt vọng: "Sao mọi việc lại thế này lại xảy đến với tôi hở trời!".

Thế nhưng, rạng sáng hôm sau, anh bị đánh thức bởi âm thanh của một chiếc tàu đang tiến đến gần đảo. Người ta đă đến để cứu anh. "Làm sao các anh biết được tôi ở đây?" - Anh hỏi những người cứu ḿnh. Họ trả lời: "Chúng tôi thấy tín hiệu khói của anh".

Những người đă chết cũng đang sống trong hoài băo chờ mong. Họ chờ mong có ai đó nhớ đến họ. Họ chờ mong có ai đó cứu thoát họ. Họ đă bị âm dương xa cách ngàn trùng. Cuộc đời của họ đă trôi dạt vào một bến bờ xa lắc. Không lối thoát. Không tự ḿnh cứu ḿnh. Họ chỉ c̣n trông mong nơi những người c̣n sống.

Người thanh niên trên đảo đă vô t́nh đốt lều tạo thành khói lửa báo hiệu cầu cứu. Những người đă chết theo những mạc khải tư họ vẫn hiện về với lửa, với nóng, với lời cầu xin "xin cứu giúp họ". Những ánh lửa vẫn là lời mời gọi con người hăy nhớ đến những người đă khuất. Họ đang chịu sự h́nh phạt do tội ḿnh gây nên. Họ đang phải thanh luyện nên hoàn hảo hơn. Thế nhưng, họ bất lực v́ không thể làm ǵ khác hơn để cứu ḿnh. Họ mong chúng ta hăy cứu giúp họ.

Trong bí mật Fatima chúng ta cũng thấy: Mẹ Maria đă mạc khải qua lời chị Lucia như sau:

"Đức Mẹ đă tỏ cho chúng con thấy một biển lửa lớn, dường như ở dưới ḷng đất. Ma quỉ và các linh hồn dưới h́nh người bị ch́m ngập trong lửa này, giống như những cục than hồng thông suốt, hoàn toàn như thỏi đồng đen đủi hay bóng láng, bập bềnh trong một đám cháy rực lửa, lúc th́ bị tung lên không trung bởi những ngọn lửa xuất phát từ chính ḿnh họ cùng với những đám khói cả thể, lúc th́ bị rớt một cách nhẹ bỗng xuống khắp nơi như những tia lửa của một đám cháy khổng lồ, với những tiếng la thất thanh và rên xiết đớn đau tuyệt vọng, khiến chúng con kinh khiếp và rùng ḿnh sợ hăi. Có thể nhận ra đám ma quỉ bằng những h́nh thù rùng rợn và ghê tởm giống các con thú kinh khiếp chưa từng thấy. đen ng̣m và thông suốt. Thị kiến này kéo dài trong giây lát. Chúng con làm sao có thể tỏ ḷng biết ơn cho đủ đối với Người Mẹ thiên đ́nh nhân ái của chúng con, Đấng mà trong lần hiện ra thứ nhất đă sửa soạn trước cho chúng con bằng lời hứa sẽ đem chúng con về thiên đàng. Bằng không, con nghĩ rằng chúng con sẽ chết đi v́ sợ hăi và kinh hoàng.

Tháng 11 Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ tới những người thân yêu của chúng ta đă ly trần. Họ có thể là ông bà, cha mẹ của chúng ta. Họ có thể là bằng hữu của chúng ta. Họ cũng có thể là những người đă gây nên không biết bao nhiêu đau khổ cho chúng ta. Họ đă hối hận nhưng không c̣n cơ hội sửa lỗi hay lập công. Họ đang trải qua ngọn lửa thanh luyện để được xứng đáng vào dự yến tiệc Con Thiên Chúa.

Theo giáo lư về luyện ngục, Giáo hội cũng khẳng định: "Tất cả những người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắc chắn được cứu độ đời đời, c̣n phải chịu thanh luyện sau khi chết, nhằm đạt được sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng phước Thiên Đàng. Hội Thánh gọi việc thanh luyện cuối cùng của những người được chọn là luyện ngục. Điều này khác hẳn với h́nh phạt đời đời" (các số 1030-1031).

Vậy chúng ta có thể làm ǵ cứu giúp các linh hồn?

Trong sách Macabêô II, 12: 25, tác giả nói rằng việc nh́n nhận phần thưởng dành cho những người an nghỉ cách đạo đức mang ư nghĩa lành thánh; do đó ông Yuda đă xin dâng lễ tế cầu ơn xá tội cho những linh hồn người chết để họ được tha thứ tội lỗi".

Mỗi người chúng ta đều có những người rất thân yêu đă ly trần. Họ chỉ mong chờ chúng ta một lời kinh, một thánh lễ,một việc lành thay cho họ. Họ đang nói với chúng ta "Xin đừng quên tôi". Xin cho chúng ta biết dùng tháng 11 như là một tháng đền ơn đáp nghĩa những người đă yêu thương chúng ta mà nay đă ly trần bằng việc nhớ và cầu nguyện cho họ. Amen

Suy niệm 2: Dụ ngôn cây chuối

Có một cậu bé hỏi bố rằng:

"Bố ơi, trong cuộc đời của một cây chuối nó sinh ra được bao nhiều buồng?"

"Chỉ một buồng duy nhất." – Bố tôi trả lời.

Cậu nhỏ ngạc nhiên về câu trả lời của bố. Nó cứ đinh ninh trong cuộc đời của ḿnh một cây chuối ít nhất cũng phải cho vài buồng quả.

"Khi buồng chuối chín cũng là lúc cây chuối mẹ chết đi." – Bố nói thêm.

Thực vậy, nếu có dịp quan sát một cây chuối mang một buồng quả chín ta sẽ thấy: Lá của cây chuối mẹ héo rũ và xác xơ, và thân của nó oằn xuống như sắp găy v́ nó phải mang trên ḿnh một buồng chuối nặng trĩu quả. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, khi buồng chuối chín hoàn toàn, cây chuối mẹ sẽ gục hẳn xuống.

Trong quá tŕnh nuôi buồng chuối, cây chuối mẹ đă hy sinh những phần tinh túy nhất của ḿnh – chất dinh dưỡng trong gốc, thân và lá – để dồn cho những quả chuối được chín, để dâng cho đời những trái chuối ngon ngọt.

Hóa ra lâu nay hàng ngày tôi vẫn ăn chuối và thỉnh thoảng vẫn nh́n thấy một bụi chuối mà không hề hay biết cây chuối tượng trưng cho một h́nh ảnh đẹp về sự hy sinh.

Cây tốt lại sinh trái tốt. Cây chuối từ đời này đến đời kia cứ tiếp tục dâng hiến, hy sinh để cho một mần sống mới phát triển. Phẩm chất của cây chuối không chỉ là thơm ngon, là chất bổ dinh dưỡng mà c̣n là bài học quư báu của t́nh yêu hy sinh đến quên cả tính mạng ḿnh. Đó là mẫu gương của sự hy sinh, của t́nh yêu bất diệt.

Tháng 11 là dịp để chúng ta nhớ tới biết bao hy sinh của những bậc làm cha mẹ đă quên ḿnh v́ chúng ta. Họ đă đánh đổi cuộc đời cho chúng ta sự sống, cho chúng ta tiếng cười và b́nh an. Họ đă một cuộc đời tận hiến thân ḿnh như cây chuối chỉ mong mang lại cho đời trái chin thơm ngon và chấp nhận gục ngă theo số phận an bài.

Vâng, khi nói đến cha mẹ, chúng ta không thể quên những hy sinh mà các ngài đă dành cho chúng ta. Điều này đă thể hiện qua biết bao ca từ của lời hát, của những câu ca. Văn học luôn phát triển cùng với những vần thơ ca tụng về t́nh cha t́nh mẹ. Và có lẽ, từ bé đến già, không nhiều th́ ít, ai cũng cảm thấy thấm thía ơn đức cao cả của mẹ cha:

"Công cha đức mẹ cao dày

Cưu mang trứng nước những ngày c̣n thơ

Nuôi con khó nhọc đến giờ

Trưởng thành con phải biết thờ song thân".

"Biết thờ song thân", thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:

"Nuôi con buôn tảo bán tần

Chỉ mong con lớn nên thân với đời

Những khi trái nắng trở trời

Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên

Trọn đời vất vả triền miên,

Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con".

Thế nên, nếu so sánh công đức của mẹ hiền như non cao cũng chưa xứng đáng:

"Ai rằng công mẹ như non

Thực ra công mẹ lại c̣n lớn hơn".

T́nh thương của cha mẹ thật lớn lao. T́nh thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con th́ đời con thêm tươi sáng:

"Ví dầu cầu ván đóng đinh,

Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.

Khó đi mẹ dắt con đi,

Con đi trường học mẹ đi trường đời".

Vậy, những t́nh yêu mà cha mẹ dành cho chúng ta, các ngài cần ǵ nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, v́ tiền bạc các ngài dành giụm để cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, v́ tuổi ǵa chẳng c̣n ham muốn những tham sân si của ḍng đời. Các ngài cần t́nh yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài c̣n sống. Niềm mơ ước đó đă thể hiện qua những lời mẹ ru con:

"Ai về tôi gửi buồng cau,

Buồng trước kính Mẹ, buồng sau kính Thầy.

Ai về tôi gửi đôi giầy,

Pḥng khi mưa gió để Thầy Mẹ đi".

Trong đạo hiếu đôi khi những người con c̣n dám chấp nhận hy sinh hạnh phúc, hy sinh cuộc đời riêng tư của ḿnh, một ḷng chỉ quyết phụng dưỡng mẹ cha:

"Ơn hoài thai, to như bể!

Công dưỡng dục, lớn tợ sông!

Em nguyện ở vậy không chồng,

Lo nuôi cha mẹ hết ḷng làm con".

Không chỉ ở nhà mới phụng dưỡng cha mẹ mà ngay cả khi sang nhà chồng hay khi làm ăn nơi xa vẫn một niềm lắng lo, vẫn canh cánh bên ḷng một cuộc đời già nua của cha mẹ:

"Chim đa đa đậu nhánh đa đa,

Chồng gần không lấy, để lấy chồng xa.

Mai sau cha yếu, mẹ già.

Bát cơm đôi đũa, kỹ trà ai dâng?

Ḷng thảo hiêu ấy được tỏ bày một cách chân thành khi các ngài đă qua đời, luôn cầu nguyện, thắp hương tưởng nhớ mẹ cha.

Giáo Hội Công Giáo mời gọi chúng ta lấy tinh thần thảo hiếu của người Việt vào trong đời sống tôn giáo bằng việc dùng tháng 11 như là tháng ân hiếu mẹ cha.

Đạo hiếu luôn dạy chúng ta "ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Đạo hiếu luôn nhắc nhở chúng ta phải tỏ ḷng hiếu thảo với cha mẹ. Xin cho chúng ta luôn sống thảo hiếu với cha mẹ. Khi c̣n sống biết kính trọng vâng lời. Khi các ngài đă qua đời luôn nhớ đến các ngài trong kinh tối, kinh sáng và trong thánh lễ hằng ngày. Amen

 

8. Lịch sử ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn

(Trích từ vietcatholic.net - LM. Nguyễn Phước).

Ngay từ thời tiên khởi, Giáo Hội đă khuyến khích chúng ta cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh Augustine viết, "Nếu chúng ta không lưu tâm ǵ đến người chết, th́ chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ." Tuy nhiên, các nghi thức cầu cho người chết có tính cách dị đoan thời tiền-Kitô Giáo đă ảnh hưởng mạnh mẽ đến nỗi măi cho đến đầu thời Trung Cổ, nhờ các ḍng ẩn tu có thói quen cầu nguyện cho các tu sĩ đă qua đời hàng năm th́ một nghi thức phụng vụ cầu cho người chết mới được thiết lập.

Vào giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Tu Viện Trưởng ḍng Cluny, ra lệnh rằng mọi tu viện ḍng Cluny phải cầu nguyện đặc biệt và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2 tháng Mười Một, ngay sau lễ Các Thánh. Truyền thống này được lan rộng và sau cùng được Giáo Hội chấp nhận đưa vào niên lịch Công Giáo La Mă.

Ư nghĩa thần học làm nền tảng cho ngày lễ này là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. V́ ít có ai đạt được một đời sống trọn hảo, mà hầu hết đă chết đi với vết tích tội lỗi, do đó cần có thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn ấy được đối diện với Thiên Chúa. Công Đồng Triđentinô xác nhận có luyện tội và nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết.

Sự dị đoan vẫn c̣n dính dấp đến ngày lễ này. Thời trung cổ người ta tin rằng các linh hồn trong luyện tội có thể xuất hiện vào ngày lễ này dưới h́nh thức các phù thủy, các con cóc hay ma trơi. Và họ đem thức ăn ra ngoài mộ để yên ủi người chết.

Tuy nhiên việc cử hành lễ với tính cách tôn giáo vẫn trổi vượt. Người ta tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay đi thăm mộ người thân yêu đă qua đời và quét dọn, trang hoàng với nến và hoa.

***

Có nên cầu nguyện cho người chết hay không là một tranh luận lớn khiến chia cắt Kitô Giáo. V́ sự lạm dụng ơn xá trong Giáo Hội thời ấy nên Luther đă tẩy chay quan niệm luyện tội. Tuy nhiên, đối với chúng ta, cầu cho người thân yêu là một phương cách cắt bỏ sự chia ĺa với người chết. Qua lời cầu nguyện, chúng ta cùng đứng với những người thân yêu, dù c̣n sống hay đă ra đi trước chúng ta, để dâng lời cầu xin lên Thiên Chúa.

***

"Chúng ta không thể coi luyện tội là một nhà tù đầy lửa cận kề với hỏa ngục - hoặc ngay cả "một thời gian ngắn của hỏa ngục." Thật phạm thượng khi nghĩ rằng đó là một nơi chốn mà Thiên Chúa bủn xỉn đang ḅn rút từng chút thân xác... Thánh Catherine ở Genoa, vị huyền nhiệm của thế kỷ 15, viết rằng "lửa" luyện tội là t́nh yêu Thiên Chúa "nung nấu" trong linh hồn đến nỗi, sau cùng, toàn thể linh hồn ấy bừng cháy lên. Đó là sự đau khổ của ḷng khao khát muốn được xứng đáng với Đấng được coi là đáng yêu quư vô cùng, họ đau khổ v́ sự mơ ước được kết hợp đă cầm chắc trong tay, nhưng lại chưa được hưởng thật trọn vẹn" (Leonard Foley, O.F.M., Tin Chúa Giêsu).

***

Lạy Chúa Giêsu,

nếu người ta cứ phải sống măi trên cơi đời này

th́ thật là phiền toái.

Nhưng cái chết vẫn làm chúng con đau đớn

v́ phải chia tay với những người thân yêu,

v́ bao mộng mơ, dự tính c̣n dang dở.

Xin cho chúng con đừng nh́n cái chết

như một định mệnh nghiệt ngă và phi lư,

nhưng như một hành tŕnh trở về nguồn cội yêu thương.

Lạy Chúa Giêsu, trước cái chết thập giá,

Chúa đă run sợ, nhưng không tháo lui,

và Chúa đă chết trong niềm vâng phục tín thác,

để trở nên người đầu tiên bước vào cơi sống Vĩnh Hằng.

Xin cho chúng con nghe được lời dạy dỗ của cái chết.

Cái chết cho thấy cuộc sống mong manh, ngắn ngủi,

chính v́ thế từng giây phút trôi qua thật quư báu.

Cái chết bất ngờ mời gọi chúng con luôn tỉnh thức.

Cái chết nhắc nhở chúng con là khách lữ hành

đang trên đường về quê hương vĩnh cửu.

Sống một đời và chết một lần.

Lạy Chúa, đó là thân phận làm người của chúng con.

Xin dạy chúng con biết cách chết nhờ biết cách sống.

Amen!

(theo Maranatha 89)

 

9. Tưởng nhớ người đă ra đi.

(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)

Khi tưởng nhớ đến người đă qúa cố, tâm t́nh buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người c̣n đang sống trên trần gian.

Tâm t́nh này đạo đức và rất t́nh người. Tâm t́nh này cũng dẫn đưa chúng ta đến suy nghĩ về những khác biệt trong đời sống của con người. Nhưng mọi người đều có ngày mở mắt chào đời từ trong cung ḷng mẹ đi ra. Và ai cũng có ngày sau cùng của đời sống rồi được bọc trong cỗ áo quan chôn vùi dưới ḷng đất.

Những người đă ra đi khỏi cuộc sống trần gian về thế giới bên kia và những người c̣n đang sống, trước sau vẫn thuộc về nhau. Tất cả đă cùng chung sống với nhau. Chúng ta và họ đă cùng chia sẻ cuộc sống niềm tin, cuộc sống t́nh người với nhau.

Họ đă ra đi. Nhưng họ vẫn hằng hiện diện trong trái tim t́nh yêu mến của chúng ta. Họ vẫn hằng sống động trong tâm t́nh biết ơn của chúng ta, cùng trong những kỷ niệm ngày đă cùng nhau sống trải qua.

Mỗi khi cùng nhau dâng thánh lễ tưởng nhớ đến người qúa cố, chúng ta muốn nói lên: Không chỉ một ḿnh tôi làm việc này. Nhưng tất cả mọi người trong thánh đường đang cùng dâng thánh lễ cũng tưởng nhớ đến thân nhân của họ đă qúa cố.V́ cuộc đời ai mà không có lần đau buồn chia ĺa vĩnh biệt người thân của ḿnh đă qua đời.

Và trong thánh lễ tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô không chỉ chúng ta người c̣n đang sống, mà cả những người đă qúa cố cùng quây quần bên bàn tiệc thánh lễ: Tôi tin các Thánh cùng thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.

Bánh Thánh, Ḿnh Máu Chúa Giêsu nối kết người c̣n sống và người đă qua đời lại với nhau trong niềm tin và t́nh yêu mến.

Với niềm tin và tâm t́nh yêu mến chúng ta hôm nay:

1. Tưởng nhớ đến Tổ tiên, Ông Bà, cha mẹ đă ra đi về cùng Thiên Chúa.

Họ là những người đă sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người khôn lớn. Họ là những người đă không chỉ nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa, bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức khỏe. Nhưng họ đă hy sinh suốt cả cuộc đời làm tṛn nhiệm vụ là cha mẹ được Thiên Chúa giao phó, nuôi dạy uốn nắn đời sống đức,tin tinh thần đạo đức của chúng ta.

T́nh yêu đó, công ơn đó xin muôn đời ghi nhớ, và mỗi khi dâng Thánh lễ chúng con đều nhớ đến và mang dâng lên bàn thờ Chúa.

2. Tưởng nhớ đến những người thân yêu ruột thịt trong gia đ́nh đă an giấc ngàn thu: họ là chồng hay vợ; là con cái, cháu chắt, anh chị em, cậu cô chú bác, cô d́.

Với họ chúng ta đă cùng nhau trải qua những chặng đường đời sống vui buồn cay đắng ngọt bùi, đă cùng nhau sống những giờ phút thành công cũngnhư thất bại, hy vọng có lo âu sợ sệt cũng có. Một phần đời sống của ta từ nơi họ và một phần đời sống của họ cũng từ nơi ta.

Ân nghĩa, t́nh yêu và những kỷ niệm này luôn hằng khắc ghi trong tâm khảm ngướ c̣n đang sống, và xin dâng lên bàn thánh hợp cùng hy lễ Chúa Giêsu trên thánh giá.

3. Xin tưởng nhớ đến các linh mục, những người được Thiên Chúa và Hội Thánh trao nhiệm vụ săn sóc việc tinh thần đạo đức cho các tín hữu trong các xứ đạo. Sau những năm tháng âm thầm hy sinh làm việc tông đồ, họ đă nghe tiếng Chúa gọi trở về đời sau.

Sự hy sinh và ḷng quảng đại sống rao giảng, làm nhân chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa trong các xứ đạo của linh mục là ân đức của Chúa ban tặng cho con người.

Người tín hữu Chúa Kitô vui mừng và cảm thấy an ủi v́ có linh mục, vị hướng dẫn tinh thần, là người cùng đồng hành với trong cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa.

Linh mục vui và cảm thấy được nâng đỡ v́ có Thiên Chúa ở cùng ông trong mọi hoàn cảnh và nhất là được cùng chung sống xây dựng phát triển đời sống niềm tin với mọi người tín hữu.

Các cha nằm nơi nghĩa trang sâu trong ḷng đất mẹ. Nhưng những người tín hữu xưa kia đă cùng chung sống trải qua trong xứ đạo không quên ơn các cha. Nơi bàn thánh xưa kia các cha cùng dân Chúa dâng thánh lễ, ngày nay khi dâng thánh lễ họ cùng hợp với của lễ Chúa Giêsu nhớ đến cầu nguyện cho các cha.

4. Xin nhớ đến các Nữ Tu cùng các Thầy Ḍng đă chọn đời sống thanh tịnh theo tiếng gọi của Chúa trong Hội Ḍng, đă được Thiên Chúa gọi về đời sau.

Xưa kia các Thầy, các chị em Nữ Tu đă nghe tiếng Gọi của Chúa từ trời cao từ bỏ mọi sự có thể có và được phép hưởng dùng, chọn nhận sống đời khiết tịnh nhiệm nhặt, đời phục vụ cho ích chung của nước Chúa và cho con người.

Đời sống từ bỏ hy sinh vác thánh giá và âm thầm cầu nguyện của các Thầy, các chị em Nữ tu là nhân chứng sống động cho t́nh yêu Thiên Chúa giữa trần gian.

Xin dâng lên bàn thờ Chúa trong các thánh lễ cầu cho các Thầy, các anh chị em Nữ tu.

5. Xin nhớ đến các Bạn Bè người quen thân, các vị ân nhân ngày xưa đă cùng nhau trải qua những giờ phút vui buồn, những kỷ niệm êm đẹp. Giờ đây họ đă thành người thiên cổ.

Xin cám ơn ḷng ưu ái t́nh người chúng ta đă trao cho nhau và xin dâng các Bạn lên bàn thờ Thiên Chúa, Đấng là đời sống và ơn cứu chuộc của con người chúng ta.

6. Xin nhớ đến những nạn nhân đă qua đời v́ thiên tai băo lụt, hạn hán, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật và những người mồ côi bơ vơ không có ai nhớ đến.

Họ tất cả cũng là con Chúa và niềm tin dạy chúng ta: Họ cũng được Thiên Chúa cứu độ. Nơi bàn tiệc thánh Chúa Giêsu họ có chỗ ngồi đồng hàng với tất cả mọi người.

Xin cùng với ánh nến t́nh tương liên đới dâng lên bàn thờ Thiên Chúa nguồn t́nh yêu thương lời kinh cầu nguyện cho linh hồn họ đă về nơi chín suối ngàn thu.

7. Xin tưởng nhớ đến những thành viên trong Cộng đoàn chúng ta đă được Thiên Chúa gọi trở về đời sau.

Cộng đoàn chúng ta được thành lập cho chúng ta, và do chúng ta cùng chung lưng đấu cật xây dựng nên từ những chục năm qua. Những hy sinh đóng góp của mỗi người trong cộng đoàn là những viên gạch xây dựng nên ngôi nhà cộng đoàn đức tin sống động vào Thiên Chúa Ba ngôi.

Mỗi khi nhớ đến những người xưa kia đă cùng chung vai sát cánh xây dựng nên Cộng đoàn, mà giờ đây họ đă ra đi về với Chúa trước chúng ta, Cộng đoàn chúng ta ngậm ngùi nhớ đến họ với ḷng biết ơn và cảm phục.

Xin cùng dâng lời kinh tiếng hát ḥa lẫn trong làn hương khói và ánh nến cầu nguyện cho họ trước bàn thờ Thiên Chúa Ba ngôi.

8. Xin nhớ đến các em hài nhi đă qua đời hay bị phá hủy sự sống ngay khi đang c̣n là thai nhi trong thời kỳ phát triển thành h́nh nơi cung ḷng mẹ.

Các em thai nhi vô tội bị phá hủy h́nh hài sự sống là những Thiên Thần bé nhỏ tí hon của con người trước ṭa Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống và ḷng nhân lành.

Xin thắp những ngọn nến hồng nhỏ bé nhớ về các Thiên Thần vô tội. Các Thiên Thần tí hon vô tội là những vị cầu bầu cho chúng ta trước ngai ṭa Thiên Chúa t́nh yêu.

9. Trước nấm mồ chúng ta muốn đọc lại sứ điệp của những người đă ra đi về đời sau nhắn gửi lại:

- Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới ḷng đất, hay đă bị thiêu hủy thành tro bụi. Nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Đấng sinh thành ra tôi.

- Tôi nằm sâu trong ḷng nấm mồ này. Nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ linh hồn tôi và sẽ cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt, như Ngài đă cho Chúa Giêsu sống lại từ cơi chết.

- Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng xi-măng cát đá. Nhưng tôi hằng có tâm t́nh yêu mến Thiên Chúa của tôi. V́ Ngài là Cha đời tôi, Ngài hằng yêu mến tôi.

Và tôi tâm niệm rằng:

- Những ǵ ngày xưa tôi xây dựng làm ra, giờ này tôi phải bỏ lại.

- Những ǵ ngày xưa tôi thu góp tích lũy để dành, giờ này tôi không mang đi được.

- Nhưng những ǵ ngày xưa tôi cho đi, bây giờ tôi nhận lănh trở lại.

 

10. Bài giảng của ĐTGM. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn

Anh chị em thân mến,

Biến cố ngày 11.9 tại Hoa Kỳ đă làm chúng ta bàng hoàng. Mỗi lần nhắc lại hoặc thấy những h́nh ảnh đó, chúng ta không khỏi buồn sầu, lo lắng, tức giận. Có thể mỗi người nh́n biến cố đó với một góc độ khác nhau. Nhưng có một góc độ có lẽ ít người nghĩ đến. và đó là vấn đề mà chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ.

Trên thế giới từ xưa tới nay, không phải chỉ có biến cố ngày 11.9, mà c̣n vô vàn biến cố khác, chẳng hạn sự kiện hai quả bom nguyên tử ở Nhật Bản năm 1945. có một câu hỏi được đặt ra: Thế th́ số phận của những người đă chết trong các biến cố đó ra sao?

Ngày nay người ta chỉ nói đến sự trả thù, phải trả thù cho những người chết oan, trả thù cho những người đau khổ. Công lư thế gian, công lư của con người thực hiện ra sao chúng ta không biết, nhưng về mặt đức tin, chúng ta sẽ suy nghĩ như thế nào??? Phải dựa vào Lời Chúa, v́ chính Chúa muốn chúng ta hăy dùng Lời của Ngài để an ủi nhau, cách riêng trong những biến cố thảm thương như vậy.

Bài đọc I của ngày lễ hôm nay, cách nào đó, khiến chúng ta phải suy nghĩ. v́ nhiều người chết rất bi thương, cái chết không xứng hợp chút nào với đời sống của họ, người ta chỉ c̣n biết thương tiếc và nghĩ rằng như thế là chấm dứt một cuộc đời, chấm dứt cách buồn thảm, tràn đầy thất vọng. Thế nhưng Lời chúa lại nói với chúng ta: Những người công chính khi chết đi, họ sẽ được đưa vào trong vinh quang của Thiên Chúa, nếu cái chết của họ hay sự đau khổ của họ xảy đến cũng giống như vàng phải được trui luyện trong lửa, để chắt ra chất vàng tinh ṛng và loại bỏ những thứ cặn bă.

Con người mà Thiên Chúa đă tạo dựng, yêu thương và cứu chuộc. chính là vàng. (Nếu chúng ta có th́ giờ để hiểu rằng, trên Thiên Quốc có biết bao nhiêu người công chính, bao nhiêu con người đă được Thiên Chúa rước và cho vào trong vinh quang của Ngài. Đó chỉ mới nói về những con người được tạo dựng ở trần thế. C̣n thế giới của thiên thần, thế giới thần linh, tất cả đều ở trong vinh quang đó). Có thể nào chúng ta vào Nước Trời với một tấm áo đầy bụi bặm, nhơ bẩn. phải được tinh luyện, sự tinh luyện đó không phải bởi sức lực của chúng ta, nếu bởi chúng ta chắc chúng ta sẽ thất vọng v́ thấy rơ sự yếu đuối của ḿnh, th́ đây, thánh Luca nói trong bài Phúc Âm của ngài: Khi suy niệm về sự chết, khi cầu nguyện cho những người đă chết, bao giờ chúng ta cũng phải đặt trên nền tảng Đức Kitô Tử Nạn-Phục Sinh, không đặt trên nền tảng và không đi từ chân lư đó th́ không có một thắc mắc hay một vấn nạn nào được giải quyết, được soi sáng.

Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, cao điểm được thể hiện trên núi Canvariô (dù rằng chưa Phục Sinh), Chúa đă biểu lộ vinh quang của Ngài như lời thánh Gioan: Chính khi Ngài được treo dựng lên nơi cao, vinh quang chói ngời của Ngài sẽ tỏa ra. Vậy thánh Luca cho chúng ta thấy: một thế giới sa đọa tội lỗi, (và thế giới đó) đă nhạo cười, đă đóng đinh Chúa Giêsu và đưa Ngài đến cái chết thảm thê trên thập giá. Trong thế giới đó, c̣n có những con người thiện tâm, có những con người sẵn sàng hoán cải, dù rằng trước mắt thế gian con người đó xứng đáng với cái chết (v́ cũng đă bị treo trên thập giá). Nhưng Chúa Giêsu nói: Quả thật, ngày hôm nay ngươi sẽ được vào trong Nước Thiên Đàng.

Nhưng nếu chỉ thấy Ngài chịu chết th́ làm sao chúng ta được sống lại? Cái chết của Ngài đem đến những ǵ cho chúng ta? V́ nếu Ngài chết mà Ngài không sống lại th́ cái chết của Ngài cũng vô ích, t́nh thương của Ngài cũng vô ích!

Chúa Giêsu chết và Ngài đă Phục Sinh. Chính Ngài là đầu mối của tất cả mọi việc, chính nơi Ngài mà chúng ta (những người cách này hay cách khác đă tin vào Ngài) t́m được niềm tin và hy vọng. Nhưng không chỉ những người được Rửa Tội mới gọi là tin vào Ngài. Có những người rất thành tâm, thiện chí, nhưng v́ một hoàn cảnh nào đó. họ vẫn cố gắng sống theo lương tâm, Ngài vẫn đón nhận trong t́nh yêu và trong Ơn Cứu Chuộc của Ngài.

Chúng ta cám ơn người trộm "lành", v́ nhờ có anh, như một dấu chứng nếu chúng ta tin vào Ngài "Lạy Thầy, khi vào Nước Thiên Đàng xin nhớ đến con". Anh ấy biết ǵ về Chúa Giêsu? Biết ǵ về Mầu Nhiệm Nhập Thể? Biết ǵ về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc? Biết ǵ về Mầu Nhiệm sống lại??? Nhưng anh đại diện cho một số đông trên trần thế này, một cách nào đó vẫn hướng về một sự linh thiêng, hướng về một Đấng Tối Cao, muốn làm những việc tốt lành. Những người đó sẽ được Máu của Chúa đổ ra để thanh tẩy tội lỗi và cho vào Nước Trời. 6000 người chết trong một khoảnh khắc, chắc chắn có một số đông được t́nh yêu và Máu Chúa đổ ra để xóa tội lỗi và cứu chuộc họ. Tại sao chúng ta cứ muốn ấn định cho Thiên Chúa những người được vào Nước Trời, mà không đặt niềm tin của chúng ta nơi lượng khoan hồng từ bi và nơi công lao của Ngài? V́ Ngài đă hạ ḿnh chịu chết trên thập giá, nên Thiên Chúa Cha đă tôn vinh Ngài và đặt mọi loài dưới quyền của Ngài, trong cái chết và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài xin với Chúa Cha là hăy tha thứ, hăy cứu độ, hăy chuộc lại hết những tâm hồn (lúc này hay lúc khác), đă có sự tin tưởng vào Ngài. Từ đó chúng ta thấy rằng sẽ không bao giờ t́m được sự công bằng nơi trần thế này, sự công bằng và yêu thương chỉ t́m thấy nơi một ḿnh Chúa mà thôi.

Nếu có được niềm tin đó, cuộc đời trở nên sáng tỏ hơn. Đứng trước các biến cố, chúng ta đỡ buồn phiền thất vọng, chúng ta thấy cuộc đời vẫn đáng sống và những đau khổ xảy đến triền miên vẫn có ư nghĩa, vẫn có giá trị, v́ chúng ta được tham dự vào Mầu Nhiệm Tử Nạn của Đức Kitô để được sống lại với Ngài.

Vậy trong tháng các linh hồn, với niềm tin đó chúng ta sẽ thấy được những điều ǵ?

1. Những linh hồn trong lửa luyện ngục là những vị thánh, tuy không được tuyên phong trên bàn thờ, cũng chưa được hưởng vinh quang, nhưng phần rỗi th́ đă chắc chắn. Không phải v́ họ ít tội, nhưng v́ t́nh yêu của Thiên Chúa và công nghiệp của Con Một Ngài. Giờ đây họ chịu thanh luyện để trở nên tinh ṛng, để mang một chiếc áo cưới thật mới mẻ vào dự tiệc cưới, vào Nước Trời. Không ai có thể chia cắt, không ǵ làm họ mất niềm hy vọng vào đời sống vinh phúc đó.

2. Đàng khác, các linh hồn giờ đây không làm được ǵ cho họ nữa, v́ thời gian để lập công nghiệp đă qua (không phải họ không biết, nhưng cũng giống chúng ta biết rằng giây phút đang sống là thời gian tích lũy công phúc, là thời gian chuẩn bị để được vào Nước Chúa. Chúng ta c̣n có th́ giờ, chúng ta hăy làm). Các vị ấy chỉ c̣n trông cậy vào ḷng nhân thứ của Chúa, Ngài kêu gọi và ban cho chúng ta được tham dự và tiếp tục sứ mạng cứu độ qua lời cầu nguyện, qua sự hy sinh hăm ḿnh, chúng ta sẽ giúp được các linh hồn đó.

Lẽ dĩ nhiên đừng nghĩ rằng Chúa phải chờ đời những lời cầu nguyện của chúng ta để Chúa cứu vớt, Ngài đă cứu vớt rồi. Nhưng Chúa muốn chúng ta sống trong sự thông hiệp, muốn cho chúng ta có sự liên đới hữu hiệu, Ngài tạo điều kiện để chúng ta thấy rằng: th́ ra chúng ta c̣n có thể làm được rất nhiều cho những người thân yêu của chúng ta. Biết đâu khi họ c̣n sống, chúng ta chưa có một tâm t́nh, chúng ta chưa đối xử tốt, th́ giờ đây chúng ta có một cơ hội rất tốt.

Phát xuất từ những tâm t́nh trên, cách đây hơn 1000 năm, ngày lễ cầu cho các linh hồn 02.11 được thiết lập, đó là niềm an ủi rất lớn cho những người c̣n sống, cho chúng ta có một phương tiện tuyệt hảo để yêu thương và biểu lộ t́nh yêu, cứu giúp những người ḿnh yêu thương. Ngày hôm nay, trong tháng này và suốt cả cuộc đời, chúng ta hăy tập nhân đức yêu thương, nhớ đến các linh hồn.

(Cách đây 100 năm, cũng có một nhà ḍng được thiết lập chỉ nhằm mục đích để cầu nguyện, ăn chay, hăm ḿnh cho các linh hồn trong lửa luyện ngục, mà điều đó tất cả chúng ta đều làm được).

3. Anh chị em nghĩ sao nếu những người nhờ lời cầu nguyện chúng ta, đă được về Thiên Đàng, được hưởng vinh quang Chúa mà các ngài lại quên chúng ta??? Chắc chắn trong vinh quang (và sự khôn ngoan) của Thiên Chúa, các ngài biết dưới trần thế này, đă có những con người yêu thương, cầu nguyện, hy sinh cho các ngài. chắc chắn lời cầu nguyện của các ngài cho chúng ta sẽ có uy tín và hiệu quả (lời cầu nguyện của chúng ta lúc th́ chia trí, lúc th́ không xứng đáng. đủ hết mọi lư do). Trong lịch sử Giáo Hội, nhiều biến cố cho thấy rằng: các thánh thông công là sự sống rất sinh động, không phải là một chân lư chết ngắt, nhưng là sự sống được diễn tả mỗi ngày. Khi chúng ta ngồi đây, chúng ta vẫn liên kết với các thánh trên trời và các linh hồn trong lửa luyện ngục để cầu nguyện và nâng đỡ nhau. Sống trong một sự liên đới như vậy, anh chị em có thấy chúng ta là những con người diễm phúc, là những con người rất giàu t́nh yêu thương, là những con người được nâng đỡ???

Khi tôi nói những điều này, các bạn trẻ lại càng phải suy nghĩ nhiều hơn, để thấy rằng trong từng giây phút, chúng ta phải sống cho có ư nghĩa, v́ từng giây phút của cuộc sống, có thể xây dựng hạnh phúc và phần rỗi cho rất nhiều người và cho chính bản thân chúng ta. Nhờ lời chuyển cầu của các thánh và các linh hồn trong lửa luyện tội (chúng ta tin rằng) chúng ta vẫn tiếp tục đón nhận hồng ân Chúa, đón nhận cách đặc biệt mỗi lần chúng ta cử hành thánh lễ, là lễ tế tạ ơn đồng thời là lễ tế đền tội cho chúng ta.

 

11. Ḷng biết và thảo kính đối với tổ tiên

(CHẾT CHÓC VÀ THƯƠNG NHỚ)

(Bài giảng của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

Kính thưa quư OBACE, bầu không khí của những ngày cuối năm dường như làm cho con người vội vă tất bật hơn, ai cũng vội vàng và tranh thủ thời gian để hoàn tất kế hoạch của một năm. Có lẽ cũng v́ mải chạy theo ḍng thời gian và công việc, khiến cho nhiều người đă quên cả sự hiện diện của người bên cạnh, quên cả người thân đang ở trong cùng một mái nhà. Trong không khí vội vàng ấy, th́ Giáo Hội đă dành cả một tháng cuối năm để nhắc cho người tin hữu nhớ rằng: dù mỗi người có vất vả bon chen đến đâu th́ cũng phải nhớ đến chung cuộc đời ḿnh, và cái chết là điểm hẹn chung của mỗi người. Cũng trong tâm t́nh ấy, Giáo hội nhắc cho mọi người nhớ đến và cầu nguyện cho các bậc tổ tiên ông bà, cha mẹ, người thân, những người đă ra đi trước chúng ta và đă đang an nghỉ trên mảnh đất này, đồng thời biết quư trọng, biết ơn và thảo hiếu với những bậc sinh thành những người đang c̣n sống.

Tất cả chúng ta sẽ phải chết, đó là sự thật không thể thay đổi, thế nhưng điều quan trọng là chúng ta sẽ chết như thế nào và sau cánh cửa sư chết, điều ǵ sẽ đến với chúng ta, niềm vui sướng hạnh phúc, hay đau khổ hối hận đời đời, điều đó sẽ tùy thuộc ở nơi mỗi người biết sống hôm nay như thế nào. Tất cả sẽ phải chết, v́ đó là thân phận của con người có sinh th́ có tử, không ai có thể trốn tránh được. Cái chết nó vốn là tiến tŕnh tự nhiên, nhưng từ khi con người phạm tội, cái chết nó c̣n mang một ư nghĩa khác, nó trở thành h́nh phạt cho con người, chính v́ thế, cái chết nó trở nên kinh khủng cho con người. V́ sợ hăi, nên con người t́m cách tránh né nó, không dám đương đầu đối diện với nó, và v́ thế nhiều người c̣n t́m cách lẩn trốn nó bằng một cuộc sống ồn ào náo nhiệt, một cuộc sống bận rộn với công việc và quay cuồng với tiền bạc của cải, và khi cái chết đến khiến họ tiếc nuối và sợ hăi.

Mọi người đều phải chết, nhưng điều quan trọng là mỗi người sẽ chết như thế nào và điều ǵ sẽ đến với chúng ta sau cái chết? Cứ nh́n vào những nấm mồ của những người an nghỉ, chúng ta có thể thấy, nhiều người khi sinh thời họ đă từng là những con người nổi tiếng, ngang dọc khắp nơi, và bây giờ cũng chỉ có một nấm mồ, điều đó chẳng c̣n ư nghĩa ǵ, điều quan trọng là t́nh trạng hiện nay của họ ra sao, họ đang ở nơi nào? Nh́n như thế để mỗi người có dịp kịp thời điều chỉnh lại nếp sống của bản thân, chúng ta chỉ có thể bước vào nhà của Chúa nếu từ bây giờ chúng ta yêu mến Chúa và chọn Chúa. Chúng ta sẽ phải để lại tất cả ở trần gian và ra đi với hai bàn tay trắng, v́ chúng ta không mang ǵ vào trần gian, th́ chúng ta cũng sẽ không thể đem theo bất cứ thứ ǵ ra khỏi thế gian. Chỉ một thứ tài sản duy nhất chúng ta có thể mang theo đó là t́nh yêu đối với Chúa và t́nh thương của chúng ta đối với anh em, và chỉ có một thứ hành lư duy nhất là các việc lành việc tốt, việc bác ái và hy sinh.

Mỗi lần ra đất thánh này không chỉ nhắc cho chúng ta về cái chết, mà c̣n dịp nhắc cho chúng ta biết cách sống, phải sống thế nào cho trọn đạo làm người và đạo làm con đối với ông bà tổ tiên. Đứng bên nấm mồ của người thân, sẽ không chỉ có những giọt nước mắt thương nhớ, mà c̣n có những giọt nước mắt của sự hối hận muộn màng v́ đă sống vô t́nh hay phũ phàng với người đă khuất.

Ngày hôm nay trong xă hội mọi sự đều tăng giá, chỉ có đạo đức làm người là giảm giá và mất giá trầm trọng, con người đối xử với nhau càng ngày càng như dă thú, t́nh cảm gia đ́nh anh em ruột thịt cũng bị coi như hàng hóa, đạo làm con đối với cha mẹ cũng bị tính toán, bao nhiêu cảnh đối xử tệ bạc với mẹ cha đang diễn ra từng ngày xung quanh chúng ta. Có nhưng người đă không tiếc lời chửi mắng cha mẹ, coi cha mẹ không bằng một đứa ôsin trong gia đ́nh, không chỉ chửi bới, nhiều kẻ c̣n đánh đập nhục mạ những đấng đă dày công sinh thành dưỡng dục ḿnh, người ta có thể bỏ ra bạc triệu cho những bữa nhậu với bạn bè, nhưng cha mẹ lại không được một lời hỏi thăm, một tấm bánh. Đám tang tổ chức cho lớn, xây mộ cho to cho đắt tiền, việc làm đó không phài là báo hiếu, không phải là ḷng biết ơn, mà nó chỉ c̣n là giả h́nh, là phô trương che mắt thiên hạ.

Thảo hiếu biết ơn tổ tiên và các bậc sinh thành không chỉ là bổn phận của đạo làm con, mà c̣n là một đ̣i buộc của Đạo Chúa: Thứ bốn thảo kính cha mẹ. Giới răn này đ̣i buộc chúng ta phải hết ḷng yêu mên, kính trọng, và biết ơn đối với cha mẹ của ḿnh và cả cha mẹ vợ cha mẹ chồng của ḿnh, khi các ngài c̣n sống và cả khi các ngài đă qua đời; V́ chính cha mẹ là những đấng đă cộng tác với Thiên Chúa để sinh ra chúng ta, nuôi cho chúng ta khôn lớn với biết bao vất vả gian nan, bao hy sinh, bao mồ hôi nước mắt. Cha mẹ chính là những người đă hy sinh cả cuộc đời để nuôi chúng ta khôn lớn và dạy chúng ta nên người, v́ thế chúng ta mắc nợ các ngài món nợ sư sống và món nợ của t́nh yêu thương. Hăy kính trọng các Ngài, thông cảm an ủi khi các ngài tuổi cao sức yếu, đừng nặng lời, đừng khiến các ngài tủi thân, hăy chịu đựng và chăm sóc các ngài, như ngày xưa các ngài cũng đă từng phải chịu đựng và chăm sóc cho chúng ta. Hăy lo lắng cho phần thiêng liêng của cha mẹ bằng việc giúp các ngài được lănh nhận các bí tích và ơn Chúa để nâng đỡ cho tuổi già của các ngài, hăy làm tất cả những ǵ tốt nhất cho cha mẹ khi các ngài c̣n sống, v́ khi cha mẹ mất đi, sẽ măi măi không bao giờ t́m lại được.

Không chỉ biết ơn khi cha mẹ c̣n sống, mà c̣n phải biết ơn cha mẹ khi các ngài đă qua đời, bằng việc đọc kinh cầu nguyện, bằng việc hy sinh hăm ḿnh, dâng lễ cầu nguyện cho các ngài, nhắc nhở cho con cháu biết ơn các bậc tổ tiên. Hăy nhớ đến cha mẹ chồng cha mẹ vợ bằng việc chu toàn việc hiếu thảo hương khói, giỗ chạp trong gia đ́nh, đừng để mang tiếng, những người có đạo là những người vô ơn bất hiếu với tổ tiên.

Hăy biết ơn và thảo hiếu với tổ tiên bằng việc giữ lấy nề nếp gia phong của gia đ́nh, thực hiện và làm phát triển tài sản tinh thần mà cha ông đă để lại cho con cháu qua việc giáo dục con cái nên người, qua việc giữ ǵn đạo đức gia phong của gia tộc, bảo vệ danh dự của tổ tiên, đừng để cho đồng tiền cho sự nghèo đói làm cho chúng ta trở nên bần tiện nhỏ nhen. Đừng quên giáo dục con cái biết sống hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ, bằng chính gường sáng của ḿnh qua việc tôn kính thào hiếu với ông bà, v́ sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy; chúng ta gieo giống nào th́ sẽ gặt quả ấy, chúng ta vạch mực đến đâu, th́ con cái chúng ta sẽ đi đến đó. V́ thế không có bài học nào sâu đâm và lay động cho bằng bài học bằng gương sáng của cha mẹ.

Điều răn thứ bốn của Thiên Chúa đồng thời cũng đ̣i buộc bổn phận của cha mẹ đối với con cái, trước hết là bổ phận giáo dục, nuôi dưỡng. Hăy giáo dục dạy dổ cho con cái sống đúng với đạo làm người làm con Chúa, sống đúng với phẩm giá con người. Đừng quá chú trong đến việc học hành văn hóa mà bỏ qua hoặc coi nhẹ việc giáo dục đức tin cho con cái, và xây dựng nếp sống đạo đức cho cả gia đ́nh. Cha mẹ hăy tạo nên một bầu khí đạo đức và cầu nguyện cho gia đ́nh, và trở thành gương sánh cho con cái trong việc cầu nguyện và các việc đạo đức. Hăy tập cho con cái yêu mến và hăng say làm việc tông đồ trong giáo xứ theo lứa tuổi của ḿnh, v́ khi c̣n nhỏ, các em có thói quen và tinh thần tông đồ, th́ sau này các em sẽ trở thành người tín hữu nhiệt thành. Hăy làm cho gia đ́nh ḿnh mỗi ngày trở nên ấm cúng thuận ḥa qua các giờ kinh sáng tối mỗi ngày, qua các bữa cơm chung đầm ấm. hăy cố gắng làm cho bữa cơm gia đ́nh thật sư là lúc mọi người được tràn ngập niềm vui và sự chia sẻ, đừng biến bữa cơm trở thành ṭa án để kết tội nhau.

Nhưng người cha, hăy thực sự là cột trụ trong đời sống của gia đ́nh, là điểm tựa cho vợ con và cả nhà. Các người mẹ hăy dùng đời sống đạo đức và sự đảm đang của một phụ nữ làm cho gia đ́nh thêm ấm cúng, hăy cùng nhau làm cho căn nhà cùa ḿnh rộn ră tiếng cười, đừng biến gia đ́nh ḿnh trở thành căn nhà trọ sáng đi tối về. Các người làm con hăy góp phần ḿnh làm vơi đi sự nhọc nhằn của cha mẹ bằng việc sống ngoan ngoăn vâng lời và chịu khó học tập và làm việc. Mỗi người hăy sống thế nào để khi ngườui tân có mất đi, ḿnh sẽ không phải hối hận v́ đă chưa làm được ǵ cho họ. Amen

 

12. Bài giảng của ĐGM. Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản

(Rm 5,5-11; Ga 17, 24-26)

Anh chị em thân mến,

Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe là đoạn cuối của Lời nguyện Hiến Tế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ để dạy cho các ngài bài học yêu thương phục vụ trong khiêm tốn, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ về con đường tiến về nhà Cha: Ngài chính là con đường dẫn mọi người đến với Thiên Chúa. Không ai có thể đến được với Cha mà không qua Ngài. Ngài chính là vinh quang của Thiên Chúa Cha, ai thấy Ngài là thấy Cha. Ngài c̣n hứa ban Thánh Thần cho những ai yêu mến Ngài và tuân giữ mệnh lệnh của Ngài. Chúa Giêsu c̣n nói đến mối liên hệ giữa Ngài và các môn đệ qua h́nh ảnh của cành nho gắn liền với thân nho. Cành nào kết hợp với cây, sẽ được cây nuôi dưỡng và sinh nhiều hoa trái. Cành nào ĺa cây sẽ bị khô héo. V́ người môn đệ gắn liền với cuộc sống của Thầy, nên cũng được chia sẻ vinh quang cũng như sự đau khổ với Thầy. Nếu thế gian có ghét các môn đệ, là bởi họ không chấp nhận Chúa Giêsu, và bởi v́ các ngài không thuộc về thế gian. Và Chúa Giêsu an ủi các môn đệ: "Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được b́nh an.Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên Thầy đă thắng thế gian" (16,33).

Sau đó, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện: "Lạy Cha, giờ đă đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đă ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời, đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất vầ chân thật, và nhận biết Đấng Cha đă sai đến, là Giêsu Kitô».

Chúa Giêsu có quyền ban sự sống đời đời cho những ai đến với Người. Và sự sống đời đời được ban cho người môn đệ là họ nhận biết Thiên Chúa Cha, Đấng Duy Nhất, để ngoài Ngài ra không c̣n tôn thờ đấng nào khác. Và nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng Chúa Cha sai đến trần gian làm Đấng Cứu Chuộc. Để có thể nhận biết Thiên Chúa Cha và Đấng Người sai đến là Đức Giêsu Kitô, con người phải biết đón nhận, tin vào Ngài, để Ngài dạy cho chúng ta cách sống của người con Thiên Chúa.

Và Chúa Giêsu cầu nguyện tiếp: «Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, th́ những người Cha đă ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đă ban cho con, v́ Cha đă yeu thương con trước khi thế gian được tạo thành».

Người môn đệ được chia sẻ điều kiện sống của Thầy, sự vâng phục trong sự hạ ḿnh và sự tôn vinh trong vinh quang.Sự chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Giêsu Kitô cũng là sự hiểu biết về t́nh yêu liên kết Chúa Cha và Chúa Con: chính trong sự hiệp nhất này mà nền tảng của sự hiện hữu con người t́m thấy chỗ đứng của ḿnh.

V́ người tin vào Chúa Giêsu và trở thành môn đệ của Ngài, hiện diện trong Chúa Ba Ngôi, nên người đó được tham dự vào sự sống của Thiên Cha: đó là sự sống đời đời. Chúa Giêsu ao ước là Ngài ở đâu th́ người tin vào Ngài cũng được ở đó. Nơ Chúa Giêsu ở không phải tùy thuộc vào nơi chốn, v́ Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và Chúa Giêsu luôn hiện diện với Chúa Cha.khi Chúa nhập thể làm người, Ngài hiện diện hữu h́nh giữa các môn đệ và vẫn liên kết với Thiên Chúa Cha. Khi Ngài chịu an táng trong mồ, các môn đệ không thấy Ngài, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện giữa các ông trong sự vắng mặt. Bằng chứng là sau khi sống lại, Chúa hiện ra với các môn đệ và Ngài biết rơ những điều họ lo lắng, nghi ngờ. Sau khi về trời ngự bên hữu Thiên Chúa, hứa Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện bên các môn đệ trong Thánh Thần, Đấng làm cho các môn đệ nhớ lại Lời Chúa Giêsu và bầu cử cho họ trước mặt Thiên Chúa.

V́ thế, trong khi đi rao giảng, các môn đệ vẫn luôn cảm nhận được sự hiện diện của Thầy Chí thánh bên cạnh. Dẫu cho các ngài sống trong điều kiện thuận tiện, hay chịu thử thách trăm bề, các ngài vẫn luôn gắn bó với Chúa Giêsu.

Anh chị em thân mến,

Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu giới thiệu Ngài là "Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn bánh này th́ có sự sống đời đời. Và bánh ta sẽ ban, chính là thịt TA, để cho thế gian được sống". Ngài c̣n nhấn mạnh: "Ai ăn thịt và uống máu Ta th́ có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết".

Bánh Hằng Sống là lương thực làm cho sống. Không phải như mân trong sa mạc chỉ nuôi dưỡng phần xác, Bánh Hằng Sống làm cho người ăn có được sự sống đời đời. Câu hỏi "làm thế nào có được sự sống đời đời", là thao thức của nhiều người t́m đến với Chúa Giêsu. Người hướng dẫn họ tuân giữ Lề Luật theo một tinh thần mới, hoán cải đời sống và tin vào Đấng được Thiên Chúa sai đến.

Tin vào Chúa Giêsu không chỉ là một sự chấp nhận của lư trí, nhưng c̣n phải sống theo Lời Người và kết hợp mật thiết với Người. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa nhấn mạnh đến việc "ăn thịt và uống máu Người"

"Ăn thịt và uống máu Người" nói lên sự hiệp thông giữa người môn đệ và Chúa Giêsu, giống như h́nh ảnh cành nho gắn liền với thân nho. Những ai ăn và uống máu Người th́ có sự sống của Người thông truyền ngay khi c̣n ở đời này. Sự sống này không bị gián đoạn do cái chết, v́ Chúa hứa cho sống lại trong ngày sau hết. Giữa khoảng cách của cái chết và sự sống lại trong ngày sau hết, sự sống của Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng người tín hữu.

Tin vào Chúa Giêsu mang lại sự sống đời đời; "Như ông Môi-sê đă giương cao con rắn trong sa mạc. Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người th́ được sống muôn đời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đă ban Con Một, để ai tin vào Con của Người th́ khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3, 14-16)

Anh chị em thân mến,

những người thân của chúng ta đă tin vào Chúa Giêsu, đă cố gắng cả cuộc đời ḿnh để nên hoàn thiện như Chúa Cha, Đấng ngự trên trời, đă nổ lực không ngừng vượt lên trên những sự yếu đuối trong thân phận con người để bươc theo Chúa Giêsu trong đời sống thực tế của ḿnh. Chỉ có Chúa mới biết sự thiện chí và ḷng trung thành của mỗi người. Và cũng chỉ có Chúa đánh giá đúng mức những điều tốt đẹp hay sai lỗi.

Chúng ta tin rằng những người thân của chúng ta đă từng sống trong đức tin, sống trong niềm trông cậy, sống trong sự hoán cải không ngừng, chắc chắn đă nhận biết Thiên Chúa là Đấng hay thương xót, biết Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc. Dẫu cho những người thân của chúng ta bước vào một thế giới khác, một cách hiện hữu khác, chúng ta vẫn tin rằng các ngài đang thông hiệp với sự sống của Thiên Chúa. Và v́ thế, chúng ta tiếp tục cầu nguyện để họ được luôn sống trong sự sống đời đời trong khi trông chờ ngày sống lại cùng với Chúa Giêsu.

Trong tháng cầu nguyện cho các linh hồn, Giáo hội tạo điều kiện cho chúng ta có dịp thông công với những người đă khuất. V́ thé từ trưa ngày lễ Các Thánh đến nửa đêm ngày cầu cho các tín hữu đă qua đời, nếu ai viếng nhà thờ, th́ được ơn đại xá. Từ ngày 01 đến hết ngày 08, nếu ai viếng nghĩa địa, cầu nguỵen cho các linh hồn cũng được ơn đại xá. Những ơn đại xá này sẽ được nhường lại cho các linh hồn.

Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống kết hợp với Chúa Ba Ngôi và với những anh chị em đang chịu thanh luyện.

Xin Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.

 

13. Lễ CÁC ĐẲNG – Lm. Đaminh Vũ Đ́nh Thái

(Ga 19, 1.23-27a ; Rm 5, 5-11; Ga 6, 37- 40)

Chúng ta vừa bước vào tháng 11, tháng dành riêng cầu nguyện cho các kẻ đă qua đời. Thực ra, chẳng ngày nào mà Giáo Hội, qua các Thánh Lễ, lại chẳng cầu nguyện cho họ. Nhưng tháng này, Giáo Hội muốn chúng ta sống ư thức hơn và thực hành mạnh mẽ hơn việc đạo đức này. Như vậy, hôm nay quả là dịp tốt để dâng lễ cầu nguyện cho mọi tín hữu đă khuất; trong đó có ông bà, cha mẹ, thân quyến, bạn hữu và các bậc thầy của chúng ta nơi Chủng Viện này. Nhờ Ơn cứu chuộc của Đức Kitô, xin cho mọi người đă "vắng bóng"được tha thứ mọi tội lỗi và hưởng phúc lộc Thiên đàng".

Để xứng đáng dâng lễ và cầu ơn, chúng ta xin Chúa thanh luyện chúng ta trước.

Giảng lễ:

I. Tôi tin có đời sau.Tôi tin sự sống lại và sự sống vĩnh cửu.

Chẳng phải là tín hữu ngày nay chúng ta mới hùng hồn tuyên tín như thế (Credo). Nhưng từ xa xưa, Gióp đă tuyên bố: "Sau khi da tôi đây bị tiêu hủy, th́ với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm nh́n Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nh́n Ngài, Đấng mắt tôi nh́n thấy không phải là người xa lạ" (G 19, 26-27a). Ông tin có đời sau. Ông tin rằng Đấng hằng bênh vực ông vẫn sống và sau cùng, Ngài sẽ đứng lên trên cơi đất để cứu ông. Niềm tin của ông bền vững, chắc chắn đến độ ông ước ao lời ấy của ông được tạc vào đá cho đến muôn đời.

Là tín hữu, chúng ta xác tín mạnh mẽ vào lời của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu chuộc chúng ta, khi Người nói: "Ư của Đấng sai tôi là tất cả những kẻ Ngài đă ban cho tôi, tôi không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (Ga 6, 39). "Ai tin vào Người Con, th́ được sống muôn đời" (Ga 6, 40).

Không để mất một ai nghĩa là thế nào? Thánh Phaolô, qua thư Rôma, giải thích rơ ràng rằng "ngay khi chúng ta c̣n là tội nhân, Đức Kitô đă chết v́ chúng ta. Người chết cho chúng ta được cứu, khi chúng ta không có sức làm được ǵ để cứu lấy ḿnh". Không để mất một ai là "bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng. Ngay khi chúng ta c̣n thù nghịch với Thiên Chúa, Ngài vẫn để Con Ngài chết. Ngài muốn cứu chúng ta khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, bằng cách cho chúng ta được nên công chính nhờ máu Đức Kitô đổ ra. Làm như vậy là để chúng ta được hoà giải với Thiên Chúa. Giải pháp ấy là kế hoạch cứu chuộc được thực hiện nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 5, 6-11).

Chúng ta nhắc lại Lời Chúa như vậy để củng cố thêm niềm tin của chúng ta vào đời sau, vào sự sống lại và cuộc sống trường sinh hạnh phúc với Chúa. Làm sao chúng ta có thể cầu nguyện cho những người đă chết được, nếu tiên vàn chúng ta c̣n hiểu nhạt nhoà mơ hồ về T́nh yêu Cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện trong Đức Kitô như thế.

II. Phải cầu nguyện cho những vong nhân.

Cầu nguyện cho những người đă khuất là một bổn phận không thể xao lăng của chúng ta.

Biết Chúa cứu, tin rằng Chúa không để mất một ai là một chuyện. Nhưng Giáo Hội luôn dạy chúng ta phải, bằng tinh thần hiệp thông luôn cầu nguyện cho mọi tín hữu đă qua đời, chứ không được ỷ lại vào Chúa.

Công đồng Vatican II nhắc lại mầu nhiệm Giáo Hội cùng thông công như sau: "Trong số những môn đệ Chúa, có những kẻ tiếp tục cuộc hành tŕnh nơi dương thế, có những kẻ đă hoàn tất cuộc sống này nhưng đang được tinh luyện và có những người đang được chiêm ngưỡng rơ ràng Thiên Chúa Ba Ngôi vinh hiển. Cả ba thành phần đều hiệp thông với nhau trong đức mến và truyền thông cho nhau những của cải thiêng liêng. Nhận biết đúng đắn sự hiệp thông này trong toàn Nhiệm thể Chúa Kitô, ngay từ buổi đầu, Giáo Hội lữ hành hết ḷng kính nhớ, cầu nguyện cho những người đă chết".

Hơn nữa, người tín hữu đă chết trong Ơn nghĩa Chúa, nhưng chưa sạch hết mọi tội, và chưa đền tội bằng những h́nh phạt tạm thời đời này, th́ không thể vào thẳng Thiên đàng được, v́ chưa xứng đáng hưởng Thánh Nhan Chúa. Thánh Gioan cảnh báo rơ trong sách Khải huyền: "Tất cả những ǵ ô uế, cũng như bất cứ ai làm điều ghê tởm và gian tà, đều không được vào thành..." (Kh 21, 27). Tất nhiên, họ phải chờ tinh luyện xong mới vào được Thiên đàng. Thời gian đó là thời gian xa cách Chúa. Nên Công đồng Florence (1439) mới định tín có luyện ngục để tinh luyện các linh hồn.

Purgatorium, chỉ luyện ngục, có nghĩa là tinh luyện.

Bởi thế, hằng ngày Giáo Hội dâng lễ nài xin Ơn tha thứ cứu độ của Chúa Giêsu cho các linh hồn; suốt tháng 11 này và đặc biệt hôm nay ngày 2.11 c̣n tăng lên gấp 3 (mỗi Linh mục được làm 3 lễ trong ngày). Giáo Hội kêu gọi chúng ta luôn nhớ về và sốt sắng cầu nguyện cho những người đă khuất. Cầu nguyện là góp phần ḿnh vào mở kho Ân xá, nhường cho các linh hồn nơi luyện ngục, khi họ không thể làm được việc lành cứu ḿnh. Giáo Hội c̣n khuyến khích đi viếng nghĩa địa, sửa sang mồ mả và cầu nguyện cho các linh hồn, v́: "Mồ thật chôn các người chết là trái tim của người sống" (Tục ngữ).

Thế nên, người sống có nhớ đến, có cầu...th́ người chết mới mát mẻ thanh nhàn. Thật ra, không phải cầu cho người "chết". Nếu chết là chấm tận, hết chuyện th́ cầu làm ǵ và ích lợi ǵ? Nhưng là cầu cho nguời vượt qua cơi chết, đi vào cơi sống muôn đời.

 

14. Nguồn nước mắt – ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần

Trí nhớ của tôi lưu giữ nhiều h́nh ảnh. Trong số đó, có một thứ h́nh ảnh rất thầm lặng, nhưng thường gây trong tôi nhiều cảm xúc và suy nghĩ. Thứ h́nh ảnh đó là các nghĩa trang.

Tôi đă viếng nhiều nghĩa trang. Tại Việt Nam, tại Ư, tại Đức, tại Pháp, tại Nga, tại Vaticăng.

Tôi đến viếng các nghĩa trang, chủ ư để suy gẫm, cầu nguyện, và cũng để t́m cảm nghiệm. Có thứ cảm nghiệm chỉ t́m được ở nghĩa trang. Tôi đă nghĩ như vậy và đă làm như vậy, khi tôi viết luận án: "Đau khổ của t́nh yêu".

Đă có những cảm nghiệm độc đáo in rất sâu vào ḷng tôi từ các nghĩa trang. Đặc biệt là từ những ḍng nước mắt ở nghĩa trang.

Có những nước mắt của t́nh yêu dạt dào.

Có những nước mắt của nỗi buồn, nhung nhớ.

Có những nước mắt của ḷng hối hận khôn nguôi.

Có những nước mắt của tấm ḷng tha thứ muộn màng.

Có những nước mắt của ân t́nh, hiếu nghĩa.

Có những nước mắt của niềm tin sâu sắc mong chờ.

Khi đi sâu hơn một chút giữa các ḍng nước mắt, tôi có thể cảm nghiệm được một số khám phá quan trọng:

Khám phá ra những chân lư nhân sinh.

Khám phá ra những hy vọng ứu độ.

Khám phá ra chính ḿnh.

Khám phá ra chân lư.

Những nước mắt ở nghĩa trang là những tiễn biệt thân thiết. Tiễn biệt người đă chết, người vĩnh viễn ra đi. Sự chết là một sự thật không cần bàn tới. Nhưng đó lại là một chân lư cực kỳ quan trọng.

Bất cứ ai, rồi cũng phải chết. Cái chết đáng sợ. Nhưng đáng sợ hơn lại là cái ǵ đàng sau cái chết. Đáng sợ, v́ nó quá bất ngờ. Biết đâu, trong số mồ mả, cũng có những hồn v́ thế mà đang khóc ṛng ră đêm ngày.

Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn một đoạn Phúc Âm: "Có một ông nhà giàu nọ, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đ́nh. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy ḿnh, nằm trước cổng ông nhà giàu đó. Anh thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rơi xuống mà ăn cho đỡ đói. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.

Thế rồi, người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào ḷng ông Apraham.

Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. Dưới địa ngục, đang khi chịu cực h́nh, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Apraham ở trên đàng xa, và thấy Ladarô trong ḷng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con, xin sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát, v́ ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm.

Ông Apraham đáp: Con ơi, hăy nhớ lại: suốt đời con đă nhận phần phước của con rồi. C̣n Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây, c̣n con th́ phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và con đă có một vực thẳm quá lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được" (Lc 16,19-26).

Với dụ ngôn trên, Chúa dạy ta những chân lư quan trọng. Ai cũng phải chết. Nhưng sự Chúa đánh giá từng người sau khi chết thường vượt quá sự con người suy nghĩ. Người phú hộ đó sống đời này được đầy đủ, sung sướng, an nhàn, xét ḿnh chẳng thấy ǵ là xúc phạm Chúa, chẳng thấy ǵ là làm hại ai. Nhưng người phú hộ đó đă bị rơi vào hoả ngục. Chỉ v́ sống thiếu thương cảm, thiếu liên đới, thiếu chia sẻ, thiếu xót thương. Trái lại, người ăn mày kia đă được lên thiên đàng. V́ dù bị ch́m trong cảnh khổ, anh đă sống nêu gương về đức khiêm nhường, hiền lành và chân thật. Không được người dư dật chia sẻ, anh phải sống đói khổ, nhưng anh vẫn chia sẻ với mấy con chó đói ăn.

Nhờ ơn Chúa, những sự thực như trên đă được nhiều người nhận ra một cách sâu sắc trong những ḍng nước mắt tại nghĩa trang. Những chân lư đó đă thay đổi đời họ.

Ngoài ra, biết bao người nằm trong nghĩa trang và khóc tại nghĩa trang cũng đă t́m được hy vọng cuộc đời qua một ngả khác.

Khám phá ra hy vọng

Không thiếu trường hợp, tôi đă chứng kiến những cuộc trở về. Họ đă trở về từ những ḍng nước mắt của một người nào đó. Người đó cầu nguyện cho họ. Người đó khóc với họ thay v́ nói với họ.

Một lúc bất ngờ, lời Chúa Giêsu phán xưa trở thành chuyện đời họ. Chúa an ủi họ rằng: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc. Người đau ốm mới cần. Hăy về học biết ư nghĩa của câu này: Cha muốn ḷng nhân, chứ đâu cần của lễ. V́ Cha đến, không để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi" (Mt 9,12-13).

Những lời dịu dàng đó đă đi sâu vào ḷng họ. Cơi ḷng vốn đóng kín, khoá chặt, chất chứa những u uất, thất vọng, nay mở ra để hy vọng tràn vào.

Họ cảm thấy ḿnh được xót thương, được yêu thương. Họ sám hối. Họ cảm thấy ḿnh được tha thứ. Và chính họ cũng dễ dàng tha thứ. Một sự b́nh an lạ lùng trùm phủ tâm hồn họ. Họ ra đi b́nh an trong sự tin tưởng phó thác tuyệt đối ở Chúa giàu ḷng thương xót. Họ khóc v́ xúc động, đây là những ḍng nước mắt đầy t́nh cảm tạ.

Những người chứng kiến cũng không cầm được nước mắt. Những ḍng nước mắt ấy không nói nên lời, nhưng ngọt ngào niềm hy vọng cứu độ.

Khám phá ra chính ḿnh.

Tại những nghĩa trang, thấy người ta khóc, nhất là khi chính ḿnh khóc, tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu nói: Cha thương con, Cha thương mọi người. Cùng với lời Chúa trao ban t́nh yêu, tôi khám phá ra chính ḿnh tôi, với những vết thương, với những tang tóc đau buồn. Khám phá ra chính ḿnh trong sự thực trần trụi.

Khám phá để giúp trút bỏ những cái nh́n ảo. Nh́n ảo về ḿnh. Nh́n ảo về những công việc của ḿnh. Nh́n ảo về người khác. Nh́n ảo về cuộc đời.

Để cũng nhận ra rằng: dù với những yếu đuối, tội lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi với t́nh xót thương:

Gọi hăy cảm thương.

Gọi hăy chia sẻ.

Gọi hăy trở về.

Gọi hăy hiến dâng.

Gọi hăy cầu nguyện và đền tạ.

Gọi hăy sám hối và tín thác.

Gọi hăy vượt qua sự chết và mọi nghĩa trang, để bay vào cơi phúc đời đời.

Ơn gọi đó sẽ thực hiện được, miễn là tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong t́nh Chúa yêu thương. Như lời Chúa kêu gọi: "Hăy ở lại trong Cha, như Cha ở lại trong các con" (Ga 15,4).

15. Tri ân t́nh cha, t́nh mẹ - Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Đây là một câu chuyện có thật về sự hy sinh của một người mẹ trong trận động đất kinh hoàng ở Nhật Bản năm 2011. Sau khi trận động đất đă qua đi, khi các nhân viên cứu hộ đến thu dọn ngôi nhà của một người phụ nữ trẻ, họ nh́n thấy thân thể cô ấy qua các vết nứt. Nhưng cách tạo h́nh cơ thể của cô có ǵ đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối cầu nguyện, cơ thể nghiêng về phía trước, và có một vật ǵ đó được hai tay của cô đỡ lấy. Ngôi nhà bị sụp và đổ ập lên lưng và đầu cô.

Người đội trưởng đội cứu hộ đă rất khó khăn khi luồn tay ḿnh qua khoảng cách hẹp trên tường để chạm tới cơ thể của người phụ nữ. Anh ấy đă hy vọng rằng người phụ nữ này có thể vẫn c̣n sống. Nhưng, cơ thể lạnh và cứng của cô nói với anh rằng, cô ấy chắc chắn đă qua đời.

Đội cứu hộ rời khỏi ngôi nhà và t́m kiếm tại những toà nhà sụp đổ khác. Nhưng không hiểu sao, người đội trưởng dường như bị một lực hút kéo trở lại căn nhà sụp đổ của người phụ nữ đă chết. Một lần nữa, anh quỳ xuống, và lần t́m qua những khe nứt hẹp một chút không gian dưới cơ thể đă chết. Rồi đột nhiên, anh hét lên đầy phấn chấn: "Một đứa bé!!!! Có một đứa bé!".

Cả đội cùng nhau cẩn thận bỏ từng cái cọc trong đống đổ nát xung quanh xác người phụ nữ. Có một bé trai 3 tháng tuổi được bọc trong một tấm chăn hoa ngay bên dưới xác người mẹ. Người phụ nữ rơ ràng đă thực hiện một hành động hy sinh cuối cùng để cứu con trai ḿnh. Khi ngôi nhà của cô rơi xuống, cô đă dùng cơ thể của ḿnh để làm tấm chắn bảo vệ con trai ḿnh. Cậu bé vẫn ngủ một cách yên b́nh khi đội trưởng đội cứu hộ nhấc bé lên.

Bác sĩ đă nhanh chóng kiểm tra sức khoẻ cậu bé. Sau khi ông mở tấm chăn, ông nh́n thấy một chiếc điện thoại di động bên trong. Có một tin nhắn văn bản trên màn h́nh, nói rằng, "Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con"...

Chiếc điện thoại này đă đi từ bàn tay này đến bàn tay khác và qua bàn tay khác... Tất cả những người đọc tin nhắn đều đă khóc. "Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng... mẹ rất yêu con...".

Tháng 11 lại về đem lại cho chúng ta một chút tâm t́nh tri ân t́nh cha, t́nh mẹ. Một t́nh yêu bao la như trời bể mà cha ông ta vẫn nói rằng:

"Công cha đức mẹ cao dày

Cưu mang trứng nước những ngày c̣n thơ

Nuôi con khó nhọc đến giờ

Trưởng thành con phải biết thờ song thân".

"Biết thờ song thân", thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:

"Nuôi con buôn tảo bán tần

Chỉ mong con lớn nên thân với đời

Những khi trái nắng trở trời

Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên

Trọn đời vất vả triền miên,

Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con".

Thế nên, nếu so sánh công đức của cha mẹ như non cao cũng chưa xứng đáng. T́nh cha t́nh mẹ c̣n vượt xa không gian và thời gian. Có thể nói t́nh cha t́nh mẹ măi không già luôn tươi trẻ trong cuộc đời của con. Cha mẹ có thể không để lại cho con gia tài lớn lao hay những công tŕnh vĩ đại nhưng cha mẹ luôn để lại cho con một t́nh yêu thương vô ngần dành cho con. V́ thế mà có ai đó nói rằng:

Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ

Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha

T́nh cha mẹ thương con là một t́nh yêu không biên giới. Một t́nh yêu vượt qua mọi toan tính vật chất để có thể bảo vệ che chở đời con. Đó là một t́nh yêu to lớn đầy hy sinh cho đàn con khôn lớn:

Mây trời ḷng lộng không phủ kín công Cha

Tần tảo xóm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn

Lá cây trong rừng dẫu nhiều cũng không thể sánh bằng công ơn của cha mẹ. Sao trên trời thật khó đếm, nhưng công ơn của cha mẹ lại càng khó đếm hơn những v́ sao:

"Đố ai đếm được lá rừng,

Đố ai đếm được mấy từng trời cao

Đố ai đếm được những v́ sao,

Đố ai đếm được công lao mẫu từ".

Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, sinh lực hao ṃn, nặng nhọc gánh chịu, làm sao ta có thể quên được t́nh mẹ bao la như biển cả ấy:

"Nhớ ơn chín chữ cù lau

Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu t́nh".

T́nh ở đây là t́nh mẹ thương con. T́nh thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con th́ đời con thêm tươi sáng:

"Ví dầu cầu ván đóng đinh,

Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.

Khó đi mẹ dắt con đi,

Con đi trường học mẹ đi trường đời".

Vậy, đổi lại sự hy sinh của t́nh cha t́nh mẹ, các ngài cần ǵ nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, v́ tiền bạc các ngài dành giụm để trao lại cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, v́ tuổi ǵa chẳng c̣n ham muốn những tham sân si của ḍng đời. Các ngài cần t́nh yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài c̣n sống. Và khi các ngài đă qua đời, đó chính là lời cầu nguyện của chúng ta dành cho các ngài.

Người phụ nữ Nhật trước khi chết chỉ để lại một thông điệp cho con chính là: "con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con"... Đó chính là thông điệp của tất cả các đấng sinh thành kẻ c̣n sống cũng như người đă qua đời đang nói trong con tim mỗi người chúng ta. Chúng ta được sinh ra trong t́nh cha t́nh mẹ, được lớn lên trong t́nh thương đó và t́nh thương đó măi măi theo chúng ta trong suốt hành tŕnh cuộc đời. Đó cũng là bổn phận mà chúng ta phải báo hiếu qua hai chữ yêu thương. Yêu thương thể hiện của ḷng thảo kính vâng phục các ngài. Yêu thương thể hiện qua chữ hiếu luôn phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già. Yêu thương thể hiện qua lời cầu nguyện ngày đêm dành cho những người đă qua đời.

Ước ǵ mỗi người chúng ta từng được cưu mang trong t́nh yêu của cha mẹ th́ hăy sống sao cho tṛn chữ hiếu. Hăy biết tận dụng tháng 11 để tích luỹ ơn ích thiêng liêng mà cầu nguyện cho các ngài. Hăy làm việc bác ái, hy sinh và cầu nguyện giúp các ngài vượt qua cuộc thử thách trước toà phán xét của Thiên Chúa. Ước ǵ những hy sinh và lời cầu nguyện chân thành của chúng ta là lễ vật đẹp nhất để dâng về Thiên Chúa và dâng kính tổ tiên. Amen.

 

16. Luyện ngục

CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG NGƯỜI ĐĂ QUA ĐỜI

Vấn đề chúng ta t́m hiểu hôm nay, đó là có những sự ǵ xảy ra cho các linh hồn nơi luyện ngục? Hai chữ luyện ngục mà thôi cũng đă đủ cho chúng ta thấy đó là nơi đau khổ, đền bù và thanh luyện. Vào ngày phán xét, chúng ta sẽ thấy ḿnh c̣n xa cách với lư tưởng mà Chúa đă ấn định. Mặc dù linh hồn ra đi trong t́nh trạng ơn thánh, nhưng c̣n biết bao nhiêu những sau lỗi, biết bao nhiêu những tỳ vết khiến chúng ta phải kêu lên: Lạy Chúa, con không thể nào trở về cùng Chúa khi chưa xóa bỏ hết những hoen ố của biết bao nhiêu lần vấp phạm.

Có lẽ ngay trong lúc này, chúng ta cũng cảm thấy: Chưa bao giờ tôi đă lên tới đỉnh trọn lành, chưa bao giờ tôi được thỏa măn với chính bản thân ḿnh?

Làm sao chúng ta có thể hoàn toàn vâng phục thánh ư Chúa trong cuộc sống hiện tại như Đức Kitô ngày xưa? Th́ đây, luyện ngục sẽ là nơi để chúng ta kết thúc những công tŕnh c̣n dang dở. Lửa thanh luyện càng bừng cháy để thiêu đốt những bụi bậm, những rác rưởi, những cặn bă, th́ h́nh ảnh Chúa càng rực sáng trong tâm hồn chúng ta. Và khi h́nh ảnh ấy đă trở nên chói ḷa, rực rỡ và huy hoàng, th́ luyện ngục sẽ chấm dứt và chúng ta sẽ được bước vào niềm hạnh phúc thiên đàng.

Nếu quan niệm như thế, chúng ta sẽ cảm thấy nông cạn và hời hợt khi cho rằng: H́nh phạt luyện ngục th́ không xứng đáng với ḷng nhân từ và thương xót của Chúa. Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không, mà chẳng cần phải đều bù thanh luyện chi cả.

Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy không thể nào chấp nhận được quan niệm ấy, bởi v́ nó đi ngược lại với sự thánh thiện và công thẳng tuyệt đối của Chúa.

Thánh vịnh 118 đă bảo: Thiên Chúa thật công bằng và phán quyết của Ngài thật ngay thẳng.

Chính Chúa Giêsu cũng đă xác quyết: Ngươi sẽ không ra khỏi đó cho đến khi trả xong đồng xu cuối cùng.

Ḷng thương xót và sự công bằng của Thiên Chúa thoạt xem ra như tương phản lẫn nhau, nhưng lại vô cùng ḥa hợp với nhau qua tín điều về luyện ngục.

Thực vậy, trong khi sự công bằng đ̣i phải đền bù và thanh luyện, th́ ḷng thương xót lại đưa ra những phương tiện, những cách thức giúp đỡ để được rút ngắn thời gian đau khổ. Từ đó, chúng ta thấy được hai khía cạnh của luyện ngục, đó là đau khổ và an ủi. Bởi v́ h́nh phạt ở luyện ngục cũng giống như h́nh phạt ở hỏa ngục, nhưng chỉ khác một điều, đó là ở luyện ngục th́ chỉ tạm thời, c̣n ở hỏa ngục th́ vĩnh viễn. Và h́nh phạt đau khổ nhất chính là phải xa ĺa Thiên Chúa vào giữa lúc chúng ta nhận biết Ngài là ai và đang cố gắng tiến đến với Ngài. Tuy nhiên, không phải chỉ có thế.

Mặc dù là một nơi đau khổ và thanh luyện, nhưng luyện ngục không phải là hỏa ngục, trái lại luyện ngục chính là lối dẫn vào thiên đàng.

Những linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn không phải rơi vào tay ma quỉ, nhưng sẽ được nghỉ yên trong Chúa. Ơn cứu rỗi của họ đă được bảo đảm và họ sẽ không bị kết án. Đó là khía cảnh đầy vui mừng và an ủi của luyện ngục.

Vậy luyện ngục là ǵ?

Tôi xin thưa: Luyện ngục là hỏa ngục, nhưng ở đó có niềm vui.

Hay nói một các khác: Luyện ngục là thiên đàng, nhưng ở đó có đau khổ.

Họ đau khổ v́ hiện tại c̣n đang phải tạm thời xa cách Chúa. Nhưng đồng thời họ vui mừng v́ một ngày kia sẽ được nh́n ngắm tôn nhan Chúa, mặt đối mặt.

Niềm tin vào luyện ngục sẽ đem lại một sự an ủi và khích lệ, khiến chúng ta không bao giờ phải tuyệt vọng. Thế nhưng tín điều này c̣n là một lời cảnh cáo gửi đến mổi người chúng ta đang sống trong cuộc sống này: Đừng b́nh thản trong tội lỗi.

Đồng thời cũng là một thôi thúc: Đừng thất vọng trước những sai lỗi vấp phạm của ḿnh.

Sau cùng, hăy thêm lời cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục, bởi v́ như sách Macabêô đă xác quyết:

Cầu nguyện cho những người đă chết để họ được giải thoát khỏi mọi tội lỗi là một việc làm thánh thiện và có giá trị cứu rỗi.

 

17. Nghĩ về sự chết – ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần

Tôi biết là có ngày tôi sẽ chết. Mặc dầu tôi không biết sẽ chết ngày giờ nào, nơi nào, cách nào.

Chắc chắn tôi phải chết. Đó là một chân lư hết sức rơ ràng và chắc chắn. Chân lư này, không ai đă dạy tôi. Nó nằm ngay trong con người của tôi.

Cái chết cũng là một biến cố đụng tới mọi người. Nó là một vấn đề chung. Vấn đề này được coi là hết sức quan trọng. Bởi v́ nó đặt ra câu hỏi: Đâu là ư nghĩa cuộc sống? Cuộc đời đi về đâu? Bên kia sự chết có ǵ không?

Câu trả lời theo lư thuyết có thể t́m được trong nhiều sách, nhất là sách đạo. Nhưng câu trả lời theo cảm nghiệm sẽ thường chỉ hiện lên một cách sống động, khi ta ở bên cạnh những người sắp chết, hoặc chính ta đă có lần thập tử nhất sinh.

Những lúc đó, câu trả lời sẽ không phải là một kết luận lạnh lùng của triết học hay của giáo lư. Nhưng sẽ là cái ǵ linh thiêng thăm thẳm chứa trong những cảm t́nh, cảm xúc, cảm động, cảm thương, khi hiện tượng sự chết rập ŕnh sát tới.

Những hiện tượng khác thường nơi người sắp chết rất đa dạng. Có thể là những lo âu sợ hăi, những khắc khoải đợi chờ, những nắm bắt bâng khuâng, những ngóng trông mệt mỏi, những cái nh́n xa xăm. Cũng có thể là những bất b́nh tức giận, những chán nản phiền muộn, những buông xuôi tiếc nuối, những phấn đấu tuyệt vọng. Cũng có thể lại là những ăn năn đầy b́nh an toả sáng, mang dấu ấn của một nghị lực thiêng liêng và một tin tưởng đến từ cơi đời đời.

Tất cả những hiện tượng như thế phản ánh những trực cảm nội tâm: Đă tới lúc vĩnh biệt. Đă tới lúc ra đi. Đă tới lúc phải bỏ lại tất cả. Đă tới lúc phải trực diện với lương tâm. Lương tâm hỏi về trách nhiệm: Trách nhiệm làm người nói chung và trách nhiệm làm con Chúa nói riêng.

Trước đây, có nhiều điều về trách nhiệm đă lẩn trốn lương tâm. Nhưng lúc con người sắp chết, những điều lẩn trốn đó sẽ trở về tŕnh diện rất nghiêm túc.

Tôi có cảm tưởng là người sắp chết lúc đó sẽ nhận ra: Sự sống của ḿnh là một quà tặng Chúa ban. Ơn gọi được làm con Chúa càng là một ân huệ quí báu Chúa trao cho nhưng không. Chúa ban sự sống và ơn làm con Chúa, để ḿnh phát triển ḿnh và những người xung quanh trong những chặng đường lịch sử nhất định. Sự phát triển sẽ tuỳ ở ơn Chúa, nhưng cũng tuỳ thuộc vào sự tự do và tinh thần trách nhiệm của mỗi người.

Thực tế cho thấy là đă có những phát triển đạo đức, và trái lại cũng có những phát triển tội lỗi. Với những phát triển tốt, người sắp chết cảm thấy được an ủi, coi như nhiệm vụ được trao đă phần nào hoàn thành.

Trái lại nếu thấy những phát triển của ḿnh là xấu, nhiệm vụ được trao đă không hoàn thành, họ sẽ không thể không sợ hăi. Bởi lẽ hậu quả sẽ vô cùng quan trọng. V́ chết là bước sang cơi đời sau với hai ngả: thiên dàng và hoả ngục. Mà hai ngả này đều rất rơ ràng công minh.

V́ thế, nói cho đúng, vấn đề đặt ra cho ta về cái chết sẽ không phải là sợ chết, mà là sợ chết dữ, chết mà sau đó không được lên thiên đàng, nhưng phải xuống hoả ngục.

Những tư tưởng trên đây thường nhắc nhủ tôi về ba chọn lựa này:

1. Hăy tiến về sự chết của ḿnh như tiến tới một quăng phải vượt qua, để về với Cha trên trời.

Một khi nh́n sự chết của ḿnh như thế, th́ cuộc sống của ḿnh cũng được hiểu theo hướng đó.

Để đi đúng hướng về Cha trên trời, tôi chỉ có một đường phải chọn, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người là đường, là sự thực và là sự sống (Ga 14,6). Đón nhận Người, lắng nghe Người, đi theo Người, bắt chước Người. Người là gương mẫu cho ơn gọi làm người và ơn gọi làm con Thiên Chúa. Điều quan trọng tôi sẽ hết sức quan tâm trong việc theo Chúa Giêsu sống ơn gọi, là phải phấn đấu thanh luyện ḿnh, phải biết khiêm tốn quên ḿnh, dấn thân sống theo ư Chúa, để được trở thành tạo vật mới. Nếp sống kiêu căng cần phải bị loại tận gốc. Nếp sống cầu nguyện khiêm nhường cần được thường xuyên phát huy.

2. Hăy tiến về sự chết của ḿnh như người được sai đi truyền giáo, mong trở về với Đấng sai ḿnh.

Sống như người truyền giáo và chết như người truyền giáo. Truyền giáo một cách cụ thể ở địa phương này, ở thời điểm này. Nghĩa là một địa phương và thời điểm có nhiều khác biệt. V́ thế, tôi phải tỉnh thức lắng nghe hướng dẫn của Thánh Thần Đức Kitô. Ngài đang dẫn người truyền giáo vào chiều sâu. Ngài đang giúp người truyền giáo mở rộng nhiều liên đới. Ngài đang tạo ra cho nhà truyền giáo nhiều dịp để loan báo Tin Mừng. Tôi có luôn khiêm tốn cầu nguyện hồi tâm, để trở thành dụng cụ ngoan ngoăn trong tay Ngài không?

3. Hăy tiến về sự chết của ḿnh như người khắc khoải trở về với Đấng đă trao cho ḿnh điều răn mới.

Điều răn mới này, tôi nhận được từ Lời Chúa: "Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con hăy yêu thương nhau như Thầy đă yêu thương các con" (Ga 13,34).

Để hiểu thấm thía hành tŕnh t́nh yêu, tôi nên hằng ngày gẫm suy đoạn văn sau đây của thư thánh Gioan:

"Chúng ta biết rằng: chúng ta đă từ cơi chết bước vào cơi sống, v́ chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương, th́ ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em ḿnh, ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được t́nh yêu là ǵ: đó là Đức Ki-tô đă thí mạng v́ chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng v́ anh em. Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em ḿnh lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động ḷng thương, th́ làm sao t́nh yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được? Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an ḷng trước mặt Thiên Chúa" (1Ga 3,14-19).

"Phần chúng ta, chúng ta hăy yêu thương, v́ Thiên Chúa đă yêu thương chúng ta trước. Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em ḿnh, người ấy là kẻ nói dối; v́ ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, th́ không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đă nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, th́ cũng yêu thương anh em ḿnh" (1 Ga 4,19-21)

Khi tôi sống với những hướng kể trên, tôi sẽ coi sự chết như là một điểm chấm dứt nhiệm vụ.

Nhiệm vụ được chấm dứt. Nhưng nhiệm vụ có được hoàn thành hay không, đó là chuyện khác và đó mới là điều quan trọng. Chúa sẽ phán xét công minh điều đó. Ở đây, tôi có lư do để lo, bởi v́ tôi biết tôi đă lỗi phạm nhiều.

Biết lo là điều tốt. Không phải lúc gần chết mới lo, mà phải lo ngay bây giờ. Biết lo ở đây là t́m cách sửa ḿnh, đổi mới ḿnh nên tốt hơn. Coi như bắt đầu lại.

Khởi sự từ quyết tâm tận dụng ngày giờ c̣n lại và những phương tiện trong tầm tay để chu toàn các nhiệm vụ được trao một cách tốt đẹp nhất. Nhất là tỉnh thức ưu tiên đón nhận Nước Trời vào bản thân ḿnh bằng sám hối và tin mến khiêm cung.

Những nỗi lo như thế là chính đáng. Khi chúng ta làm hết sức ḿnh, th́ những nỗi lo đó sẽ đem lại những tiến triển và hân hoan. Với hân hoan và tin tưởng nơi Chúa giàu t́nh yêu thương xót, chúng ta b́nh tĩnh đi về sự chết. Sự chết lúc đó chỉ là bước sang sự sống mới vô cùng tốt đẹp hơn trước. Và như thế, sau cùng, chỉ có thần chết là phải chết thôi.

18. Luyện ngục

Từ cổ chí kim, cũng như từ đông sang tây, người ta đều có truyền thống thương tiếc và an táng người quá cố một cách kính cẩn. Ngày xưa, người ta thương tiếc và dâng tặng người quá cố một thánh lễ an táng trọng thể, một bài điếu văn chải chuốt, rồi tụ tập ăn uống linh đ́nh, tiếng khóc biến thành những câu chuyện ṛn ră bễn cỗ bàn rượu thịt ê hề. Nỗi thương nhớ trôi mất theo từng ly rượu của bàn tiệc, để rồi khi tiệc tan, trở về nhà và không c̣n nghĩ ǵ đến người quá cố đang khổ đau v́ bị thanh luyện nữa.

Có một người sau khi chết được dẫn vào luyện ngục. Anh ta thấy mọi người trong đó đang đứng trong một vũng bùn lên tới quá đầu gối. Có người đang hút thuốc. Người khác th́ uống cà phê và mọi người đều cười nói với nhau một cách vui vẻ. Anh ta thầm nghĩ: Nếu luyện ngục là như vậy, th́ đâu có ǵ tệ lắm.

Vừa nghĩ thế, anh ta liền nh́n thấy một người trong bọn trông giống như một viên cai ngục, vỗ tay ra hiệu và tuyên bố: Hết giờ nghỉ xả hơi rồi. Bây giờ hăy chống cằm xuống đất và chổng hai chân lên trời.

Nghe đến đây, anh ta bỗng ngất xỉu. Th́ ra đó chỉ là một giấc mơ.

Vậy luyện ngục là ǵ?

Dĩ nhiên luyện ngục không phải là một căn hầm hay một vũng bùn như trong câu chuyện vừa nghe. Theo lời các thánh, luyện ngục chính là nơi các linh hồn được thanh tầy, để trở nên trong sạch, xứng đáng được hưởng kiến tôn nhan thánh Chúa.

Các linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn đă được cứu độ, nhưng chưa phải là trong giây phút hiện tai. Do đó, luyện ngục thực sự là một dấu chứng của ḷng Chúa xót thương.

Một ông cụ luôn khuyên nhủ con cháu hằng ngày đọc kinh sớm tối kẻo mất linh hồn. Thế nhưng, một người con của cụ trả lời: Không cần đọc nhiều, mà chỉ cần đọc ba kinh Kính mừng là đủ lên thiên đàng cả giường lẫn chiếu.

Ông cụ đáp lại: Lên thiên đàng, th́ chúng mày đừng ḥng. Tao chỉ mong chúng mày xuống luyện ngục là đă phúc lắm rồi.

Thực trạng bất toàn của con người khiến chúng ta cảm thấy không xứng đáng được diện kiến, gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa, bởi v́ Ngài là đấn thánh thiện vô cùng.

Sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi là hai cái ǵ đối kháng nhau, như lửa với nước, như ánh sáng với bóng tối. Do đó, tội lỗi làm cho chúng ta phải xa ĺa Thiên Chúa, khiến chúng ta quay lưng chống lại Ngài và đi ngược lại với bản tính thánh thiện tuyệt vời của Ngài. Thực vậy, Thiên Chúa thánh thiện không thể nào chấp nhận một chút bợn nhơ xấu xa nào trong vương quốc của Ngài.

Đối với các linh hồn đáng thương c̣n mang dấu ấn của tội lỗi, th́ luyện ngục chính là nới ẩn náu đầy yêu thương, là tiền đường của thiên đàng. Các ngài vui mừng trong đau khổ. Và nỗi đau khổ nặng nề nhất không phải là cực h́nh hỏa ngục, mà là khát vọng được diện kiến thánh nhan Thiên Chúa, mà hiện nay chưa được trở thành sự thật, mà vẫn c̣n bị trói buộc trong sợ ṃn mỏi trông chờ và mong đợi.

Với ư thức về tội lỗi của ḿnh, các ngài sẽ không rời xa luyện ngục, cho tới khi được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi. C̣n mang lầy một chút dấu vết của tội lỗi trong tâm hồn ḿnh cũng là một đớn dau cho các ngài, khi cảm thấy ḿnh bất xứng.

Chính v́ thế, trong niềm hiệp thông, chúng ta hăy giúp đỡ các ngài bài những hy sinh, những lời kinh và những thánh lễ chúng ta dâng lên, bởi v́ đó mới chính là những điều các ngày đang cần đến, đỗng thời đó cũng là cách thức chúng ta báo hiếu, đền đáp công ơn của các ngài một cách sâu xa và có ư nghĩa nhất.

19. Bóng câu cửa sổ

Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi,

Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,

Một cơn gió thoảng là xong,

Chốn xưa ḿnh ở cũng không biết ḿnh.

(Tv 103, 15-16)

Vào ngày 31 tháng giêng năm 2000, một hung tín được loan ra: chuyến bay 261 của hăng Alaska với 83 hành khách và 5 nhân-viên phi-hành-đoàn, cất cánh từ Mễ Tây Cơ để đi Seattle, tiểu bang Washington, đă rớt xuống Thái-B́nh-Dương, cách Los Angeles chừng 20 dặm đường chim bay. Khoảng 10 xác chết đă được vớt lên, số c̣n lại đă bị tan nát trong ḷng biển cả. Trong số nạn-nhân nầy, có một bé gái thiên-thần mới được bốn tháng. V́ thân-mẫu là người gốc Mễ-Tây-Cơ, cha mẹ đă đưa em về quê ngoại để được rửa tội.

Chỉ trong năm 1999, ba cánh chim sắt đă lao xuống biển cả. Đêm 16 tháng bảy năm 1999, máy bay do Kennedy, 38 tuổi, con trai duy-nhất của cố Tổng Thống John Kennedy, chở vợ là Carolyn Bessette và chị vợ là Lauren Bessette, đi dự lễ cưới cháu ḿnh, đă bị rớt xuống Đại Tây Dương. Một tuần sau, đoàn cấp cứu đă vớt được các thi-hài.

Mấy tháng sau, chiếc máy bay của Ai-Cập với trên 200 hành-khách, đă rớt xuống Đại-Tây-Dương và không một xác nào được t́m thấy.

Vào sáng thứ ba (11-09-2001). một đại-họa khủng-khiếp đă làm chấn-động thế-giới: nhóm khủng-bố Osama Bin Laden đă cướp giựt bốn máy bay và chỉ trong một giờ đồng-hồ đă làm nổ tung hai ngọn tháp chọc trời của Trung-Tâm Thương-Mại Thế-Giới ở Nữu-Ước và sau đó đánh sập một cánh của Ngũ-Giác-Đài ở Hoa-Thịnh-Đốn. Tổng số thương-vong khoảng trên ba ngàn người, trong số đó không thiếu những chuyên-gia lỗi -lạc về kinh-tế, tài-chánh, ngân-hàng, kỹ-thuật và quân-sự...

Trong huấn-từ nhân cuộc triều-yết chung vào sáng thứ tư (ngày 12-09-2001), Đức Thánh Cha Gioan-Phaolồ Đệ-Nhị đă mô tả đại-họa đó là "một ngày đen tối nhất trong lịch-sử loài người, một xúc phạm ghê-gớm cho phẩm-giá con người."

Tôi mới có dịp nói chuyện với một người bạn rất khỏe mạnh, nhưng ba hôm sau, người bạn đó đă được khâm-liệm v́ bị ngă gục dưới họng súng tấn-công của một địch-thủ.

Ngay cả hôm nay đây, biết bao người đang nối tiếp nhau ĺa đời bằng sự chết chóc để đi vào nơi vĩnh-cữu. Những trường-hợp ra đi vĩnh-viễn được nêu ra đây quả rất thông thường, nhưng cũng đủ cho chúng ta hiểu rằng tử-thần sẽ đến viếng chúng ta một cách bất ngờ không một lời báo trước.

Khi quan-sát một số người đang cuồng-nhiệt theo đuổi danh-vọng, thú vui hay của-cải vật-chất th́ chúng ta sẽ hết sức ngạc-nhiên với ư-nghĩ là họ đang sống mà không chút ưu-tư về cuộc sống đời đời. Con người trong thời-đại văn-minh tiến-bộ nầy dường như đang sống theo lư-tưởng quá ư trần-tục của một tư-tưởng-gia thời xưa: "Chúng ta đừng quan-tâm đến sự chết, nhưng hăy nghĩ đến sự sống thiên-đàng mà chúng ta t́m kiếm không phải là những đường phố bằng vàng nhưng là những túi vàng vậy. Những khát vọng của chúng ta chỉ thuộc về cơi tạm nầy chứ không phải thuộc về cơi đời đời, và thiên-đàng mà chúng ta suy tưởng phải là một cơi phong-phú về tiền bạc và đủ các tiện-nghi cho chúng ta hưởng-thụ. Quả thật, chúng ta không cần phải lo nghĩ đến sự chết." Tuy-nhiên, sách Giảng-Viên đă nói rơ ràng: "Có thời để sinh ra, có thời để ĺa đời." (Gv 3, 2).

Kinh Thánh cũng cho biết ông A-Dong sống đến chín trăm tuổi rồi mới qua đời. Ông Sết hưởng thọ chín trăm mười hai tuổi rồi từ trần. Ông Hê-nóc sống chín trăm lẻ năm tuổi rồi cũng phải từ giả cơi đời. Hơn sáu tỷ người đang sống trên mặt đất hiện nay rồi cũng sẽ ra đi trong ṿng một trăm năm nữa, không ai sẽ thấy ánh mặt trời của thế-kỷ hai mươi hai. Trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, Thánh Phaolồ đă viết: "Thân phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét." (Dt 9, 27).

Mặc dầu khoa-học đă tiến-bộ, sau khi vượt qua giới-hạn của không-gian địa-cầu và đang tiến sâu vào không trung, nhưng trên cương-vị con người, chúng ta luôn luôn bị ràng buộc bởi cuộc sống trên mặt đất. Có rất ít bài giảng-luận về sự chết, thiên-đàng, hỏa-ngục. Tuy-nhiên, chân-lư bất-biến là tất cả mọi người trên mặt đất đều phải kết-thúc bằng sự chết và vấn-đề chuẩn-bị cho cuộc sống trong đời sau rất là hệ-trọng, như lời Thánh-Kinh: "Nếu con luôn luôn suy gẫm về sự chết, sự phán xét, thiên-đàng, hỏa-ngục th́ con sẽ không bao-giờ phạm tội."

Ở Âu-Mỹ, có một thành-ngữ như sau: "Ở đời nầy, chỉ có hai việc chắc-chắn không ai thoát khỏi là sự chết và nộp thuế." Chúng ta thường lo lắng dành tiền dể nộp thuế mà quên mất vấn-đề quan-hệ hơn là sự chết. Ta cần phải ư-thức hơn về việc tử-thần đang tiến gần mỗi người chúng ta một cách nhanh chóng. Lời Chúa đă căn dặn: "Thế th́ của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên-Chúa, trả về Thiên-Chúa." (Mt 22, 21).

Người giàu không thể nhờ tiền bạc xin sửa đổi h́nh phạt đang chờ đợi ḿnh thành một án treo; người nghèo cũng không thể nói với sự chết cho ḿnh sống thêm một ngày nữa v́ nó đă chiếm-hữu con người từ lúc mới lọt ḷng mẹ cho tới khi đi vào mồ-mả. Sẽ có lúc sau khi mọi người đông-đảo họp nhau cầu-nguyện th́ đă ra về và "c̣n lại một ḿnh tôi" trong nơi hoang vắng...!

Thánh Giacôbê đă viết: "Anh em không biết cuộc đời ḿnh ngày mai sẽ ra sao. Thật vậy, anh em chỉ là hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi." (Gc 4, 14). Như đám sương mù buổi sáng, rất mong manh, bốc thành hơi nước dưới ánh triêu-dương rồi biến mất giữa ban ngày, đời người cũng giống như giọt sương mai hiện ra chốc lát rồi lại tan ngay.

Thật vậy, sự sống chẳng khác ǵ cái thoi dệt cửi: "Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa và chấm dứt, không một tia hy-vọng." (Gióp 7, 6). Một văn-sĩ đă viết: "Chỉ khi nào thời gian, với một bàn tay không biết chán, xé hết phân nửa số trang sách của đời ḿnh để nung đốt ḷ dục-vọng, lúc ấy con người mới bắt đầu nhận thấy những trang c̣n lại của đời sống ḿnh không c̣n bao nhiêu nữa". Tiên-tri I-Sai-A đă suy ngắm: "Lạy Chúa, con như người thợ dệt, đang măi dệt đời ḿnh, bỗng nhiên bị tay Chúa cắt đứt ngay hàng chỉ." (Is 38, 12). Sách Biên-Niên-Sử quyển I cũng viết: "Ngày đời của chúng con trên mặt đất như bóng câu cửa sổ, không để lại dấu vết." (1 Sb 29, 15).

Khi William Russel lên đoạn đầu đài, ông đă lấy đồng hồ trong túi áo ra rồi trao cho vị y-sĩ săn-sóc ông và nói: "Xin ông làm ơn giữ hộ cái đồng-hồ nầy v́ tôi không cần đến nó nữa. Bây giờ tôi sắp bước vào cơi đời đời."

Thánh Gióp cũng đă từng than-thở: "V́ tuổi con người đă được Ngài ấn-định, sống được bao năm tháng là tùy thuộc ở Ngài. Ngài định giới-hạn rồi, sao có thể vượt qua." (G 14, 5). Tác-giả Thánh-Vịnh cũng đă nói: "Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi, tươi thắm như cỏ nội hoa đồng, một cơn gió thoảng là xong, chốn xưa ḿnh ở cũng không biết ḿnh." (Tv 103: 15,16).

Ngày nầy nối tiếp ngày khác, trôi qua với một tốc-độ tăng dần măi dường như theo nhịp tiến của chúng ta tới tuổi già. Những ngày của chúng ta trên mặt đất nầy giống hệt kiếp hoa: "Người phàm nào cũng đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội. Cỏ héo, hoa tàn khi thần khí Đức Chúa thổi qua." (Is 40, 6-7).

Trong những giờ phút cuối cùng đời ḿnh, Cesar Bergia đă nói: "Trong suốt đời sống của tôi, tôi đă tiên-liệu mọi sự, trừ sự chết, và bây giờ, ôi, thật khốn nạn cho tôi, tôi phải chết mà không chuẩn-bị được ǵ trước cho sự chết của tôi."

Một thanh-niên mới hai mươi bốn xuân xanh, suốt đời mạnh khỏe, nhưng bất th́nh-ĺnh lâm trọng bệnh. Trước khi sắp từ-giả cơi đời, anh đă rên-rỉ, than-van và quằn-quại trên giường bệnh với những lời gào thét sau đây: "Ôi, tôi đă phung-phí những ngày xanh của tôi, tôi đă làm khánh-tận đời tôi. Tôi sẽ thưa ǵ với Đức Chúa, khi tôi phải ứng hầu trước mặt Ngài?" Thánh Phaolồ. trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, đă cảnh-cáo: "Và nếu mọi vi-phạm cũng như bất tuân đều bị phạt đích đáng, th́ làm sao chúng ta thoát khỏi, nếu chúng ta thờ-ơ với ơn cứu-độ cao-quư như thế?" (Dt 2, 3).

Một văn thi-sĩ khuyết-danh đă viết những câu sau đây, trong bài thơ 'Sách Sự Sống':

"Tôi qú cầu-nguyện, nhưng chẳng lâu được; tôi có nhiều việc phải làm. Tôi phải cấp-tốc đi làm v́ hóa-đơn đ̣i tiền chồng chất.

V́ vậy, tôi qú gối, đọc vội một kinh và nhảy đứng dậy. Việc bổn-phận Kitô-hữu của tôi đă làm xong và tâm-hồn tôi thanh-thản, b́nh-an.

Suốt ngày tôi không có thời-giờ để buông một lời chào hỏi vui-vẻ hoặc nói về Chúa Kitô với bạn-bè v́ sợ họ cười nhạo tôi.

Tôi luôn miệng la lớn: Không có thời-giờ, không có thời-giờ, nhiều chuyện phải làm quá! Không có thời-giờ để lo cho việc rỗi linh-hồn, nhưng cuối cùng giờ chết đă đến.

Tôi tŕnh-diện trước mặt Đức Chúa; tôi đứng với đôi mắt cúi xuống, v́ Đức Chúa đang cầm trong tay một quyển sách, sách sự sống.

Đức Chúa nh́n vào trong sách và nói: 'Cha không t́m thấy tên con, v́ có lần Cha dự-tính viết xuống, nhưng Cha chẳng lúc nào có thời-giờ.' "

Khi thể xác của chúng ta chết và sự sống của chúng ta ở trên mặt đất nầy chấm dứt, phần linh-hồn của chúng ta vẫn tiếp-tục sống động trong cơi đời đời. Victor Hugo, một đại văn-hào Pháp đă nói: "Tôi cảm biết có sự sống tương-lai trong tôi." Cyrus cũng đồng ư-kiến: "Tôi không thể nghĩ rằng linh-hồn chỉ sống khi c̣n ở trong một thân-thể hay chết." Chính Emerson cũng nói: "Bằng chứng hiển-nhiên về sự bất-diệt của linh-hồn là chính nơi sự bất măn của chúng ta đối với mọi kết-luận trái ngược." Mark Twain đă viết: "Tôi không bao giờ t́m thấy mảy-may sự thật có thể chứng-minh về đời sống tương-lai, nhưng tôi có khuynh-hướng chờ-đợi nó."

Xưa kia Đức Chúa đă phán với vua Hezekiah: "Hăy lo thu xếp việc nhà, v́ ngươi chết, chứ không sống nổi đâu." (2 V 20, 1). Do môi miệng của tiên-tri A-mốt, Đức Chúa cũng tuyên phán cho mọi người: "Ngươi hăy chuẩn-bị đi gặp Thiên-Chúa của ngươi." (Am 4,12).

John Bunyan, tác-giả cuốn "Thiên-lộ lịch-tŕnh", đă nói lúc ông gần qua đời: "Các bạn đừng than khóc cho tôi, nhưng hăy than khóc cho chính các bạn. Tôi sẽ về nhà đời đời nơi có Đức Chúa Trời là Cha Đức Giêsu Kitô: Ngài sẽ tiếp rước tôi dù tôi là một tội-nhân bởi công-lao cứu chuộc của con Ngài. Tôi tin rằng chúng ta chẳng bao lâu nữa sẽ gặp nhau trên nước sáng láng của Chúa để hát bài ca mới và sống sung-sướng trong cơi đời đời."

Chúng ta hăy lợi-dụng những giây phút chóng qua của đời người để chuẩn-bị cho cuộc sống đời đời: "Thiên-Chúa yêu thương thế-gian đến nỗi đă ban Con Một, để ai tin vào Con của Người th́ khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời." (Ga 3,16).

"Sinh kư tử qui" (sống gởi thác về). Người có Đức Tin đặt niềm tín-thác trọn-vẹn nơi Chúa Quan-Pḥng trong cuộc sống cũng như giờ phút lâm-chung, như lời Thánh Phao-Lồ đă nói: "V́ đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi." (Pl. 1,21).

Trong tinh thần phó-thác tuyệt-đối đó, các Anh Chị trong ḍng Tiểu-Muội và Tiểu-Đệ, mỗi ngày đă đọc kinh "Dâng Ḿnh" của Cha Charles de Foucauld như sau:

"Lạy Cha, con phó-thác ḿnh con cho Cha. Xin hăy làm nơi con mọi sự đẹp ư Cha. Cha làm cho mặc ḷng, con cũng cám ơn Cha. Con sẵn-sàng luôn luôn, con nhận lănh tất cả, miễn ư Cha được trọn-vẹn trong con, trong tất cả loài Cha tạo-dựng. Con chẳng ước muốn chi khác nữa. Lạy Cha là Chúa Trời con, con phó-thác linh-hồn con trong tay Cha. Con dâng linh-hồn con cho Cha. Lạy Cha, với tất cả t́nh yêu của ḷng con, v́ con mến Cha và v́ mến Cha nên con thấy cần phải hiến-thân con, phó trót ḿnh con trong tay Cha, không do-dự đắn-đo song vô-cùng tin cậy, v́ Cha là Cha của con. Amen."

20. Họ sẽ được nh́n thấy Thiên Chúa

Một linh mục đang chuẩn bị cho trẻ em lănh bí tích thêm sức, Ngài kiểm tra những điều các em học hỏi. Ngài hỏi một em trai: "Thiên Chúa sẽ nói ǵ trong ngày phán xét chung với những người đă sống cuộc đời rất tốt lành?" Không do dự, chú bé đáp: "Hăy lên trời sống với Ta". Rồi linh mục hơi một em bé gái: "C̣n những người sống cuộc đời rất xấu xa th́ sao? Thiên Chúa sẽ nói ǵ với họ?". Cô bé đáp: "Các người không được lên trời. Các người phải đi nơi khác". Linh mục nói tiếp: "Vậy Thiên Chúa sẽ nói ǵ với những người chưa tốt lành đủ để lên trời và cũng không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục?" Một em bé nhanh nhảu giơ tay và trả lời theo kiểu mới bằng những lời rất đúng: "Thiên Chúa sẽ nói: "Ta sẽ nh́n các con".

Câu chuyện này làm nổi bật hai trong nhiều chân lư mà chúng ta cần nhắc lại trong ngày lễ các linh hồn hôm nay và trong cả trong tháng 11 này được dành riêng để kính nhớ các linh hồn c̣n trong luyện hgục. Chân lư thứ nhất là: một số linh hồn chưa đủ tốt lành để lên trời và không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục. Vậy những người đó đi đâu khi họ qua đời? Chỉ Giáo hội công giáo có câu trả lời, là họ vào luyện ngục. Chân lư khác được em bé gái diễn tả là: đau khổ lớn nhất của luyện ngục là các linh hồn ở đó không được nh́n thấy Thiên Chúa, v́ Thiên Chúa sẽ nh́n xem họ sau này, cho nên họ sẽ được nh́n thấy Thiên Chúa về sau.

Bạn không t́m thấy từ "luyện ngục" trong Thánh Kinh, nhưng bạn có thể t́m được ư tưởng về nó. Chính Chúa chúng ta muốn nói rằng: một số tội được đền chuộc lại ở đời sau khi Ngài nói về tội không thể tha thứ v́ từ chối kêu xin sự tha thứ (Mt 12,32)

Chúa Giêsu cũng nói về một ngục tù nơi linh hồn sẽ bị tống vào đó v́ một số tôi. Họ sẽ chẳng được ra khỏi đó cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng (Mt 5,26), thánh Phaolô nói về những người sống ở thế gian này không hoàn thiện, tuy nhiên họ sẽ được cứu độ như bằng lửa thử luyện (ICor 3,13).

Cựu ước cũng chỉ cho thấy luyện ngục. Giuda Macabê, nhà lănh đạo Do thái, đă dâng lễ tế đền tội cho người đă chết: "Cầu nguyện cho người đă chết là một ư tưởng lành thánh và đạo đức, để họ được tha thứ tội lỗi" (Amac 12,46).

Các linh hồn lành thánh không được lập công được nữa v́ họ cũng không thể phạm tội nữa. Họ không thể giúp ḿnh nhưng có thể giúp chúng ta. Họ đau khổ chính là v́ họ không có thể ở cùng Thiên Chúa và nh́n xem Thiên Chúa. Họ chịu thứ đau khổ thanh tẩy có thể so sánh với đau khổ v́ lửa. Nhưng họ vẫn vui mừng: họ nắm chắc là họ sẽ được lên trời.

Nhiêu linh hồn lành thánh này là những người thân yêu của chúng ta. Chúng ta có thể giúp đỡ họ bằng cầu nguyện, bằng việc lành và đặc biệt nhờ thánh lễ mà chúng ta cầu nguyện: "Xin Chúa nhớ đến tổ tiên, thân thuộc chúng con và anh chị em tín hữu đang an nghỉ chờ ngày sống lại, xin cho tất cả được hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa".

Xin Chúa chúc lành cho các bạn.

21. Bên kia sự chết

Trên giường hấp hối, thánh Monica đă nhắn nhủ con ngài là Augustino như sau: "Mẹ chỉ xin con một điều là hăy nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc thánh".

Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng đă được nghe nhiều lời van xin tương tự phát ra từ môi miệng của những người thân của chúng ta, trước khi từ giă cơi đời... Nhưng xa mặt cách ḷng, nhiều người trong chúng ta lăng quên những lời van xin thống thiết ấy. Cần được thương, cần được nhớ: đó là khát vọng tự nhiên của con người. Không ai muốn là một hoang đảo cô đơn. Dưới cái nh́n Đức Tin, lời van xin kẻ khác cầu nguyện cho, c̣n chứng tỏ một ḷng khiêm tốn, một thái độ chấp nhận cái giới hạn mỏng manh bất lực của ḿnh.

Để giúp chúng ta có dịp đáp lại thỉnh cầu của những người đă đi vào thế giới bên kia và để thể hiện mối t́nh thông hiệp "các thánh thông công", Giáo Hội ngay từ buổi đầu kỷ nguyên Kitô đă cổ động việc tưởng nhớ cầu nguyện cho những người quá cố. Những thế kỷ gần đây đă dành tháng 11 hằng năm cho việc đạo đức ấy. Hai ngày lễ mừng kính các thánh và cầu cho các linh hồn được ấn định vào hai ngày mùng một và mùng hai đầu tháng với những kinh nguyện rất ư nghĩa, nhắc chúng ta về sự hiệp thông trong Giáo Hội. Công đồng Vatican II trong hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội đă viết như sau: "Giáo Hội lữ hành hết ḷng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đă chết, v́ cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh...".Nói về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Đồng viết như sau: "Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa Cha...". Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận thảo hiếu đáp đền, đă thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện.

Quỳ cầu nguyện một ḿnh trong nhà thờ, hay ngậm ngùi đốt lên một ngọn bạch lạp tại một nghĩa trang nào, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy bùi ngùi xúc động khi nghĩ đến những người chết và chính cái chết. Chúng ta đang đứng giữa biên giới vô h́nh của sự sống và sự chết. Và một cách vô cùng huyền nhiệm và sống động, những người chết đang hiện diện với chúng ta bằng một sợi dây liên kết thâm sâu, thắm thiết... Cái chết không c̣n là một chấm hết cuối cùng đối với chúng ta nữa. T́nh yêu mạnh hơn sự chết. Chính T́nh Yêu đă làm cho những người đă chết được sống và cũng chính T́nh Yêu liên kết chúng tư với những người chết. Vâng, chỉ có T́nh Yêu mới làm cho con người được bất tử. Chỉ có T́nh Yêu mới làm cho con người liên kết với những người đă chết. Chỉ có T́nh Yêu mới mặc cho những nghĩa cử của con người sự bất diệt.

Mỗi lần chúng ta hy sinh cho một người nào đó, mỗi lần chúng ta săn sóc một người đau yếu, an ủi một người đau khổ, bênh vực một người cô thế, hay cùng với những người khác dấn thân để canh tân cuộc sống... Chúng ta đang tiến dần đến sự bất tử.Yêu thương chính là tái sinh, là sự thông dự vào sự sung măn của cuộc sống. Đó phải là niềm tin của chúng ta trong ngày hôm nay khi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố. Xin Chúa nâng đỡ Đức Tin yếu kém của chúng ta, xin Ngài ban thêm niềm hy vọng cho chúng ta.

22. Lễ cầu nguyện cho các linh hồn – JK

(Lc 23,33-34.39-43)

Câu hỏi gợi ư:

1) Thiên Chúa không muốn con người đau khổ, tại sao Ngài lại bắt linh hồn người chết phải thanh luyện cho hoàn hảo mới được vào thiên đàng?

2) Chịu thanh luyện để nên hoàn hảo, Bản chất của sự hoàn hảo này là ǵ? Là t́nh yêu? đức tin? sự trong sạch? hay sự tôn trọng lề luật? hay sự ǵ khác?

3) Người gian phi đầy tội lỗi trong bài Tin Mừng, tại sao lại được Đức Giêsu cho vào thiên đàng ngay? Vậy yếu tố cốt yếu nhất để vào thiên đàng là ǵ? Đọc kinh? cầu nguyện? dâng lễ? bố thí? giữ luật? hay t́nh yêu? ḷng vị tha?

CHIA SẺ

1- Niềm tin của người Công giáo về luyện ngục

Hôm nay và suốt tháng 11 này, người Công giáo chúng ta đặc biệt quan tâm cầu nguyện cho những người quá cố. Chúng ta thường nghĩ họ đang phải chịu thanh luyện bằng đau khổ để trở nên hoàn hảo. Sự thanh luyện đó được Giáo Hội định tín: «Linh hồn kẻ chết chưa đền tội hoàn toàn sẽ được thanh luyện sau khi chết với những h́nh phạt được gọi là "Thanh Luyện"» (DS 856/464).

Mục đích của việc thanh luyện là làm cho linh hồn trở nên hoàn hảo, hoàn toàn vị tha, đầy t́nh thương, không c̣n một chút tâm địa ích kỷ, độc ác, tham lam nào nữa. Thiên Đàng đ̣i hỏi một sự hoàn hảo như thế thật là hợp lư, v́ đó là một «nơi» hoàn toàn hạnh phúc, hoàn toàn thánh thiện, là «nơi» chúng ta sẽ trở về để hưởng hạnh phúc muôn đời. (Gọi là «nơi» th́ chỉ là tạm gọi, v́ thật ra, Thiên đàng, luyện ngục hay hỏa ngục không phải là nơi chốn, là không gian vật lư cho bằng là những t́nh trạng tâm linh hoặc tâm lư. Chẳng hạn: Thiên Đàng là t́nh trạng tâm linh hoàn toàn hạnh phúc, không c̣n một chút đau khổ, của những tâm hồn hoàn hảo, thánh thiện. C̣n Hỏa Ngục là t́nh trạng tâm linh hết sức đau khổ của những tâm hồn độc ác, xấu xa, ích kỷ...)

2- Thiên đàng đ̣i hỏi người trong đó phải thật hoàn thiện

Không cần phải xét về phía Thiên Chúa, mà ngay chính chúng ta cũng đ̣i hỏi rằng: để vào Thiên Đàng th́ phải thật trọn hảo. Thật vậy, thử hỏi, khi trở về «nơi» lư tưởng đó để hưởng hạnh phúc, ta có thể hoàn toàn hạnh phúc khi phải sống chung với thân nhân, bạn bè với những tính nết xấu như họ đang có bây giờ không? Nếu người ở thiên đàng mà c̣n ích kỷ, c̣n ác ư, c̣n lănh đạm, c̣n hẹp ḥi, c̣n hay nghĩ xấu cho người khác, dù chỉ một chút xíu, th́ chính bản thân họ sẽ đau khổ, đồng thời c̣n gây nên đau khổ cho người khác nữa. Chưa hoàn hảo mà đă sống ở Thiên Đàng th́ ta sẽ làm ô nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền của Thiên Đàng, và biến Thiên Đàng trở thành một cái ǵ không c̣n là Thiên Đàng nữa. Do đó, Thiên Đàng đ̣i hỏi những người bước vào phải hoàn toàn trong sạch, tốt lành, nếu c̣n chút ǵ xấu xa th́ phải thanh luyện cho hết. T́nh trạng thanh luyện ấy được gọi là «luyện ngục».

3- Tội lỗi hay tính vị kỷ là đầu mối gây đau khổ

Chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ muốn con người phải đau khổ. Việc Ngài sai Con Một ḿnh xuống chịu chết một cách thảm thương để cứu nhân loại chứng tỏ điều ấy. Nhưng Ngài không thể trực tiếp cứu chúng ta khỏi đau khổ, mà chỉ có thể cứu chúng ta khỏi những nguyên nhân gây nên đau khổ là tội lỗi. Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan viết: «Người đă yêu mến chúng ta và lấy máu ḿnh rửa sạch tội lỗi chúng ta» (Kh 1,5). Đau khổ chỉ là ngọn, c̣n tội lỗi mới là gốc. Muốn tránh khổ th́ phải tránh tội lỗi. Diệt khổ th́ chỉ là diệt ngọn, khổ vẫn có thể tiếp tục phát sinh. Diệt tội lỗi mới là diệt khổ tận gốc. Nhưng con người v́ c̣n u mê nên thường sợ khổ chứ không sợ nguồn gốc phát sinh ra đau khổ là tội lỗi, là tính ích kỷ. Họ vẫn cứ tiếp tục phạm tội, sống ích kỷ. V́ thế, dù t́m đủ mọi cách để tránh khổ, con người vẫn cứ rơi vào đau khổ, hết khổ này đến khổ khác. Trong việc cứu khổ cho người khác, cho các linh hồn được thanh luyện, con người cũng chỉ nghĩ tới việc cứu họ khỏi đau khổ, chứ không nghĩ tới việc cứu họ khỏi những nguyên nhân gây đau khổ.

Nguồn gốc của tội lỗi chính là tính ích kỷ, chỉ biết nghĩ tới đau khổ và hạnh phúc của ḿnh, mà không quan tâm hay biết đến đau khổ và hạnh phúc của người khác. V́ thế, nguyên nhân sâu xa hơn của đau khổ chính là tính ích kỷ.

4- T́nh yêu hóa giải đau khổ và đem lại hạnh phúc

Nếu ích kỷ là nguồn gốc phát sinh đau khổ, th́ ngược lại, tính vị tha hay t́nh yêu chính là nguồn tạo nên hạnh phúc. Do đó, người ta chỉ có thể vào được thiên đàng khi họ có đầy tràn t́nh yêu và không c̣n chút tính ích kỷ nào nữa. Nắm vững điều này, ta mới hiểu được ư nghĩa sâu xa câu nói Đức Giêsu, khi có người – vốn đă giữ rất chu đáo các lề luật – hỏi Ngài về cách đạt được sự sống đời đời: «Anh chỉ thiếu có một điều, là hăy đi bán những ǵ anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hăy đến theo tôi» (Mc 10,21). Điều đó có nghĩa là phải biết yêu thương và thật sự thể hiện t́nh yêu ấy th́ mới được sự sống đời đời, tức được hạnh phúc đích thực. Kho tàng ở trên trời mà mọi người muốn lên đó phải sắm cho ḿnh chính là kho tàng t́nh yêu.

Người trộm lành trong bài Tin Mừng hôm nay đă thể hiện được tinh thần vị tha và t́nh yêu ấy. Trong cảnh khổ như thế mà anh không hề nghĩ tới đau khổ của bản thân ḿnh, mà chỉ nghĩ tới đau khổ của Đức Giêsu, thương cho Ngài bị hàm oan: «Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, v́ xứng với việc đă làm. Chứ ông này đâu có làm điều ǵ trái!». Chính v́ thế, anh đă được Đức Giêsu nói: «Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng». Người trộm lành tuy đầy tội lỗi, nhưng cuối cùng anh đă phát tâm yêu thương, và t́nh yêu đă biến anh thành người tốt lành, xứng đáng với hạnh phúc thiên đàng. Đúng như câu nói của thánh Phaolô: «T́nh yêu che phủ muôn vàn tội lỗi» (1Pr 4,8).

5- Chấp nhận đau khổ v́ t́nh yêu là bí quyết của hạnh phúc

Câu chuyện về người trộm lành trên làm tôi nghĩ đến một câu chuyện của Đức Phật. Trong một tiền kiếp nọ của ngài, ngài đă phạm một trọng tội khiến ngài bị đọa vào địa ngục. Tại đó, ngài cùng nhiều người khác bị đau khổ ghê gớm. Khi nh́n thấy những người trong đó đang quằn quại với những cực h́nh vô cùng đau đớn như ḿnh, ngài thương họ vô cùng. T́nh thương ấy khiến ngài phát tâm nguyện rằng: Tôi nguyện sẵn sàng chịu thay cho mọi người trong địa ngục này tất cả những đau khổ mà họ đang phải chịu, để họ thoát khỏi những cực h́nh ghê gớm này! Vừa nguyện như thế xong th́ lập tức ngài tự nhiên thoát khỏi cảnh đau khổ ấy. C̣n những người kia th́ vẫn tiếp tục ở lại đấy chịu đau khổ.

Tôi chỉ coi chuyện trên như một dụ ngôn. Tuy không có thực, nhưng nó nói lên một chân lư mà chính tôi đă thực nghiệm thấy rất đúng. Khi tôi chỉ quan tâm chú ư tới những đau khổ tôi đang phải chịu, th́ tôi thấy đau khổ ấy – một cách chủ quan – tăng lên gấp bội. Nhưng khi tôi quan tâm tới những đau khổ của người khác đang phải chịu, khi tôi muốn làm giảm bớt đau khổ cho họ, khi tôi chấp nhận chịu đau khổ thay cho họ, hay chịu khổ nhiều hơn nữa để họ bớt khổ hay để họ được hạnh phúc, th́ lập tức tôi cảm thấy tâm hồn ḿnh mạnh mẽ lên. Lúc ấy những đau khổ tôi đang chịu – tuy dù một cách khách quan không hề thay đổi, mà có thể c̣n tăng lên – bỗng nhiên mất đi tính dữ dội hay thảm khốc của chúng đối với tôi. Chúng không c̣n làm tôi đau khổ được như trước.

Áp dụng kinh nghiệm này vào đời sống gia đ́nh, tôi nhận thấy: khi tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, mọi đau khổ, mọi buồn phiền để làm những người thân yêu của tôi bớt khổ và được hạnh phúc, th́ điều lạ lùng tôi cảm nghiệm được là tôi không hề đau khổ mà lại thấy hạnh phúc hơn. Tôi hạnh phúc hơn v́ tôi thấy nhờ hành động ấy của tôi mà những người tôi yêu thương được hạnh phúc hơn. Điều làm họ hạnh phúc nhất là thấy tôi yêu thương họ, hết ḿnh với họ. Và chính v́ thế, họ cũng chẳng để tôi phải vất vả hay chịu đau khổ thay cho họ, ngược lại họ lại sẵn sàng chịu đau khổ thay cho tôi. Và thế là cả gia đ́nh tôi – trong đó có tôi – đều cảm thấy hạnh phúc trong bầu khí đầm ấm yêu thương. Thế là chỉ v́ tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, cực nhọc, đau khổ thay cho những người thân yêu, mà tôi biến gia đ́nh tôi thành một gia đ́nh hạnh phúc. So với nhiều người chủ gia đ́nh khác, tôi thấy ḿnh hạnh phúc hơn họ nhiều, xét cả mặt khách quan lẫn chủ quan. Tôi nhận thấy: không phải khi ḿnh sẵn sàng chịu đau khổ thay cho người khác th́ tất nhiên ḿnh sẽ phải chịu đau khổ nhiều hơn đâu! Mà ngược lại, thái độ quên ḿnh ấy lại đem lại hạnh phúc cho cả tôi lẫn những người chung quanh tôi. Đó là kinh nghiệm của tôi trong gia đ́nh. Và tôi đang áp dụng kinh nghiệm này ra ngoài gia đ́nh, trong xă hội... và tôi vẫn thấy nó đúng. Xin chia sẻ với mọi người kinh nghiệm có thật này để may ra hữu ích cho ai đó!

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, thánh Gioan nói: «T́nh yêu không biết đến sợ hăi; trái lại, t́nh yêu hoàn hảo loại trừ sợ hăi, v́ sợ hăi gắn liền với h́nh phạt và ai sợ hăi th́ không đạt tới t́nh yêu hoàn hảo» (1Ga 4,18). Con cảm thấy chính khi con thật sự có t́nh yêu th́ con không sợ đau khổ, mà sẵn sàng đón nhận đau khổ để người khác được hạnh phúc. Và khi con không sợ đau khổ, th́ đau khổ không c̣n tác oai tác quái trên con nữa. Nó không c̣n khả năng làm con mất b́nh an hạnh phúc được nữa. Và con cảm thấy b́nh an và hạnh phúc do t́nh yêu đem lại chính là thiên đàng. Một thiên đàng mà con có thể cảm nghiệm trước ở ngay trần gian này.

23. Các tín hữu đă qua đời.

Trong thánh lễ cầu cho những người đă qua đời, chúng ta thường hát:

- Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy.

Khi cầu xin với Chúa như vậy, chúng ta phải giả thiết các linh hồn ấy chưa đến được nơi hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng đồng thời cũng không bị đày đọa trong hỏa ngục. Và dựa vào giáo lư, chúng ta đă biết luyện ngục là nơi đau khổ, trong đó linh hồn những người công chính sẽ phải thanh tẩy tội lỗi trước khi bước vào Nước Trời.

Các linh hồn ấy không bị ném vào chốn cực h́nh muôn kiếp, nhưng cũng chưa được vào thiên đàng. Sở dĩ như vậy v́ Thiên Chúa là Đấng thánh thiện và trong sạch vẹn toàn. Ngài không bao giờ chấp nhận chút bùn nhơ tội lỗi, dù là nhỏ bé tầm thường. Linh hồn vấp phạm đă được tha thứ, nhưng c̣n phải đền bù và thanh luyện về những sai lỗi ấy. Và thật là may mắn, chúng ta có thể giúp đỡ bằng những lời kinh, những hy sinh và những thánh lễ dâng lên cho Thiên Chúa, để xin Ngài xóa bỏ tội lỗi, giảm bớt h́nh phạt và mau giải phóng các linh hồn ấy.

Sau đây chúng ta hăy lắng nghe một tiếng nói từ thế giới bên kia vọng về. Vào mùa chay năm 1922, nữ tu Joséfa xin với Chúa cho ḿnh được liên hệ với thế giới của luyện ngục, và nữ tu đă ghi nhận:

- Rất nhiều linh hồn đă xin ngài hy sinh và cầu nguyện cho.

Một linh hồn nói:

- Tôi đă sống trong t́nh trạng tội lỗi suốt bảy năm. Sau đó tôi bị đau ốm ba năm. Tôi từ chối không muốn xưng tội. Tự tay tôi đă xây lấy hỏa ngục cho tôi. Nhưng nhờ lời kinh và hy sinh của người mẹ, mà tôi ăn năn thống hối trở về với Chúa và sống trong t́nh trạng ơn thánh. Bây giờ tôi đang bị giam cầm trong luyện ngục. Tôi van xin ngài hăy cứu giúp tôi, để mau mau chóng ra khỏi tù ngục này.

Hăy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục v́ đó là một bổn phận bác ái. Nỡ ḷng nào mà chúng ta không ra tay trợ giúp kẻ kêu cầu chúng ta. Nỡ ḷng nào mà chúng ta lại lănh đạm trước một người bạn đang chới với giữa ḍng nước mà không t́m cách cứu vớt.

Hăy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục v́ đó là một bổn phận công bằng, v́ tất cả chúng ta đều liên đới với nhau trong sự thiện cũng như trong sự ác, trong sự tốt cũng như trong sự xấu. Những người bị đền bù, rất có thể v́ đời sống tầm thường, v́ gương mù gương xấu của chúng ta mà vấp ngă, rất có thể v́ yêu thương chúng ta mà các ngài đă sai lỗi điều nọ điều kia. Dù ít hay nhiều, chúng ta cũng liên đới chịu trách nhiệm về những h́nh phạt của các ngài và phải chia sẻ về những h́nh phạt ấy.

Sau cùng, hăy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục v́ đó là việc làm có lợi cho chúng ta. Cầu nguyện cho các ngài, th́ các ngài cũng sẽ bầu cử cho chúng ta v́ các ngài đă là những bạn hữu nghĩa thiết của Chúa. Tưởng nhớ đến các ngài, th́ chắc hẳn mai ngày khi ở trong hoàn cảnh khổ đau như thế, Chúa cũng sẽ không để chúng ta ch́m vào quên lăng.

Cách đây không lâu cha sở vùng Bretagne là một mục tử tận tâm chăm sóc đoàn chiên của ḿnh. Chẳng may ngài bị chết bất ngờ, và có tới hơn hai trăm linh mục khác đến đồng tế trong thánh lễ an táng của ngài.

Ngài đă nói với các em nhỏ trong giờ giáo lư cuối cùng như sau:

- Hăy cầu nguyện cho các linh mục. Nếu cha bị chết bất ngờ, chắc hẳn cha sẽ phải vào trong luyện ngục. Các em hăy hứa là sẽ cầu nguyện và cầu nguyện nhiều cho cha nhé.

Và để kết luận, tôi xin đưa ra nơi đây ư kiến của một tờ báo Công giáo:

- Bạn nhớ cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục và cũng thường xuyên nghĩ tới cái chết, sự phán xét, thiên đàng và hỏa ngục. Bạn c̣n có thể chuẩn bị cho ngày gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa. Trong ngày đó, chỉ có hai con đường: hoặc là đau khổ vĩnh viễn, hoặc là hạnh phúc muôn đời. Vậy chúng ta chọn con đường nào đây?

24. Các linh hồn

Một người Mỹ tên là Habốc thành lập một hăng bưu điện kỳ quặc với cái tên giật gân "Liên minh thiên đàng". Công việc của hăng này là chuyển thư từ của những ai muốn gởi đến những người thân quen đă qua đời. Thủ tục rất đơn giản: người gởi chỉ cần viết thư trên một tờ giấy mẫu in sẵn và nộp một khoản cước phí là xong. C̣n làm thế nào để chuyển lá thư ấy đến tay người chết là phận vụ của bưu điện. "Liên minh thiên đàng". Theo lời ông Habốc quả quyết thư gởi nhất định sẽ tới tay người nhận do nhân viên đưa thưa của hăng là những người sắp chết t́nh nguyện chuyển giùm. Những nhân viên t́nh nguyện này sẽ học thuộc ḷng nội dung bức thư và cam kết sẽ nhắn lại đầy đủ với người nhận. Hơn nữa "Liên minh thiên đàng" tuyển chọn nhân viên của ḿnh rất cẩn thận. Họ phải là người trong sạch, không có ǵ mờ ám trước khi Chúa gọi ĺa khỏi đời này, nên nhất định họ sẽ lên thiên đàng chứ không thể xuống hỏa ngục được. Do uy tín của hăng bưu điện này ngày càng tăng mạnh mẽ nên ông Habốc đă mở rộng phạm vi hoạt động không những khắp nước Mỹ mà c̣n lan sang các lục địa khác nữa.

Mới nghe qua, nhất là đối với những người vô tôn giáo hay không tin có đời sau th́ câu chuyện trên chẳng những kỳ quặc mà c̣n phi lư không thể chấp nhận được. Nhưng c̣n đối với chúng ta không có ǵ đáng ngạc nhiên cả, chẳng qua chỉ có khác về cách thức liên hệ mà thôi. Bởi v́, giáo lư công giáo đă tŕnh rơ ràng từng chi tiết mối dây liên hệ giữa người c̣n sống và kẻ đă chết bằng một tín điều quan trọng buộc mọi người phải tin và phải thực hành: đó là tín điều Các Thánh cùng thông công.

Tuy nhiên, một điều khác biệt giữa tín điều của người công giáo và hăng bưu điện "Liên minh thiên đàng" của Habốc là cách thức liên lạc với chết. Cách thức của ông Habốc vừa thiên về vật chất vừa dựa vào khả năng giới hạn của con người nên rất khó mà đạt được mong muốn. C̣n các thức liên lạc với người quá cố của đạo công giáo phần lớn nhờ vào quyền năng, lời bảo đảm của Chúa, cũng như được minh chứng cụ thể do những cuộc hiện về của các linh hồn mà Chúa cho phép. Như thế, việc liên hệ với người thân quen đă qua đời đối với chúng ta là một chuyện thường t́nh, dễ dàng và có từ ngàn xưa. Chỉ c̣n lại một công đoạn cuối cùng là chúng ta có muốn liên lạc hay không mà thôi.

Thật vậy, con người sống được với nhau là nhờ ân nghĩa. T́nh nghĩa càng thắm thiết càng thương nhớ đến nhau và muốn sống măi bên nhau, nhất là đối với những người thân quen đă qua đời. Hơn nữa, khi biết sống t́nh nghĩa với nhau cách đằm thắm hay nhạt nhẽo th́ mới rơ ai tốt hay xấu, ai thật ḷng ai gian dối. Do đó, t́nh nghĩa không những là một nhu cầu cần thiết cho đời sống mà c̣n là một bổn phận, trách nhiệm phải đền đáp, chu toàn hết khả năng sẵn có.

Nếu thế th́ chúng ta, những người c̣n sống tại dương thế, đang có tự do hành động theo ư muốn của ḿnh lại càng sống thật t́nh nghĩa với những người đă khuất v́ giờ đây họ chẳng khác ǵ những tù nhân chỉ c̣n trông mong sự cứu giúp của chúng ta mà thôi. Nhưng sống t́nh nghĩa với những người đă chết không có nghĩa là nhớ lại những kỷ niệm, những h́nh ảnh, dáng điệu, lời nói của họ để mà thương tiếc, nhớ nhung, trái lại điều quan trọng là hăy biến những t́nh cảm đó thành những hành động thương yêu thật cụ thể và có giá trị đời đời.

Đó là lư do chính yếu của ngày lễ hôm nay và trong tháng 11 này mà Giáo hội đề xướng ra để kêu gọi toàn thể mọi người hăy hướng ḷng về những người thân quen cũng như xa lạ đă qua đời, nhất là ra sức t́m kiếm những tặng phẩm thiêng liêng để gởi làm quà cho họ. Và một khi đă biết rơ cách thức gởi, gởi những ǵ và gởi nhờ ai th́ sẽ đến tay các linh hồn. Chỉ c̣n lại khâu cuối cùng là chúng ta có hăng say kiếm quà mà gởi hay không mà thôi.

Và nếu những người thân quen ở bên kia thế giới đang quằn quại đau khổ trăm chiều, từng giây từng phút đợi chờ sự cứu giúp của chúng ta, được chóng giải thoát cực h́nh hay phải giam phạt thêm là hoàn toàn do chúng ta có thương xót hay thờ ơ mà thôi, chẳng lẽ chúng ta cứ thờ ơ, lăng quên họ măi hay sao? Vậy hăy mau cố gắng hết sức, t́m đủ mọi cách để giải thoát cho họ như siêng năng xưng tội rước lễ, làm việc lành phúc đức, ăn chay hăm ḿnh, xin lễ cầu nguyện... Và nếu chúng ta cứu được các Đẳng, chắc chắn các Ngài sẽ không bao giờ quên ơn chúng ta.

Đó là chưa nói đến t́nh máu mủ mà chắc chắn không ai trong chúng ta nở ḷng nào quên t́nh nghĩa với ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, cháu chắt, họ hàng thân thuộc đă qua đời chờ sự cứu giúp của chúng ta. C̣n xét về mặt trách nhiệm, nếu những ai đă làm ơn cho chúng ta hoặc v́ lỗi lầm gương xấu của chúng ta mà đang bị gian cầm, chúng ta cần phải đền ơn và chuộc lỗi lầm cho họ.

Vậy ai c̣n sống mà không biết tưởng nhớ đến người chết th́ kẻ đó không phải là con người. Và ai chỉ biết tưởng nhớ suông mà không biết làm những việc lành phúc đức cụ thể th́ cũng không thể xứng đáng lám con cái của Chúa.

 

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN – A

1. Khiêm nhường

Thầy Pacifique là một trong số những môn đệ đầu tiên của thánh Phanxicô d'Assie, ngày kia thầy được Chúa đưa lên thiên đàng và chiêm ngắm những cảnh sắc huy hoàng. Thầy nh́n thấy một chiếc ngai sáng chói, và Chúa đă nói với Thầy: Chiếc ngai mà con thán phục đó là chiếc ngai của Lucifer, nhưng v́ kiêu ngạo, nó đă bị bỏ mất, giờ th́ nó thuộc về Phanxicô d'Assie, người tôi tớ khiêm nhường của Ta. Hôm sau trong giờ nghỉ, thầy đă hỏi thánh nhân: Thưa cha, cha nghĩ ǵ về ḿnh. Thánh nhân trả lời: Tôi chỉ là một kẻ tội lỗi đáng thương nhất. Thầy ḍng ngạc nhiên: Làm sao mà cha có thể như vậy được. Thánh nhân trả lời: Nếu Chúa ban cho kẻ khác những ơn hệt như đă ban cho tôi, th́ họ đă trở nên tốt lành thánh thiện hơn tôi rất nhiều. Thầy ḍng suy nghĩ, và nhớ tới lời Chúa đă phán: Ai nâng ḿnh lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ ḿnh xuống sẽ được nâng lên.

Vậy chúng ta phải hiểu thế nào về lời nói của Chúa Giêsu? Đâu là ư tưởng của Ngài? Dĩ nhiên Chúa không bảo chúng ta tuân giữ một đức khiêm nhường bề ngoài, một sự khiêm nhường giả hiệu, chẳng hạn như khi đi dự tiệc, là phải chọn ngay mâm cuối, để rồi sẽ được chủ nhà mời lên mâm trên. Căn bản của thái độ này chính là kiêu ngạo, sự trá h́nh. Chúa không bảo chúng ta hăy lợi dụng chỗ thấp để làm cho ḿnh được vinh dự, trái lại, chúng ta phải có tâm t́nh khiêm nhường, sẵn sàng chấp nhận những công việc khiêm tốn, những địa vị kém cỏi. Chúa là Đấng phân định công nghiệp của chúng ta, chính Ngài sẽ chỉ cho chúng ta đứng vào địa vị xứng hợp.

Chúng ta sống trên trần gian, không phải là để thống trị mà là để phục vụ kẻ khác như lời Ngài đă phán: Con Người đến không để được phục vụ mà để phục vụ và hiến thân v́ người khác. Ai muốn làm lớn, hăy trở nên như tôi tớ. Đó chính là bài học mà chúng ta không bao giờ được quên lăng, v́ Chúa chống đối kẻ kiêu ngạo và yêu thương người khiêm nhường.

Một nữ tu kia có tiếng hát rất hay. Sơ biết điều đó và thường hănh diện mỗi khi hát trong nhà nguyện của cộng đoàn. Sau khi sơ ấy chết đi, thánh nữ, Gertrude nh́n thấy linh hồn của sơ ấy quằn quại trong lửa luyện ngục. Trước cảnh tượng kinh hoàng ấy, thánh nữ đă khóc thương, nhưng Chúa hiện ra và phán: Vị nữ tu này đang đền bù, tẩy xoá tính kiêu ngạo. Hănh diện v́ tiếng hát, sơ ấy đă đi t́m những lời khen phù phiếm thay v́ phụng sự thánh danh Ta.

Phải chăng chúng ta cũng đă t́nh cờ trở nên giống vị nữ tu trước những tài năng mà Chúa đă ban? Hăy dùng những khả năng của ḿnh để phụng sự Chúa và anh em, nhờ đó mà chúng ta sẽ sống tâm t́nh khiêm nhường đích thực, v́ ai hạ ḿnh xuống, sẽ được không phải là người đời, mà chính là Chúa nâng lên.

2. Khiêm nhường

Chúng ta có thể xác quyết: Khiêm nhường là con đường bảo đảm nhất dẫn chúng ta tới quê hương Nước Trời.

Thực vậy, tội của ông bà nguyên tổ là ǵ, nếu không phải là sự kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên Chúa, từ chối không chịu để cho Ngài hướng dẫn, bằng cách giơ tay ngắt trái cấm mà ăn. Tội của Lucifer, vị thần mang ánh sáng, là ǵ, nếu không phải là tính kiêu ngạo, không muốn phục tùng Thiên Chúa nữa.

Từ đó, chúng ta thấy ḿnh chỉ có thể gặt hái được những thành quả tốt đẹp, nếu biết trở nên như trẻ nhỏ, phó thác vào bàn tay quan pḥng của Thiên Chúa, người cha đầy yêu thương và giàu ḷng thương xót.

Dưới mắt Thiên Chúa, chúng ta thấy dường như có một sự đảo lộn giá trị: Ai tự nâng ḿnh lên cao th́ sẽ bị hạ xuống thấp, và trái lại ai hạ ḿnh xuống thấp th́ sẽ được nâng lên cao, bởi v́ chính Chúa Giêsu đă phán: Ai muốn làm lớn th́ phải trở thành kẻ rốt hết và làm đầy tớ phục vụ cho mọi người...Ai trở nên giống trẻ nhỏ, th́ sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời...

Để nuôi đám đông dân chúng trong hoang địa, Chúa Giêsu đă không làm cho manna từ trời rơi xuống, nhưng Ngài đă dùng năm chiếc bánh và hai con cá của một em nhỏ.

Và trong cuộc sống, Ngài đă sử dụng những phương tiện tầm thường nhất. Thực vậy, để thiết lập Giáo Hội, Ngài đă không chọn lựa những tiến sĩ luật và những nhà thông thái, trái lại, Ngài đă kêu gọi những con người đơn sơ và dốt nát.

Tại pḥng tiệc ly, mặc dù luôn ư thức quyền năng của ḿnh, thế nhưng Ngài đă qú xuống rửa chân cho các môn đệ, để dạy cho các ông bài học khiêm nhường và phục vụ.

Trong công cuộc cứu độ nhân loại, Ngài đă không sử dụng tới uy quyền của một vị Thiên Chúa, nhưng đă cúi đầu chấp nhận thập giá, như lời thánh Phaolô đă diễn tả: Ngài đă vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.

Ngài cũng muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài: các con hăy học cùng Ta, v́ Ta hiền lành và khiêm nhường trong ḷng.

Đoạn Tin Mừng hôm nay đưa ra hai khuôn mặt, đó là khuôn mặt của một bậc thầy, một tiến sĩ luật và khuôn mặt của một người tôi tớ, một người hèn mọn.

Kẻ kiêu căng luôn đặt ḿnh làm trung tâm của vũ trụ, muốn người khác phải trọng kính và coi ḿnh như một vị thủ lănh. Chính v́ thế, kẻ kiêu căng không hề biết vâng lời và yêu thương. Họ sẽ không bao giờ được thỏa măn, trái lại lúc nào cũng ghen tức v́ hấy người khác được thành công. Một kẻ như vậy th́ làm sao có thể gặp được Thiên Chúa.

Trong khi đó, người khiêm nhường biết từ bỏ mọi sự, ngay cả bản thân cùng với địa vị và danh dự. Họ biết nhận định đúng về con người của ḿnh, đồng thời họ biết quên ḿnh đi để mưu cầu lợi ích cho những người chung quanh. Chính v́ thế, họ được dành cho nhiều t́nh cảm tốt đẹp và được chính Thiên Chúa đón nhận, v́ tâm hồn họ trống rỗng, không có những vướng mắc và níu kéo.

Kytô giáo của chúng ta không thể thiếu vắng sự khiêm nhường, như lời thánh Bernađô đă xác quyết: Lời rao giảng quan trọng nhất của Đức Kitô chính là sự khiêm nhường.

Và thánh Phanxicô Assie cũng nói: Thiên Chúa thấy tôi tội lỗi hơn hết mọi người, nên Ngài đă chọn tôi để làm những công việc trọng đại.

C̣n thánh Phanxicô Xaviê th́ bảo: Trên dấu chân của Đức Kitô, chúng ta chỉ thực sự được nâng lên, một khi đă thực sự hạ xuống.

Để kết luận, chúng ta cùng nhau ghi nhớ tư tưởng sau dây của ông Gandhi: Nếu chúng ta nghĩ rằng ḿnh là một cái ǵ đó, thi chúng ta đă đặt một hàng rào để ngăn cách với Thiên Chúa, c̣n nếu chúng ta nghĩ rằng ḿnh chẳng là ǵ cả, th́ chúng ta sẽ trở nên một với Ngài.

3. Quyền bính để phục vụ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Lời Chúa hôm nay thật mạnh mẽ, khiến ta bàng hoàng, chới với. Phải chăng Chúa muốn phá đổ tất cả những cơ chế trong xă hội và trong Giáo Hội? Phải chăng tất cả chúng ta đều sai lầm? Có lẽ không nên hiểu theo nghĩa đen của mặt chữ nhưng phải hiểu theo tinh thần. Qua chân lư: Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em, Chúa muốn dạy ta phải sống những quan hệ với xă hội theo một tinh thần mới gồm 3 khía cạnh sau đây.

1- Mọi người đều b́nh đẳng. Mọi người b́nh đẳng trong xă hội v́ tất cả đều là người. Là người như nhau nên phải được kính trọng như nhau. Cũng thế, mọi người b́nh đẳng trước mặt Chúa. V́ mỗi người đều là h́nh ảnh của Thiên Chúa. Cùng là h́nh ảnh Thiên Chúa, nên mọi người phải kính trọng nhau. Mọi người đều là con của Cha trên trời và đều là anh em với nhau. Nên mọi người đều phải vâng phục Thiên Chúa và yêu thương anh em chung quanh ḿnh.

2- Chức vị chỉ là một phân công. Một xă hội phải có tổ chức. Có tổ chức nên có nhiều công việc. Phân công để công việc chung được trôi chảy. Hơn nữa phải hiểu rằng mọi quyền lực đều đến từ Thiên Chúa. Làm cha mẹ là được thông phần vào quyền làm Cha của Thiên Chúa. Làm người lănh đạo là được dự phần vào quyền cai trị của Thiên Chúa. Con người không tự ḿnh chiếm đoạt được chức vị, nên phải khiêm nhường nhận biết ơn Chúa ban v́ lợi ích của tập thể.

3- Chức vị là để phục vụ. Hăy nh́n vào một gia đ́nh. Trong gia đ́nh cha mẹ là quan trọng nhất, là người điều khiển gia đ́nh. Nhưng chính cha mẹ lại phục vụ nhiều nhất. Cha lao động vất vả. Mẹ cực nhọc chăm sóc con thơ. Nh́n bề ngoài cha mẹ không khác người giúp việc. Nhưng cha mẹ điều hành gia đ́nh trong khi phục vụ con cái thơ dại. Cha mẹ đă dùng quyền để yêu thương và phục vụ. Cũng thế, người có nhiệm vụ trong Giáo Hội và trong xă hội phải là người có ḷng yêu mến anh em. Chu toàn nhiệm vụ với t́nh yêu thương sẽ giúp ta biết phục vụ bằng chức vụ của ḿnh.

Không ở đâu ta có thể t́m gương mẫu cho những lời Chúa dạy hôm nay bằng t́m nơi chính Chúa Giêsu Kitô, đặc biệt trong bí tích Thánh Thể.

Bí tích Thánh Thể đưa ta về pḥng Tiệc Ly, nơi Chúa ăn bữa tối cuối cùng với các môn đệ. Trong khi ăn, Chúa đứng dậy, cầm chậu nước đi rửa chân cho từng môn đệ. Rồi Chúa nói: "Thầy là Chúa, là Thầy, mà c̣n rửa chân cho anh em, th́ anh em cũng phải rửa chân nhau. Thầy đă làm gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đă làm cho anh em?" (Ga 13,12b-15). Quyền bính để phục vụ. Không c̣n minh họa nào sinh động hơn. Không c̣n giải nghĩa nào sáng tỏ hơn h́nh ảnh Chúa quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Không c̣n lệnh truyền nào thuyết phục hơn, v́ chính Chúa đă làm gương trước.

Bí tích Thánh Thể cho ta thấy sự hiến thân phục vụ của Chúa Giêsu. Trở thành tấm bánh là để trở thành lương thực nuôi con người. Không trở thành một tượng đài uy nghi để mọi người cung kính. Không trở thành một trang sức quư giá để mọi người trân trọng. Nhưng trở thành tấm bánh để phục vụ con người. Trở thành lương thực là trở thành những ǵ gần gũi nhất. Trở thành lương thực là chấp nhận phục vụ sự sống: chịu nhỏ bé đi để người khác được lớn lên, chịu đau khổ cho người khác được hạnh phúc, chịu chết đi cho người khác được sống. Bí tích Thánh Thể là một mẫu gương về quyền bính phục vụ. Thiên Chúa phục vụ con người. Người Cha hy sinh cho hạnh phúc của con cái. Chúa tể vũ trụ hiến thân nuôi dưỡng loài thụ tạo.

Như thế, bí tích Thánh Thể thiết lập một mối quan hệ mới giữa con người. Quyền bính là để phục vụ. Nếu hiểu và thực hành Lời Chúa dạy hôm nay, ta sẽ biến đổi bộ mặt thế giới. Thế giới sẽ trở nên một gia đ́nh ấm cúng chan chứa t́nh người. Xă hội sẽ tươi đẹp v́ sống theo nền văn minh mới, nền văn minh của t́nh thương.

Năm Thánh Thể đă kết thúc, nhưng mầu nhiệm Thánh Thể phải tiếp tục măi măi trong cuộc đời chúng ta. Sống mầu nhiệm Thánh Thể là biết quan tâm phục vụ anh chị em. Sống mầu nhiệm Thánh Thể là duy tŕ sự hiện diện của Chúa Giêsu ở giữa xă hội, giữa cuộc đời chúng ta. Hiện diện đó là một tấm bánh bẻ ra cho một thế giới phát triển, một thế giới chan ḥa yêu thương, một thế giới hạnh phúc thực sự.

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết noi gương Chúa, phục vụ mọi người trong t́nh yêu thương.

GỢI Ư CHIA SẺ

1- Tại sao mọi người đều b́nh đẳng?

2- Chức vị chỉ là một phân công trong Giáo Hội, bạn hiểu điều này thế nào?

3- Quyền bính là để phục vụ. Bạn thấy điều này đă ứng dụng ở đâu?

4- Bạn phải làm ǵ để sống bí tích Thánh Thể theo tinh thần bài Tin Mừng hôm nay?

 

4. Hăy sống trong sự thật

(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')

Đêm kia tại một làng đánh cá bên Ấn Độ, một ngư phủ nghèo lẻn vào trong hồ cá của một người nhà giàu để thả lưới. Nhưng chưa kịp kéo lưới lên th́ bị người giàu phát hiện. Người này cho gia nhân bủa đi khắp nơi quanh cái hồ mênh mông của ḿnh để bắt cho bằng được tên trộm.

Đám gia nhân đốt đuốc đi t́m khắp nơi mà không thấy bóng dáng tên trộm đâu cả. Trong khi đó th́ anh ngư phủ nghèo lấy tro rắc lên đầy ḿnh và đến ngồi dưới một gốc cây gần đó y hệt một nhà hiền triết hay một đạo sĩ.

Sau nhiều giờ t́m kiếm, đám gia nhân không thấy kẻ trộm mà chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đang đắm ḿnh trong suy tư và cầu nguyện. Chỉ một ngày hôm sau tiếng đồn đă vang đi khắp nơi rằng có một đạo sĩ đang tu luyện dưới gốc cây bên bờ hồ của nhà phú hộ.

Thế là thiện nam tín nữ từ các ngă đường đổ xô đến gốc cây để chiêm ngưỡng vị tu hành. Người th́ mang hoa quả, kẻ th́ mang tiền bạc. Không mấy chốc mà quà cáp tuôn đổ tràn lan quanh nhà tu hành bất đắc dĩ.

Nhà tu hành mới nhủ thầm trong bụng: Thà đánh lừa bà con để sống c̣n hơn là đánh cá suốt ngày mà chẳng được ǵ. Nghĩ như thế rồi, ông ta tiếp tục đóng vai tu hành, ngày đêm tụng niệm và chờ đợi sự tiếp tế của dân làng.

Anh chị em thân mến, "Chiếc áo không làm nên thầy tu". Người đánh cá bất đắc dĩ phải trở thành vị tu hành trên đây có thể là một h́nh ảnh không xa lạ bao nhiêu đối với chúng ta. Một cách nào đó, có khi chúng ta cũng sơn vẽ cho ḿnh một nước áo đạo đức để đánh lừa bà con và đánh lừa chính ḿnh như những Luật Sĩ và Pharisêu giả h́nh mà hôm nay Chúa Giêsu kịch liệt chống đối. Họ thường phô trương, tự phụ, tranh giành địa vị, t́m kiếm danh vọng. Họ chép những câu Kinh Thánh đeo lên trán, buộc vào cổ tay, để chứng tỏ họ ghi nhớ và tuân giữ luật hơn bất cứ ai khác. Khi đi dự tiệc, họ phải ngồi vào chỗ danh dự. Ở Hội đường, họ phải ngồi chỗ nhất và ở nơi công cộng, họ đ̣i được chào kính, xưng hô là Thầy. Họ muốn tôn ḿnh lên cao hơn mọi người.

Ngược lại với thái độ đạo đức giả và kiêu căng tự phụ của những Luật Sĩ và Pharisêu. Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ và cũng là cho cộng Kitô hữu chúng ta, một thái độ sống chân thật: đó là phong cách thể hiện t́nh huynh đệ, sự b́nh đẳng và tinh thần phục vụ. "Anh em chỉ có một Thầy, một vị lănh đạo, là Đức Kitô. Anh em chỉ có một Cha, là Cha trên trời. C̣n tất cả anh em đều là anh em với nhau". V́ thế, "trong anh em, người làm lớn hơn cả phải làm đầy tớ anh em".

Thưa anh chị em, đọc đoạn Tin Mừng hôm nay, tất cả Giáo Hội của Chúa Kitô, từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân phải b́nh tâm suy nghĩ. Những lời Chúa nói trước các Luật sĩ và Pharisêu ngày xưa phải có tiếng vọng đến chúng ta ngày nay. Pharisêu không c̣n, nhưng năo trạng pharisêu chưa chết, vẫn c̣n sống măi. Giáo Hội qua các thời đại phải nh́n nhận rằng những phô trương ḷe loẹt, chủ nghĩa hiếu thắng trần tục (triomphalisme) đă đi vào trong hàng ngũ Giáo Hội. Những chức tước, áo mũ cân đai, cờ quạt, kiệu rước... đă làm hoen ố đi h́nh ảnh một Giáo Hội chân thật, một "Giáo Hội nghèo của người nghèo". Công Đồng Vatican II đă bỏ đi nhiều những điều phù phiếm đó và muốn cho Giáo Hội mang khuôn mặt đích thực của Chúa Kitô khiêm tốn, phục vụ.

Đức Cha Bernard Topel (1903-1986) Giám Mục giáo phận Spokane, Wa. Hoa Kỳ, đă viết trên báo của Giáo phận: "Trong thời kỳ họp Công Đồng, các Giám Mục thường hay nói về Giáo Hội như Giáo Hội của người nghèo, tôi nghe mà sinh bối rối, v́ tôi chưa thấy chúng ta là Giáo Hội của người nghèo chút nào cả!" Từ cái bối rối này, Đức Cha Topel đă thực thi Công Đồng cách quyết liệt gần như Thánh Phanxicô Assisi thực thi Tin Mừng: Đức Cha đă bán Ṭa Giám Mục, nhẫn vàng, thánh giá, giây đeo và gậy cẩn ngọc thạch để lấy tiền giúp người nghèo. Với bốn ngàn đô, Ngài mua một căn nhà ở ngơ cụt để làm tư dinh. Sau giờ làm việc, Ngài về làm vườn, trồng rau, xin đầu cá nấu ăn. Nhiều người không tán đồng, họ nói: "Vua th́ phải sống cho ra Vua, Chúa th́ phải sống cho ra Chúa, Giám mục th́ phải sống cho Giám mục". Nguyên là thạc sĩ toán học, Đức Cha trả lời: "Không phải là kết toán làm thành bài toán. Bài toán chúng ta là phải trừ, chia và nhân: phải bớt tiêu xài xa hoa, để chia sẻ với những người nghèo khó và nhân thêm niềm hy vọng sống xứng đáng cho họ".

"Trong anh em, ai lớn hơn cả phải là người tôi tớ phục vụ". Trong Nước Trời, không ai có quyền thống trị kẻ khác, tất cả chúng ta đều là anh em. Ngay cả việc hành xử quyền bính, cho dù thuộc phạm vi dân sự hay tôn giáo, cũng chỉ là một h́nh thức phục vụ: "Cán bộ là đầy tớ của nhân dân", ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng tự nhận là "Tôi tớ của các tôi tớ" (Servus servorum). Người cha, người mẹ trong gia đ́nh, sở dĩ được các con cái quư mến là v́ biết tận tụy phục vụ, hy sinh cho con cái. Càng cho đi, càng được nhận lại, càng cho đi nhiều, càng được nhận lại nhiều hơn. Chúa Giêsu đă dạy và cho các môn đệ. Ngài đă tự hạ, vâng phục cho đến chết trên thập giá v́ yêu thương loài người chúng ta. Chính v́ thế, Ngài đă được siêu tôn là Đức Chúa: "Ai tự hạ ḿnh xuống, sẽ được tôn lên. Ai tự tôn ḿnh lên, sẽ bị hạ xuống".

Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu tỏ ra thông cảm và khoan dung đối với mọi người tội lỗi, mọi hèn yếu của con người. Nhưng Ngài lại có thái độ khe khắt đối với thói giả h́nh của những người Pharisêu. Ngài không ngừng kêu gọi các môn đệ của Ngài cẩn thận giữ ḿnh kẻo vướng lây phải thói tật đáng ghét này. Chúng ta giữ đạo, nhưng có lẽ chưa sống đạo. Có khi chúng ta mang lớp sơn đạo đức bên ngoài mà thiếu thực chất của một ḷng đạo đức chân thật bên trong. Hăy sống trong sự thật trước mặt Chúa và anh chị em. Nhờ khiêm tốn và phục vụ, chúng ta sẽ sống theo đúng đường lối của Chúa và dễ dàng sống với anh em như đ̣i hỏi của đức ái: mến Chúa - yêu người.

 

5. Là anh em với nhau

(Trích trong 'Manna')

Suy Niệm

Nửa sau của bài Tin Mừng hôm nay có thể làm chúng ta bị sốc.

Đức Giêsu bảo ta đừng để ai gọi ḿnh là thầy, v́ chỉ có một Thầy, một vị lănh đạo là chính Ngài; cũng đừng gọi ai là cha, v́ chỉ có một Cha là Thiên Chúa trên trời. Vậy mà chúng ta vẫn gọi nhiều vị trong Hội Thánh là cha, là Đức Thánh Cha, là giáo phụ, thượng phụ, viện phụ... Chúng ta có làm sai lời Chúa dạy không? Ta có phải hiểu theo nghĩa đen lời của Đức Giêsu không?

Hội Thánh sơ khai đă không hề hiểu theo nghĩa đen. Thánh Phaolô đă coi ḿnh là cha sinh ra các tín hữu, đă gọi họ là con (1Cr 4,14-17; Gl 4,19). Hội Thánh cũng có những thầy dạy (Cv 13,1; 1Cr 12,28), và những vị lănh đạo (Cv 15,22; Rm 12,8). Vậy đâu là điều Đức Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta?

Chắc chắn Ngài không hề muốn phá bỏ những cơ cấu cần thiết cho thân thể Hội Thánh, Ngài cũng không loại bỏ phẩm trật và quyền hành. Ngài chỉ muốn chúng ta đừng quên: mọi quyền bính trong Hội Thánh đều bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải quy về Thiên Chúa.

Nếu có ai làm thầy, làm người lănh đạo, th́ v́ họ được chia sẻ quyền làm Thầy của Đức Giêsu.

Nếu họ được gọi là cha, th́ v́ họ được chia sẻ quyền làm Cha của Thiên Chúa. Dù có chức vụ hay chức vị ǵ trong Hội Thánh, tôi cũng không được quên chân lư này: c̣n tất cả anh em đều là anh em với nhau, con một Cha trên trời.

Chỉ có một vị Thầy là Đức Giêsu.

Nhưng Thầy Giêsu lại sống như bạn của các môn đệ, như anh em với họ (Ga 15,14; Mt 12,49-50), và nhất là như tôi tớ phục vụ họ (Mt 20,28).

Đức Giêsu măi măi là gương cho các nhà lănh đạo. Quyền lănh đạo chính là để phục vụ con người.

Phần đầu của bài Tin Mừng cho thấy sự giả h́nh của một số người pharisêu, có quyền giảng dạy Lề Luật.

Giả h́nh là không làm điều ḿnh dạy người khác, là dễ dăi với chính ḿnh, nhưng khắt khe với tha nhân.

Giả h́nh là biến việc thờ phượng Chúa thành thờ ḿnh, làm việc tốt để người ta thấy và thán phục.

Khi nh́n khuôn mặt của người pharisêu giả h́nh, tôi thấy tôi: háo danh, khoa trương, ích kỷ, dám "đốc" chứ không dám làm...

Có những đoạn Tin Mừng làm chúng ta nhức nhối, v́ mở cho chúng ta những chân trời xa, cho chúng ta thấy những điều cần làm, phải làm, nhưng chưa làm.

Gợi Ư Chia Sẻ

Vẫn thường có khoảng cách giữa điều tôi nghĩ với điều tôi nói, giữa điều tôi nói với điều tôi làm. Chúng ta ít nhiều đều có chút giả h́nh. Bạn nghĩ ǵ về sự giả h́nh của bạn?

Quyền hành thường làm con người hư hỏng. Bạn thấy có cách nào để tránh mối nguy hiểm này không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Khi đến với nhau, chúng con thường mang những mặt nạ. Chúng con sợ người khác thấy sự thật về ḿnh. Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.

Khi đến với Chúa, chúng con cũng thường mang mặt nạ. Có những hành vi đạo đức bên ngoài để che giấu cái trống rỗng bên trong. Có những lời kinh đọc trên môi, nhưng không có chỗ trong tâm hồn, và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúng con cũng thường ngắm ḿnh trong gương, tự ru ngủ và đánh lừa ḿnh, măn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.

Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ, đă ăn sâu vào da thịt chúng con, để chúng con thôi đánh lừa nhau, đánh lừa Chúa và chính ḿnh.

Ước ǵ chúng con xây dựng bầu khí chân thành, để chúng con được lớn lên trong b́nh an.

6. Đạo đức thật và đạo đức giả

Có một bà vợ thường xuyên càu nhàu về t́nh trạng khô khan nguội lạnh của ông chồng. Hơn thế nữa, bà c̣n tỏ ra khinh ghét tất cả những h́nh ảnh ông đă xâm trên ḿnh.

Ngày kia, trong một cố gắng nhằm cải thiện đời sống cũng như mối liên hệ với vợ, ông đă quyết định xâm h́nh Chúa Giêsu thật to trên tấm lưng của ḿnh. Trở về nhà, ông hớn hở giơ tấm lưng trần cho vợ xem và hỏi:

- Bà có biết ai đây hay không?

Chẳng đợi cho vợ trả lời, ông liền nói:

- Chúa đấy.

Thế nhưng, bà vợ bỗng nổi giận đùng đùng và quát lớn:

- Thật là báng bổ. Chúa nào lại ở trên cái lưng bẩn thỉu và nhớp nhúa của ông.

Nói rồi, bà vơ lấy cái chổi và cứ thế quất vào tấm lưng của ông cho đến khi bật cả máu.

Sau trận đ̣n ấy, ông ra ngồi dưới một gốc cây và bật khóc. Ông khóc không phải v́ trân đ̣n của bà vợ thuộc vào hạng sư tử Hà Đông, nhưng khóc v́ nhận ra rằng ḿnh không c̣n cách nào để làm đẹp ḷng bà vợ luôn tự hào về t́nh trạng đạo đức của ḿnh.

Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đọan Tin mừng sáng hôm nay và chúng ta dễ dàng nhận ra hai mẫu người đă được Chúa Giêsu nhắc đến. Mẫu người thứ nhất là những người luôn vỗ ngực tự hào v́ ḿnh công chính và đạo đức. C̣n mẫu người thứ hai là những kẻ tội lỗi và bị xă hội loại trừ.

Chúng ta c̣n thấy được chân dung hai mẫu người này qua những lời giảng dạy cùa Chúa và nhất là qua những câu chuyện Ngài đă kể.

Chẳng hạn câu chuyện về người con phung phá.

Cậu em tượng trưng cho kẻ tội lỗi, c̣n người anh cả tượng trưng cho những người tự nhận ḿnh là đạo đức và công chính. Khi nghe biết thằng em ḿnh đă ăn năn sám hối, quay trở về và được người cha niềm nở tiếp đón, th́ anh ta đă sừng sổ và giận dữ. Trong lúc người cha dịu dàng khoan dung, th́ anh ta đă bực tức xỉa xói:

- Thằng con hư đốn của cha.

Chủ đích của câu chuyện dĩ nhiên nói về ḷng nhân từ và khoan dung của Thiên Chúa, nhưng đồng thời qua đó, Ngài c̣n nhắm tới bọn biệt phái và luật sĩ v́ đám người này đă tỏ ra bực bội và tức tối khi thấy những kẻ tội lỗi được Chúa Giêsu ân cần tiếp đón.

Và hơn thế nữa, họ vốn tự hào là những người đạo đức và công chính, để rồi có thái độ kinh bỉ, chỉ trích và gay gắt kết an những kẻ tội lỗi.

Chúng ta cũng thấy được chân dung hai mẫu người trên qua câu chuyện về người biệt phát và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện.

Người biệt phái th́ huênh hoang tự đắc:

- Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa v́ con chẳng phải là kẻ ham hố, bất lương hay ngọai t́nh. Con cảm tạ Chúa v́ con không giống cái thằng thu thuế kia. Con dâng cho Chúa một phần muời hoa lợi của con...

Ngược lại, người thu thuế th́ đứng ở đằng xa, cúi đầu, đấm ngực và khiêm tốn kêu cầu:

- Lạy Chúa, xin thương xót con v́ con chỉ là một kẻ tội lỗi.

Và Chúa Giêsu đă kết thúc câu chuyện:

- Ta nói cho các ngươi hay khi trở về, không phải người biệt phái mà là người thu thuế được nên công chính trước mặt Thiên Chúa.

Sở dĩ như vậy là bởi v́ ai nâng ḿnh lên th́ sẽ bị hạ xuống, c̣n ai hạ ḿnh xuống th́ sẽ được nâng lên.

7. Đầy tớ

Ba người Kitô hữu đang thảo luận với nhau về những bản dịch Thánh Kinh mới xuất bản gần đây. Một người nói: "Tôi thích bản dịch Phúc âm của The New English Version. Nó dễ đọc hơn những bản dịch cũ. "Người thứ hai thêm ư kiến: "Tôi lại thích bản dịch của The New Jerusalem Bible. Nó hiện đại hoá ngôn ngữ mà không mất đi ư nghĩa thiêng liêng của Thánh Kinh". Người thứ ba trả lời: "Tôi biết một bản dịch hay nhất. Đó là bản dịch của mẹ tôi. Bà đă chuyển dịch Thánh Kinh vào trong đời sống, và đó là bản dịch có sức thuyết phục nhất mà tôi chưa bao giờ thấy. Mẹ tôi là một con người đầy t́nh thương luôn luôn để tâm tới những nhu cầu của người khác một cách nghiêm chỉnh. Đó là điều Chúa Giêsu đă làm khi Ngài sống trên trái đất". Với ư kiến này, tất cả ba người đều đồng ư như vậy!

Thánh Matthêu đă diễn tả một cách rơ ràng cuộc đời phục vụ của Chúa Giêsu qua những công việc đầy t́nh thương và quan tâm tới những người bị xă hội bỏ rơi. Ngài đă chạm đến những người cùi, đă ôm và hôn những em bé, đă khoan dung với những người tội lỗi bị khước từ bởi những kẻ tự cho ḿnh là đạo đức, đă chết cho những người hèn mọn nhất của con cái Thiên Chúa, không trừ một ai: "Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.

Tư tưởng chính trong các bài đọc hôm nay kêu gọi chúng ta, giáo sĩ cũng như giáo dân phải trở về với bản chất đích thực của người môn đệ Chúa Giêsu. Đó là phải trở nên những người đầy tớ phục vụ trong tinh thần khiêm tốn của Thiên Chúa: "Anh em cũng đừng để ai gọi ḿnh là lănh đạo, v́ anh em chỉ có một vị lănh đạo, là Đức Kitô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em".

Bài đọc thứ nhất, đến từ ng̣i bút của tiên tri Malachi. Ngày xưa, Malachi đă viết những lời gay gắt về những vị lănh đạo tinh thần của Israel trong thời đại của ông. Những lời tố cáo về sự cẩu thả trong phụng vụ, ban bố những hướng dẫn sai lạc, có những quyết định thiên vị... Dĩ nhiên, Malachi là một người giáo dân. Ông không giữ vai tṛ ǵ trong phẩm trật của đền thờ. Nhưng như là một giáo dân sùng đạo, ông đă nh́n thấy một số vấn đề về tôn giáo đáng bị quở trách, do đó, ông không thể im lặng. Lương tâm của ông đă bắt ép ông phải nói những lời khó nghe với những vị lănh đạo tinh thần của ḿnh: "Và giờ đây, hỡi các tư tế – linh mục – đây là lệnh truyền dành cho các ngươi: Nếu các người không nghe và không lưu tâm tôn vinh danh Ta, Đức Chúa các đạo binh phán, Ta sẽ khiến các người mắc tai hoạ, Ta sẽ biến phúc lành của các ngươi thành tai hoạ".

Nhiều năm sau, dưới cái nh́n của Chúa Giêsu, những điều trên cũng vẫn chưa khá hơn. Lần này, sự phê phán đến trên những người Biệt phái và các Kinh sư "ngồi trên toà Môsê mà giảng dạy... họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không muốn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy... ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc... ưa được chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là rabbi".

Tôi rất thích nghe những bài giảng đầu tiên của các thầy sáu. Thích không phải v́ chứng kiến sự run rẩy và lúng túng. Thích không phải v́ ṭ ṃ nghe xem có cái ǵ mới lạ, thầy sáu có khiếu giảng thuyết hay không. Nhưng thích v́ các thầy sợ! Sợ không phải v́ đứng trước công chúng. Sợ không phải v́ không biết nói ǵ – đă dọn sẵn rồi, đă qua lớp giảng thuyết rồi! Nhưng sợ và rụt rè v́ lần đầu tiên đứng ra giảng không biết lời ḿnh giảng có phù hợp với việc ḿnh làm hay không. Lời lẽ trong bài giảng nghe có vẻ dè dặt và nhẹ nhàng. Không dám nói mạnh! C̣n ngại miệng lắm!

Đấy là kinh nghiệm của riêng tôi, lần đầu tiên giảng dạy. Càng làm linh mục lâu năm, ăn nói càng bạo dạn. Và nói nhiều điều chính ḿnh chưa thực hiện được. Đôi khi xem ra giữa cái tôi ḿnh nói và cái tôi ḿnh sống nó không mấy ăn nhập phù hợp với nhau. Càng không ăn nhập với nhau th́ lại càng nói hăng, có lẽ để làm cho lương tâm bớt cắn rứt! Nói hăng và nói hay nữa. Nhưng lại được giáo dân khen là giảng hay! Càng hay tức là càng nói những lư tưởng cao cả mà ḿnh chưa thực hiện được. Thật là xấu hổ và đáng bị Chúa mắng cho là "Họ nói mà không làm"!

Tôi không lấy làm lạ trước những điều Chúa Giêsu khiển trách các Biệt phái và Kinh sư, v́ đó là mặt trái của chức vụ tư tế ở mọi thời đại. Người thuyết giảng thích được nổi tiếng và thường phát biểu những lời hay ư đẹp. Chủ tế thích sự uy nghi lộng lẫy của nghi thức bên ngoài. Lănh đạo tôn giáo thích được tôn vinh và kính trọng như thần thánh. Có lẽ tự trong ư niệm của tôn giáo đă có một cái ǵ đó làm cho người ta cảm thấy rằng một số người đă đạt tới một mức độ cao hơn của đời sống thánh hiến, và bây giờ họ đáng được sự kính trọng hay đối xử đặc biệt. Sự kính trọng quá đáng của người giáo dân Việt Nam nơi các linh mục là một điển h́nh. Gặp các cha th́ phải khoanh tay cúi đầu: "Con xin phép lạy cha ạ!" Lạy mà c̣n phải xin phép nữa!

Đối với tôi, chính ở điểm này, một cách nào đó, đă làm mờ nhạt ư nghĩa của ơn kêu gọi và bí tích truyền chức thánh để trở thành những người đầy tớ của Thiên Chúa như Công đồng Vatican II đă giải thích:

"Để bảo đảm cho dân Thiên Chúa có các vị chủ chăn và các phương tiện tăng trưởng, Chúa Kitô đă thiết lập trong Giáo Hội của Ngài những thừa tác vụ khác nhau để phục vụ lợi ích của tất cả thân thể. Đúng thế, các thừa tác viên có quyền chức thánh sẽ phục vụ anh chị em ḿnh, để tất cả những ai thuộc về Dân Thiên Chúa có thể đạt tới ơn cứu độ".

8. Đóng kịch

Tất cả chúng ta đều tỏ vẻ khó chịu và dứt khoát không chấp nhận lối sống giả h́nh, giả dối của người nào đó, Chúa Giêsu cũng thế thôi. Ngài thường phàn nàn và khiển trách tính cách giả h́nh, giả dối của những người Pharisêu và kinh sư, đồng thời Ngài cũng khuyến cáo dân chúng: hăy đề pḥng và cảnh giác đối với những người ấy, cụ thể như bài Tin Mừng hôm nay.

Chúng ta thấy Chúa Giêsu phân biệt quyền giáo huấn và những người thi hành quyền đó. Ngài nh́n nhận các người Pharisêu và kinh sư có quyền giáo huấn, v́ họ là những người được chính thức trao phó nhiệm vụ dạy bảo dân chúng, do đó khi họ thi hành nhiệm vụ là họ nhân danh Chúa, nên phải nghe và giữ những ǵ họ dạy bảo. Nhưng tại sao Chúa lại nói đừng bắt chước hay noi theo những việc làm của họ? Phải chăng họ đă làm những việc bất chính? Không, Chúa nh́n nhận họ có làm nhiều việc thật, b́nh thường th́ đó là những việc tốt đáng được ca tụng, nhưng đối với Chúa th́ chẳng nghĩa lư ǵ, v́ thái độ giả h́ng, giả dối của họ. Ḷng đạo đức của họ chỉ có tính cách giả dối, một thứ đạo đức chỉ có cái vỏ bên ngoài.

Mỉa mai hơn nữa, đáng trách hơn nữa, họ là những người có thẩm quyền giải thích luật, họ nhấn mạnh luật lệ từng chữ, từng tiếng và họ khắt khe đ̣i hỏi mọi người phải tuân giữ, nhưng chính họ th́ lại không áp dụng cho chính ḿnh. Như thế, họ nói mà không làm, hoặc tệ hơn nữa, họ nói một đàng làm một nẻo, như thánh Phaolô nói: "Ngươi giáo dục kẻ khác mà không giáo dục ḿnh. Ngươi hănh diện về lề luật mà chính ngươi lại lỗi luật", nghĩa là ngôn ngữ và hành vi của họ mâu thuẫn nhau, lư thuyết và thực hành của họ bất nhất. Họ rao truyền lời Chúa, nhưng thực ra họ lạm dụng uy tín làm thầy và địa vị làm thủ lănh của họ. Cho nên, trong con người họ như có hai phương diện, hai nếp sống: một nếp sống giả h́nh trong bổn phận; c̣n với chính ḿnh lại buông xuôi, buông thả. Cuộc sống nước đôi như vậy thật là phiền phức: cái đúng trở thành cái sai, và cái sai mới là đúng.

Đó là lư do tại sao Chúa Giêsu có thái độ nghiêm khắc, đến nỗi Chúa khiển trách họ nặng lời. Ngài không bao giờ có thể chấp nhận được cái thói giả h́nh và thái độ kiêu căng tự phụ của họ. Chính lối sống đạo như vậy đă chuốc lấy cho họ những lời khiển trách, có thể nói là gay gắt nhất phát ra từ miệng Chúa Giêsu. Chúa đă vạch trần bộ mặt giả h́nh và cách sống đóng kịch bôi bác của họ, và Chúa dạy chúng ta đừng sống như thế. Hăy sống thành thực, nói và làm đi đôi với nhau và trước sau như một.

Chúng ta hăy lặng tâm suy nghĩ: những người Pharisêu không c̣n, nhưng lối sống của Pharisêu chưa hết, vẫn c̣n nơi chúng ta. Nh́n vào xă hội, nh́n vào đời sống thực tế, chúng ta thấy: sự giả h́nh, giả dối đă thành ra như thông lệ, từ lănh vực t́nh yêu đến lănh vực văn hoá, kinh tế, tôn giáo, chính trị, người ta vẫn thường dùng cái bên ngoài mà lừa đảo nhau. Tính giả h́nh, giả dối ai mà không ghét, thế nhưng người ta lại thường đồng ư rằng: muốn được kẻ khác kính nể, cần phải giăng một bức màn dầy giữa tư tưởng và cái lưỡi, giữa tâm trạng bên trong và cách cư xử bên ngoài.

Thậm chí có người c̣n nói một cách trơ trẽn, trắng trợn rằng: ai muốn thành công th́ đừng bao giờ duy tŕ một thái độ trước mặt cũng như sau lưng. Đừng bao giờ nên nói ra ngoài miệng như ḿnh đang nghĩ trong bụng, dẫu trong bụng có muốn tru di tam tộc người ta đi nữa, bên ngoài cũng phải làm ra vẻ ngọt ngào. V́ vậy mà trong xă hội không thiếu ǵ những người: "Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không gươm". Thành ra, để phân biệt được ai là chính trực, ai là giả h́nh, ai là người trung nghĩa, ai là kẻ lừa thầy phản bạn thật là khó. Chúng ta thấy có những người đóng kịch rất tài t́nh: bên ngoài coi lương thiện, đạo hạnh, tử tế mà thực sự bên trong là tay độc ác ghê tởm vô cùng, có những người tỏ ra đàng hoàng dưới ánh nắng, nhưng trong bóng râm tỏ ra lưu manh đáng sợ.

Chúng ta hăy suy nghĩ: đời sống của chúng ta có ǵ là giả h́nh hoặc đóng kịch không? Chúng ta hăy nhớ: chúng ta có thể sống đóng kịch, che đậy, giấu giếm người này người khác, nhưng chúng ta có thể sống măi như thế không? Không đâu, chắc chắn sẽ có ngày "cháy nhà ra mặt chuột". Giả như chúng ta có sống được măi như thế suốt đời, không ai biết chăng nữa, nhưng chúng ta có thể qua mắt được Thiên Chúa không? Chắc chắn là không. Được ḷng người đời hay được người đời ca tụng, nhưng không được ḷng Chúa, không được Chúa ghi công th́ cũng như không, chẳng có giá trị ǵ. Đó là điều chúng ta cần suy nghĩ và tự nhủ ḿnh khi làm bất cứ điều ǵ, kể cả những việc đạo đức.

9. Bí quyết trở nên người cao cả – Lm. Trần Ngà

(Trích trong 'Cùng Đọc Tin Mừng')

Đă là người, ai cũng muốn nâng ḿnh lên, muốn khẳng định ḿnh, muốn nâng cao giá trị bản thân. Tại sao mọi người đều cùng có chung một khát vọng như thế?

Có thể nói rằng chính Thiên Chúa đă đặt vào ḷng chúng ta khát vọng muốn vươn cao như thế để thôi thúc chúng ta vươn lên, để "trở nên người thành toàn, đạt tới tầm vóc viên măn của Đức Ki-tô". Chính Chúa Giêsu cũng mời gọi mọi người vươn tới những giá trị cao cả: "Anh em hăy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện." (Mt 5, 48). Như thế, khát mong trở nên con người thành toàn là một khát vọng rất chính đáng và tự nhiên.

Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều người nhắm đạt đến lư tưởng nầy bằng những h́nh thức hư ảo.

Vậy ta có thể vươn tới lư tưởng nầy bằng cách nào?

1. Những phương thức sai lầm

Những luật sĩ và biệt phái thời Chúa Giêsu muốn nâng cao giá trị của ḿnh bằng cách làm những việc đạo đức bề ngoài cốt để cho người ta thấy; họ "đeo những hộp kinh lớn hơn người khác trên trán, mang những tua áo dài hơn mọi người chung quanh, ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm những hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và mong được thiên hạ gọi là thầy."

Các môn đệ Chúa Giêsu có lúc cũng muốn nâng cao giá trị của ḿnh qua nhiều cuộc tranh luận để xác định giữa các ông, ai là người lớn nhất. (Mc 9,33-37. Lc 9,46-47)

Và rồi một bữa nọ, tưởng lầm rằng mai đây Chúa Giêsu sẽ được lên ngôi cao, hai anh em Gioan và Giacôbê cùng với mẹ là Bà Dê-bê-đê đến nài xin Chúa Giêsu cho ḿnh được ngồi bên hữu và bên tả ngai vinh hiển của Người. Nghe vậy, mười môn đệ kia bất b́nh ra mặt với Gioan và Giacôbê, v́ chưa ǵ mà hai anh em nầy đă toan tính nắm giữ hai chiếc ngai mà họ cũng đang ngấp nghé. (Mc 10, 35-41)

Trong xă hội hôm nay cũng thế, ai cũng muốn được trọng vọng, được tôn vinh, được nâng cao bằng cách nầy hay bằng cách khác.

2. Đâu là phương cách thực sự mang lại giá trị cho đời người

Giá trị con người không tuỳ thuộc vào của cải hay địa vị xă hội như những người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu tưởng lầm. Họ tưởng rằng hễ "đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài, được ngồi vào chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm được hàng ghế đầu trong hội đường, được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là thầy" là có giá trị trước mặt mọi người. Thật ra, giá trị con người không do những thứ nêu trên đem lại.

Giá trị con người cũng không tuỳ thuộc vào ghế cao, ghế thấp, vào địa vị công danh như hai môn đệ Gioan và Giacôbê lầm tưởng, nhưng giá trị đó tuỳ thuộc vào phẩm chất và ḷng đạo đức của con người.

Qua Công Đồng Vaticano II, Giáo Hội minh định: "Giá trị con người không tuỳ thuộc nơi "tôi-có" (= bản thân ta và những ǵ ta sở hữu) mà tuỳ thuộc nơi "tôi-là" (= bản chất đích thật của ta)".

Biệt thự của ta, xe hơi sang trọng của ta, chức vụ và quyền hạn lớn lao của ta... không làm cho ta có giá hơn những người không nhà, không xe, không địa vị, không chức quyền. Chỉ có phẩm chất cao đẹp và ḷng đạo đức (nếu có) của ta mới có thể làm cho ta có giá trị hơn người khác mà thôi.

Nhân dịp nầy, Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ, các luật sĩ và biệt phái và cho cả chúng ta biết phương thế đích thực để làm cho ḿnh nên cao trọng. Đó là hạ ḿnh phục vụ tha nhân như người tôi tớ: "Ai muốn làm lớn giữa anh em th́ phải làm người phục vụ anh em" (Mc 10, 43. Mt 23,11)

Lời dạy nghe thật ngược đời, khó được mấy ai chấp nhận, nhưng đó là chân lư!

Cuộc đời Mẹ Têrêxa Calcutta minh chứng điều đó.

Mẹ Têrêxa sinh ngày 26 tháng 8 năm 1910 tại An-ba-ni nhưng trải qua phần lớn đời ḿnh trên mảnh đất Calcutta của An-độ, từ đó, Mẹ được mang danh hiệu Têrêxa Calcutta. Mẹ đă hiến thân làm tôi tớ phục vụ những mảnh đời cùng khổ nhất trên thế gian nầy nên Mẹ trở thành người phụ nữ được trọng vọng và yêu mến nhất trên thế giới.

Năm 1975, kỷ niệm 25 năm mẹ Têrêxa lập Ḍng Thừa Sai Bác Ái, các vị đại diện của18 tôn giáo đă họp nhau tại Calcutta để tham dự tuần lễ cầu nguyện, cảm tạ Thượng Đế v́ sự đóng góp của một người phụ nữ mang danh "Thừa Sai Bác Ái".

Năm 1996, quốc hội lưỡng viện của Hoa Kỳ nhất trí phong tặng mẹ danh hiệu "Công Dân Danh Dự" của Hoa Kỳ. Mẹ là nhân vật thứ tư trên thế giới được ban tặng danh hiệu nầy.

Ngày 5-9-1997, Mẹ Têrêxa qua đời tại Calcutta, Ấn Độ. Chính phủ Ấn Độ tổ chức an táng trọng thể Mẹ Têrêxa theo nghi thức quốc táng, một vinh dự từ trước tới nay chỉ dành cho các lănh tụ hàng đầu của đất nước có nhiều công trạng với quốc gia.

Ngày 19 tháng 10 năm 2003, Mẹ được Giáo Hội nâng lên hàng Chân Phước. Mẹ là người được phong Chân Phước nhanh nhất trong lịch sử Giáo Hội từ trước đến nay: chỉ 6 năm sau ngày qua đời! Trước Mẹ, hai vị được phong chân phước nhanh nhất là Thánh Gioan Bosco và Thánh Maximilian Kolbe cũng phải mất đến 30 năm.

Cuộc đời và sự nghiệp của Mẹ Têrêxa Calcutta minh chứng lời dạy của Chúa Giêsu là chân lư.

Ước ǵ mỗi người chúng ta thôi t́m kiếm vinh quang cho ḿnh bằng những h́nh thức hư ảo của những hạng người nông nổi, nhưng biết dấn thân phụng sự tha nhân theo lời dạy của Chúa Giêsu và theo gương Chân Phước Têrêxa Calcutta để cho thế giới nầy được ấm lên bằng lửa yêu thương và hạnh phúc hơn bằng tinh thần phục vụ.

10. Biệt phái giả h́nh

(Trích trong 'Sống Tin Mừng' – Radio Veritas Asia)

Sau khi tham dự tuần tĩnh tâm, tuần tĩnh tâm Quốc Tế với khoảng 6,000 linh mục tại Rôma vào năm 1990, một linh mục đă viết trong tập nhật kư của ḿnh:

"Tôi đă nh́n thấy nhiều linh mục ngủ gục trong khi các thuyết tŕnh viên nổi tiếng đứng trên diễn đàn hăng say chia sẻ những tư tưởng thần học đạo đức cao siêu. Nhưng rồi không một người nào ngủ cả khi Mẹ Têrêsa Calcutta thuyết tŕnh. Mẹ không nói lời văn hoa, nhưng Mẹ sử dụng ngôn ngữ đơn sơ và tôi nghĩ cả khi Mẹ Têrêsa không cần nói lời nào, chỉ cần sự hiện diện của Mẹ cũng đủ thúc đẩy chúng tôi, thu hút chúng tôi canh tân đời sống ḿnh, bởi v́ Mẹ sống chân thành khiêm tốn với những ǵ Mẹ nói."

Chân thành và khiêm tốn cũng là chủ đề chính của bài Phúc Âm hôm nay. Người chân thành chỉ sống những ǵ họ nói và chỉ nói những ǵ họ đă làm. Đó là những chứng nhân của Chúa mà xă hội ngày hôm nay cần đến, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă nói: "Con người ngày nay không cần những thầy dạy nói suông, nhưng cần những kẻ dám chứng thực những điều họ nói, cần những chứng nhân. Người chân thành không nói láo, không giả h́nh, không tự kiêu cho ḿnh hơn kẻ khác, không phê b́nh chỉ trích. Thái độ phê b́nh chỉ trích đôi khi chỉ là cách thức để che giấu những tật xấu nơi chính ḿnh, ta phê b́nh chỉ trích kẻ khác chỉ v́ ta không dám đối diện với sự thật nơi chính ḿnh, bởi v́ sự thật đó buộc ta phải canh tân liên lỉ".

Những kẻ biệt phái trong Phúc Âm hôm nay có thể nói được là những kẻ không dám nh́n vào thực tại nơi chính ḿnh, họ không có ḷng đạo đức, không muốn nh́n thấy sự thiếu vắng này nên che đậy bằng tua áo dài, bằng những thẻ kinh bên ngoài để chứng tỏ cho người khác thấy được sự thông minh của họ, nhưng đó là sự thông minh không có đạo đức, một sự thông minh trống rỗng. Trước mặt Chúa Giêsu, chúng ta cần chân thành và khiêm tốn nh́n nhận những sơ sót để xin ơn sám hối và canh tân. Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi ta xét lại thái độ sống của ḿnh.

Nhân dịp này ta nhắc lại đoạn trích trong cuộc họp thường niên Hội Đồng các Giám Mục nói về việc sám hối, nơi số 3 của bức thư chung các Đức Giám Mục Việt Nam đă viết:

"Để tâm hồn đón nhận được đầy tràn ơn Chúa trong Năm Thánh chúng ta cần có một số chuẩn bị. Việc đầu tiên phải làm là sám hối, v́ trong quá khứ chúng ta đă sai phạm nhiều, có những lầm lỗi cá nhân của các tín hữu, các tu sĩ, các linh mục, giám mục. Có những lầm lỗi của cả tập thể các Giáo Hội, của từng Giáo Phận, của mỗi Giáo Xứ. Có những lầm lỗi cố t́nh chống lại ơn Chúa, cản trở chương tŕnh của Chúa, có những lầm lỗi vô t́nh khiến chúng ta trở thành vật cản ơn thánh, để lỡ cơ hội đón nhận ơn Chúa cho bản thân chúng ta và cho mọi người".

Sám hối là trở về với Chúa nhưng cũng là trở về với anh chị em. Phải ḥa giải với anh chị em, v́ chính ta đă góp phần gây ra bất công, chia rẽ, bất ḥa khiến anh chị em xa Chúa. Phải ḥa giải với anh chị em, v́ đó là điều kiện cần thiết để ḥa giải với Chúa. Phải ḥa giải với anh chị em, v́ đó là ước nguyện của Chúa Giêsu Kitô trước khi từ giă cơi trần. Sám hối sẽ dẫn đến đổi mới con người, đổi mới cuộc sống và sám hối càng sâu xa th́ đổi mới càng mănh liệt.

Với con người mới chúng ta hân hoan hướng trọn niềm vui với t́nh nghĩa Thiên Chúa là Cha và với anh chị em con cùng một Cha trên trời. Với con người mới chúng ta trút bỏ được gánh nặng quá khứ để thanh thản bước vào thiên niên kỷ mới. Với con người mới chúng ta hân hoan bước vào cuộc sống mới, cuộc sống không ngừng đổi mới ơn thánh với t́nh bác ái huynh đệ, với ḷng khiêm tốn, với tinh thần dấn thân phục vụ.

Để sống chân thành với chính ḿnh, chúng ta cần phải sám hối. Sám hối, ḥa giải, đổi mới. Để làm tất cả những điều này chúng ta cần có ḷng khiêm nhường. Người khiêm nhường biết rơ ḿnh là ai: với những điểm tốt cũng như với những điểm xấu, những điểm tiêu cực cũng như tích cực và trông chờ ơn Chúa ban để canh tân đời sống của ḿnh.

Ước chi bài Phúc Âm hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta hăy trở về với nguồn mạch ơn Thánh Chúa để canh tân đời sống ḿnh với hết ḷng khiêm tốn. Xin Chúa ban ơn để chúng con canh tân đời sống và được kiên nhẫn trong đời sống, được lớn lên với các nhân đức.

11. Sống chân t́nh

Chuyện kể rằng: Ngày kia, nữ hoàng Saba gởi đến vua Salomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu. Đó là một bó hoa thật và một bó hoa giả. Nhà vua bèn mở cửa sổ, cho bầy ong bướm bay vào. Tức th́ các chú ong và các nàng bướm liền sà ngay xuống những bông hoa thật.

Những bông hoa giả có sắc mà chẳng có hương, có bóng h́nh mà không có sự sống. Những kẻ giả h́nh nói nhiều làm chẳng được bao nhiêu. Thậm chí, chỉ nói suông mà không có thực hành. Họ dung túng cho ḿnh nhưng lại nghiêm khắc với kẻ khác.

Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu vạch trần những con người giả h́nh ấy. Người nói: "Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta nhưng chính họ th́ lại không buồn động ngón tay vào". Người giả h́nh c̣n nhiều tật xấu khác mà Đức Giêsu không tiếc lời chỉ trích. Như tính khoe khang công đức, thích ăn trên ngồi trước, ưa được kính trọng chào hỏi nơi công cộng, và muốn người ta gọi ḿnh là thầy. Sau khi nghe Đức Giêsu mô tả khuôn mặt kẻ giả h́nh, hẳn ai trong chúng ta cũng thấy dáng dấp của ḿnh trong đó. Nếu không háo danh th́ cũng khoa trương, nếu không kể công lênh th́ cũng thích được trọng vọng, nếu không ích kỷ cũng nói nhiều làm ít.

Đức Giêsu quả đă không nương tay khi cầm con dao mổ, rạch sâu vào ung nhọt của lương tâm mỗi chúng ta. Cuộc giải phẫu ấy làm chúng ta đau buốt, nhưng sau khi đă lấy ra hết ung nhọt hôi tanh của tính giả h́nh, chúng ta sẽ chân thành và khiêm tốn hơn.

Chúng ta sẽ chỉ sống những ǵ ḿnh nói và chỉ nói những ǵ ḿnh đă làm. Đức Gioan Phaolô II đă nói "Con người ngày nay không cần những thầy dậy nói suông, nhưng cần những chứng nhân sống điều họ nói".

Chúng ta không bao giờ phê b́nh lên án một ai, v́ khi chỉ trích kẻ khác là chúng ta đang ngấm ngầm che giấu những tật xấu nơi chính ḿnh, là chúng ta không dám đối mặt với sự thật nơi bản thân, bởi sự thật đó buộc chúng ta phải sám hối và canh tân luôn măi.

Trong thẳm sâu của ḷng người, ai cũng muốn có được một chút danh vọng, ai cũng thích trổi vượt hơn người. Hôm nay, Đức Giêsu đă cho chúng ta một quan điểm mới, để đáp lại nhu cầu muốn làm lớn trong mỗi chúng ta: "Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em". Điều này Đức Giêsu đă làm gương trước khi dạy. Tuy người là Chúa và là Thầy, nhưng Người luôn coi ḿnh như bạn hữu, như anh em, và nhất là như đầy tớ phục vụ và yêu thương các môn đệ cho đến cùng. Như thế, làm lớn theo quan điểm của Đức Giêsu chính là cúi xuống trước anh em để chân t́nh phục vụ họ trong yêu thương. Thánh Phaolô viết: "Người được chấp nhận không phải là để tự cao tự đại, nhưng là người được Chúa đề cao". Hăy soi đời ḿnh vào tấm gương Giêsu, để t́m cho ḿnh một phong cách sống đẹp nhất.

12. Nói và làm

Qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đă nghiêm khắc kết án bọn biệt phái và luật sĩ là những người lănh đạo tôn giáo trong dân Do Thái. Thế nhưng, biết đâu những lời kết án nghiêm khắc ấy cũng được gửi đến cho mỗi người chúng ta, bởi v́ những khuyết điểm của họ cũng là những khuyết điểm của mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.

Nh́n lại khuôn mặt của bọn biệt phái và luật sĩ, chúng ta không khỏi giật ḿnh bởi v́ bản thân chúng ta cũng có những đường nét nào đó giống như họ. Vậy đâu là những khuyết điểm chính yếu bọn biệt phái và luật sĩ đă mắc phải để rồi đă bị Chúa Giêsu chỉ trích và phê b́nh một cách gắt gao?

Khuyết điểm thứ nhất, đó là họ nói mà không làm. Có một khoảng cách vừa sâu lại vừa rộng giữa những điều họ giảng dạy với những điều họ thực hành trong đời sống cá nhân. Chúa Giêsu đă diễn tả thật chính xác về họ như sau:

Họ nói mà không làm. Họ nói th́ nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Tệ hơn nữa, họ nói một đàng nhưng làm quàng một nẻo, họ làm ngược lại những ǵ họ đă nói và đă giảng theo kiểu:

- Khẩu phật tâm xà.

- Miệng nam mô, bụng bồ dao găm.

Và như vậy, điều quan trọng đối với chúng ta là phải thống nhất đời sống, để việc chúng ta làm ăn khớp với lời chúng ta nói và dạy. Lời nói phải biểu lộ những ǵ ấp ủ trong cơi ḷng, chứ không phải chỉ là sự vận dụng khéo léo những ngôn từ hoa mỹ để thu hút và lôi cuốn người khác như người ta vốn thường bảo:

- Khéo mồm mép, khỏe tay chân.

Trong nghi lễ phong chức Linh mục, Đức Giám mục đă khuyên các tân chức như sau:

- Khi suy gẫm Lời Chúa, các con hăy chú tâm tin điều chúng con đọc. Dạy điều các con tin và làm điều các con dạy.

Mong rằng chúng ta cũng sẽ thực hiện được như vậy.

Bọn biệt phái nói mà không làm, nhưng lại bắt người khác phải làm. Chúa Giêsu đă dùng một h́nh ảnh sống động để diễn tả về khuyết điểm này:

- Họ chất những gánh nặng lên vai người khác, c̣n chính bản thân họ th́ lại không muốn đụng ngón tay lay thử.

Thái độ này ngày nay chúng ta gọi một cách khôi hài là giám đốc, giám xúi chứ không phải là giám làm, giám nhận lấy trách nhiệm của ḿnh.

Như vậy ở đây chúng ta lại thấy xuất hiện một khoảng cách giữa điều chúng ta làm với điều chúng ta buộc người khác phải làm. Chúng ta khoan dung với bản thân, nhưng lại hết sức nghiệt ngă với người khác. Dường như chúng ta đ̣i hỏi người khác là để khỏa lấp sự yếu đuối của bản thân.

Khuyết điểm thứ hai, đó là tính háo danh và tự măn. Họ làm mọi việc cốt để được người ta thấy. Như vậy cái đích nhắm của mọi hành động đó là tiếng khen, uy tín và danh dự cá nhân. Tất cả đều qui về cái tôi của ḿnh, đều nhằm lôi kéo sự chú ư của người khác. Thậm chí cả những hành vi đạo đức cũng biến thành một thứ son phấn để trang điểm cho bộ mặt giả h́nh của chúng ta.

Thiên Chúa bị bỏ rơi khi các việc đạo đức của chúng ta được khua chiêng gióng trống, nặng phần tŕnh diễn, khiến người ta chỉ thấy được bản thân chúng ta mà không thấy được chính Thiên Chúa.

Với một vài nét chấm phá đơn sơ, Chúa Giêsu đă cho chúng ta thấy rơ bộ mặt giả h́nh của bọn Biệt phái và luật sĩ. Biết đâu, đó cũng là bộ mặt giả h́nh của mỗi người chúng ta.

Chính v́ thế, chúng ta hăy cầu xin để mỗi người chúng ta luôn sống trung thực với bản thân, với người khác và với Thiên Chúa. Tư tưởng th́ đi đôi với lời nói. C̣n lời nói th́ lại đi đôi với việc làm. Cả ba lănh vực tư tưởng, lời nói và việc làm của chúng ta đều không quanh co, không uẩn khúc, nhưng trong suốt như pha lê.