VietCatholic News
SUY
GẪM VỀ SỰ CHẾT
“Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một
mối lợi”. (Pl 1, 21)
Ngay khi c̣n sống, con người đă mang trong ḿnh sự
chết, v́ thế mà con người sẽ phải chết. Chết là một
kết thúc của ta trong cuộc sống này, và mọi cái ta
sở hữu cũng đều chấm dứt. Thật là một tư tưởng cay
đắng cho những ai chỉ biết vui hưởng của cải trần
gian, nhưng lại là một viễn tượng đáng khát vọng cho
những người sống cơ cực (x. Hc 41, 1). Sự chết nhắc
nhở ta về bản chất thật ngắn ngủi, thật mong manh
phù du của đời sống con người trên dương thế. Đứng
trước định mệnh khắt khe đó, người ta dễ có một nhận
định sầu thảm đôi khi sinh ra một thất vọng chán
chường (x. Sm 12, 23). Tuy nhiên sự khôn ngoan chân
thực th́ vượt xa nhận định ấy khi nhận biết thân
phận ḿnh nằm trong ṿng tay Thiên Chúa. Điều đó
giúp ta khám phá ư nghĩa sự sống đích thực qua sự
chết. Khi nghĩ đến những người đă chết, chúng ta
cũng phải nghĩ tới cái chết của chính bản thân ḿnh.
Đó là chuyến đi cuối cùng, một chuyến đi quyết định
và quan trọng hơn tất cả, chuyến đi vĩnh viễn không
bao giờ trở lại.
1. Những quan niệm về sự chết ngoài Kitô giáo
Về phương diện triết lư, mỗi trường phái triết học
có một ư niệm về sự chết khác nhau tùy theo nhân
loại học của họ:
- Các thuyết duy vật đều quan niệm cái chết là một
hiện tượng tự nhiên, thuộc quy luật sinh lư, tức là
việc tiêu tan các yếu tố lư hóa đă khiến cho thân
thể sống động.
- Lập trường của các sinh-hoạt-thuyết (Vitalisme)
chấp nhận một nguyên tắc sinh hoạt không có bản ngă.
Họ cho rằng, chết là cái nguyên tắc đó trở về với
nguyên tắc sinh hoạt của vũ trụ. Chẳng hạn,
Bà-la-môn giáo cho rằng, chết là trở về với Brahman,
tức là hồn của vũ trụ. Mạnh Tử cũng cho rằng, chết
là hợp nhất với vũ trụ. C̣n Hégel cho rằng, chết là
tan mất trong tinh thần tuyệt đối.
- Theo Nhị nguyên thuyết xuất phát từ Platon, cho
rằng chết là linh hồn được giải thoát khỏi nhà tù
thân xác.
- Triết hiện sinh vô thần th́ coi cái chết cũng vô
lư như sự sống vậy (J. Sartre).
- Có những chủ thuyết khác tránh né vấn đề sự chết,
chỉ lo sống thôi. Tránh né cũng là h́nh thức lo sợ,
không dám t́m hiểu, không dám đả động đến. Riêng
Trang Tử coi cái sống và cái chết là lẽ tự nhiên,
b́nh thường và b́nh đẳng, nên ông chẳng xao xuyến ǵ
trước cái chết, thản nhiên ra vào cuộc đời: “Bậc
chân nhân không ham sống, không sợ chết, vào không
vui, ra không buồn, thản nhiên mà đến, thản nhiên mà
đi”. Đối với ông, sống chết cũng giống như chuyện
Được Mất, mà Được là thời, Mất là thuận. “Thuận
Thiên giả tồn”, cứ theo ư Trời th́ chẳng phải lo sợ
ǵ.
- Trong Phật giáo, chết được dùng để chỉ sự sinh
diệt, thăng trầm của tất cả các hiện tượng, các
Pháp. Trong bộ luận Thanh tịnh đạo, vị Đại luận sư
Phật Âm (buddhaghosa) diễn tả như sau:
“Theo chân lư tuyệt đối th́ chúng sinh chỉ hiện hữu
trong một thời gian rất ngắn, một thời gian ngắn như
một khoảnh khắc của nhận thức (một ư niệm, Sát-na).
Như một bánh xe, trong khi đang lăn cũng như đang
đứng yên, chỉ chạm đất ở một điểm duy nhất. Như thế,
chúng sinh chỉ sống trong một khoảnh khắc của một
nhận thức. Nhận thức này (ư niệm) mất đi th́ chúng
sinh đó chết”.
2. Kinh nghiệm cận tử
- Đức Đạt-lại Lạt-ma thứ 14
Vị này thường thuyết giảng về khoảng thời gian cận
tử và nêu rất rơ những hiện tượng mà các Du-già sư
uyên thâm đều tự chứng được. Chính Sư cũng bảo rằng,
trong khi thiền định (khoảng 3-4 tiếng), Sư bước qua
lại ngưỡng cửa sinh tử 6-7 lần với mục đích trau dồi
kinh nghiệm để chinh phục được cửa ải quan trọng
này. Sư tŕnh bày như sau:
“Con người chết với một trong ba tâm trạng: thiện,
ác và trung tính. Trong trường hợp đầu th́ người
chết chú tâm đến một đối tượng thiện tính... và v́
thế tự tạo cho ḿnh một tâm trạng đầy niềm tin sâu
thẳm, khiến người ấy phát ḷng từ, bi, hỉ, xả vô
lượng. Người này chỉ có thể thực hiện những đức hạnh
nêu trên khi họ đă từng trau dồi chúng trong lúc c̣n
sống. Nếu trước khi chết mà người ta có thể phát
khởi những tâm trạng thiện trên th́ một sự tái sinh
hạnh phúc hơn được xem như là chắc chắn.
Nhưng cũng có lúc thân quyến làm xao động tâm trạng
của người sắp chết và vô t́nh làm cho người ấy khởi
tâm sân hận. Có khi thân quyến hội họp xung quanh,
khóc lóc than thở làm cho người ấy quyến luyến, tham
ái. Nếu người ấy chết với một trong hai tâm trạng
trên, th́ đó là một mối nguy lớn.
Cũng có người chết với một tâm trạng trung tính,
nghĩa là không thiện không ác. Trong mọi trường hợp
th́ tâm trạng trước khi chết rất quan trọng. Ngay cả
một người đă có chút ít tiến triển trên con đường tu
tập cũng có thể không tự chủ, để tâm tán loạn trước
khi chết, khiến cho tham, sân, si nổi lên. Nguyên
nhân là những Nghiệp (karma), những Chủng tử (bīja)
đă được tích luỹ từ lâu; chúng chỉ chờ đợi những
điều kiện thuận lợi để phát hỏa.. Như vậy người chết
sẽ bị tái sinh trong ba ác đạo: Súc sinh, Ngạ quỷ và
Địa ngục... Tuy vậy, người nào b́nh thường chỉ biết
làm những việc ác nhưng chết với một tâm trạng thiện
lành không c̣n mê chấp nữa, th́ có thể tái sinh
trong một môi trường hạnh phúc hơn...
Cứ b́nh thường th́ các tâm trạng và lối sống của một
người là yếu tố quyết định trong giờ phút chết. V́
thế mà trước khi chết, những tư tưởng đă đi sâu vào
cốt tuỷ của con người là tâm trạng chính, là yếu tố
chính quyết định sự tái sinh như thế nào...” [1].
- Các nhà nghiên cứu về kinh nghiệm cận tử [2]
Nhà nghiên cứu có hệ thống đầu tiên là William
Barrett (1925), vừa là giáo sư vật lư vừa chuyên về
đời sống tâm linh. Vài thập niên sau có Karlis Osis
và Hội nghiên cứu tâm linh Mỹ (1959-1973), phối hợp
với Haraldson ở Ấn Độ. Họ đă thu thập dữ liệu của
hàng vạn người về kinh nghiệm cận tử. Họ cho thấy
rằng, hầu hết các trường hợp đều có những đặc điểm
chung, chẳng hạn như thấy ánh sáng tỏa ra, cảnh
quang tuyệt mỹ, trạng thái nhẹ nhàng, cảm giác vô
cùng thanh thản, và gặp lại những người thân yêu.
Riêng trường hợp những người tin vào Đức Kitô, th́
được gặp Đức Mẹ, các Thánh, khiến họ vui mừng, hạnh
phúc, không c̣n cảm giác đau khổ. Tuy nhiên, trong
số đó vẫn có một số người phản ứng với vẻ sợ hăi
hoặc từ chối.
Cách chung, đối với những người có cuộc sống tốt
lành, th́ nhăn giới phút cuối như được chuyển ra
ngoài cơ thể để nh́n thấy trước kiếp sau (xảy ra
trong khoảng 1/3 nhăn giới phút cuối). Thường là họ
thấy những vườn hoa xinh đẹp cách kỳ lạ, trải dài
bất tận. Cảnh giới đó đi kèm với thiên sứ hay hồn ma
người chết, và trong một số trường hợp, có thể nghe
tiếng nhạc từ trời cao vọng xuống. Trong thanh âm và
màu sắc rất sinh động như vậy, người hấp hối cảm
thấy ḿnh được nhấc bỗng lên. Từ trên cao nh́n
xuống, họ có một cảm giác an b́nh và hạnh phúc, rồi
đi vào một đường hầm tối đen, hướng về phía ánh sáng
cuối đường hầm. Ánh sáng ấy giúp cho họ ôn lại toàn
thể cuộc đời, và không có đánh giá tiêu cực nào về
hoạt động đă qua. Cuối cùng, họ miễn cưỡng phải trở
về với sự sống này.
Trong cuộc thăm ḍ ư kiến vào năm 1982 của Gallup,
cho thấy khoảng 8 triệu người lớn ở Mỹ quả quyết
ḿnh đă trải qua kinh nghiệm cận tử như thế, mặc dù
cảm giác mỗi người có khác nhau. Đương nhiên, những
cảm giác đó không thể chứng minh một cách khoa học.
Tất cả những ǵ được biết về hiện tượng đó đều dựa
trên tài liệu mang tính giai thoại.
Có giả thuyết cho rằng nhăn giới phút cuối chỉ là ảo
giác, có thể do thuốc, sốt, bệnh, hoặc thiếu oxy,
hoặc mất cá tính gây ra. Tuy nhiên, những ảo giác
phát sinh từ những yếu tố đó thường liên quan đến
hiện tại, chứ không liên quan đến kiếp sau. Hơn nữa,
các nhà nghiên cứu đă cho làm tất cả cuộc thí nghiệm
như thế, đều xảy ra cách khác chứ không xảy ra giống
như vậy. Ngoài ra, những người sau khi chết đi sống
lại như vậy, phần lớn họ đều hướng về sự phát triển
tinh thần hay một đức tin mạnh mẽ, v́ biết kiếp sau
có thật. Hầu hết những người đó đều khám phá ra mục
đích mới và tích cực đối với cuộc sống của ḿnh, t́m
thấy ư nghĩa cuộc sống mà trước đây họ không thấy,
hoặc xem thường.
Nhăn giới giới phút cuối rất quan trọng đối với môn
nghiên cứu cái chết, v́ chúng chứng minh rằng, cái
chết không phải là sự hủy diệt mà là sự chuyển tiếp
tuyệt vời cho những ai đă tích cực sống thiện hảo.
Cái chết như vậy là một nghi thức quá hải được trải
qua trong ư thức và chân giá trị.
3. Nguồn gốc sự chết và sự sống lại trong Kitô
giáo
Công đồng Vat. II đă nói lên t́nh trạng của con
người trước cái chết như sau: “Trước cái chết, bí ẩn
về thân phận con người lên tới tột độ. Con người
không những bị hành hạ bởi đau khổ và sự tiến dần
đến tan ră của thân xác, mà hơn thế nữa, c̣n bị dày
ṿ bởi nỗi lo sợ bị tiêu diệt đời đời... Mọi cố gắng
của kỹ thuật, dù rất hữu ích, cũng không thể làm
nguôi được nỗi lo âu của con người: bởi v́ đời sống
sinh vật, dù có được kéo dài thêm đi nữa, cũng không
thể thỏa măn được khát vọng một cuộc sống mai hậu đă
được in sâu trong ḷng con người.
Trước cái chết, óc tưởng tượng của con người đành
bất lực. Nhưng Giáo Hội, được Mạc khải của Thiên
Chúa dạy bảo, quả quyết rằng con người được Chúa
dựng nên để đạt tới cứu cánh hạnh phúc sau những khổ
cực trần thế này. Hơn nữa, đức tin Kitô giáo c̣n dạy
rằng giả như con người không phạm tội, th́ đă không
phải chết; sự chết này sẽ bị đánh bại khi Đấng Cứu
Thế toàn năng và nhân ái mang lại cho con người sự
cứu rỗi mà vị tội lỗi, họ đă đánh mất. Bởi v́ Thiên
Chúa đă và đang kêu gọi con người đem toàn thân kết
hợp với Ngài trong sự hiệp thông vĩnh viễn vào sự
sống bất diệt của Thiên Chúa. Chúa Kitô đă đem lại
chiến thắng ấy khi Người sống lại và nhờ cái chết
của Người, Người đă giải phóng con người khỏi sự
chết. Vậy đức tin với những lư chứng vững chắc đem
lại giải đáp cho bất cứ ai khắc khoải ưu tư về số
phận tương lai của ḿnh. Đồng thời đức tin c̣n cho
con người khả năng hiệp thông với những anh em thân
yêu đă chết trong Chúa Kitô, và làm cho họ hy vọng
rằng những người ấy đă được sống thực sự nơi Thiên
Chúa” (GS 18).
Thật vậy, để giải thoát ta khỏi quyền lực Thần chết,
trước tiên Đức Kitô đă đến để nhận lấy cho ḿnh số
phận tử vong của chúng ta. Ngài thực hiện thánh ư
của Chúa Cha là muốn cứu độ tất cả mọi người. Ngài
đă chết “v́ chúng ta” (1 Tx 5, 10), “cho tội chúng
ta” (1Cr 15, 3) để làm hy tế xá tội (x. Dt 9). Nhờ
cái chết của Ngài, chúng ta được ḥa giải với Thiên
Chúa x. Rm 5, 10), hầu có thể lănh nhận gia nghiệp
muôn đời (x. Dt 9, 15). Ngài đă chiến thắng tử thần
bằng sự phục sinh vinh hiển (x. 1Cr 15, 4), nên
quyền lực của Thần chết từ đó đă bị vô hiệu hóa (x.
Rm 6, 9). Kể từ giây phút đó, tương quan của con
người với sự chết đă thay đổi, v́ từ nay Đức Kitô
chiến thắng sẽ luôn chiếu soi “những người ngồi
trong bóng sự chết” (Lc 1, 79).
Qua việc phục sinh, Ngài trở nên thủ lănh của một
nhân loại mới (x.1Cr 15, 45), v́ Ngài đă mang tất cả
chúng ta đi vào cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Tuy nhiên, cái chết để được phục sinh này của chúng
ta c̣n phải là một thực tại hiện hữu cho mỗi cá
nhân, v́ không ai có thể bước vào cơi sống mà không
chết đi cho chính ḿnh từng ngày trong cái chết của
Đức Kitô để được sống lại như Ngài (x. 2Tm 2, 11).
4. Bài học sâu xa từ sự chết
Không có một đức tin sâu xa, th́ cái chết quả là
điều kinh khủng, đáng lo sợ, v́ không biết cuộc đời
ḿnh sẽ đi đâu, về đâu? Do đó, nhiều người muốn
tránh né, không muốn nghe hoặc không muốn nói đến sự
chết. Léo Buscaglia, một chuyên viên dạy về t́nh yêu
và cuộc sống, chia sẻ tâm trạng của ông khi nghĩ về
sự chết như sau:
“Chúng ta phải bắt tay làm ḥa với sự chết để chọn
lấy sự sống, v́ sự chết là một người bạn thân thiết
với chúng ta. Nó cho biết những ǵ chúng ta không
thể giữ lại được măi cho ḿnh. Và nếu bạn muốn sống,
th́ nên sống trọn vẹn ngay từ bây giờ...
Nếu bạn đă sống mọi khoảnh khắc mà Chúa ban cho bạn,
th́ bạn sẽ không than van khóc lóc khi cái chết
đến... Những người đă chết một cách hạnh phúc là
những người từng nỗ lực để sống.
Sự chết là một thách đố. Nó nhắc nhở chúng ta đừng
bỏ phí thời giờ. Nó chỉ cho chúng ta phải lớn lên và
phải trở nên như thế nào. Nó dạy cho chúng ta biết
yêu thương nhau, và phải biết dâng hiến chính ḿnh
ngay từ bây giờ...Dầu chúng ta không hiểu ǵ về sự
chết, nhưng điều đó cũng chẳng cần thiết ǵ. Điều
thiết yếu là phải sống bức thông điệp mà sự chết
nhắn gởi cho chúng ta”.
Thật vậy, suy gẫm về sự chết là điều cần thiết, giúp
ta biết quan tâm hơn đến cuộc sống: làm thế nào để
yêu, để tha thứ và để chấp nhận; làm thế nào để
tránh những tội lỗi, những vấp phạm, và chỉ c̣n muốn
sống cho Chúa cách trọn vẹn để phụng sự Ngài và phục
vụ tha nhân; làm thế nào để khẳng định về chính ḿnh
như thánh Phaolô: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và
chết là một mối lợi”. V́ thế, “Không có ǵ tách được
chúng ta ra khỏi t́nh yêu của Thiên Chúa thể hiện
nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (Rm 8, 39). Chỉ
có chết trong tội mới tách rời chúng ta ra khỏi
Chúa, c̣n chết trong Chúa là một giải thoát, đưa
chúng ta vào sự sống viên măn của Ngài.
5. Tận t́nh với sự chết, nhiệt t́nh với sự sống
Theo tiếng Latinh, người chết = defungi: là người đă
vĩnh viễn hoàn tất đời ḿnh. Là người Kitô hữu,
chúng ta phải biết đón nhận sự hoàn tất đó với một
tâm hồn b́nh an cao cả, v́ mạc khải Kitô giáo đă cho
biết rằng cái chết như cánh cổng to lớn mở vào thánh
điện an vui vĩnh hằng. Như thánh Phaolô đă xác định:
vào ngày cuối cùng, cái hư hoại trong ta sẽ trở nên
bất hoại, cái khả tử sẽ nên bất tử (x. 1Cor 15, 53).
Chúng ta tin rằng Đức Kitô đă chiến thắng sự dữ là
cái chết, nhưng chúng ta cũng biết rằng, Ngài không
chiến thắng cái sự dữ gây ra ở trong ta. Nhờ Đức
Kitô, trong hy vọng th́ tất cả đă thành đạt, nhưng
trong thực tế, ta vẫn phải chịu đựng những bất hạnh.
Niềm tin và hy vọng không diệt nổi bản năng sinh
tồn, nhưng nó đem lại một tâm t́nh đón nhận b́nh
thản và an vui: “Tôi chết vui cũng như đă sống vui”.
Trong tâm t́nh đó R. Tagore đă cất lên:
“Ôi! Thần chết, ngươi làm cuộc đời tràn đầy lần
cuối. ..
Những ǵ ta là, những ǵ ta có, những ǵ ta hoài
mong, những ǵ ta yêu thương, tất cả vẫn sâu xa bí
mật trôi chảy về ngươi.
Chỉ một ánh nh́n từ mắt ngươi lần cuối là đời ta
vĩnh viễn thuộc về ngươi.
Hoa đă kết thành tràng, sẵn sàng chờ đợi tân lang.
Sau tiệc cưới, giai nhân sẽ rời nhà,
một ḿnh ra đi gặp tân lang trong đêm tối quạnh hiu” [3].
Trong một đoạn thơ khác, Tagore lại cảm nhận như
sau:
“Ban mai, ngước mắt nh́n ánh sáng, trong phút
giây, tôi cảm thấy ḿnh không phải khách lạ ở thế
gian, và Người xa lạ không tên gọi, không h́nh thù,
với dáng dấp mẹ tôi hiền từ, đă giang tay ôm tôi vào
ḷng.
Lúc lâm chung cũng vậy, Người lạ mặt ấy lại hiện ra
như đă từng quen thuộc với tôi từ lâu.
Bởi yêu cuộc đời nên tôi cũng yêu cả sự chết.
Khi mẹ giằng con ra khỏi bầu vú bên này, con ̣a
khóc, nhưng liền đó lại thấy nguồn an ủi ở bầu vú
bên kia.
Ôi Thượng Đế, kính lạy Người lần cuối.
Như đàn hạc hoài hương, ngày đêm hối hả bay về tổ ấm
trên núi cao, xin cho đời tôi phiêu du tới quê hương
vĩnh cửu ngàn thu” [4].
Quả thật, một cái nh́n đầy lạc quan và hy vọng, một
sự cảm nhận thâm sâu về thực tại vĩnh cửu ngay bên
cạnh giờ phút lâm chung: “Bởi yêu cuộc đời nên tôi
cũng yêu cả sự chết”.
Chúng ta tin rằng: “Trong một giây lát, trong một
nháy mắt, khi tiếng kèn cuối cùng vang lên, những kẻ
chết sẽ trỗi dậy mà không c̣n hư nát; c̣n chúng ta,
chúng ta sẽ được biến đổi” (1Cr 15,52). Tuy nhiên,
phải tin trong sự chờ mong từ cơn đau quằn quại để
sinh hạ chính ḿnh, cũng như toàn thể tạo vật đang
rên siết để chờ ngày cứu độ (x. Rm 8, 22). Những đau
khổ ở đời này chẳng là ǵ so với vinh quang sẽ dành
cho ta trong cơi vĩnh hằng (x. Rm 8, 18), và đó là
một tiến tŕnh tối cần để khai sinh sự sống. Tiếp
nhận cái chết như một điều tự nhiên nhất để làm nẩy
sinh điều siêu nhiên nhất: đó là sự phục sinh đời
sống vốn đă được khắc họa trong ta qua Phép Rửa: “V́
được d́m vào trong cái chết của Người, chúng ta đă
cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như
Người đă được sống lại từ cơi chết nhờ quyền năng
vinh hiển của Chúa Cha, th́ chúng ta cũng được sống
một đời sống mới” (Rm 6,4). Dưới cái nh́n đó, người
Kitô hữu được định nghĩa cách đơn giản là người “tận
t́nh với sự chết, nhiệt t́nh với sự sống” (Pierre
Talec).
Chính v́ thế mà không ai có thể đón nhận cái chết
thể lư trong niềm hy vọng phục sinh mà lại không cất
cao đầu và mở rộng con tim để vượt qua cái chết cho
chính ḿnh vốn đă hàm ngụ nơi cuộc sống như thất
bại, bị hiểu lầm, bị bỏ rơi, bị loại trừ và khinh
thị... Hơn nữa, cần phải giải phóng ḿnh khỏi những
ǵ biến ḿnh thành tù nhân của chính ḿnh, ngơ hầu
có thể yêu mến cuộc sống một cách thân thiết ngay
bây giờ. Yêu mến cuộc sống là điều không dễ dàng khi
cuộc sống đầy bi đát, tàn bạo, xung khắc... Khi đó
người ta dễ nh́n vào những bất tất của đời thường
như một cái ǵ phi lư, vô nghĩa, không c̣n đáng
sống. Nhưng nếu chết để mà chết th́ chẳng bao giờ là
giải thoát.
Sự sống không đơn độc như ta tưởng, v́ sự sống đă
kết hôn với sự chết. Chết và sống là cặp bài trùng
của cuộc hiện hữu nhân sinh. Cặp bài trùng này buộc
ta phải thường xuyên chiến đấu để đạt tới con người
trưởng thành, con người mới trong Đức Kitô (x. Cl 4,
12). Con người mới không chỉ là con người nội tâm
vươn tới chiều kích linh thánh, mà cả con người bên
ngoài, trong mọi quan hệ với xă hội. Phải biết nương
tựa vào sự soi sáng và sức mạnh của Thánh Linh để
chống lại sức bành trướng của sự chết đang ngự trị
trong thế giới dưới nhiều h́nh thức.
Kết luận
Khi sinh ra, con người là một bản thể phải chết,
nhưng khi chết th́ con người sống măi. Con người là
bất diệt, không chỉ v́ linh hồn không thể bị phân
hủy, nhưng v́ chết là được mời gọi đến sự hiệp thông
trong t́nh yêu muôn đời với Chúa Ba Ngôi. Đó là ấn
tích đă được Thiên Chúa khắc sâu vào bản thể con
người khi tạo dựng. Tính bất diệt của con người đă
có trong tự bản chất nhờ ơn cứu độ của Đức Kitô: “Ai
tin vào Ta sẽ không chết bao giờ” (Ga 11, 26).
Như vậy, theo kế hoạch của Thiên Chúa, cái chết của
con người không mang tính chết chóc, nhưng là một
định hướng cho cuộc sống mới. Là người Kitô hữu,
chúng ta “chết cho Chúa” cũng như đă sống cho Ngài
(x. Rm 14, 7). Nhờ cái chết, chúng ta “tôn vinh
Thiên Chúa” (Ga 21, 19) để đáng hưởng triều thiên sự
sống (x. Kh 2, 10). Từ nỗi khắc khoải không thể
tránh được, sự chết trở nên một đối tượng của toàn
phúc: “Phúc thay những kẻ chết trong Chúa” (Kh 14,
13), v́ nhờ đó Chúa đưa chúng ta đến nơi an nghỉ
muôn đời, đến miền ánh sáng vô tận.
Đó là lư do tại sao chết là một mối lợi, v́ Chúa
Kitô chính là sự sống của chúng ta (x. Pl 1, 21).
Trong niềm vui lớn lao đó, thánh Têrêsa hài đồng đă
xác quyết: “Tôi đâu có chết, tôi bước vào sự sống”.
Đức Giêsu đă trả lại cho cái chết sự vô tội của vườn
địa đàng cho những ai tin vào Ngài. Đó là cánh cửa
đưa tới hạnh phúc ngàn thu cho chúng ta là những con
cái của Thiên Chúa.
Lạy Cha là Thiên Chúa, Đấng tác tạo con người và
mọi loài, và là sự sống muôn đời của con! Con hạnh
phúc biết bao v́ được kêu gọi nhận biết, tin tưởng,
và sống thuộc về Chúa.
Dù biết ḿnh phải chết, nhưng chết trong sự nhận
biết, tin tưởng và yêu mến Chúa, th́ cái chết lại là
cơ hội diễm phúc để con được sống với Chúa măi măi,
là Đấng con hằng khao khát khôn nguôi.
Để đón nhận cái chết cuối cùng trong niềm hân hoan,
con biết ḿnh phải đón nhận cái chết từng ngày con
người cũ của ḿnh, để học biết sống con người mới
trong Đức Kitô, Con Cha, là Đấng đă chết và sống lại
v́ con.
Đức Kitô là hy vọng duy nhất của đời con trên con
đường về nhà Cha. Ngài đang ở với con, sâu thẳm
trong ḷng con, thân thiết hơn chính bản thân con,
và đang dùng Thánh Thần của Ngài để biến đổi đời
con.
Ôi! Lạ lùng quá, t́nh yêu bao la vô cùng của Chúa
trên cuộc đời đầy hư nát của con. Con chẳng có ǵ
đánh đổi trước mầu nhiệm ân sủng lớn lao này, chỉ
biết ca ngợi ḷng thương xót Chúa trong từng giây
phút đời con.
Con chỉ biết ch́m sâu trong Chúa mỗi ngày, để được
thanh tẩy mọi bợn nhơ và loang lỗ trong tâm hồn.
Xin dẫn bước nhân loại chúng con về miền ánh sáng vô
tận, nơi Chúa ngự trị và vinh hiển muôn đời. Amen.
Chú thích:
[1] Đạt-lại
Lạt-ma trong Death, Intermediate State and Rebirth
in Tibetan Buddhism, Lati Rinpoche/Jeffrey Hopkins.
[2] Rosemary Ellen Guiley, Tự điển tôn giáo và các
thể nghiệm siêu việt, NXB Tôn Giáo, 2005, tr.
215-217; 585-587.
[3] Rabindranath Tagore, Lời Dâng, NXB Đà Nẵng,
2001, bài số 91, tr. 110.
[4] Đă trích, bài số 95 và 103, tr. 114 và 123.
LM
Thái Nguyên
|