CÁC BÀI SUY NIỆM LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN 02/11

Các Bài suy niệm lễ Các Đẳng Linh Hồn 02/11 

SUY NIỆM LỄ CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐĂ QUA ĐỜI
Lời Chúa: 
*Rm 6,3-9; Ga 6,51-59 *Kn 3,1-9; Lc 23, 33.39-43; *Rm 5,4-11; Ga 17,24-26
***********

MỤC LỤC
1. Cái chết
2. Bốn bà vợ (Frère Trần An Phong)
3. Suy niệm của Lm. Gioan B. Nguyễn Đ́nh Lưu
4. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
5. Thân xác và linh hồn (John W. Martens)
6. Suy niệm của Hiền Lâm
7. Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
8. Lịch sử ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn (LM. Nguyễn Phước)
9. Tưởng nhớ người đă ra đi (Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
10. Bài giảng của ĐTGM. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
11. Ḷng biết và thảo kính đối với tổ tiên (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
12. Bài giảng của ĐGM. Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản
13. Suy niệm của Lm. Đaminh Vũ Đ́nh Thái
14. Nguồn nước mắt (ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần)
15. Tri ân t́nh cha, t́nh mẹ (Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
16. Luyện ngục
17. Nghĩ về sự chết (ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần)
18. Luyện ngục
19. Bóng câu cửa sổ
20. Họ sẽ được nh́n thấy Thiên Chúa
21. Bên kia sự chết
22. Lễ cầu nguyện cho các linh hồn (JK)
23. Các tín hữu đă qua đời.
24. Các linh hồn
25. Uống nước nhớ nguồn 9JM. Lam Thy ĐVD.)
26. Hăy nhớ đến công đức của các ngài (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
27. Luyện h́nh – Nơi chốn vẫn c̣n t́nh yêu! (P. Trần Đ́nh Phan Tiến)
28. Lạy Chúa, xin đưa họ vào hưởng niềm hoan lạc cùng chư thánh (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
29. Sinh và tử hiệp thông (AM Trần B́nh An)
30. Hạnh phúc của những người thuộc về Chúa (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
31. Giáo hội đau khổ (Trầm Thiên Thu)

 

 

A. BẢN VĂN

LỄ I

Bài đọc (Rm 6, 3-9)

Anh em thân mến, tất cả chúng ta đă chịu phép rửa trong Đức Giêsu Kitô, tức là đă chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đă cùng chịu mai táng với Người, bởi được thanh tẩy trong sự chết của Người, để như Đức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cơi chết thế nào, th́ cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế. V́ nếu chúng ta được liên kết với Người trong cùng một cái chết, giống như cái chết của Người, th́ chúng ta cũng được hợp nhất với Người, trong sự sống lại giống như vậy. Nên biết điều này: con người cũ của chúng ta đă cùng chịu đóng đinh khổ giá, để xác thịt tội lỗi bị huỷđi, hầu cho chúng ta không c̣n làm nô lệ tội lỗi nữa, v́ con người đă chết, tức là được giải thoát khỏi tội lỗi. Mà nếu chúng ta đă chết với Đức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, v́ biết rằng Đức Kitô một khi từ cơi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không c̣n làm chủđược Người nữa.

Tin Mừng (Ga 6, 51-59)

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, th́ sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”. Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: “Làm sao ông này có thể lấy thịt ḿnh cho chúng ta ăn được?” Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta th́ có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻấy sống lại ngày sau hết. V́ thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, th́ ở trong Ta, và Ta ở trong kẻấy. Cũng như Cha là Đấng hằng sống đă sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, th́ kẻăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đă ăn manna và đă chết. Ai ăn bánh này th́ sẽ sống đời đời”.

LỄ II

Bài đọc (Kn 3, 1-9)

Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm ǵ được các ngài. Đối với con mắt người không hiểu biết, th́ h́nh như các ngài đă chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cơi tiêu diệt. Nhưng thật ra các ngài sống trong b́nh an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài đă chịu khổ h́nh, ḷng cậy trông của các ngài cũng không chết. Sau một giây lát chịu khổ nhục, các ngài sẽđược vinh dự lớn lao: v́ Chúa đă thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu. Khi đến giờ Chúa ghé mắt nh́n các ngài, các người công chính sẽ sáng chói và chiếu tỏ ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau. Các ngài sẽ xét xử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời. Các ngài đă tin tưởng ở Chúa, th́ sẽ hiểu biết chân lư, và trung thành với Chúa trong t́nh yêu, v́ ơn Chúa và b́nh an sẽ dành cho những người Chúa chọn.

Tin Mừng (Lc 23, 33. 39-43)

Khi đă đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, v́ chúng không biết việc chúng làm”. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Một trong hai kẻ trộm bịđóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục người rằng: “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hăy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa”. Đối lại, tên kia mắng nó rằng: “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, v́ chúng ta chịu xứng với việc chúng ta làm, c̣n ông này, ông có làm ǵ xấu đâu?” Và anh ta thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớđến tôi”. Chúa Giêsu đáp: “Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽở trên thiên đàng với Ta”.

LỄ III

Bài đọc (Rm 5, 5-11)

Anh em thân mến, ḷng cậy trông không làm cho chúng ta phải hổ ngươi, v́ t́nh yêu của Thiên Chúa tuôn đổ trong tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần đă ban cho chúng ta. Chúa Kitô theo kỳ hẹn mà chịu chết v́ chúng ta là kẻ tội lỗi. Ít có ai chết thay cho người công chính, họa chăng mới có người dám chết v́ kẻ lành. Nhưng Thiên Chúa chứng tỏ t́nh yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta c̣n là tội nhân, th́ theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đă chết v́ chúng ta. Vậy phương chi bây giờ, chúng ta đă nên công chính trong máu của Người, và nhờ Người chúng ta sẽđược cứu khỏi cơn thịnh nộ. Bởi chưng nếu khi chúng ta c̣n là thù nghịch, mà chúng ta đă được giao hoà cùng Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Ngài, th́ huống chi khi đă được giao hoà, ắt chúng ta sẽđược cứu độ trong sự sống của chính Chúa Kitô. Và không những thế, chúng ta c̣n được vinh hiển trong Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người mà bây giờ chúng ta được lănh ơn giao hoà.

Tin Mừng (Ga 17, 24-26)

Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con th́ Con muốn rằng Con ởđâu chúng cũng ởđấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đă ban cho Con, v́ Cha đă yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đă không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đă sai Con. Con đă tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ c̣n tỏ cho chúng nữa, để t́nh Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa”.

[Mục Lục]

B. CÁC BÀI SUY NIỆM

Bài 1. Cái chết

Hôm nay chúng ta tụ tập trong nhà thờ này để cử hành lễ các Linh Hồn, để tưởng nhớ đến những người đă khuất nhất là những người đă có một mối liên hệ thương yêu và ơn nghĩa đối với chúng ta như ông bà cha mẹ. Chính v́ thế mà tôi muốn chia sẻ một vài ư nghĩa về sự chết. Vậy cái chết là ǵ và nó đem lại cho chúng ta những bài học nào?

Cái chết là một sự dứt bỏ có tính cách cưỡng bức, nó chia ĺa hai người bạn thân thiết nhất đó là linh hồn và thể xác. Cái chết là một cuộc hành tŕnh, một chuyến đi cô đơn nhất v́ người ra đi sẽ phải để lại sau lưng tất cả những ǵ ḿnh quyến luyến nhất, từ những người thân yêu đến tiền bạc và địa vị được gầy dựng do mồ hôi nước mắt. Nó sẽ chấm dứt tất cả những ǵ chúng ta đă đầu tư trong cuộc đời. Chính v́ thế nó thường làm cho chúng ta bàng hoàng và sợ hăi.

Thế nhưng, là người Kitô hữu chúng ta phải nh́n cái chết dưới ánh sáng đức tin. Thực vậy dưới ánh sáng đức tin th́ cái chết không phải là một chấm dứt mà là một khởi đầu, không phải là một ra đi mà là một trở về nhà Cha, không phải là một chia ĺa nhưng là một kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Từ đó chúng ta rút ra được những bài học quư giá.

Bài học thứ nhất đó là ư nghĩa đích thực của cuộc sống. Ư nghĩa đó được tóm gọn trong câu giáo lư: Hỏi người ta sống ở đời để làm ǵ? Thưa, ta sống ở đời để nhận biết, thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời và thương yêu mọi người như anh em. Hầu ngày sau được mưu hạnh phúc đời đời. Câu trả lời này thật ngắn gọn và rơ rệt, giúp chúng ta giải quyết những vấn đề đă từng làm cho chúng ta băn khoăn và thắc mắc. Không hiểu được chân lư này, hay cố t́nh quên lăng chân lư này, chúng ta sẽ trở nên những kẻ lầm đường lạc lối, không c̣n thấy được phương hướng cho cuộc sống, liều ḿnh mất đi cả ch́ lẫn chài, cả đời này lẫn đời sau. Murillo, một hoạ sĩ Tây Ban Nha, đă khắc trên tường pḥng ḿnh hàng chữ như sau: Hăy sống như là sẽ phải chết. Hăy tập làm quen với cái chết bằng tinh thần từ bỏ liên tục.

Bài học thứ hai là bài học khôn ngoan. Trong mọi hoàn cảnh, hăy chuẩn bị sẵn sàng để ra trước mặt Chúa mà tính sổ cuộc đời. Đừng bao giờ quên rằng, chúng ta được xét xử dựa trên t́nh yêu: t́nh yêu đối với Thiên Chúa và đối với anh em, chứ không phải là được xét xử theo dáng bộ bề ngoài và những việc đạo đức nặng phần tŕnh diễn. Bởi vậy trong nhịp sống thường ngày, chúng ta có lo thực thi bác ái hay không, có biết thực tâm tha thứ cho kẻ lỗi phạm đến chúng ta hay không? Có biết nở nụ cười hoà giải đối với những kẻ đă gây nên xích mích, có biết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những kẻ xung quanh? Có biết làm chứng nhân cho Chúa bằng đời sống yêu thương hay không?

Nếu trong cuộc sống trần gian, chúng ta đă thực sự yêu thương anh em th́ chúng ta mới có thể tiến lại gần cùng Thiên Chúa, Đấng có một trái tim cảm thông với đau khổ sẵn sàng để tha thứ và ân thưởng những người thiện chí. Khi tâm hồn chúng ta đă giao hoà cùng Thiên Chúa, th́ bấy giờ cái chết không c̣n nhuốm vẻ tang tóc bi ai nữa. Chúng ta không c̣n nói như Laffirgue: Điều đau buồn nhất trong cuộc sống là cái chết. Trái lại chúng ta sẽ bảo: Đối với người tín hữu th́ điều an ủi và khích lệ nhất trong cuộc sống là cái chết, bởi v́ cái chết sẽ chấm dứt những đau khổ phần xác, để rồi dẫn đưa chúng ta vào niềm hạnh phúc vĩnh cửu.

[Mục Lục]

Bài 2. Bốn bà vợ

Frère Trần An Phong

Một phú gia kia cưới đến 4 bà vợ.

Ông ta rất thương bà vợ thứ nhất, mỗi khi kiếm được tiền là ông liền mua sắm cho bà đủ thứ áo quần sang trọng, dẫn bà đi ăn tại các nhà hàng trứ danh. Không những thế, ông c̣n tung tiền mua sắm cho bà đủ thứ hột xoàn, trân châu. Bà muốn ǵ ông cũng chiều chuộng. Ông cưng bà như cưng trứng, hứng bà như hứng hoa!

Và mỗi lần đi họp, hay đi kinh doanh, ông đều sung sướng và hănh diện mang theo bà vợ thứ hai. Ông luôn khoe bà với bà con lối xóm, với đồng nghiệp, khách hàng. Bà là niềm hănh diện của ông!

Mỗi khi gặp khó khăn, cho dù lớn hay nhỏ, ông đều thủ thỉ, tâm sự với bà vợ thứ ba. Ông tin tưởng bà lắm, v́ bà luôn là người cố vấn cho ông, một người cố vấn khôn ngoan, trung tín và đầy yêu thương. Bà thật là người bạn đời tri kỷ có một không hai trên đời!

C̣n bà vợ thứ tư lại rất thương ông, thương ông tha thiết, thương ông nồng nàn, thương ông chứa chan. Nàng dành hết cả cuộc đời ḿnh để lo cho cuộc sống của ông, sự nghiệp của ông. Nàng không từ chối một hy sinh nào cho chồng cả. Ngay cả những khi ông lầm lỗi, bà cũng can đảm thầm nhắc nhở, khuyên lơn, và rộng ḷng tha thứ. Thế nhưng! Ông lại chẳng mấy khi để ư đến nàng.

Rồi một ngày kia, ông phát bệnh. Bệnh ung thư của ông đă đến thời cuối cùng, các bác sĩ đều bó tay. Biết ḿnh chả c̣n sống được bao lâu, ông bèn cho mời các bà vợ đến để nói lời cuối cùng.

Bà thứ nhất mặc xiêm y lộng lẫy, nữ trang óng ánh, nước hoa lan tỏa khắp pḥng, đến bên chồng đang hấp hối.

- Em, anh sắp chết rồi. Em là người anh yêu mến nhất, chăm sóc cho em từng li từng tí. Em có muốn theo anh về bên kia thế giới để chung sống, để lo lại cho anh không?

- Không!

Nàng lạnh lùng đáp.

- Anh đi đường anh, em đi đường em. T́nh nghĩa đôi ta có thế thôi.

Nói xong, nàng ngoảnh mặt, vội vă bước ra khỏi pḥng. Lời bà như một nhát dao đâm thấu tim ông!

Người phú gia vừa cố gắng nắm tay bà vợ thứ hai, vừa run run hỏi:

- Em, suốt đời anh, em là niềm hạnh phúc, là niềm kiêu hănh của anh. Giờ đây anh sắp chết, em có muốn theo anh về bên kia, như hào quang chói sáng cho anh, như người tiến cử anh vào cuộc sống huy hoàng không?

- Không! Anh chết rồi, tôi sẽ cưới người khác. Tôi phải thuộc về người khác chứ! Ai lại theo kẻ chết xuống mồ bao giờ.

Nói xong, nàng trở gót bỏ đi. Mỗi tiếng gót giày nàng nện xuống thềm nhà, là một nhát búa đóng đinh xuyên qua tim chàng.

Đau buốt, nát tim, người phú gia quay nh́n bà vợ thứ ba và ân cần hỏi:

- Em, trong suốt cuộc đời, em là người luôn sát cánh cùng anh. Không có chuyện ǵ mà anh không chia sẻ cùng em. Em luôn bên cạnh anh, lúc vui cũng như lúc buồn. Giờ đây, anh sắp chết, em có chịu theo anh không?

- Anh yêu, em biết anh yêu em lắm, và em cũng yêu anh. Nhưng cùng lắm, em chỉ có thể theo anh ra nghĩa trang, nh́n anh đi vào ḷng đất lạnh, rồi thắp cho anh những nén hương ḷng. Em sẽ nhớ anh thật nhiều, nhưng theo anh, em không thể nào làm được.

Nói xong, nước mắt nàng tuôn trào.

Bỗng đâu, một giọng nói yếu ớt vang lên:

- Em sẽ theo anh về bên kia thế giới. Anh yêu, cho em theo anh. Đừng bỏ em!

Chàng phú gia lấy hết sức tàn ngồi chổm dậy, nh́n về phía phát xuất ra giọng nói. Và kià! Người vợ thứ tư của chàng đang ôm mặt khóc nức nở. Thân h́nh nàng qúa mảnh khảnh tựa hồ dễ bị cuốn theo chiều gió. Một người vợ yêu chàng tha thiết, nhưng đă bị chàng bỏ bê cả cuộc đời.

Trước cái chết, chàng phú gia mới chân nhận ra giá trị t́nh yêu. Ngày hôm nay, ngày nhớ đến Các Tín Hữu Đă Qua Đời, 2 tháng 11 mỗi năm, ḿnh nhớ đến cái chết, và nhận ra bốn bà vợ của đời ḿnh.

Ḿnh đă quá yêu bà vợ thứ nhất – thân xác ḿnh. Cho dù ḿnh có mặc cho nó đủ thứ lụa là gấm vóc, nuôi dưỡng bằng cao lương mỹ vị, ḿnh cũng chẳng đem theo được về bên kia thế giới.

Ḿnh đă hănh diện với chức tước, bằng cấp – bà vợ thứ hai – nhưng chức tước ấy sẽ thuộc về người khác khi ḿnh giă từ cơi thế.

Họ hàng, gia đ́nh ḿnh – bà vợ thư ba, sẽ theo ḿnh ra tận nghĩa trang, sẽ hằng năm kỵ giỗ cho ḿnh, nhưng nào ai theo ḿnh xuống huyệt.

C̣n cái linh hồn của ḿnh – bà vợ thứ tư – mà ḿnh đă v́ qúa chăm lo thể xác, chạy theo tiền tài danh vọng, bon chen chức tước quyền cao, ít khi ḿnh buồn nghĩ đến th́ sẽ theo ḿnh đi vào thiên thu.

“Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!

Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa,

Sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời.

Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế,

Nơi người phàm chẳng cứu nổi ai.

Họ tắt hơi là trở về cát bụi,

Dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan.

Phúc thay người được Chúa Trời nhà Gia-cóp phù hộ

Và cậy trông Chúa, Thiên Chúa họ thờ.” (Thánh Vịnh 145: 1-5)

[Mục Lục]

Bài 3. Suy niệm của Lm. Gioan B. Nguyễn Đ́nh Lưu

“Con hăy nhớ đến mẹ mỗi khi dâng thánh lễ”. Lời thánh Monica cũng chính là ư nguyện mà các linh hồn tiền nhân muốn nhắc nhở cùng chúng ta là con cháu của các ngài.

Đài truyền h́nh Thành phố Hồ Chí Minh tối Thứ Năm tuần trước có phát đi chương tŕnh: “Những đứa con hiếu thảo”. Một trong những khuôn mặt được giới thiệu đó là anh Kim Sơn. Tuổi thơ của anh là những tháng ngày đen tối, bởi cha mẹ đă sớm ly dị khi đă có với nhau ba mặt con. Thiếu sự yêu thương dạy dỗ, Kim Sơn xa dần trường học để bước vào trường đời. Bài học đầu đời mà Kim Sơn học được đó là bài học lừa lọc, dối trá, đấu đá để dành quyền sống. Kết cục của những tháng ngày ngang dọc là những ngày đen tối trong chốn lao tù, là sự hận đời đen bạc, là nỗi buồn tuyệt vọng cô đơn.

Trong lúc đó, mẹ của anh vẫn tần tảo với gánh bún riêu, lê gót qua các phố chiều, chắt chiu từng đồng, để đổi lấy cho anh những hũ chao, những lon ruốc sả. Trải qua nhiều năm tháng, t́nh thương của người mẹ không hề xói ṃn, hy vọng của mẹ không hề bị dập tắc. Cuối cùng t́nh mẹ đă chiến thắng. Năm 2005, anh được ra khỏi trại và quyết tâm làm lại cuộc đời. Ổn định cuộc sống, anh lập gia đ́nh và đưa mẹ về sống chung để có dịp phụng dưỡng. Anh dứt khoát không để mẹ phải gánh bún đi bán, anh hứa với ḷng ḿnh: mẹ muốn ăn ǵ, mặc ǵ, anh sẽ mua cho mẹ. Anh c̣n tuyên bố: hạnh phúc nhất của đời tôi là được sống với mẹ, là được ở bên mẹ măi măi.

Câu chuyện của anh Kim Sơn, hẳn phải làm ấm ấp bao tấm ḷng của các bà mẹ, đang được sống trong sự chăm sóc ân cần của con cháu, sau một đời tần tảo vất vả. Tuy nhiên, không phải ai cũng được hưởng những ngày tháng hạnh phúc trong sự đùm bọc của con cái. Lại càng ít người c̣n nhớ và lo lắng cho cha mẹ khi các ngài đă qua đời. Chính v́ thế mà Giáo hội đă dành ngày 2 tháng 11 này, và trọn tháng 11 để khơi dậy ḷng hiếu thảo nơi những người Kitô hữu, cũng là những người con của gia đ́nh.

Ai trong chúng ta lại chẳng một lần sinh ra bởi cha mẹ, chẳng được ấp ủ trong mái ấm gia đ́nh. Đây chính là chiếc nôi của t́nh yêu, ngôi trường của ḷng nhân ái. Từ trong cái xă hội nhỏ bé ấy, chúng ta đă được bú mớm, nuôi dạy, và từng ngày lớn lên trong ṿng tay yêu thương của t́nh cha, và tiếng ru ầu ơ của mẹ. Để đổi lấy cho chúng ta sức khỏe, cha mẹ đă phải đổ bao mồ hôi sức lực để có bữa cơm miếng cá cho con; lại c̣n biết bao trăn trở lo lắng cho chúng ta về đường đức tin, học vấn. Hôm nay, chúng ta thành người, có địa vị, có cuộc sống an lành, có gia đ́nh ổn định, lại chính là lúc mà các ngài nhắm mắt xuôi tay. Cái giá mà các ngài phải trả cho sự thành đạt, thành nhân của chúng ta, đâu chỉ là công sức, là nước mắt, là những héo hắt khổ đau, mà có khi c̣n cả mạng sống ḿnh. Ca dao ViệtNam đă mượn h́nh ảnh rất quen thuộc để diễn tả sự hy sinh ấy:

“Con c̣ lặn lội bờ ao, gánh gạo nuôi chồng…”

hay:

“Cha mẹ thương con như biển hồ lai láng,

con thương cha mẹ tính tháng tính ngày”.

Giờ phút này, nghĩ lại công ơn to lớn của các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, ai trong chúng ta lại không cảm thấy dạt dào niềm xúc động nhớ thương. Nỗi niềm trắc ẩn thôi thúc chúng ta phải làm một cái ǵ đó cho các ngài, giúp đỡ các ngài, báo hiếu các ngài.

Ai dám quả quyết: hạnh phúc đang ở trong tầm tay của các người thân yêu chúng ta, hay vẫn c̣n đang là số phận đau thương của chốn hỏa ḥa rên xiết.

V́ vậy cùng với ḷng tưởng nhớ tri ân, chúng ta hăy thực hiện điều mà các ngài ngày đêm mong chờ khao khát: đó là sớm giúp các ngài ra khỏi chốn luyện h́nh đau thương, vào chung hưởng hạnh phúc với Chúa. Công việc này, tự sức các ngài không làm được, chỉ biết trông cậy vào chúng ta là con cháu.

Theo lời khuyên bảo của Giáo hội, chúng ta hăy gửi đến cho các đẳng linh hồn nhiều lời cầu nguyện, nhiều việc lành hy sinh, nhất là những thánh lễ trên Bàn Thờ. Bài đọc sách Mikea mà chúng ta vẫn nghe trong thánh lễ an táng đă đề cao việc quyên góp xin lễ cho các linh hồn, là một điều hết sức cần thiết và quí giá. Bởi v́ khi cử hành thánh lễ, là tái hiện hy tế Thập giá của Chúa Giêsu, là hiện tại hóa Mầu Nhiệm cứu độ cho các đẳng linh hồn, là mở ra cánh cửa hy vọng cho các người thân của chúng ta, là đưa các ngài từ chốn đau khổ tối tăm vào nơi ánh sáng hạnh phúc.

Và c̣n ǵ hạnh phúc hơn, khi chúng ta biết rằng một khi được đón nhận vào tham dự hạnh phúc với Thiên Chúa, các linh hồn sẽ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta là con cháu của các ngài c̣n đang phải từng ngày chiến đấu vật lộn với những cam go thử thách. Cuộc thử thách ấy đang diễn ra từng ngày không cân sức, giữa thế lực của ma quỷ, của sự tội, của đam mê với niềm tin c̣n quá mỏng ḍn và non yếu của người Kitô hữu.

Như Đức Kitô đă từng an ủi các Tông đồ trong giờ phút biệt ly đầy nước mắt và đau thương: Ḷng các con đừng xao xuyến… th́ các đẳng linh hồn cũng đang khích lệ và ngỏ lời cùng chúng ta:

- Đừng xao xuyến v́ Con Thiên Chúa đă chết để đền thay tội lỗi của chúng ta.

- Đừng xao xuyến v́ Ngài đi là để dọn đường cho chúng ta.

- Hăy tin vào Thiên Chúa v́ Ngài là Đấng từ bi và giàu ḷng thương xót.

- Hăy tin vào Thiên Chúa và trung thành với Ngài qua các công việc bổn phận hằng ngày và việc giữ các giới răn của Chúa.

Xin v́ công nghiệp của Đức Kitô, nhờ lời cầu bầu của các thánh và cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa, Chúa sẽ tha thứ, và sớm đưa các đẳng linh hồn về hưởng hạnh phúc, sau cả đời đă tin tưởng phó thác nơi Chúa.

Kim Sơn sau cả một quăng thời gian đi hoang, không màng đến sự hy sinh vất vả và nước mắt của mẹ, nhưng cuối cùng, anh đă làm cho người mẹ ḿnh thỏa ḷng mát dạ khi đă hối hận trở về, cùng dành trọn thời gian c̣n lại để lo lắng chăm sóc tuổi già của mẹ.

C̣n phần chúng ta, được đánh thức qua câu chuyện của anh Kim Sơn, chúng ta sẽ làm ǵ cho các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, anh chị em thân yêu của ḿnh trong ngày hôm nay và trong tháng các đẳng linh hồn này?

Xin Chúa cho mỗi chúng ta, luôn biết tỏ ḷng thảo kính đối với các bậc tổ tiên ông bà, cha mẹ, anh chị em đă qua đời, bằng việc đọc kinh, dâng những hy sinh việc lành, và đặc biệt là thánh lễ mồng 2 tháng 11 hôm nay, xin v́ công nghiệp của Con Chúa trên Thập giá, mà thứ tha muôn tội lỗi và đưa các ngài về hưởng hạnh phúc tôn nhan Nước Chúa.

[Mục Lục]

Bài 4. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên

Trong 4 tháng lang thang trên đất Mỹ, tôi nghe và thấy nhiều cảnh ngộ của cái chết:

Một người VN ở Cali chết thật b́nh thường, nhưng nghe nói tang lễ cho cụ ít ra cũng 20,000.00 USD, riêng cỗ quan đă hết 7,000.00 rồi. Kể ra cái chết ở đấy cũng có giá cao đấy.

Ở Florida tôi nghe kể về cái chết của một Bác Sỹ VN, sau năm 75, Ông đă nỗ lực để nuôi con ăn học thành tài trên đất khách quê người, ai cũng thành tài và thành công. Bà Cụ th́ mất trước khá lâu. Ông đến tuổi hưu. Sống một ḿnh, lấy việc dạy vơ dưỡng sinh cho các đồng hương làm niềm vui. Rồi cụ phải vào bệnh viện. Cuối cùng cũng đă chết ở đó, không người thân bên cạnh. Người ta phải theo giấy tờ trong người cụ, để điện cho các con cụ. Khi các con có mặt, tất cả đă kư giấy để hiến cụ cho khoa thí nghiệm của bệnh viện: v́ tương lai khoa học! Chuyện ấy cũng rất b́nh thường, nếu như không có cái chuyện sau đó. Phải, các đồng hương của cụ, v́ mến yêu tinh thần hy sinh và phục vụ cộng đồng của cụ, muốn đến làm lễ truy điệu cho cụ tại tang gia. Nhưng ở đây con cái cụ quá ngạc nhiên về cái yêu cầu ấy, v́ gia đ́nh không làm ǵ cả, mọi việc là bệnh viện đă làm theo cách của bệnh viện rồi. Cuối cùng, v́ sự tha thiết của các đồng hương, người gia đ́nh bằng ḷng cho họ mượn một tấm ảnh cụ để tổ chức lễ truy điệu cho Thầy ở nơi khác.

Ở Arlington, tôi nghe kể về cái chết của một cụ già người Mỹ. Cụ sống với cụ Bà ở đây đă lâu, cho dù có 2 người con, cũng thành đạt, nhưng chẳng bao giờ thấy họ tới thăm các cụ. Trong trường hợp cụ bà thế nào không biết, nhưng hàng xóm thấy mùi hôi nồng nặc từ nhà các cụ, báo cảnh sát, người ta mới khám ra cụ ông đă chết mấy ngày rồi!

Tôi cũng được thông tin về cái chết của 17 thủy binh trên chiến hạm Cole. Tôi nh́n trên TV thấy người ta đang t́m kiếm Thống Đốc Missouri sau tai nạn máy bay. Tôi cũng thấy cảnh chiếu người ta quăng xác 2 cảnh sát ch́m Do Thái qua cửa sổ, và những cái chết do sự trả thù.

Cái chết vẫn ám ảnh cuộc sống con người, cho dù con người luôn tự hào về tiến bộ, văn minh, giàu sang và no đủ, dường như là đă đẩy lùi bóng ma sự chết.

Tuy nhiên, có lẽ người ta khá thành công trong việc khiến cho con người không c̣n nhiều suy nghĩ về những vấn đề siêu h́nh, kể cả cái chết. Con người hầu như chỉ c̣n kịp suy nghĩ về công việc làm mỗi ngày của họ thôi. Họ đi bên cạnh cái chết với sự rất xa lạ.

Nếu như chỉ có cái hiện tại là quan trọng, th́ tôi thiết nghĩ những cái chết cụ thể trên kia thật vô cùng phi lư. Những cái chết chỉ v́ cho một hiện tại tốt đẹp, lại bị chính đứa con ḿnh cưu mang phủ nhận cách thật phũ phàng. Cho dù bằng lư trí, con người muốn chối bỏ cái bên kia sự chết, nhưng bằng chính mỗi một cái chết của ḿnh, con người lại khẳng định họ tin vào thế giới bên kia cái chết, cho dù nó là ǵ, th́ không ai nói thành lời.

Đức Giêsu Kitô, đă đến, và cũng bằng cái chết của ḿnh, Ngài khẳng định bên kia sự chết, có thế giới của sự sống thật: Sự sống chan ḥa yêu thương. T́nh Yêu được đảm bảo bởi T́nh Yêu Vô Biên của MỘT NGƯỜI CHA. Đức Giêsu đến để đem lửa yêu thương ấy vào trần gian, để biến đổi mọi hiện tại của cơi nhân sinh nên hiện tại vĩnh hằng của T́nh Cha với con cái ḿnh.

Ngày lễ Các Linh Hồn chỉ có ư nghĩa trong T́nh Yêu Vĩnh Hằng ấy:

Cuộc sống hôm nay, không chỉ là cơm bánh, nhưng c̣n là ánh sáng yêu thương của Cha rọi soi mọi giây phút cuộc đời ḿnh. T́nh yêu phải phủ trùm mọi cảnh huống, kể cả cơi sống bên kia cái chết.

[Mục Lục]

Bài 5. Thân xác và linh hồn

John W. Martens

“Ta sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày sau hết” (Ga 6,40).

Khi chúng ta chết, điều ǵ sẽ xảy ra? Đây là vấn nạn chúng ta thường đặt ra, đặc biệt đối với các Kitô hữu, khi mọi người đều hướng vọng về sự sống mai sau. Nhưng trước khi thân xác chúng ta được phục sinh trong ngày sau hết, trong thời gian chuyển tiếp, điều ǵ sẽ xảy ra. Khi chúng ta giă từ trần gian, chúng ta sẽ đi về đâu? Đây là điều thường gây ngộ nhận, nếu chúng ta không quán triệt giáo lư của Giáo hội. Hồi c̣n nhỏ tôi vẫn nghĩ tưởng về sự phục sinh mai sau, và cho rằng khi tôi chết, tôi sẽ được sống lại ngay lập tức trên quê trời, cùng với tất cả những ai đă được quyền năng của Chúa cho sống lại. Đây không phải là cái nh́n theo quan điểm Kitô giáo. Tuy nhiên nhiều Kitô hữu vẫn ngộ nhận rằng sau khi chết, chúng ta sẽ sống trên quê trời, tuy không mang h́nh hài thân xác, nhưng linh hồn chúng ta được giải thoát khỏi những ràng buộc của thể lư, và đó cũng là cuộc sống mà mọi người phải hướng vọng về. Cuộc sống mai hậu, khi thân xác chết đi, là một điều rất khó giải thích, bởi v́ những bản văn Kinh Thánh chỉ nói tới cách rời rạc, và không nhất quán đưa ra một cắt nghĩa tổng thể. Về cuộc sống chúng ta sau khi chết đi, Kinh Thánh chỉ mặc khải một cách tiệm tiến và dần dần.

Những người Do Thái cổ đại không đặt trọng tâm vào thế giới mai sau, nhưng họ chỉ nhắm đến cuộc sống hiện sinh với những phần thưởng và chúc lành từ nơi Thiên Chúa. Đó là một cuộc sống trường thọ của ngày hôm nay, được đông con nhiều cháu, được dư dật của cải, cụ thể có đầy tràn hoa màu ruộng đất và đàn gia súc dư giả. Theo quan niệm cổ xưa, người chết sẽ xuống âm phủ, là nơi không phải để thưởng phạt, nhưng chỉ là nơi bóng tối của sự chết bao trùm khi chúng ta an giấc ngàn thu.

Cựu ước rất ít nói về sự phục sinh. Măi về sau này, trong các bản văn thuộc thế hệ sau lưu đầy, khi dân Israel trở về kiến thiết lại Giêrusalem, sự phục sinh thân xác mới được nhắc tới. Vài thế kỷ trước công nguyên, dần dần xuất hiện sự phát triển quan điểm về số phận muôn đời của người đă chết. Muộn thời sau này, người Do Thái mới có tư tưởng, tuy không hệ thống hóa, nhưng nhấn mạnh rằng trọn vẹn con người chúng ta, cả xác lẫn hồn, sẽ được chỗi dậy trong ngày sau hết.

Trong khi khá ít những tư tưởng nói về cuộc sống con người sau cái chết để chờ đợi được phục sinh, th́ tác giả sách Khôn ngoan, bộ sách đă được viết vào khoảng từ năm 30 đến năm 40 trước công nguyên tại Alexandria, thành phố nói tiếng Hy Lạp, có đề cập đến “linh hồn những người công chính” đă chết. Tác giả viết “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa và chẳng cực h́nh nào động tới được nữa. Bọn ngu si coi họ như đă chết rồi. Khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng ta tưởng là họ bi tiêu diệt. Nhưng thật ra họ đang hưởng b́nh an (Kn 3 1-3). Quan niệm âm phủ không c̣n nữa, nhưng thay vào đó, là t́nh trạng con người thoát khỏi cực h́nh và được an b́nh. Toàn bộ tŕnh thuật đưa ra một tiến tŕnh phán xét sau khi chết, và nói về sự hiện diện tiếp măi của Thiên Chúa. Nhưng bản văn cũng tiên báo một Vương quốc của Thiên Chúa trong tương lai, khi đó linh hồn người công chính sẽ thống trị muôn dân nước và xét xử muôn dân tộc, và Đức Chúa sẽ cai trị họ đến muôn đời (Kn 3, 7-8).

Đối với người Kitô hữu, Vương quốc tương lai này sẽ được khai mở khi Đức Giêsu trở lại, lúc đó tất cả mọi người, kẻ sống cũng như kẻ chết, sẽ được tham phần vào sự sống lại của Đức Kitô nơi thân xác họ. “V́ chúng ta đă nên một với Đức Kitô nhờ được chết như người đă chết, th́ chúng ta cũng sẽ nên một với người, nhờ được sống lại như Người đă sống lại (Rm 6,5). Đức Giêsu đă nói về sứ mạng cứu thế của Ngài, khi chiến thắng tội lỗi và sự chết “ Quả thật, đây là ư muốn của Cha tôi, những ai thấy Chúa Con và tin vào Người Con, sẽ có sự sống đời đời, và ta sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày sau hết”.

Tất cả những ai c̣n sống trong thân xác trần thế, chúng ta đợi chờ cái chết chắc chắn sẽ đến, và hướng vọng về Vương quốc mai sau trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Họ cũng ngóng đợi sự viên thành của Vương quốc nước trời, khi hồn và xác được kết hiệp lại để sống muôn đời. Sách Giáo lư Công giáo, điều 1005, cũng cắt nghĩa theo lời dạy của Thánh Phaolô, với một viễn cảnh tràn trề hy vọng: “Để được chỗi dậy với Đức Kitô, chúng ta phải chết với Đức Kitô, tức là chúng ta phải xa ĺa thân xác để được cư ngụ với Chúa”. Sự chia ĺa tạm thời này, chính là cái chết, khi thân xác tách rời khỏi linh hồn. Linh hồn sẽ được kết hiệp lại với thân xác trong ngày kẻ chết sống lại. V́ thế, cùng với những linh hồn công chính đă ra đi trước chúng ta, các Kitô hữu sẽ chờ đợi Vương quốc của Thiên Chúa, nơi đó tất cả sẽ được viên toàn, và Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự.

[Mục Lục]

Bài 6. Suy niệm của Hiền Lâm

I. THÁNH LỄ I – Tin mừng Gioan 6,37-40

Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm các thánh thông công, là sự hiệp thông mật thiết giữa ba thành phần Hội Thánh, bao gồm Hội Thánh Vinh Thắng, Hội Thánh Lữ Hành và Hội Thánh Thanh Luyện. Ngày hôm qua, trong sự tương giao, Hội Thánh Lữ Hành chúng ta hân hoan chia sẻ niềm vui và cảm tạ Chúa với Hội Thánh Vinh Thắng trên trời, th́ hôm nay, chúng ta cùng hiệp thông cầu nguyện cho Hội Thánh Thanh Luyện là các đẳng linh hồn trong luyện ngục.

Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra cho chúng ta một tiêu chuẩn giúp chúng ta sẽ đạt tới vinh thắng, đồng thời cũng nâng đỡ niềm tin cho chúng ta khi dâng lời cầu xin cho các tín hữu đă qua đời.

1) Vâng theo Thiên Ư (x.Ga 6,37-39)

Mở đầu bài Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định sứ mạng của Người là đến trần gian để làm theo ư Chúa Cha, hầu cứu độ hết mọi người, không loại trừ một ai.

- Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta sống sứ mệnh người Kitô hữu, là vâng theo ư Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để được thông phần vào cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu Kitô, mưu ích cho các linh hồn, và mai sau cũng được phục sinh với Người.

- Các tín hữu đă qua đời, cũng là những người như chúng ta, đă cùng được d́m trong nước Thánh Tẩy, được lănh lấy của ăn thần linh là Thánh Thể, và đă vượt qua cái chết thể lư. Chúng ta tin tưởng lời Chúa Giêsu hứa hôm nay rằng, những ai Chúa Cha ban cho Tôi th́ Tôi không muốn để mất một ai, mà sẽ ban sự sống đời đời cho họ, và cho họ sống lại trong ngày sau hết. Tuy nhiên, trong thời gian c̣n sống, các linh hồn c̣n vướng những vết nhơ tội lỗi và chưa được hoàn toàn xứng đáng diện kiến Chúa. Mầu nhiệm hiệp thông các thánh thông công, chúng ta tin tưởng cầu xin cho họ.

2) Tin vào Chúa Giêsu Kitô (x.Ga 6,40)

Chúa Giêsu nói rơ cho chúng ta biết, ư Thiên Chúa Cha muốn mọi người chúng ta là tin vào Con Thiên Chúa, tức là tin vào Chúa Giêsu, để nhờ đó họ sẽ được măi măi chiêm ngưỡng thánh nhan Người và được sống lại trong ngày sau hết.

- Như thế, điều kiện tiên quyết để được cứu độ là phải tin và sống niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Nên dù mặc nhiên hay minh nhiên, không qua Đức Giêsu Kitô th́ không thể vào Nước Thiên Chúa.

Sẽ khó trả lời khi nói điều này với người ngoài Kitô Giáo, nhưng hết những ai qua tôn giáo của họ hoặc qua tiếng lương tâm mà ăn ở tốt lành thánh thiện th́ mặc nhiên ở trong Đức Kitô (được rửa tội “bằng lửa”). Cũng thế, những ai dám hy sinh tính mạng v́ niềm tin hoặc v́ Đức Ái, th́ dù chưa được lănh nhận bí tích rửa tội, th́ cũng mặc nhiên ở trong Đức Kitô toàn thể (rửa tội “bằng máu”). Lại nữa, Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu mang tính vượt thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Chính v́ thế mà trong bài đọc I, ông Gióp đă nói: “Tôi tin rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng sống, và ngày sau hết khi thân xác tiêu tan, tôi sẽ được chiêm ngưỡng Người” (G 19,25-27).

- Một điều đáng khích lệ chúng ta nữa là, như trong bài đọc II, thánh Phaolo dạy: “Chúa Giêsu đă chết để cứu chúng ta là tội nhân…” (Rm 5,8). Như thế, dù tội lỗi như thế nào đi nữa, chúng ta không thất vọng, chúng ta chắc chắn sẽ được cứu độ v́ đă tin vào Chúa Giêsu Kitô, miễn là chúng sống xứng đáng với niềm tin đó.

Và đó cũng là tâm t́nh mà chúng ta dâng lên Chúa trong ngày hôm nay, để cầu nguyện cho các linh hồn. Amen.

II. THÁNH LỄ II – Tin mừng Luca 23,33.39-42

Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ này, tập chú nói về niềm hy vọng đạt tới thực tại tương lai vĩnh hằng:

H́nh ảnh ngôn sứ Isaia được nh́n thấy (bài đọc I), miêu tả việc Thiên Chúa bù đắp lại cho những gian lao đau khổ mà con người chịu khi c̣n sống nơi trần thế là: “…Thiên Chúa sẽ lau khô mọi ḍng lệ, xé bỏ khăn tang, xoá sạch mọi ô nhục và thiết đăi muôn dân một bữa tiệc… Chính Người là Đức Chúa ta hằng đợi trông…” (x. Is 25,6a.7-9).

Trong thư Rôma (bài đọc II), thánh Phaolô cho biết chúng ta là con cái Thiên Chúa sẽ được đồng thừa kế gia nghiệp cùng với Đức Kitô. Và gia nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian, bởi v́ những đau khổ đời này sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải (x. Rm 8,14-23).

Qua bài Tin Mừng, niềm hy vọng và khích lệ lớn dành cho chúng ta, là dù quá khứ chúng ta có đầy tội lỗi, nhưng chỉ cần một thời gian ngắn ngủi trở về với Chúa, th́ t́nh thương hải hà của Chúa sẵn sàng tha thứ và nhận chúng ta vào Nước của Người.

Tuy nhiên, để được vào Nước Chúa như người “trộm lành” kia, theo Chúa trong “giờ thứ 11”, nghĩa là giờ phút cuối cùng, vẫn cần ít nhất hai thái độ:

1. Nhận ra con người tội lỗi của ḿnh.

Ở Nga, người ta vẫn coi anh chàng “trộm lành” có tên là Dismat này là một vị thánh và là bổn mạng của các tội nhân mang án tử. Anh đă nên thánh ngay phút chót của cuộc đời trần thế, chỉ v́ anh đă thống hối và tin vào Chúa Giêsu.

Người trộm lành đă ư thức tội lỗi của ḿnh và đáng chịu phạt xứng với tội lỗi anh đă gây ra.

2. Tin và cầu xin với Chúa Giêsu Kitô.

Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở sám hối mà thôi th́ chưa đủ để được vào Nước Thiên Chúa, người trộm lành cần đến niềm tin nơi Đấng bị đóng đinh kia là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ. Đây là một đặc điềm của đạo Công Giáo chúng ta. Chúng ta không chỉ sám hối mà c̣n phải tin vào Tin Mừng là tin vào Chúa Giêsu Kitô (khác với Phật Giáo), không phải tự cứu ḿnh bằng nỗ lực bản thân mà là cần kết hợp với ơn Chúa, hoàn thiện bản thân trong sự kết hợp với ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô. Cũng không phải chỉ tin là đủ, mà phải hành động cụ thể là sám hối và tin và Tin Mừng.

- Cùng hiệp thông cầu cho các tín hữu đă qua đời hôm nay. Chúng ta cùng biết ư thức về thân phận yếu đuối mỏng gịn của ḿnh, đồng thời tin tưởng vào giá máu cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, sẽ giải thoát các linh hồn đang phải thanh luyện trong luyện ngục. Các đẳng từng, là những người như chúng ta, đă tin vào Chúa Giêsu Kitô, nhưng trong đời sống niềm tin đó c̣n thiếu sót, hoặc chưa có một sự sám hối đền tội cho đủ, nên bây giờ c̣n phải thanh luyện nơi luyện ngục.

Chúng ta tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa, nhưng không ỷ lại vào giờ phút chót, v́ chúng ta không biết lúc nào Chúa gọi ḿnh ra đi, nên cần luôn có một sự tỉnh thức và sẵn sàng.

III. THÁNH LỄ III – Tin mừng Gioan 11,17-27

Trong thánh lễ III, Giáo Hội cho đọc đoạn Tin Mừng Gioan kể về việc Chúa Giêsu đến thăm gia đ́nh Bêtania sau khi được tin Lazarô chết. Đoạn Tin Mừng này làm nổi bật lên hai bài học sau đây:

1. Chân lư đức tin qua các lời tuyên xưng của cô Martha.

- “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây th́ em con đă không chết”

Phải, “được Chúa th́ được tất thảy, mất Chúa th́ mất sạch tay”. Lời nói của Martha như là một lời than trách v́ Chúa Giêsu đến chậm nên Lazarô em chị đă chết, nhưng đây là một cách diễn tả của Tin Mừng Gioan là: linh hồn chúng ta được coi là đă chết khi vắng Chúa Giêsu.

- “Bất cứ điều ǵ Thầy xin th́ Thiên Chúa cũng ban cho Thầy”

Nghĩa là dù em con đă chết rồi, nhưng bây giờ Thầy xin th́ Thiên Chúa vẫn cho em con được sống lại. Thật vậy, dù linh hồn chúng ta đă bao lần chết đi v́ vắng Chúa, chúng ta xưng thú tội lỗi và đón rước Chúa vào ḷng th́ Chúa Giêsu sẽ lại phục hồi cho ta sự sống thiêng liêng với muôn vàn ơn phúc.

- “Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”

Đây là điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Đức tin Công Giáo chúng ta xác nhận rằng, những người lành thánh sau khi ĺa đời, linh hồn sẽ được hưởng tôn nhan Chúa, và ngày tận thế thân xác cũng sẽ được phục sinh để hưởng hạnh phúc trường cửu. Niềm tin này đă có từ thời Cựu Ước, mà trong bài đọc I, sách Macabê đă ghi lại việc quyên góp tiền để xin dâng hy lễ đền tội cho các chiến sĩ đă tử trận. Ngày nay, nơi Giáo Hội Công Giáo, trong sự hiệp thông, chúng ta vẫn cầu nguyện, dâng việc lành và xin lễ đền tội cho các linh hồn.

2. Lời khẳng định của Chúa Giêsu về sự sống.

- “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”

Chúa Giêsu Kitô là sự sống của linh hồn. V́ thế, khi chúng ta không ăn Bánh Sự Sống th́ linh hồn chúng ta sẽ chết yểu và hư đi.

Chúa Giêsu c̣n là sự sống lại. Chính Người là Đấng đầu tiên sống lại từ cơi chết, mở đường cho những ai tin vào Người và thông hiệp trong cái chết của Người sẽ được phục sinh như Người.

- “Ai tin vào Thầy th́ dù chết rồi th́ vẫn sẽ được sống”

Hôm nay chúng ta dâng lễ và viếng nghĩa trang cầu nguyện cho các linh hồn, chính là v́ chúng ta đang tin vào điều này. Các đẳng linh hồn vẫn sống v́ đă tin vào Chúa Giêsu, nhưng c̣n mang ít nhiều vết nhơ của tội. V́ thế, lời cầu xin và việc dâng hy lễ của chúng ta là cậy nhờ ḍng Máu Sự Sống của Chúa Giêsu đến giải thoát các linh hồn cho về hưởng sự sống vĩnh cửu.

- “Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”

Lời này hướng đến chúng ta là những người đang c̣n hiện hữu trên trần gian. V́ chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô nên sẽ không sợ cái chết, cái chết thể lư chỉ là cửa ngơ đưa chúng ta về cuộc sống vĩnh cửu.

[Mục Lục]

Bài 7. Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

“Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại măi măi. Không có ǵ để thêm, chẳng có ǵ để bớt. Thiên Chúa đă hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người”. (Gv 3, 14)

Suy niệm 1: Xin nhớ đến tôi

Người ta kể rằng: Có một người duy nhất sống sót trong một tai nạn đắm tàu và trôi dạt trên một hoang đảo nhỏ. Kiệt sức, nhưng cuối cùng anh đă gom được những mẫu gỗ trôi dạt và tạo cho ḿnh một túp lều nhỏ để trú ẩn và cất giữ một vài đồ đạc c̣n sót lại. Ngày ngày anh nh́n về chân trời cầu mong được cứu thoát, nhưng dường như vô ích.

Thế rồi một ngày, như thường lệ anh rời khỏi cḥi để t́m thức ăn trong khi bếp lửa trong lều vẫn cháy. Khi anh trở về th́ túp lều nhỏ đă ngập trong lửa, khói cuộn bốc lên trời cao. Điều tồi tệ nhất đă xảy đến. Mọi thứ đều tiêu tan thành tro bụi. Anh chết lặng trong sự tuyệt vọng: “Sao mọi việc lại thế này lại xảy đến với tôi hở trời!”.

Thế nhưng, rạng sáng hôm sau, anh bị đánh thức bởi âm thanh của một chiếc tàu đang tiến đến gần đảo. Người ta đă đến để cứu anh. “Làm sao các anh biết được tôi ở đây?” – Anh hỏi những người cứu ḿnh. Họ trả lời: “Chúng tôi thấy tín hiệu khói của anh”.

Những người đă chết cũng đang sống trong hoài băo chờ mong. Họ chờ mong có ai đó nhớ đến họ. Họ chờ mong có ai đó cứu thoát họ. Họ đă bị âm dương xa cách ngàn trùng. Cuộc đời của họ đă trôi dạt vào một bến bờ xa lắc. Không lối thoát. Không tự ḿnh cứu ḿnh. Họ chỉ c̣n trông mong nơi những người c̣n sống.

Người thanh niên trên đảo đă vô t́nh đốt lều tạo thành khói lửa báo hiệu cầu cứu. Những người đă chết theo những mạc khải tư họ vẫn hiện về với lửa, với nóng, với lời cầu xin “xin cứu giúp họ”. Những ánh lửa vẫn là lời mời gọi con người hăy nhớ đến những người đă khuất. Họ đang chịu sự h́nh phạt do tội ḿnh gây nên. Họ đang phải thanh luyện nên hoàn hảo hơn. Thế nhưng, họ bất lực v́ không thể làm ǵ khác hơn để cứu ḿnh. Họ mong chúng ta hăy cứu giúp họ.

Trong bí mật Fatima chúng ta cũng thấy: Mẹ Maria đă mạc khải qua lời chị Lucia như sau:

“Đức Mẹ đă tỏ cho chúng con thấy một biển lửa lớn, dường như ở dưới ḷng đất. Ma quỉ và các linh hồn dưới h́nh người bị ch́m ngập trong lửa này, giống như những cục than hồng thông suốt, hoàn toàn như thỏi đồng đen đủi hay bóng láng, bập bềnh trong một đám cháy rực lửa, lúc th́ bị tung lên không trung bởi những ngọn lửa xuất phát từ chính ḿnh họ cùng với những đám khói cả thể, lúc th́ bị rớt một cách nhẹ bỗng xuống khắp nơi như những tia lửa của một đám cháy khổng lồ, với những tiếng la thất thanh và rên xiết đớn đau tuyệt vọng, khiến chúng con kinh khiếp và rùng ḿnh sợ hăi. Có thể nhận ra đám ma quỉ bằng những h́nh thù rùng rợn và ghê tởm giống các con thú kinh khiếp chưa từng thấy. đen ng̣m và thông suốt. Thị kiến này kéo dài trong giây lát. Chúng con làm sao có thể tỏ ḷng biết ơn cho đủ đối với Người Mẹ thiên đ́nh nhân ái của chúng con, Đấng mà trong lần hiện ra thứ nhất đă sửa soạn trước cho chúng con bằng lời hứa sẽ đem chúng con về thiên đàng. Bằng không, con nghĩ rằng chúng con sẽ chết đi v́ sợ hăi và kinh hoàng.

Tháng 11 Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ tới những người thân yêu của chúng ta đă ly trần. Họ có thể là ông bà, cha mẹ của chúng ta. Họ có thể là bằng hữu của chúng ta. Họ cũng có thể là những người đă gây nên không biết bao nhiêu đau khổ cho chúng ta. Họ đă hối hận nhưng không c̣n cơ hội sửa lỗi hay lập công. Họ đang trải qua ngọn lửa thanh luyện để được xứng đáng vào dự yến tiệc Con Thiên Chúa.

Theo giáo lư về luyện ngục, Giáo hội cũng khẳng định: “Tất cả những người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắc chắn được cứu độ đời đời, c̣n phải chịu thanh luyện sau khi chết, nhằm đạt được sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng phước Thiên Đàng. Hội Thánh gọi việc thanh luyện cuối cùng của những người được chọn là luyện ngục. Điều này khác hẳn với h́nh phạt đời đời” (các số 1030-1031).

Vậy chúng ta có thể làm ǵ cứu giúp các linh hồn?

Trong sách Macabêô II, 12: 25, tác giả nói rằng việc nh́n nhận phần thưởng dành cho những người an nghỉ cách đạo đức mang ư nghĩa lành thánh; do đó ông Yuda đă xin dâng lễ tế cầu ơn xá tội cho những linh hồn người chết để họ được tha thứ tội lỗi”.

Mỗi người chúng ta đều có những người rất thân yêu đă ly trần. Họ chỉ mong chờ chúng ta một lời kinh, một thánh lễ,một việc lành thay cho họ. Họ đang nói với chúng ta “Xin đừng quên tôi”. Xin cho chúng ta biết dùng tháng 11 như là một tháng đền ơn đáp nghĩa những người đă yêu thương chúng ta mà nay đă ly trần bằng việc nhớ và cầu nguyện cho họ. Amen

Suy niệm 2: Dụ ngôn cây chuối

Có một cậu bé hỏi bố rằng:

“Bố ơi, trong cuộc đời của một cây chuối nó sinh ra được bao nhiều buồng?”

“Chỉ một buồng duy nhất.” – Bố tôi trả lời.

Cậu nhỏ ngạc nhiên về câu trả lời của bố. Nó cứ đinh ninh trong cuộc đời của ḿnh một cây chuối ít nhất cũng phải cho vài buồng quả.

“Khi buồng chuối chín cũng là lúc cây chuối mẹ chết đi.” – Bố nói thêm.

Thực vậy, nếu có dịp quan sát một cây chuối mang một buồng quả chín ta sẽ thấy: Lá của cây chuối mẹ héo rũ và xác xơ, và thân của nó oằn xuống như sắp găy v́ nó phải mang trên ḿnh một buồng chuối nặng trĩu quả. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, khi buồng chuối chín hoàn toàn, cây chuối mẹ sẽ gục hẳn xuống.

Trong quá tŕnh nuôi buồng chuối, cây chuối mẹ đă hy sinh những phần tinh túy nhất của ḿnh – chất dinh dưỡng trong gốc, thân và lá – để dồn cho những quả chuối được chín, để dâng cho đời những trái chuối ngon ngọt.

Hóa ra lâu nay hàng ngày tôi vẫn ăn chuối và thỉnh thoảng vẫn nh́n thấy một bụi chuối mà không hề hay biết cây chuối tượng trưng cho một h́nh ảnh đẹp về sự hy sinh.

Cây tốt lại sinh trái tốt. Cây chuối từ đời này đến đời kia cứ tiếp tục dâng hiến, hy sinh để cho một mần sống mới phát triển. Phẩm chất của cây chuối không chỉ là thơm ngon, là chất bổ dinh dưỡng mà c̣n là bài học quư báu của t́nh yêu hy sinh đến quên cả tính mạng ḿnh. Đó là mẫu gương của sự hy sinh, của t́nh yêu bất diệt.

Tháng 11 là dịp để chúng ta nhớ tới biết bao hy sinh của những bậc làm cha mẹ đă quên ḿnh v́ chúng ta. Họ đă đánh đổi cuộc đời cho chúng ta sự sống, cho chúng ta tiếng cười và b́nh an. Họ đă một cuộc đời tận hiến thân ḿnh như cây chuối chỉ mong mang lại cho đời trái chin thơm ngon và chấp nhận gục ngă theo số phận an bài.

Vâng, khi nói đến cha mẹ, chúng ta không thể quên những hy sinh mà các ngài đă dành cho chúng ta. Điều này đă thể hiện qua biết bao ca từ của lời hát, của những câu ca. Văn học luôn phát triển cùng với những vần thơ ca tụng về t́nh cha t́nh mẹ. Và có lẽ, từ bé đến già, không nhiều th́ ít, ai cũng cảm thấy thấm thía ơn đức cao cả của mẹ cha:

“Công cha đức mẹ cao dày

Cưu mang trứng nước những ngày c̣n thơ

Nuôi con khó nhọc đến giờ

Trưởng thành con phải biết thờ song thân”.

“Biết thờ song thân”, thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:

“Nuôi con buôn tảo bán tần

Chỉ mong con lớn nên thân với đời

Những khi trái nắng trở trời

Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên

Trọn đời vất vả triền miên,

Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.

Thế nên, nếu so sánh công đức của mẹ hiền như non cao cũng chưa xứng đáng:

“Ai rằng công mẹ như non

Thực ra công mẹ lại c̣n lớn hơn”.

T́nh thương của cha mẹ thật lớn lao. T́nh thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con th́ đời con thêm tươi sáng:

“Ví dầu cầu ván đóng đinh,

Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.

Khó đi mẹ dắt con đi,

Con đi trường học mẹ đi trường đời”.

Vậy, những t́nh yêu mà cha mẹ dành cho chúng ta, các ngài cần ǵ nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, v́ tiền bạc các ngài dành giụm để cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, v́ tuổi ǵa chẳng c̣n ham muốn những tham sân si của ḍng đời. Các ngài cần t́nh yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài c̣n sống. Niềm mơ ước đó đă thể hiện qua những lời mẹ ru con:

“Ai về tôi gửi buồng cau,

Buồng trước kính Mẹ, buồng sau kính Thầy.

Ai về tôi gửi đôi giầy,

Pḥng khi mưa gió để Thầy Mẹ đi”.

Trong đạo hiếu đôi khi những người con c̣n dám chấp nhận hy sinh hạnh phúc, hy sinh cuộc đời riêng tư của ḿnh, một ḷng chỉ quyết phụng dưỡng mẹ cha:

“Ơn hoài thai, to như bể!

Công dưỡng dục, lớn tợ sông!

Em nguyện ở vậy không chồng,

Lo nuôi cha mẹ hết ḷng làm con”.

Không chỉ ở nhà mới phụng dưỡng cha mẹ mà ngay cả khi sang nhà chồng hay khi làm ăn nơi xa vẫn một niềm lắng lo, vẫn canh cánh bên ḷng một cuộc đời già nua của cha mẹ:

“Chim đa đa đậu nhánh đa đa,

Chồng gần không lấy, để lấy chồng xa.

Mai sau cha yếu, mẹ già.

Bát cơm đôi đũa, kỹ trà ai dâng?

Ḷng thảo hiêu ấy được tỏ bày một cách chân thành khi các ngài đă qua đời, luôn cầu nguyện, thắp hương tưởng nhớ mẹ cha.

Giáo Hội Công Giáo mời gọi chúng ta lấy tinh thần thảo hiếu của người Việt vào trong đời sống tôn giáo bằng việc dùng tháng 11 như là tháng ân hiếu mẹ cha.

Đạo hiếu luôn dạy chúng ta “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đạo hiếu luôn nhắc nhở chúng ta phải tỏ ḷng hiếu thảo với cha mẹ. Xin cho chúng ta luôn sống thảo hiếu với cha mẹ. Khi c̣n sống biết kính trọng vâng lời. Khi các ngài đă qua đời luôn nhớ đến các ngài trong kinh tối, kinh sáng và trong thánh lễ hằng ngày. Amen.

[Mục Lục]

Bài 8. Lịch sử ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn

LM. Nguyễn Phước

Ngay từ thời tiên khởi, Giáo Hội đă khuyến khích chúng ta cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh Augustine viết, “Nếu chúng ta không lưu tâm ǵ đến người chết, th́ chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ.” Tuy nhiên, các nghi thức cầu cho người chết có tính cách dị đoan thời tiền-Kitô Giáo đă ảnh hưởng mạnh mẽ đến nỗi măi cho đến đầu thời Trung Cổ, nhờ các ḍng ẩn tu có thói quen cầu nguyện cho các tu sĩ đă qua đời hàng năm th́ một nghi thức phụng vụ cầu cho người chết mới được thiết lập.

Vào giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Tu Viện Trưởng ḍng Cluny, ra lệnh rằng mọi tu viện ḍng Cluny phải cầu nguyện đặc biệt và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2 tháng Mười Một, ngay sau lễ Các Thánh. Truyền thống này được lan rộng và sau cùng được Giáo Hội chấp nhận đưa vào niên lịch Công Giáo La Mă.

Ư nghĩa thần học làm nền tảng cho ngày lễ này là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. V́ ít có ai đạt được một đời sống trọn hảo, mà hầu hết đă chết đi với vết tích tội lỗi, do đó cần có thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn ấy được đối diện với Thiên Chúa. Công Đồng Triđentinô xác nhận có luyện tội và nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết.

Sự dị đoan vẫn c̣n dính dấp đến ngày lễ này. Thời trung cổ người ta tin rằng các linh hồn trong luyện tội có thể xuất hiện vào ngày lễ này dưới h́nh thức các phù thủy, các con cóc hay ma trơi. Và họ đem thức ăn ra ngoài mộ để yên ủi người chết.

Tuy nhiên việc cử hành lễ với tính cách tôn giáo vẫn trổi vượt. Người ta tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay đi thăm mộ người thân yêu đă qua đời và quét dọn, trang hoàng với nến và hoa.

***

Có nên cầu nguyện cho người chết hay không là một tranh luận lớn khiến chia cắt Kitô Giáo. V́ sự lạm dụng ơn xá trong Giáo Hội thời ấy nên Luther đă tẩy chay quan niệm luyện tội. Tuy nhiên, đối với chúng ta, cầu cho người thân yêu là một phương cách cắt bỏ sự chia ĺa với người chết. Qua lời cầu nguyện, chúng ta cùng đứng với những người thân yêu, dù c̣n sống hay đă ra đi trước chúng ta, để dâng lời cầu xin lên Thiên Chúa.

***

“Chúng ta không thể coi luyện tội là một nhà tù đầy lửa cận kề với hỏa ngục – hoặc ngay cả “một thời gian ngắn của hỏa ngục.” Thật phạm thượng khi nghĩ rằng đó là một nơi chốn mà Thiên Chúa bủn xỉn đang ḅn rút từng chút thân xác… Thánh Catherine ở Genoa, vị huyền nhiệm của thế kỷ 15, viết rằng “lửa” luyện tội là t́nh yêu Thiên Chúa “nung nấu” trong linh hồn đến nỗi, sau cùng, toàn thể linh hồn ấy bừng cháy lên. Đó là sự đau khổ của ḷng khao khát muốn được xứng đáng với Đấng được coi là đáng yêu quư vô cùng, họ đau khổ v́ sự mơ ước được kết hợp đă cầm chắc trong tay, nhưng lại chưa được hưởng thật trọn vẹn” (Leonard Foley, O.F.M., Tin Chúa Giêsu).

Lạy Chúa Giêsu,

nếu người ta cứ phải sống măi trên cơi đời này

th́ thật là phiền toái.

Nhưng cái chết vẫn làm chúng con đau đớn

v́ phải chia tay với những người thân yêu,

v́ bao mộng mơ, dự tính c̣n dang dở.

Xin cho chúng con đừng nh́n cái chết

như một định mệnh nghiệt ngă và phi lư,

nhưng như một hành tŕnh trở về nguồn cội yêu thương.

Lạy Chúa Giêsu, trước cái chết thập giá,

Chúa đă run sợ, nhưng không tháo lui,

và Chúa đă chết trong niềm vâng phục tín thác,

để trở nên người đầu tiên bước vào cơi sống Vĩnh Hằng.

Xin cho chúng con nghe được lời dạy dỗ của cái chết.

Cái chết cho thấy cuộc sống mong manh, ngắn ngủi,

chính v́ thế từng giây phút trôi qua thật quư báu.

Cái chết bất ngờ mời gọi chúng con luôn tỉnh thức.

Cái chết nhắc nhở chúng con là khách lữ hành

đang trên đường về quê hương vĩnh cửu.

Sống một đời và chết một lần.

Lạy Chúa, đó là thân phận làm người của chúng con.

Xin dạy chúng con biết cách chết nhờ biết cách sống.

Amen! (theo Maranatha 89)

[Mục Lục]

Bài 9. Tưởng nhớ người đă ra đi

Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long

Khi tưởng nhớ đến người đă qúa cố, tâm t́nh buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người c̣n đang sống trên trần gian.

Tâm t́nh này đạo đức và rất t́nh người. Tâm t́nh này cũng dẫn đưa chúng ta đến suy nghĩ về những khác biệt trong đời sống của con người. Nhưng mọi người đều có ngày mở mắt chào đời từ trong cung ḷng mẹ đi ra. Và ai cũng có ngày sau cùng của đời sống rồi được bọc trong cỗ áo quan chôn vùi dưới ḷng đất.

Những người đă ra đi khỏi cuộc sống trần gian về thế giới bên kia và những người c̣n đang sống, trước sau vẫn thuộc về nhau. Tất cả đă cùng chung sống với nhau. Chúng ta và họ đă cùng chia sẻ cuộc sống niềm tin, cuộc sống t́nh người với nhau.

Họ đă ra đi. Nhưng họ vẫn hằng hiện diện trong trái tim t́nh yêu mến của chúng ta. Họ vẫn hằng sống động trong tâm t́nh biết ơn của chúng ta, cùng trong những kỷ niệm ngày đă cùng nhau sống trải qua.

Mỗi khi cùng nhau dâng thánh lễ tưởng nhớ đến người qúa cố, chúng ta muốn nói lên: Không chỉ một ḿnh tôi làm việc này. Nhưng tất cả mọi người trong thánh đường đang cùng dâng thánh lễ cũng tưởng nhớ đến thân nhân của họ đă qúa cố.V́ cuộc đời ai mà không có lần đau buồn chia ĺa vĩnh biệt người thân của ḿnh đă qua đời.

Và trong thánh lễ tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô không chỉ chúng ta người c̣n đang sống, mà cả những người đă qúa cố cùng quây quần bên bàn tiệc thánh lễ: Tôi tin các Thánh cùng thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.

Bánh Thánh, Ḿnh Máu Chúa Giêsu nối kết người c̣n sống và người đă qua đời lại với nhau trong niềm tin và t́nh yêu mến.

Với niềm tin và tâm t́nh yêu mến chúng ta hôm nay:

1. Tưởng nhớ đến Tổ tiên, Ông Bà, cha mẹ đă ra đi về cùng Thiên Chúa.

Họ là những người đă sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người khôn lớn. Họ là những người đă không chỉ nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa, bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức khỏe. Nhưng họ đă hy sinh suốt cả cuộc đời làm tṛn nhiệm vụ là cha mẹ được Thiên Chúa giao phó, nuôi dạy uốn nắn đời sống đức,tin tinh thần đạo đức của chúng ta.

T́nh yêu đó, công ơn đó xin muôn đời ghi nhớ, và mỗi khi dâng Thánh lễ chúng con đều nhớ đến và mang dâng lên bàn thờ Chúa.

2. Tưởng nhớ đến những người thân yêu ruột thịt trong gia đ́nh đă an giấc ngàn thu: họ là chồng hay vợ; là con cái, cháu chắt, anh chị em, cậu cô chú bác, cô d́.

Với họ chúng ta đă cùng nhau trải qua những chặng đường đời sống vui buồn cay đắng ngọt bùi, đă cùng nhau sống những giờ phút thành công cũngnhư thất bại, hy vọng có lo âu sợ sệt cũng có. Một phần đời sống của ta từ nơi họ và một phần đời sống của họ cũng từ nơi ta.

Ân nghĩa, t́nh yêu và những kỷ niệm này luôn hằng khắc ghi trong tâm khảm ngướ c̣n đang sống, và xin dâng lên bàn thánh hợp cùng hy lễ Chúa Giêsu trên thánh giá.

3. Xin tưởng nhớ đến các linh mục, những người được Thiên Chúa và Hội Thánh trao nhiệm vụ săn sóc việc tinh thần đạo đức cho các tín hữu trong các xứ đạo. Sau những năm tháng âm thầm hy sinh làm việc tông đồ, họ đă nghe tiếng Chúa gọi trở về đời sau.

Sự hy sinh và ḷng quảng đại sống rao giảng, làm nhân chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa trong các xứ đạo của linh mục là ân đức của Chúa ban tặng cho con người.

Người tín hữu Chúa Kitô vui mừng và cảm thấy an ủi v́ có linh mục, vị hướng dẫn tinh thần, là người cùng đồng hành với trong cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa.

Linh mục vui và cảm thấy được nâng đỡ v́ có Thiên Chúa ở cùng ông trong mọi hoàn cảnh và nhất là được cùng chung sống xây dựng phát triển đời sống niềm tin với mọi người tín hữu.

Các cha nằm nơi nghĩa trang sâu trong ḷng đất mẹ. Nhưng những người tín hữu xưa kia đă cùng chung sống trải qua trong xứ đạo không quên ơn các cha. Nơi bàn thánh xưa kia các cha cùng dân Chúa dâng thánh lễ, ngày nay khi dâng thánh lễ họ cùng hợp với của lễ Chúa Giêsu nhớ đến cầu nguyện cho các cha.

4. Xin nhớ đến các Nữ Tu cùng các Thầy Ḍng đă chọn đời sống thanh tịnh theo tiếng gọi của Chúa trong Hội Ḍng, đă được Thiên Chúa gọi về đời sau.

Xưa kia các Thầy, các chị em Nữ Tu đă nghe tiếng Gọi của Chúa từ trời cao từ bỏ mọi sự có thể có và được phép hưởng dùng, chọn nhận sống đời khiết tịnh nhiệm nhặt, đời phục vụ cho ích chung của nước Chúa và cho con người.

Đời sống từ bỏ hy sinh vác thánh giá và âm thầm cầu nguyện của các Thầy, các chị em Nữ tu là nhân chứng sống động cho t́nh yêu Thiên Chúa giữa trần gian.

Xin dâng lên bàn thờ Chúa trong các thánh lễ cầu cho các Thầy, các anh chị em Nữ tu.

5. Xin nhớ đến các Bạn Bè người quen thân, các vị ân nhân ngày xưa đă cùng nhau trải qua những giờ phút vui buồn, những kỷ niệm êm đẹp. Giờ đây họ đă thành người thiên cổ.

Xin cám ơn ḷng ưu ái t́nh người chúng ta đă trao cho nhau và xin dâng các Bạn lên bàn thờ Thiên Chúa, Đấng là đời sống và ơn cứu chuộc của con người chúng ta.

6. Xin nhớ đến những nạn nhân đă qua đời v́ thiên tai băo lụt, hạn hán, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật và những người mồ côi bơ vơ không có ai nhớ đến.

Họ tất cả cũng là con Chúa và niềm tin dạy chúng ta: Họ cũng được Thiên Chúa cứu độ. Nơi bàn tiệc thánh Chúa Giêsu họ có chỗ ngồi đồng hàng với tất cả mọi người.

Xin cùng với ánh nến t́nh tương liên đới dâng lên bàn thờ Thiên Chúa nguồn t́nh yêu thương lời kinh cầu nguyện cho linh hồn họ đă về nơi chín suối ngàn thu.

7. Xin tưởng nhớ đến những thành viên trong Cộng đoàn chúng ta đă được Thiên Chúa gọi trở về đời sau.

Cộng đoàn chúng ta được thành lập cho chúng ta, và do chúng ta cùng chung lưng đấu cật xây dựng nên từ những chục năm qua. Những hy sinh đóng góp của mỗi người trong cộng đoàn là những viên gạch xây dựng nên ngôi nhà cộng đoàn đức tin sống động vào Thiên Chúa Ba ngôi.

Mỗi khi nhớ đến những người xưa kia đă cùng chung vai sát cánh xây dựng nên Cộng đoàn, mà giờ đây họ đă ra đi về với Chúa trước chúng ta, Cộng đoàn chúng ta ngậm ngùi nhớ đến họ với ḷng biết ơn và cảm phục.

Xin cùng dâng lời kinh tiếng hát ḥa lẫn trong làn hương khói và ánh nến cầu nguyện cho họ trước bàn thờ Thiên Chúa Ba ngôi.

8. Xin nhớ đến các em hài nhi đă qua đời hay bị phá hủy sự sống ngay khi đang c̣n là thai nhi trong thời kỳ phát triển thành h́nh nơi cung ḷng mẹ.

Các em thai nhi vô tội bị phá hủy h́nh hài sự sống là những Thiên Thần bé nhỏ tí hon của con người trước ṭa Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống và ḷng nhân lành.

Xin thắp những ngọn nến hồng nhỏ bé nhớ về các Thiên Thần vô tội. Các Thiên Thần tí hon vô tội là những vị cầu bầu cho chúng ta trước ngai ṭa Thiên Chúa t́nh yêu.

9. Trước nấm mồ chúng ta muốn đọc lại sứ điệp của những người đă ra đi về đời sau nhắn gửi lại:

- Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới ḷng đất, hay đă bị thiêu hủy thành tro bụi. Nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Đấng sinh thành ra tôi.

- Tôi nằm sâu trong ḷng nấm mồ này. Nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ linh hồn tôi và sẽ cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt, như Ngài đă cho Chúa Giêsu sống lại từ cơi chết.

- Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng xi-măng cát đá. Nhưng tôi hằng có tâm t́nh yêu mến Thiên Chúa của tôi. V́ Ngài là Cha đời tôi, Ngài hằng yêu mến tôi.

Và tôi tâm niệm rằng:

- Những ǵ ngày xưa tôi xây dựng làm ra, giờ này tôi phải bỏ lại.

- Những ǵ ngày xưa tôi thu góp tích lũy để dành, giờ này tôi không mang đi được.

- Nhưng những ǵ ngày xưa tôi cho đi, bây giờ tôi nhận lănh trở lại.

[Mục Lục]

Bài 10. Bài giảng của ĐTGM. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn

Anh chị em thân mến,

Biến cố ngày 11.9 tại Hoa Kỳ đă làm chúng ta bàng hoàng. Mỗi lần nhắc lại hoặc thấy những h́nh ảnh đó, chúng ta không khỏi buồn sầu, lo lắng, tức giận. Có thể mỗi người nh́n biến cố đó với một góc độ khác nhau. Nhưng có một góc độ có lẽ ít người nghĩ đến. và đó là vấn đề mà chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ.

Trên thế giới từ xưa tới nay, không phải chỉ có biến cố ngày 11.9, mà c̣n vô vàn biến cố khác, chẳng hạn sự kiện hai quả bom nguyên tử ở Nhật Bản năm 1945. có một câu hỏi được đặt ra: Thế th́ số phận của những người đă chết trong các biến cố đó ra sao?

Ngày nay người ta chỉ nói đến sự trả thù, phải trả thù cho những người chết oan, trả thù cho những người đau khổ. Công lư thế gian, công lư của con người thực hiện ra sao chúng ta không biết, nhưng về mặt đức tin, chúng ta sẽ suy nghĩ như thế nào??? Phải dựa vào Lời Chúa, v́ chính Chúa muốn chúng ta hăy dùng Lời của Ngài để an ủi nhau, cách riêng trong những biến cố thảm thương như vậy.

Bài đọc I của ngày lễ hôm nay, cách nào đó, khiến chúng ta phải suy nghĩ. v́ nhiều người chết rất bi thương, cái chết không xứng hợp chút nào với đời sống của họ, người ta chỉ c̣n biết thương tiếc và nghĩ rằng như thế là chấm dứt một cuộc đời, chấm dứt cách buồn thảm, tràn đầy thất vọng. Thế nhưng Lời chúa lại nói với chúng ta: Những người công chính khi chết đi, họ sẽ được đưa vào trong vinh quang của Thiên Chúa, nếu cái chết của họ hay sự đau khổ của họ xảy đến cũng giống như vàng phải được trui luyện trong lửa, để chắt ra chất vàng tinh ṛng và loại bỏ những thứ cặn bă.

Con người mà Thiên Chúa đă tạo dựng, yêu thương và cứu chuộc. chính là vàng. (Nếu chúng ta có th́ giờ để hiểu rằng, trên Thiên Quốc có biết bao nhiêu người công chính, bao nhiêu con người đă được Thiên Chúa rước và cho vào trong vinh quang của Ngài. Đó chỉ mới nói về những con người được tạo dựng ở trần thế. C̣n thế giới của thiên thần, thế giới thần linh, tất cả đều ở trong vinh quang đó). Có thể nào chúng ta vào Nước Trời với một tấm áo đầy bụi bặm, nhơ bẩn. phải được tinh luyện, sự tinh luyện đó không phải bởi sức lực của chúng ta, nếu bởi chúng ta chắc chúng ta sẽ thất vọng v́ thấy rơ sự yếu đuối của ḿnh, th́ đây, thánh Luca nói trong bài Phúc Âm của ngài: Khi suy niệm về sự chết, khi cầu nguyện cho những người đă chết, bao giờ chúng ta cũng phải đặt trên nền tảng Đức Kitô Tử Nạn-Phục Sinh, không đặt trên nền tảng và không đi từ chân lư đó th́ không có một thắc mắc hay một vấn nạn nào được giải quyết, được soi sáng.

Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, cao điểm được thể hiện trên núi Canvariô (dù rằng chưa Phục Sinh), Chúa đă biểu lộ vinh quang của Ngài như lời thánh Gioan: Chính khi Ngài được treo dựng lên nơi cao, vinh quang chói ngời của Ngài sẽ tỏa ra. Vậy thánh Luca cho chúng ta thấy: một thế giới sa đọa tội lỗi, (và thế giới đó) đă nhạo cười, đă đóng đinh Chúa Giêsu và đưa Ngài đến cái chết thảm thê trên thập giá. Trong thế giới đó, c̣n có những con người thiện tâm, có những con người sẵn sàng hoán cải, dù rằng trước mắt thế gian con người đó xứng đáng với cái chết (v́ cũng đă bị treo trên thập giá). Nhưng Chúa Giêsu nói: Quả thật, ngày hôm nay ngươi sẽ được vào trong Nước Thiên Đàng.

Nhưng nếu chỉ thấy Ngài chịu chết th́ làm sao chúng ta được sống lại? Cái chết của Ngài đem đến những ǵ cho chúng ta? V́ nếu Ngài chết mà Ngài không sống lại th́ cái chết của Ngài cũng vô ích, t́nh thương của Ngài cũng vô ích!

Chúa Giêsu chết và Ngài đă Phục Sinh. Chính Ngài là đầu mối của tất cả mọi việc, chính nơi Ngài mà chúng ta (những người cách này hay cách khác đă tin vào Ngài) t́m được niềm tin và hy vọng. Nhưng không chỉ những người được Rửa Tội mới gọi là tin vào Ngài. Có những người rất thành tâm, thiện chí, nhưng v́ một hoàn cảnh nào đó. họ vẫn cố gắng sống theo lương tâm, Ngài vẫn đón nhận trong t́nh yêu và trong Ơn Cứu Chuộc của Ngài.

Chúng ta cám ơn người trộm “lành”, v́ nhờ có anh, như một dấu chứng nếu chúng ta tin vào Ngài “Lạy Thầy, khi vào Nước Thiên Đàng xin nhớ đến con”. Anh ấy biết ǵ về Chúa Giêsu? Biết ǵ về Mầu Nhiệm Nhập Thể? Biết ǵ về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc? Biết ǵ về Mầu Nhiệm sống lại??? Nhưng anh đại diện cho một số đông trên trần thế này, một cách nào đó vẫn hướng về một sự linh thiêng, hướng về một Đấng Tối Cao, muốn làm những việc tốt lành. Những người đó sẽ được Máu của Chúa đổ ra để thanh tẩy tội lỗi và cho vào Nước Trời. 6000 người chết trong một khoảnh khắc, chắc chắn có một số đông được t́nh yêu và Máu Chúa đổ ra để xóa tội lỗi và cứu chuộc họ. Tại sao chúng ta cứ muốn ấn định cho Thiên Chúa những người được vào Nước Trời, mà không đặt niềm tin của chúng ta nơi lượng khoan hồng từ bi và nơi công lao của Ngài? V́ Ngài đă hạ ḿnh chịu chết trên thập giá, nên Thiên Chúa Cha đă tôn vinh Ngài và đặt mọi loài dưới quyền của Ngài, trong cái chết và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài xin với Chúa Cha là hăy tha thứ, hăy cứu độ, hăy chuộc lại hết những tâm hồn (lúc này hay lúc khác), đă có sự tin tưởng vào Ngài. Từ đó chúng ta thấy rằng sẽ không bao giờ t́m được sự công bằng nơi trần thế này, sự công bằng và yêu thương chỉ t́m thấy nơi một ḿnh Chúa mà thôi.

Nếu có được niềm tin đó, cuộc đời trở nên sáng tỏ hơn. Đứng trước các biến cố, chúng ta đỡ buồn phiền thất vọng, chúng ta thấy cuộc đời vẫn đáng sống và những đau khổ xảy đến triền miên vẫn có ư nghĩa, vẫn có giá trị, v́ chúng ta được tham dự vào Mầu Nhiệm Tử Nạn của Đức Kitô để được sống lại với Ngài.

Vậy trong tháng các linh hồn, với niềm tin đó chúng ta sẽ thấy được những điều ǵ?

1. Những linh hồn trong lửa luyện ngục là những vị thánh, tuy không được tuyên phong trên bàn thờ, cũng chưa được hưởng vinh quang, nhưng phần rỗi th́ đă chắc chắn. Không phải v́ họ ít tội, nhưng v́ t́nh yêu của Thiên Chúa và công nghiệp của Con Một Ngài. Giờ đây họ chịu thanh luyện để trở nên tinh ṛng, để mang một chiếc áo cưới thật mới mẻ vào dự tiệc cưới, vào Nước Trời. Không ai có thể chia cắt, không ǵ làm họ mất niềm hy vọng vào đời sống vinh phúc đó.

2. Đàng khác, các linh hồn giờ đây không làm được ǵ cho họ nữa, v́ thời gian để lập công nghiệp đă qua (không phải họ không biết, nhưng cũng giống chúng ta biết rằng giây phút đang sống là thời gian tích lũy công phúc, là thời gian chuẩn bị để được vào Nước Chúa. Chúng ta c̣n có th́ giờ, chúng ta hăy làm). Các vị ấy chỉ c̣n trông cậy vào ḷng nhân thứ của Chúa, Ngài kêu gọi và ban cho chúng ta được tham dự và tiếp tục sứ mạng cứu độ qua lời cầu nguyện, qua sự hy sinh hăm ḿnh, chúng ta sẽ giúp được các linh hồn đó.

Lẽ dĩ nhiên đừng nghĩ rằng Chúa phải chờ đời những lời cầu nguyện của chúng ta để Chúa cứu vớt, Ngài đă cứu vớt rồi. Nhưng Chúa muốn chúng ta sống trong sự thông hiệp, muốn cho chúng ta có sự liên đới hữu hiệu, Ngài tạo điều kiện để chúng ta thấy rằng: th́ ra chúng ta c̣n có thể làm được rất nhiều cho những người thân yêu của chúng ta. Biết đâu khi họ c̣n sống, chúng ta chưa có một tâm t́nh, chúng ta chưa đối xử tốt, th́ giờ đây chúng ta có một cơ hội rất tốt.

Phát xuất từ những tâm t́nh trên, cách đây hơn 1000 năm, ngày lễ cầu cho các linh hồn 02.11 được thiết lập, đó là niềm an ủi rất lớn cho những người c̣n sống, cho chúng ta có một phương tiện tuyệt hảo để yêu thương và biểu lộ t́nh yêu, cứu giúp những người ḿnh yêu thương. Ngày hôm nay, trong tháng này và suốt cả cuộc đời, chúng ta hăy tập nhân đức yêu thương, nhớ đến các linh hồn.

(Cách đây 100 năm, cũng có một nhà ḍng được thiết lập chỉ nhằm mục đích để cầu nguyện, ăn chay, hăm ḿnh cho các linh hồn trong lửa luyện ngục, mà điều đó tất cả chúng ta đều làm được).

3. Anh chị em nghĩ sao nếu những người nhờ lời cầu nguyện chúng ta, đă được về Thiên Đàng, được hưởng vinh quang Chúa mà các ngài lại quên chúng ta??? Chắc chắn trong vinh quang (và sự khôn ngoan) của Thiên Chúa, các ngài biết dưới trần thế này, đă có những con người yêu thương, cầu nguyện, hy sinh cho các ngài. chắc chắn lời cầu nguyện của các ngài cho chúng ta sẽ có uy tín và hiệu quả (lời cầu nguyện của chúng ta lúc th́ chia trí, lúc th́ không xứng đáng. đủ hết mọi lư do). Trong lịch sử Giáo Hội, nhiều biến cố cho thấy rằng: các thánh thông công là sự sống rất sinh động, không phải là một chân lư chết ngắt, nhưng là sự sống được diễn tả mỗi ngày. Khi chúng ta ngồi đây, chúng ta vẫn liên kết với các thánh trên trời và các linh hồn trong lửa luyện ngục để cầu nguyện và nâng đỡ nhau. Sống trong một sự liên đới như vậy, anh chị em có thấy chúng ta là những con người diễm phúc, là những con người rất giàu t́nh yêu thương, là những con người được nâng đỡ???

Khi tôi nói những điều này, các bạn trẻ lại càng phải suy nghĩ nhiều hơn, để thấy rằng trong từng giây phút, chúng ta phải sống cho có ư nghĩa, v́ từng giây phút của cuộc sống, có thể xây dựng hạnh phúc và phần rỗi cho rất nhiều người và cho chính bản thân chúng ta. Nhờ lời chuyển cầu của các thánh và các linh hồn trong lửa luyện tội (chúng ta tin rằng) chúng ta vẫn tiếp tục đón nhận hồng ân Chúa, đón nhận cách đặc biệt mỗi lần chúng ta cử hành thánh lễ, là lễ tế tạ ơn đồng thời là lễ tế đền tội cho chúng ta.

[Mục Lục]

Bài 11. Ḷng biết và thảo kính đối với tổ tiên

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Kính thưa quư OBACE, bầu không khí của những ngày cuối năm dường như làm cho con người vội vă tất bật hơn, ai cũng vội vàng và tranh thủ thời gian để hoàn tất kế hoạch của một năm. Có lẽ cũng v́ mải chạy theo ḍng thời gian và công việc, khiến cho nhiều người đă quên cả sự hiện diện của người bên cạnh, quên cả người thân đang ở trong cùng một mái nhà. Trong không khí vội vàng ấy, th́ Giáo Hội đă dành cả một tháng cuối năm để nhắc cho người tin hữu nhớ rằng: dù mỗi người có vất vả bon chen đến đâu th́ cũng phải nhớ đến chung cuộc đời ḿnh, và cái chết là điểm hẹn chung của mỗi người. Cũng trong tâm t́nh ấy, Giáo hội nhắc cho mọi người nhớ đến và cầu nguyện cho các bậc tổ tiên ông bà, cha mẹ, người thân, những người đă ra đi trước chúng ta và đă đang an nghỉ trên mảnh đất này, đồng thời biết quư trọng, biết ơn và thảo hiếu với những bậc sinh thành những người đang c̣n sống.

Tất cả chúng ta sẽ phải chết, đó là sự thật không thể thay đổi, thế nhưng điều quan trọng là chúng ta sẽ chết như thế nào và sau cánh cửa sư chết, điều ǵ sẽ đến với chúng ta, niềm vui sướng hạnh phúc, hay đau khổ hối hận đời đời, điều đó sẽ tùy thuộc ở nơi mỗi người biết sống hôm nay như thế nào. Tất cả sẽ phải chết, v́ đó là thân phận của con người có sinh th́ có tử, không ai có thể trốn tránh được. Cái chết nó vốn là tiến tŕnh tự nhiên, nhưng từ khi con người phạm tội, cái chết nó c̣n mang một ư nghĩa khác, nó trở thành h́nh phạt cho con người, chính v́ thế, cái chết nó trở nên kinh khủng cho con người. V́ sợ hăi, nên con người t́m cách tránh né nó, không dám đương đầu đối diện với nó, và v́ thế nhiều người c̣n t́m cách lẩn trốn nó bằng một cuộc sống ồn ào náo nhiệt, một cuộc sống bận rộn với công việc và quay cuồng với tiền bạc của cải, và khi cái chết đến khiến họ tiếc nuối và sợ hăi.

Mọi người đều phải chết, nhưng điều quan trọng là mỗi người sẽ chết như thế nào và điều ǵ sẽ đến với chúng ta sau cái chết? Cứ nh́n vào những nấm mồ của những người an nghỉ, chúng ta có thể thấy, nhiều người khi sinh thời họ đă từng là những con người nổi tiếng, ngang dọc khắp nơi, và bây giờ cũng chỉ có một nấm mồ, điều đó chẳng c̣n ư nghĩa ǵ, điều quan trọng là t́nh trạng hiện nay của họ ra sao, họ đang ở nơi nào? Nh́n như thế để mỗi người có dịp kịp thời điều chỉnh lại nếp sống của bản thân, chúng ta chỉ có thể bước vào nhà của Chúa nếu từ bây giờ chúng ta yêu mến Chúa và chọn Chúa. Chúng ta sẽ phải để lại tất cả ở trần gian và ra đi với hai bàn tay trắng, v́ chúng ta không mang ǵ vào trần gian, th́ chúng ta cũng sẽ không thể đem theo bất cứ thứ ǵ ra khỏi thế gian. Chỉ một thứ tài sản duy nhất chúng ta có thể mang theo đó là t́nh yêu đối với Chúa và t́nh thương của chúng ta đối với anh em, và chỉ có một thứ hành lư duy nhất là các việc lành việc tốt, việc bác ái và hy sinh.

Mỗi lần ra đất thánh này không chỉ nhắc cho chúng ta về cái chết, mà c̣n dịp nhắc cho chúng ta biết cách sống, phải sống thế nào cho trọn đạo làm người và đạo làm con đối với ông bà tổ tiên. Đứng bên nấm mồ của người thân, sẽ không chỉ có những giọt nước mắt thương nhớ, mà c̣n có những giọt nước mắt của sự hối hận muộn màng v́ đă sống vô t́nh hay phũ phàng với người đă khuất.

Ngày hôm nay trong xă hội mọi sự đều tăng giá, chỉ có đạo đức làm người là giảm giá và mất giá trầm trọng, con người đối xử với nhau càng ngày càng như dă thú, t́nh cảm gia đ́nh anh em ruột thịt cũng bị coi như hàng hóa, đạo làm con đối với cha mẹ cũng bị tính toán, bao nhiêu cảnh đối xử tệ bạc với mẹ cha đang diễn ra từng ngày xung quanh chúng ta. Có nhưng người đă không tiếc lời chửi mắng cha mẹ, coi cha mẹ không bằng một đứa ôsin trong gia đ́nh, không chỉ chửi bới, nhiều kẻ c̣n đánh đập nhục mạ những đấng đă dày công sinh thành dưỡng dục ḿnh, người ta có thể bỏ ra bạc triệu cho những bữa nhậu với bạn bè, nhưng cha mẹ lại không được một lời hỏi thăm, một tấm bánh. Đám tang tổ chức cho lớn, xây mộ cho to cho đắt tiền, việc làm đó không phài là báo hiếu, không phải là ḷng biết ơn, mà nó chỉ c̣n là giả h́nh, là phô trương che mắt thiên hạ.

Thảo hiếu biết ơn tổ tiên và các bậc sinh thành không chỉ là bổn phận của đạo làm con, mà c̣n là một đ̣i buộc của Đạo Chúa: Thứ bốn thảo kính cha mẹ. Giới răn này đ̣i buộc chúng ta phải hết ḷng yêu mên, kính trọng, và biết ơn đối với cha mẹ của ḿnh và cả cha mẹ vợ cha mẹ chồng của ḿnh, khi các ngài c̣n sống và cả khi các ngài đă qua đời; V́ chính cha mẹ là những đấng đă cộng tác với Thiên Chúa để sinh ra chúng ta, nuôi cho chúng ta khôn lớn với biết bao vất vả gian nan, bao hy sinh, bao mồ hôi nước mắt. Cha mẹ chính là những người đă hy sinh cả cuộc đời để nuôi chúng ta khôn lớn và dạy chúng ta nên người, v́ thế chúng ta mắc nợ các ngài món nợ sư sống và món nợ của t́nh yêu thương. Hăy kính trọng các Ngài, thông cảm an ủi khi các ngài tuổi cao sức yếu, đừng nặng lời, đừng khiến các ngài tủi thân, hăy chịu đựng và chăm sóc các ngài, như ngày xưa các ngài cũng đă từng phải chịu đựng và chăm sóc cho chúng ta. Hăy lo lắng cho phần thiêng liêng của cha mẹ bằng việc giúp các ngài được lănh nhận các bí tích và ơn Chúa để nâng đỡ cho tuổi già của các ngài, hăy làm tất cả những ǵ tốt nhất cho cha mẹ khi các ngài c̣n sống, v́ khi cha mẹ mất đi, sẽ măi măi không bao giờ t́m lại được.

Không chỉ biết ơn khi cha mẹ c̣n sống, mà c̣n phải biết ơn cha mẹ khi các ngài đă qua đời, bằng việc đọc kinh cầu nguyện, bằng việc hy sinh hăm ḿnh, dâng lễ cầu nguyện cho các ngài, nhắc nhở cho con cháu biết ơn các bậc tổ tiên. Hăy nhớ đến cha mẹ chồng cha mẹ vợ bằng việc chu toàn việc hiếu thảo hương khói, giỗ chạp trong gia đ́nh, đừng để mang tiếng, những người có đạo là những người vô ơn bất hiếu với tổ tiên.

Hăy biết ơn và thảo hiếu với tổ tiên bằng việc giữ lấy nề nếp gia phong của gia đ́nh, thực hiện và làm phát triển tài sản tinh thần mà cha ông đă để lại cho con cháu qua việc giáo dục con cái nên người, qua việc giữ ǵn đạo đức gia phong của gia tộc, bảo vệ danh dự của tổ tiên, đừng để cho đồng tiền cho sự nghèo đói làm cho chúng ta trở nên bần tiện nhỏ nhen. Đừng quên giáo dục con cái biết sống hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ, bằng chính gường sáng của ḿnh qua việc tôn kính thào hiếu với ông bà, v́ sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy; chúng ta gieo giống nào th́ sẽ gặt quả ấy, chúng ta vạch mực đến đâu, th́ con cái chúng ta sẽ đi đến đó. V́ thế không có bài học nào sâu đâm và lay động cho bằng bài học bằng gương sáng của cha mẹ.

Điều răn thứ bốn của Thiên Chúa đồng thời cũng đ̣i buộc bổn phận của cha mẹ đối với con cái, trước hết là bổ phận giáo dục, nuôi dưỡng. Hăy giáo dục dạy dổ cho con cái sống đúng với đạo làm người làm con Chúa, sống đúng với phẩm giá con người. Đừng quá chú trong đến việc học hành văn hóa mà bỏ qua hoặc coi nhẹ việc giáo dục đức tin cho con cái, và xây dựng nếp sống đạo đức cho cả gia đ́nh. Cha mẹ hăy tạo nên một bầu khí đạo đức và cầu nguyện cho gia đ́nh, và trở thành gương sánh cho con cái trong việc cầu nguyện và các việc đạo đức. Hăy tập cho con cái yêu mến và hăng say làm việc tông đồ trong giáo xứ theo lứa tuổi của ḿnh, v́ khi c̣n nhỏ, các em có thói quen và tinh thần tông đồ, th́ sau này các em sẽ trở thành người tín hữu nhiệt thành. Hăy làm cho gia đ́nh ḿnh mỗi ngày trở nên ấm cúng thuận ḥa qua các giờ kinh sáng tối mỗi ngày, qua các bữa cơm chung đầm ấm. hăy cố gắng làm cho bữa cơm gia đ́nh thật sư là lúc mọi người được tràn ngập niềm vui và sự chia sẻ, đừng biến bữa cơm trở thành ṭa án để kết tội nhau.

Nhưng người cha, hăy thực sự là cột trụ trong đời sống của gia đ́nh, là điểm tựa cho vợ con và cả nhà. Các người mẹ hăy dùng đời sống đạo đức và sự đảm đang của một phụ nữ làm cho gia đ́nh thêm ấm cúng, hăy cùng nhau làm cho căn nhà cùa ḿnh rộn ră tiếng cười, đừng biến gia đ́nh ḿnh trở thành căn nhà trọ sáng đi tối về. Các người làm con hăy góp phần ḿnh làm vơi đi sự nhọc nhằn của cha mẹ bằng việc sống ngoan ngoăn vâng lời và chịu khó học tập và làm việc. Mỗi người hăy sống thế nào để khi ngườui tân có mất đi, ḿnh sẽ không phải hối hận v́ đă chưa làm được ǵ cho họ. Amen.

[Mục Lục]

Bài 12. Bài giảng của ĐGM. Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản

Anh chị em thân mến,

Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe là đoạn cuối của Lời nguyện Hiến Tế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ để dạy cho các ngài bài học yêu thương phục vụ trong khiêm tốn, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ về con đường tiến về nhà Cha: Ngài chính là con đường dẫn mọi người đến với Thiên Chúa. Không ai có thể đến được với Cha mà không qua Ngài. Ngài chính là vinh quang của Thiên Chúa Cha, ai thấy Ngài là thấy Cha. Ngài c̣n hứa ban Thánh Thần cho những ai yêu mến Ngài và tuân giữ mệnh lệnh của Ngài. Chúa Giêsu c̣n nói đến mối liên hệ giữa Ngài và các môn đệ qua h́nh ảnh của cành nho gắn liền với thân nho. Cành nào kết hợp với cây, sẽ được cây nuôi dưỡng và sinh nhiều hoa trái. Cành nào ĺa cây sẽ bị khô héo. V́ người môn đệ gắn liền với cuộc sống của Thầy, nên cũng được chia sẻ vinh quang cũng như sự đau khổ với Thầy. Nếu thế gian có ghét các môn đệ, là bởi họ không chấp nhận Chúa Giêsu, và bởi v́ các ngài không thuộc về thế gian. Và Chúa Giêsu an ủi các môn đệ: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được b́nh an.Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên Thầy đă thắng thế gian” (16,33).

Sau đó, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Lạy Cha, giờ đă đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đă ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời, đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất vầ chân thật, và nhận biết Đấng Cha đă sai đến, là Giêsu Kitô».

Chúa Giêsu có quyền ban sự sống đời đời cho những ai đến với Người. Và sự sống đời đời được ban cho người môn đệ là họ nhận biết Thiên Chúa Cha, Đấng Duy Nhất, để ngoài Ngài ra không c̣n tôn thờ đấng nào khác. Và nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng Chúa Cha sai đến trần gian làm Đấng Cứu Chuộc. Để có thể nhận biết Thiên Chúa Cha và Đấng Người sai đến là Đức Giêsu Kitô, con người phải biết đón nhận, tin vào Ngài, để Ngài dạy cho chúng ta cách sống của người con Thiên Chúa.

Và Chúa Giêsu cầu nguyện tiếp: «Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, th́ những người Cha đă ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đă ban cho con, v́ Cha đă yeu thương con trước khi thế gian được tạo thành».

Người môn đệ được chia sẻ điều kiện sống của Thầy, sự vâng phục trong sự hạ ḿnh và sự tôn vinh trong vinh quang.Sự chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Giêsu Kitô cũng là sự hiểu biết về t́nh yêu liên kết Chúa Cha và Chúa Con: chính trong sự hiệp nhất này mà nền tảng của sự hiện hữu con người t́m thấy chỗ đứng của ḿnh.

V́ người tin vào Chúa Giêsu và trở thành môn đệ của Ngài, hiện diện trong Chúa Ba Ngôi, nên người đó được tham dự vào sự sống của Thiên Cha: đó là sự sống đời đời. Chúa Giêsu ao ước là Ngài ở đâu th́ người tin vào Ngài cũng được ở đó. Nơ Chúa Giêsu ở không phải tùy thuộc vào nơi chốn, v́ Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và Chúa Giêsu luôn hiện diện với Chúa Cha.khi Chúa nhập thể làm người, Ngài hiện diện hữu h́nh giữa các môn đệ và vẫn liên kết với Thiên Chúa Cha. Khi Ngài chịu an táng trong mồ, các môn đệ không thấy Ngài, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện giữa các ông trong sự vắng mặt. Bằng chứng là sau khi sống lại, Chúa hiện ra với các môn đệ và Ngài biết rơ những điều họ lo lắng, nghi ngờ. Sau khi về trời ngự bên hữu Thiên Chúa, hứa Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện bên các môn đệ trong Thánh Thần, Đấng làm cho các môn đệ nhớ lại Lời Chúa Giêsu và bầu cử cho họ trước mặt Thiên Chúa.

V́ thế, trong khi đi rao giảng, các môn đệ vẫn luôn cảm nhận được sự hiện diện của Thầy Chí thánh bên cạnh. Dẫu cho các ngài sống trong điều kiện thuận tiện, hay chịu thử thách trăm bề, các ngài vẫn luôn gắn bó với Chúa Giêsu.

Anh chị em thân mến,

Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu giới thiệu Ngài là “Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn bánh này th́ có sự sống đời đời. Và bánh ta sẽ ban, chính là thịt TA, để cho thế gian được sống”. Ngài c̣n nhấn mạnh: “Ai ăn thịt và uống máu Ta th́ có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết”.

Bánh Hằng Sống là lương thực làm cho sống. Không phải như mân trong sa mạc chỉ nuôi dưỡng phần xác, Bánh Hằng Sống làm cho người ăn có được sự sống đời đời. Câu hỏi “làm thế nào có được sự sống đời đời”, là thao thức của nhiều người t́m đến với Chúa Giêsu. Người hướng dẫn họ tuân giữ Lề Luật theo một tinh thần mới, hoán cải đời sống và tin vào Đấng được Thiên Chúa sai đến.

Tin vào Chúa Giêsu không chỉ là một sự chấp nhận của lư trí, nhưng c̣n phải sống theo Lời Người và kết hợp mật thiết với Người. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa nhấn mạnh đến việc “ăn thịt và uống máu Người”

“Ăn thịt và uống máu Người” nói lên sự hiệp thông giữa người môn đệ và Chúa Giêsu, giống như h́nh ảnh cành nho gắn liền với thân nho. Những ai ăn và uống máu Người th́ có sự sống của Người thông truyền ngay khi c̣n ở đời này. Sự sống này không bị gián đoạn do cái chết, v́ Chúa hứa cho sống lại trong ngày sau hết. Giữa khoảng cách của cái chết và sự sống lại trong ngày sau hết, sự sống của Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng người tín hữu.

Tin vào Chúa Giêsu mang lại sự sống đời đời; “Như ông Môi-sê đă giương cao con rắn trong sa mạc. Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người th́ được sống muôn đời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đă ban Con Một, để ai tin vào Con của Người th́ khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3, 14-16)

Anh chị em thân mến,

những người thân của chúng ta đă tin vào Chúa Giêsu, đă cố gắng cả cuộc đời ḿnh để nên hoàn thiện như Chúa Cha, Đấng ngự trên trời, đă nổ lực không ngừng vượt lên trên những sự yếu đuối trong thân phận con người để bươc theo Chúa Giêsu trong đời sống thực tế của ḿnh. Chỉ có Chúa mới biết sự thiện chí và ḷng trung thành của mỗi người. Và cũng chỉ có Chúa đánh giá đúng mức những điều tốt đẹp hay sai lỗi.

Chúng ta tin rằng những người thân của chúng ta đă từng sống trong đức tin, sống trong niềm trông cậy, sống trong sự hoán cải không ngừng, chắc chắn đă nhận biết Thiên Chúa là Đấng hay thương xót, biết Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc. Dẫu cho những người thân của chúng ta bước vào một thế giới khác, một cách hiện hữu khác, chúng ta vẫn tin rằng các ngài đang thông hiệp với sự sống của Thiên Chúa. Và v́ thế, chúng ta tiếp tục cầu nguyện để họ được luôn sống trong sự sống đời đời trong khi trông chờ ngày sống lại cùng với Chúa Giêsu.

Trong tháng cầu nguyện cho các linh hồn, Giáo hội tạo điều kiện cho chúng ta có dịp thông công với những người đă khuất. V́ thé từ trưa ngày lễ Các Thánh đến nửa đêm ngày cầu cho các tín hữu đă qua đời, nếu ai viếng nhà thờ, th́ được ơn đại xá. Từ ngày 01 đến hết ngày 08, nếu ai viếng nghĩa địa, cầu nguỵen cho các linh hồn cũng được ơn đại xá. Những ơn đại xá này sẽ được nhường lại cho các linh hồn.

Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống kết hợp với Chúa Ba Ngôi và với những anh chị em đang chịu thanh luyện.

Xin Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.

[Mục Lục]

Bài 13. Suy niệm của Lm. Đaminh Vũ Đ́nh Thái

Chúng ta vừa bước vào tháng 11, tháng dành riêng cầu nguyện cho các kẻ đă qua đời. Thực ra, chẳng ngày nào mà Giáo Hội, qua các Thánh Lễ, lại chẳng cầu nguyện cho họ. Nhưng tháng này, Giáo Hội muốn chúng ta sống ư thức hơn và thực hành mạnh mẽ hơn việc đạo đức này. Như vậy, hôm nay quả là dịp tốt để dâng lễ cầu nguyện cho mọi tín hữu đă khuất; trong đó có ông bà, cha mẹ, thân quyến, bạn hữu và các bậc thầy của chúng ta nơi Chủng Viện này. Nhờ Ơn cứu chuộc của Đức Kitô, xin cho mọi người đă “vắng bóng”được tha thứ mọi tội lỗi và hưởng phúc lộc Thiên đàng”.

Để xứng đáng dâng lễ và cầu ơn, chúng ta xin Chúa thanh luyện chúng ta trước.

Giảng lễ:

I. Tôi tin có đời sau.Tôi tin sự sống lại và sự sống vĩnh cửu.

Chẳng phải là tín hữu ngày nay chúng ta mới hùng hồn tuyên tín như thế (Credo). Nhưng từ xa xưa, Gióp đă tuyên bố: “Sau khi da tôi đây bị tiêu hủy, th́ với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm nh́n Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nh́n Ngài, Đấng mắt tôi nh́n thấy không phải là người xa lạ” (G 19, 26-27a). Ông tin có đời sau. Ông tin rằng Đấng hằng bênh vực ông vẫn sống và sau cùng, Ngài sẽ đứng lên trên cơi đất để cứu ông. Niềm tin của ông bền vững, chắc chắn đến độ ông ước ao lời ấy của ông được tạc vào đá cho đến muôn đời.

Là tín hữu, chúng ta xác tín mạnh mẽ vào lời của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu chuộc chúng ta, khi Người nói: “Ư của Đấng sai tôi là tất cả những kẻ Ngài đă ban cho tôi, tôi không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6, 39). “Ai tin vào Người Con, th́ được sống muôn đời” (Ga 6, 40).

Không để mất một ai nghĩa là thế nào? Thánh Phaolô, qua thư Rôma, giải thích rơ ràng rằng “ngay khi chúng ta c̣n là tội nhân, Đức Kitô đă chết v́ chúng ta. Người chết cho chúng ta được cứu, khi chúng ta không có sức làm được ǵ để cứu lấy ḿnh”. Không để mất một ai là “bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng. Ngay khi chúng ta c̣n thù nghịch với Thiên Chúa, Ngài vẫn để Con Ngài chết. Ngài muốn cứu chúng ta khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, bằng cách cho chúng ta được nên công chính nhờ máu Đức Kitô đổ ra. Làm như vậy là để chúng ta được hoà giải với Thiên Chúa. Giải pháp ấy là kế hoạch cứu chuộc được thực hiện nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 5, 6-11).

Chúng ta nhắc lại Lời Chúa như vậy để củng cố thêm niềm tin của chúng ta vào đời sau, vào sự sống lại và cuộc sống trường sinh hạnh phúc với Chúa. Làm sao chúng ta có thể cầu nguyện cho những người đă chết được, nếu tiên vàn chúng ta c̣n hiểu nhạt nhoà mơ hồ về T́nh yêu Cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện trong Đức Kitô như thế.

II. Phải cầu nguyện cho những vong nhân.

Cầu nguyện cho những người đă khuất là một bổn phận không thể xao lăng của chúng ta.

Biết Chúa cứu, tin rằng Chúa không để mất một ai là một chuyện. Nhưng Giáo Hội luôn dạy chúng ta phải, bằng tinh thần hiệp thông luôn cầu nguyện cho mọi tín hữu đă qua đời, chứ không được ỷ lại vào Chúa.

Công đồng Vatican II nhắc lại mầu nhiệm Giáo Hội cùng thông công như sau: “Trong số những môn đệ Chúa, có những kẻ tiếp tục cuộc hành tŕnh nơi dương thế, có những kẻ đă hoàn tất cuộc sống này nhưng đang được tinh luyện và có những người đang được chiêm ngưỡng rơ ràng Thiên Chúa Ba Ngôi vinh hiển. Cả ba thành phần đều hiệp thông với nhau trong đức mến và truyền thông cho nhau những của cải thiêng liêng. Nhận biết đúng đắn sự hiệp thông này trong toàn Nhiệm thể Chúa Kitô, ngay từ buổi đầu, Giáo Hội lữ hành hết ḷng kính nhớ, cầu nguyện cho những người đă chết”.

Hơn nữa, người tín hữu đă chết trong Ơn nghĩa Chúa, nhưng chưa sạch hết mọi tội, và chưa đền tội bằng những h́nh phạt tạm thời đời này, th́ không thể vào thẳng Thiên đàng được, v́ chưa xứng đáng hưởng Thánh Nhan Chúa. Thánh Gioan cảnh báo rơ trong sách Khải huyền: “Tất cả những ǵ ô uế, cũng như bất cứ ai làm điều ghê tởm và gian tà, đều không được vào thành…” (Kh 21, 27). Tất nhiên, họ phải chờ tinh luyện xong mới vào được Thiên đàng. Thời gian đó là thời gian xa cách Chúa. Nên Công đồng Florence (1439) mới định tín có luyện ngục để tinh luyện các linh hồn.

Purgatorium, chỉ luyện ngục, có nghĩa là tinh luyện.

Bởi thế, hằng ngày Giáo Hội dâng lễ nài xin Ơn tha thứ cứu độ của Chúa Giêsu cho các linh hồn; suốt tháng 11 này và đặc biệt hôm nay ngày 2.11 c̣n tăng lên gấp 3 (mỗi Linh mục được làm 3 lễ trong ngày). Giáo Hội kêu gọi chúng ta luôn nhớ về và sốt sắng cầu nguyện cho những người đă khuất. Cầu nguyện là góp phần ḿnh vào mở kho Ân xá, nhường cho các linh hồn nơi luyện ngục, khi họ không thể làm được việc lành cứu ḿnh. Giáo Hội c̣n khuyến khích đi viếng nghĩa địa, sửa sang mồ mả và cầu nguyện cho các linh hồn, v́: “Mồ thật chôn các người chết là trái tim của người sống” (Tục ngữ).

Thế nên, người sống có nhớ đến, có cầu…th́ người chết mới mát mẻ thanh nhàn. Thật ra, không phải cầu cho người “chết”. Nếu chết là chấm tận, hết chuyện th́ cầu làm ǵ và ích lợi ǵ? Nhưng là cầu cho nguời vượt qua cơi chết, đi vào cơi sống muôn đời.

[Mục Lục]

Bài 14. Nguồn nước mắt

ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần

Trí nhớ của tôi lưu giữ nhiều h́nh ảnh. Trong số đó, có một thứ h́nh ảnh rất thầm lặng, nhưng thường gây trong tôi nhiều cảm xúc và suy nghĩ. Thứ h́nh ảnh đó là các nghĩa trang.

Tôi đă viếng nhiều nghĩa trang. Tại Việt Nam, tại Ư, tại Đức, tại Pháp, tại Nga, tại Vaticăng.

Tôi đến viếng các nghĩa trang, chủ ư để suy gẫm, cầu nguyện, và cũng để t́m cảm nghiệm. Có thứ cảm nghiệm chỉ t́m được ở nghĩa trang. Tôi đă nghĩ như vậy và đă làm như vậy, khi tôi viết luận án: “Đau khổ của t́nh yêu”.

Đă có những cảm nghiệm độc đáo in rất sâu vào ḷng tôi từ các nghĩa trang. Đặc biệt là từ những ḍng nước mắt ở nghĩa trang.

Có những nước mắt của t́nh yêu dạt dào.

Có những nước mắt của nỗi buồn, nhung nhớ.

Có những nước mắt của ḷng hối hận khôn nguôi.

Có những nước mắt của tấm ḷng tha thứ muộn màng.

Có những nước mắt của ân t́nh, hiếu nghĩa.

Có những nước mắt của niềm tin sâu sắc mong chờ.

Khi đi sâu hơn một chút giữa các ḍng nước mắt, tôi có thể cảm nghiệm được một số khám phá quan trọng:

Khám phá ra những chân lư nhân sinh.

Khám phá ra những hy vọng ứu độ.

Khám phá ra chính ḿnh.

Khám phá ra chân lư.

Những nước mắt ở nghĩa trang là những tiễn biệt thân thiết. Tiễn biệt người đă chết, người vĩnh viễn ra đi. Sự chết là một sự thật không cần bàn tới. Nhưng đó lại là một chân lư cực kỳ quan trọng.

Bất cứ ai, rồi cũng phải chết. Cái chết đáng sợ. Nhưng đáng sợ hơn lại là cái ǵ đàng sau cái chết. Đáng sợ, v́ nó quá bất ngờ. Biết đâu, trong số mồ mả, cũng có những hồn v́ thế mà đang khóc ṛng ră đêm ngày.

Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn một đoạn Phúc Âm: “Có một ông nhà giàu nọ, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đ́nh. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy ḿnh, nằm trước cổng ông nhà giàu đó. Anh thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rơi xuống mà ăn cho đỡ đói. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.

Thế rồi, người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào ḷng ông Apraham.

Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. Dưới địa ngục, đang khi chịu cực h́nh, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Apraham ở trên đàng xa, và thấy Ladarô trong ḷng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con, xin sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát, v́ ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm.

Ông Apraham đáp: Con ơi, hăy nhớ lại: suốt đời con đă nhận phần phước của con rồi. C̣n Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây, c̣n con th́ phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và con đă có một vực thẳm quá lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16,19-26).

Với dụ ngôn trên, Chúa dạy ta những chân lư quan trọng. Ai cũng phải chết. Nhưng sự Chúa đánh giá từng người sau khi chết thường vượt quá sự con người suy nghĩ. Người phú hộ đó sống đời này được đầy đủ, sung sướng, an nhàn, xét ḿnh chẳng thấy ǵ là xúc phạm Chúa, chẳng thấy ǵ là làm hại ai. Nhưng người phú hộ đó đă bị rơi vào hoả ngục. Chỉ v́ sống thiếu thương cảm, thiếu liên đới, thiếu chia sẻ, thiếu xót thương. Trái lại, người ăn mày kia đă được lên thiên đàng. V́ dù bị ch́m trong cảnh khổ, anh đă sống nêu gương về đức khiêm nhường, hiền lành và chân thật. Không được người dư dật chia sẻ, anh phải sống đói khổ, nhưng anh vẫn chia sẻ với mấy con chó đói ăn.

Nhờ ơn Chúa, những sự thực như trên đă được nhiều người nhận ra một cách sâu sắc trong những ḍng nước mắt tại nghĩa trang. Những chân lư đó đă thay đổi đời họ.

Ngoài ra, biết bao người nằm trong nghĩa trang và khóc tại nghĩa trang cũng đă t́m được hy vọng cuộc đời qua một ngả khác.

Khám phá ra hy vọng

Không thiếu trường hợp, tôi đă chứng kiến những cuộc trở về. Họ đă trở về từ những ḍng nước mắt của một người nào đó. Người đó cầu nguyện cho họ. Người đó khóc với họ thay v́ nói với họ.

Một lúc bất ngờ, lời Chúa Giêsu phán xưa trở thành chuyện đời họ. Chúa an ủi họ rằng: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc. Người đau ốm mới cần. Hăy về học biết ư nghĩa của câu này: Cha muốn ḷng nhân, chứ đâu cần của lễ. V́ Cha đến, không để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,12-13).

Những lời dịu dàng đó đă đi sâu vào ḷng họ. Cơi ḷng vốn đóng kín, khoá chặt, chất chứa những u uất, thất vọng, nay mở ra để hy vọng tràn vào.

Họ cảm thấy ḿnh được xót thương, được yêu thương. Họ sám hối. Họ cảm thấy ḿnh được tha thứ. Và chính họ cũng dễ dàng tha thứ. Một sự b́nh an lạ lùng trùm phủ tâm hồn họ. Họ ra đi b́nh an trong sự tin tưởng phó thác tuyệt đối ở Chúa giàu ḷng thương xót. Họ khóc v́ xúc động, đây là những ḍng nước mắt đầy t́nh cảm tạ.

Những người chứng kiến cũng không cầm được nước mắt. Những ḍng nước mắt ấy không nói nên lời, nhưng ngọt ngào niềm hy vọng cứu độ.

Khám phá ra chính ḿnh.

Tại những nghĩa trang, thấy người ta khóc, nhất là khi chính ḿnh khóc, tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu nói: Cha thương con, Cha thương mọi người. Cùng với lời Chúa trao ban t́nh yêu, tôi khám phá ra chính ḿnh tôi, với những vết thương, với những tang tóc đau buồn. Khám phá ra chính ḿnh trong sự thực trần trụi.

Khám phá để giúp trút bỏ những cái nh́n ảo. Nh́n ảo về ḿnh. Nh́n ảo về những công việc của ḿnh. Nh́n ảo về người khác. Nh́n ảo về cuộc đời.

Để cũng nhận ra rằng: dù với những yếu đuối, tội lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi với t́nh xót thương:

Gọi hăy cảm thương.

Gọi hăy chia sẻ.

Gọi hăy trở về.

Gọi hăy hiến dâng.

Gọi hăy cầu nguyện và đền tạ.

Gọi hăy sám hối và tín thác.

Gọi hăy vượt qua sự chết và mọi nghĩa trang, để bay vào cơi phúc đời đời.

Ơn gọi đó sẽ thực hiện được, miễn là tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong t́nh Chúa yêu thương. Như lời Chúa kêu gọi: “Hăy ở lại trong Cha, như Cha ở lại trong các con” (Ga 15,4).

[Mục Lục]

Bài 15. Tri ân t́nh cha, t́nh mẹ

Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Đây là một câu chuyện có thật về sự hy sinh của một người mẹ trong trận động đất kinh hoàng ở Nhật Bản năm 2011. Sau khi trận động đất đă qua đi, khi các nhân viên cứu hộ đến thu dọn ngôi nhà của một người phụ nữ trẻ, họ nh́n thấy thân thể cô ấy qua các vết nứt. Nhưng cách tạo h́nh cơ thể của cô có ǵ đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối cầu nguyện, cơ thể nghiêng về phía trước, và có một vật ǵ đó được hai tay của cô đỡ lấy. Ngôi nhà bị sụp và đổ ập lên lưng và đầu cô.

Người đội trưởng đội cứu hộ đă rất khó khăn khi luồn tay ḿnh qua khoảng cách hẹp trên tường để chạm tới cơ thể của người phụ nữ. Anh ấy đă hy vọng rằng người phụ nữ này có thể vẫn c̣n sống. Nhưng, cơ thể lạnh và cứng của cô nói với anh rằng, cô ấy chắc chắn đă qua đời.

Đội cứu hộ rời khỏi ngôi nhà và t́m kiếm tại những toà nhà sụp đổ khác. Nhưng không hiểu sao, người đội trưởng dường như bị một lực hút kéo trở lại căn nhà sụp đổ của người phụ nữ đă chết. Một lần nữa, anh quỳ xuống, và lần t́m qua những khe nứt hẹp một chút không gian dưới cơ thể đă chết. Rồi đột nhiên, anh hét lên đầy phấn chấn: “Một đứa bé!!!! Có một đứa bé!”.

Cả đội cùng nhau cẩn thận bỏ từng cái cọc trong đống đổ nát xung quanh xác người phụ nữ. Có một bé trai 3 tháng tuổi được bọc trong một tấm chăn hoa ngay bên dưới xác người mẹ. Người phụ nữ rơ ràng đă thực hiện một hành động hy sinh cuối cùng để cứu con trai ḿnh. Khi ngôi nhà của cô rơi xuống, cô đă dùng cơ thể của ḿnh để làm tấm chắn bảo vệ con trai ḿnh. Cậu bé vẫn ngủ một cách yên b́nh khi đội trưởng đội cứu hộ nhấc bé lên.

Bác sĩ đă nhanh chóng kiểm tra sức khoẻ cậu bé. Sau khi ông mở tấm chăn, ông nh́n thấy một chiếc điện thoại di động bên trong. Có một tin nhắn văn bản trên màn h́nh, nói rằng, “Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con”…

Chiếc điện thoại này đă đi từ bàn tay này đến bàn tay khác và qua bàn tay khác… Tất cả những người đọc tin nhắn đều đă khóc. “Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng… mẹ rất yêu con…”.

Tháng 11 lại về đem lại cho chúng ta một chút tâm t́nh tri ân t́nh cha, t́nh mẹ. Một t́nh yêu bao la như trời bể mà cha ông ta vẫn nói rằng:

“Công cha đức mẹ cao dày

Cưu mang trứng nước những ngày c̣n thơ

Nuôi con khó nhọc đến giờ

Trưởng thành con phải biết thờ song thân”.

“Biết thờ song thân”, thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:

“Nuôi con buôn tảo bán tần

Chỉ mong con lớn nên thân với đời

Những khi trái nắng trở trời

Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên

Trọn đời vất vả triền miên,

Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.

Thế nên, nếu so sánh công đức của cha mẹ như non cao cũng chưa xứng đáng. T́nh cha t́nh mẹ c̣n vượt xa không gian và thời gian. Có thể nói t́nh cha t́nh mẹ măi không già luôn tươi trẻ trong cuộc đời của con. Cha mẹ có thể không để lại cho con gia tài lớn lao hay những công tŕnh vĩ đại nhưng cha mẹ luôn để lại cho con một t́nh yêu thương vô ngần dành cho con. V́ thế mà có ai đó nói rằng:

Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ

Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha

T́nh cha mẹ thương con là một t́nh yêu không biên giới. Một t́nh yêu vượt qua mọi toan tính vật chất để có thể bảo vệ che chở đời con. Đó là một t́nh yêu to lớn đầy hy sinh cho đàn con khôn lớn:

Mây trời ḷng lộng không phủ kín công Cha

Tần tảo xóm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn

Lá cây trong rừng dẫu nhiều cũng không thể sánh bằng công ơn của cha mẹ. Sao trên trời thật khó đếm, nhưng công ơn của cha mẹ lại càng khó đếm hơn những v́ sao:

“Đố ai đếm được lá rừng,

Đố ai đếm được mấy từng trời cao

Đố ai đếm được những v́ sao,

Đố ai đếm được công lao mẫu từ”.

Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, sinh lực hao ṃn, nặng nhọc gánh chịu, làm sao ta có thể quên được t́nh mẹ bao la như biển cả ấy:

“Nhớ ơn chín chữ cù lau

Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu t́nh”.

T́nh ở đây là t́nh mẹ thương con. T́nh thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con th́ đời con thêm tươi sáng:

“Ví dầu cầu ván đóng đinh,

Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.

Khó đi mẹ dắt con đi,

Con đi trường học mẹ đi trường đời”.

Vậy, đổi lại sự hy sinh của t́nh cha t́nh mẹ, các ngài cần ǵ nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, v́ tiền bạc các ngài dành giụm để trao lại cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, v́ tuổi ǵa chẳng c̣n ham muốn những tham sân si của ḍng đời. Các ngài cần t́nh yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài c̣n sống. Và khi các ngài đă qua đời, đó chính là lời cầu nguyện của chúng ta dành cho các ngài.

Người phụ nữ Nhật trước khi chết chỉ để lại một thông điệp cho con chính là: “con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con”… Đó chính là thông điệp của tất cả các đấng sinh thành kẻ c̣n sống cũng như người đă qua đời đang nói trong con tim mỗi người chúng ta. Chúng ta được sinh ra trong t́nh cha t́nh mẹ, được lớn lên trong t́nh thương đó và t́nh thương đó măi măi theo chúng ta trong suốt hành tŕnh cuộc đời. Đó cũng là bổn phận mà chúng ta phải báo hiếu qua hai chữ yêu thương. Yêu thương thể hiện của ḷng thảo kính vâng phục các ngài. Yêu thương thể hiện qua chữ hiếu luôn phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già. Yêu thương thể hiện qua lời cầu nguyện ngày đêm dành cho những người đă qua đời.

Ước ǵ mỗi người chúng ta từng được cưu mang trong t́nh yêu của cha mẹ th́ hăy sống sao cho tṛn chữ hiếu. Hăy biết tận dụng tháng 11 để tích luỹ ơn ích thiêng liêng mà cầu nguyện cho các ngài. Hăy làm việc bác ái, hy sinh và cầu nguyện giúp các ngài vượt qua cuộc thử thách trước toà phán xét của Thiên Chúa. Ước ǵ những hy sinh và lời cầu nguyện chân thành của chúng ta là lễ vật đẹp nhất để dâng về Thiên Chúa và dâng kính tổ tiên. Amen.

[Mục Lục]

Bài 16. Luyện ngục

CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG NGƯỜI ĐĂ QUA ĐỜI

Vấn đề chúng ta t́m hiểu hôm nay, đó là có những sự ǵ xảy ra cho các linh hồn nơi luyện ngục? Hai chữ luyện ngục mà thôi cũng đă đủ cho chúng ta thấy đó là nơi đau khổ, đền bù và thanh luyện. Vào ngày phán xét, chúng ta sẽ thấy ḿnh c̣n xa cách với lư tưởng mà Chúa đă ấn định. Mặc dù linh hồn ra đi trong t́nh trạng ơn thánh, nhưng c̣n biết bao nhiêu những sau lỗi, biết bao nhiêu những tỳ vết khiến chúng ta phải kêu lên: Lạy Chúa, con không thể nào trở về cùng Chúa khi chưa xóa bỏ hết những hoen ố của biết bao nhiêu lần vấp phạm.

Có lẽ ngay trong lúc này, chúng ta cũng cảm thấy: Chưa bao giờ tôi đă lên tới đỉnh trọn lành, chưa bao giờ tôi được thỏa măn với chính bản thân ḿnh?

Làm sao chúng ta có thể hoàn toàn vâng phục thánh ư Chúa trong cuộc sống hiện tại như Đức Kitô ngày xưa? Th́ đây, luyện ngục sẽ là nơi để chúng ta kết thúc những công tŕnh c̣n dang dở. Lửa thanh luyện càng bừng cháy để thiêu đốt những bụi bậm, những rác rưởi, những cặn bă, th́ h́nh ảnh Chúa càng rực sáng trong tâm hồn chúng ta. Và khi h́nh ảnh ấy đă trở nên chói ḷa, rực rỡ và huy hoàng, th́ luyện ngục sẽ chấm dứt và chúng ta sẽ được bước vào niềm hạnh phúc thiên đàng.

Nếu quan niệm như thế, chúng ta sẽ cảm thấy nông cạn và hời hợt khi cho rằng: H́nh phạt luyện ngục th́ không xứng đáng với ḷng nhân từ và thương xót của Chúa. Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không, mà chẳng cần phải đều bù thanh luyện chi cả.

Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy không thể nào chấp nhận được quan niệm ấy, bởi v́ nó đi ngược lại với sự thánh thiện và công thẳng tuyệt đối của Chúa.

Thánh vịnh 118 đă bảo: Thiên Chúa thật công bằng và phán quyết của Ngài thật ngay thẳng.

Chính Chúa Giêsu cũng đă xác quyết: Ngươi sẽ không ra khỏi đó cho đến khi trả xong đồng xu cuối cùng.

Ḷng thương xót và sự công bằng của Thiên Chúa thoạt xem ra như tương phản lẫn nhau, nhưng lại vô cùng ḥa hợp với nhau qua tín điều về luyện ngục.

Thực vậy, trong khi sự công bằng đ̣i phải đền bù và thanh luyện, th́ ḷng thương xót lại đưa ra những phương tiện, những cách thức giúp đỡ để được rút ngắn thời gian đau khổ. Từ đó, chúng ta thấy được hai khía cạnh của luyện ngục, đó là đau khổ và an ủi. Bởi v́ h́nh phạt ở luyện ngục cũng giống như h́nh phạt ở hỏa ngục, nhưng chỉ khác một điều, đó là ở luyện ngục th́ chỉ tạm thời, c̣n ở hỏa ngục th́ vĩnh viễn. Và h́nh phạt đau khổ nhất chính là phải xa ĺa Thiên Chúa vào giữa lúc chúng ta nhận biết Ngài là ai và đang cố gắng tiến đến với Ngài. Tuy nhiên, không phải chỉ có thế.

Mặc dù là một nơi đau khổ và thanh luyện, nhưng luyện ngục không phải là hỏa ngục, trái lại luyện ngục chính là lối dẫn vào thiên đàng.

Những linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn không phải rơi vào tay ma quỉ, nhưng sẽ được nghỉ yên trong Chúa. Ơn cứu rỗi của họ đă được bảo đảm và họ sẽ không bị kết án. Đó là khía cảnh đầy vui mừng và an ủi của luyện ngục.

Vậy luyện ngục là ǵ?

Tôi xin thưa: Luyện ngục là hỏa ngục, nhưng ở đó có niềm vui.

Hay nói một các khác: Luyện ngục là thiên đàng, nhưng ở đó có đau khổ.

Họ đau khổ v́ hiện tại c̣n đang phải tạm thời xa cách Chúa. Nhưng đồng thời họ vui mừng v́ một ngày kia sẽ được nh́n ngắm tôn nhan Chúa, mặt đối mặt.

Niềm tin vào luyện ngục sẽ đem lại một sự an ủi và khích lệ, khiến chúng ta không bao giờ phải tuyệt vọng. Thế nhưng tín điều này c̣n là một lời cảnh cáo gửi đến mổi người chúng ta đang sống trong cuộc sống này: Đừng b́nh thản trong tội lỗi.

Đồng thời cũng là một thôi thúc: Đừng thất vọng trước những sai lỗi vấp phạm của ḿnh.

Sau cùng, hăy thêm lời cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục, bởi v́ như sách Macabêô đă xác quyết:

Cầu nguyện cho những người đă chết để họ được giải thoát khỏi mọi tội lỗi là một việc làm thánh thiện và có giá trị cứu rỗi.

[Mục Lục]

Bài 17. Nghĩ về sự chết

ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần

Tôi biết là có ngày tôi sẽ chết. Mặc dầu tôi không biết sẽ chết ngày giờ nào, nơi nào, cách nào.

Chắc chắn tôi phải chết. Đó là một chân lư hết sức rơ ràng và chắc chắn. Chân lư này, không ai đă dạy tôi. Nó nằm ngay trong con người của tôi.

Cái chết cũng là một biến cố đụng tới mọi người. Nó là một vấn đề chung. Vấn đề này được coi là hết sức quan trọng. Bởi v́ nó đặt ra câu hỏi: Đâu là ư nghĩa cuộc sống? Cuộc đời đi về đâu? Bên kia sự chết có ǵ không?

Câu trả lời theo lư thuyết có thể t́m được trong nhiều sách, nhất là sách đạo. Nhưng câu trả lời theo cảm nghiệm sẽ thường chỉ hiện lên một cách sống động, khi ta ở bên cạnh những người sắp chết, hoặc chính ta đă có lần thập tử nhất sinh.

Những lúc đó, câu trả lời sẽ không phải là một kết luận lạnh lùng của triết học hay của giáo lư. Nhưng sẽ là cái ǵ linh thiêng thăm thẳm chứa trong những cảm t́nh, cảm xúc, cảm động, cảm thương, khi hiện tượng sự chết rập ŕnh sát tới.

Những hiện tượng khác thường nơi người sắp chết rất đa dạng. Có thể là những lo âu sợ hăi, những khắc khoải đợi chờ, những nắm bắt bâng khuâng, những ngóng trông mệt mỏi, những cái nh́n xa xăm. Cũng có thể là những bất b́nh tức giận, những chán nản phiền muộn, những buông xuôi tiếc nuối, những phấn đấu tuyệt vọng. Cũng có thể lại là những ăn năn đầy b́nh an toả sáng, mang dấu ấn của một nghị lực thiêng liêng và một tin tưởng đến từ cơi đời đời.

Tất cả những hiện tượng như thế phản ánh những trực cảm nội tâm: Đă tới lúc vĩnh biệt. Đă tới lúc ra đi. Đă tới lúc phải bỏ lại tất cả. Đă tới lúc phải trực diện với lương tâm. Lương tâm hỏi về trách nhiệm: Trách nhiệm làm người nói chung và trách nhiệm làm con Chúa nói riêng.

Trước đây, có nhiều điều về trách nhiệm đă lẩn trốn lương tâm. Nhưng lúc con người sắp chết, những điều lẩn trốn đó sẽ trở về tŕnh diện rất nghiêm túc.

Tôi có cảm tưởng là người sắp chết lúc đó sẽ nhận ra: Sự sống của ḿnh là một quà tặng Chúa ban. Ơn gọi được làm con Chúa càng là một ân huệ quí báu Chúa trao cho nhưng không. Chúa ban sự sống và ơn làm con Chúa, để ḿnh phát triển ḿnh và những người xung quanh trong những chặng đường lịch sử nhất định. Sự phát triển sẽ tuỳ ở ơn Chúa, nhưng cũng tuỳ thuộc vào sự tự do và tinh thần trách nhiệm của mỗi người.

Thực tế cho thấy là đă có những phát triển đạo đức, và trái lại cũng có những phát triển tội lỗi. Với những phát triển tốt, người sắp chết cảm thấy được an ủi, coi như nhiệm vụ được trao đă phần nào hoàn thành.

Trái lại nếu thấy những phát triển của ḿnh là xấu, nhiệm vụ được trao đă không hoàn thành, họ sẽ không thể không sợ hăi. Bởi lẽ hậu quả sẽ vô cùng quan trọng. V́ chết là bước sang cơi đời sau với hai ngả: thiên dàng và hoả ngục. Mà hai ngả này đều rất rơ ràng công minh.

V́ thế, nói cho đúng, vấn đề đặt ra cho ta về cái chết sẽ không phải là sợ chết, mà là sợ chết dữ, chết mà sau đó không được lên thiên đàng, nhưng phải xuống hoả ngục.

Những tư tưởng trên đây thường nhắc nhủ tôi về ba chọn lựa này:

1. Hăy tiến về sự chết của ḿnh như tiến tới một quăng phải vượt qua, để về với Cha trên trời.

Một khi nh́n sự chết của ḿnh như thế, th́ cuộc sống của ḿnh cũng được hiểu theo hướng đó.

Để đi đúng hướng về Cha trên trời, tôi chỉ có một đường phải chọn, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người là đường, là sự thực và là sự sống (Ga 14,6). Đón nhận Người, lắng nghe Người, đi theo Người, bắt chước Người. Người là gương mẫu cho ơn gọi làm người và ơn gọi làm con Thiên Chúa. Điều quan trọng tôi sẽ hết sức quan tâm trong việc theo Chúa Giêsu sống ơn gọi, là phải phấn đấu thanh luyện ḿnh, phải biết khiêm tốn quên ḿnh, dấn thân sống theo ư Chúa, để được trở thành tạo vật mới. Nếp sống kiêu căng cần phải bị loại tận gốc. Nếp sống cầu nguyện khiêm nhường cần được thường xuyên phát huy.

2. Hăy tiến về sự chết của ḿnh như người được sai đi truyền giáo, mong trở về với Đấng sai ḿnh.

Sống như người truyền giáo và chết như người truyền giáo. Truyền giáo một cách cụ thể ở địa phương này, ở thời điểm này. Nghĩa là một địa phương và thời điểm có nhiều khác biệt. V́ thế, tôi phải tỉnh thức lắng nghe hướng dẫn của Thánh Thần Đức Kitô. Ngài đang dẫn người truyền giáo vào chiều sâu. Ngài đang giúp người truyền giáo mở rộng nhiều liên đới. Ngài đang tạo ra cho nhà truyền giáo nhiều dịp để loan báo Tin Mừng. Tôi có luôn khiêm tốn cầu nguyện hồi tâm, để trở thành dụng cụ ngoan ngoăn trong tay Ngài không?

3. Hăy tiến về sự chết của ḿnh như người khắc khoải trở về với Đấng đă trao cho ḿnh điều răn mới.

Điều răn mới này, tôi nhận được từ Lời Chúa: “Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con hăy yêu thương nhau như Thầy đă yêu thương các con” (Ga 13,34).

Để hiểu thấm thía hành tŕnh t́nh yêu, tôi nên hằng ngày gẫm suy đoạn văn sau đây của thư thánh Gioan:

“Chúng ta biết rằng: chúng ta đă từ cơi chết bước vào cơi sống, v́ chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương, th́ ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em ḿnh, ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được t́nh yêu là ǵ: đó là Đức Ki-tô đă thí mạng v́ chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng v́ anh em. Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em ḿnh lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động ḷng thương, th́ làm sao t́nh yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được? Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an ḷng trước mặt Thiên Chúa” (1Ga 3,14-19).

“Phần chúng ta, chúng ta hăy yêu thương, v́ Thiên Chúa đă yêu thương chúng ta trước. Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em ḿnh, người ấy là kẻ nói dối; v́ ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, th́ không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đă nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, th́ cũng yêu thương anh em ḿnh” (1 Ga 4,19-21)

Khi tôi sống với những hướng kể trên, tôi sẽ coi sự chết như là một điểm chấm dứt nhiệm vụ.

Nhiệm vụ được chấm dứt. Nhưng nhiệm vụ có được hoàn thành hay không, đó là chuyện khác và đó mới là điều quan trọng. Chúa sẽ phán xét công minh điều đó. Ở đây, tôi có lư do để lo, bởi v́ tôi biết tôi đă lỗi phạm nhiều.

Biết lo là điều tốt. Không phải lúc gần chết mới lo, mà phải lo ngay bây giờ. Biết lo ở đây là t́m cách sửa ḿnh, đổi mới ḿnh nên tốt hơn. Coi như bắt đầu lại.

Khởi sự từ quyết tâm tận dụng ngày giờ c̣n lại và những phương tiện trong tầm tay để chu toàn các nhiệm vụ được trao một cách tốt đẹp nhất. Nhất là tỉnh thức ưu tiên đón nhận Nước Trời vào bản thân ḿnh bằng sám hối và tin mến khiêm cung.

Những nỗi lo như thế là chính đáng. Khi chúng ta làm hết sức ḿnh, th́ những nỗi lo đó sẽ đem lại những tiến triển và hân hoan. Với hân hoan và tin tưởng nơi Chúa giàu t́nh yêu thương xót, chúng ta b́nh tĩnh đi về sự chết. Sự chết lúc đó chỉ là bước sang sự sống mới vô cùng tốt đẹp hơn trước. Và như thế, sau cùng, chỉ có thần chết là phải chết thôi.

[Mục Lục]

Bài 18. Luyện ngục

Từ cổ chí kim, cũng như từ đông sang tây, người ta đều có truyền thống thương tiếc và an táng người quá cố một cách kính cẩn. Ngày xưa, người ta thương tiếc và dâng tặng người quá cố một thánh lễ an táng trọng thể, một bài điếu văn chải chuốt, rồi tụ tập ăn uống linh đ́nh, tiếng khóc biến thành những câu chuyện ṛn ră bễn cỗ bàn rượu thịt ê hề. Nỗi thương nhớ trôi mất theo từng ly rượu của bàn tiệc, để rồi khi tiệc tan, trở về nhà và không c̣n nghĩ ǵ đến người quá cố đang khổ đau v́ bị thanh luyện nữa.

Có một người sau khi chết được dẫn vào luyện ngục. Anh ta thấy mọi người trong đó đang đứng trong một vũng bùn lên tới quá đầu gối. Có người đang hút thuốc. Người khác th́ uống cà phê và mọi người đều cười nói với nhau một cách vui vẻ. Anh ta thầm nghĩ: Nếu luyện ngục là như vậy, th́ đâu có ǵ tệ lắm.

Vừa nghĩ thế, anh ta liền nh́n thấy một người trong bọn trông giống như một viên cai ngục, vỗ tay ra hiệu và tuyên bố: Hết giờ nghỉ xả hơi rồi. Bây giờ hăy chống cằm xuống đất và chổng hai chân lên trời.

Nghe đến đây, anh ta bỗng ngất xỉu. Th́ ra đó chỉ là một giấc mơ.

Vậy luyện ngục là ǵ?

Dĩ nhiên luyện ngục không phải là một căn hầm hay một vũng bùn như trong câu chuyện vừa nghe. Theo lời các thánh, luyện ngục chính là nơi các linh hồn được thanh tầy, để trở nên trong sạch, xứng đáng được hưởng kiến tôn nhan thánh Chúa.

Các linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn đă được cứu độ, nhưng chưa phải là trong giây phút hiện tai. Do đó, luyện ngục thực sự là một dấu chứng của ḷng Chúa xót thương.

Một ông cụ luôn khuyên nhủ con cháu hằng ngày đọc kinh sớm tối kẻo mất linh hồn. Thế nhưng, một người con của cụ trả lời: Không cần đọc nhiều, mà chỉ cần đọc ba kinh Kính mừng là đủ lên thiên đàng cả giường lẫn chiếu.

Ông cụ đáp lại: Lên thiên đàng, th́ chúng mày đừng ḥng. Tao chỉ mong chúng mày xuống luyện ngục là đă phúc lắm rồi.

Thực trạng bất toàn của con người khiến chúng ta cảm thấy không xứng đáng được diện kiến, gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa, bởi v́ Ngài là đấn thánh thiện vô cùng.

Sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi là hai cái ǵ đối kháng nhau, như lửa với nước, như ánh sáng với bóng tối. Do đó, tội lỗi làm cho chúng ta phải xa ĺa Thiên Chúa, khiến chúng ta quay lưng chống lại Ngài và đi ngược lại với bản tính thánh thiện tuyệt vời của Ngài. Thực vậy, Thiên Chúa thánh thiện không thể nào chấp nhận một chút bợn nhơ xấu xa nào trong vương quốc của Ngài.

Đối với các linh hồn đáng thương c̣n mang dấu ấn của tội lỗi, th́ luyện ngục chính là nới ẩn náu đầy yêu thương, là tiền đường của thiên đàng. Các ngài vui mừng trong đau khổ. Và nỗi đau khổ nặng nề nhất không phải là cực h́nh hỏa ngục, mà là khát vọng được diện kiến thánh nhan Thiên Chúa, mà hiện nay chưa được trở thành sự thật, mà vẫn c̣n bị trói buộc trong sợ ṃn mỏi trông chờ và mong đợi.

Với ư thức về tội lỗi của ḿnh, các ngài sẽ không rời xa luyện ngục, cho tới khi được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi. C̣n mang lầy một chút dấu vết của tội lỗi trong tâm hồn ḿnh cũng là một đớn dau cho các ngài, khi cảm thấy ḿnh bất xứng.

Chính v́ thế, trong niềm hiệp thông, chúng ta hăy giúp đỡ các ngài bài những hy sinh, những lời kinh và những thánh lễ chúng ta dâng lên, bởi v́ đó mới chính là những điều các ngày đang cần đến, đỗng thời đó cũng là cách thức chúng ta báo hiếu, đền đáp công ơn của các ngài một cách sâu xa và có ư nghĩa nhất.

[Mục Lục]

Bài 19. Bóng câu cửa sổ

Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi,

Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,

Một cơn gió thoảng là xong,

Chốn xưa ḿnh ở cũng không biết ḿnh.

(Tv 103, 15-16)

Vào ngày 31 tháng giêng năm 2000, một hung tín được loan ra: chuyến bay 261 của hăng Alaska với 83 hành khách và 5 nhân-viên phi-hành-đoàn, cất cánh từ Mễ Tây Cơ để đi Seattle, tiểu bang Washington, đă rớt xuống Thái-B́nh-Dương, cách Los Angeles chừng 20 dặm đường chim bay. Khoảng 10 xác chết đă được vớt lên, số c̣n lại đă bị tan nát trong ḷng biển cả. Trong số nạn-nhân nầy, có một bé gái thiên-thần mới được bốn tháng. V́ thân-mẫu là người gốc Mễ-Tây-Cơ, cha mẹ đă đưa em về quê ngoại để được rửa tội.

Chỉ trong năm 1999, ba cánh chim sắt đă lao xuống biển cả. Đêm 16 tháng bảy năm 1999, máy bay do Kennedy, 38 tuổi, con trai duy-nhất của cố Tổng Thống John Kennedy, chở vợ là Carolyn Bessette và chị vợ là Lauren Bessette, đi dự lễ cưới cháu ḿnh, đă bị rớt xuống Đại Tây Dương. Một tuần sau, đoàn cấp cứu đă vớt được các thi-hài.

Mấy tháng sau, chiếc máy bay của Ai-Cập với trên 200 hành-khách, đă rớt xuống Đại-Tây-Dương và không một xác nào được t́m thấy.

Vào sáng thứ ba (11-09-2001). một đại-họa khủng-khiếp đă làm chấn-động thế-giới: nhóm khủng-bố Osama Bin Laden đă cướp giựt bốn máy bay và chỉ trong một giờ đồng-hồ đă làm nổ tung hai ngọn tháp chọc trời của Trung-Tâm Thương-Mại Thế-Giới ở Nữu-Ước và sau đó đánh sập một cánh của Ngũ-Giác-Đài ở Hoa-Thịnh-Đốn. Tổng số thương-vong khoảng trên ba ngàn người, trong số đó không thiếu những chuyên-gia lỗi -lạc về kinh-tế, tài-chánh, ngân-hàng, kỹ-thuật và quân-sự…

Trong huấn-từ nhân cuộc triều-yết chung vào sáng thứ tư (ngày 12-09-2001), Đức Thánh Cha Gioan-Phaolồ Đệ-Nhị đă mô tả đại-họa đó là “một ngày đen tối nhất trong lịch-sử loài người, một xúc phạm ghê-gớm cho phẩm-giá con người.”

Tôi mới có dịp nói chuyện với một người bạn rất khỏe mạnh, nhưng ba hôm sau, người bạn đó đă được khâm-liệm v́ bị ngă gục dưới họng súng tấn-công của một địch-thủ.

Ngay cả hôm nay đây, biết bao người đang nối tiếp nhau ĺa đời bằng sự chết chóc để đi vào nơi vĩnh-cữu. Những trường-hợp ra đi vĩnh-viễn được nêu ra đây quả rất thông thường, nhưng cũng đủ cho chúng ta hiểu rằng tử-thần sẽ đến viếng chúng ta một cách bất ngờ không một lời báo trước.

Khi quan-sát một số người đang cuồng-nhiệt theo đuổi danh-vọng, thú vui hay của-cải vật-chất th́ chúng ta sẽ hết sức ngạc-nhiên với ư-nghĩ là họ đang sống mà không chút ưu-tư về cuộc sống đời đời. Con người trong thời-đại văn-minh tiến-bộ nầy dường như đang sống theo lư-tưởng quá ư trần-tục của một tư-tưởng-gia thời xưa: “Chúng ta đừng quan-tâm đến sự chết, nhưng hăy nghĩ đến sự sống thiên-đàng mà chúng ta t́m kiếm không phải là những đường phố bằng vàng nhưng là những túi vàng vậy. Những khát vọng của chúng ta chỉ thuộc về cơi tạm nầy chứ không phải thuộc về cơi đời đời, và thiên-đàng mà chúng ta suy tưởng phải là một cơi phong-phú về tiền bạc và đủ các tiện-nghi cho chúng ta hưởng-thụ. Quả thật, chúng ta không cần phải lo nghĩ đến sự chết.” Tuy-nhiên, sách Giảng-Viên đă nói rơ ràng: “Có thời để sinh ra, có thời để ĺa đời.” (Gv 3, 2).

Kinh Thánh cũng cho biết ông A-Dong sống đến chín trăm tuổi rồi mới qua đời. Ông Sết hưởng thọ chín trăm mười hai tuổi rồi từ trần. Ông Hê-nóc sống chín trăm lẻ năm tuổi rồi cũng phải từ giả cơi đời. Hơn sáu tỷ người đang sống trên mặt đất hiện nay rồi cũng sẽ ra đi trong ṿng một trăm năm nữa, không ai sẽ thấy ánh mặt trời của thế-kỷ hai mươi hai. Trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, Thánh Phaolồ đă viết: “Thân phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét.” (Dt 9, 27).

Mặc dầu khoa-học đă tiến-bộ, sau khi vượt qua giới-hạn của không-gian địa-cầu và đang tiến sâu vào không trung, nhưng trên cương-vị con người, chúng ta luôn luôn bị ràng buộc bởi cuộc sống trên mặt đất. Có rất ít bài giảng-luận về sự chết, thiên-đàng, hỏa-ngục. Tuy-nhiên, chân-lư bất-biến là tất cả mọi người trên mặt đất đều phải kết-thúc bằng sự chết và vấn-đề chuẩn-bị cho cuộc sống trong đời sau rất là hệ-trọng, như lời Thánh-Kinh: “Nếu con luôn luôn suy gẫm về sự chết, sự phán xét, thiên-đàng, hỏa-ngục th́ con sẽ không bao-giờ phạm tội.”

Ở Âu-Mỹ, có một thành-ngữ như sau: “Ở đời nầy, chỉ có hai việc chắc-chắn không ai thoát khỏi là sự chết và nộp thuế.” Chúng ta thường lo lắng dành tiền dể nộp thuế mà quên mất vấn-đề quan-hệ hơn là sự chết. Ta cần phải ư-thức hơn về việc tử-thần đang tiến gần mỗi người chúng ta một cách nhanh chóng. Lời Chúa đă căn dặn: “Thế th́ của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên-Chúa, trả về Thiên-Chúa.” (Mt 22, 21).

Người giàu không thể nhờ tiền bạc xin sửa đổi h́nh phạt đang chờ đợi ḿnh thành một án treo; người nghèo cũng không thể nói với sự chết cho ḿnh sống thêm một ngày nữa v́ nó đă chiếm-hữu con người từ lúc mới lọt ḷng mẹ cho tới khi đi vào mồ-mả. Sẽ có lúc sau khi mọi người đông-đảo họp nhau cầu-nguyện th́ đă ra về và “c̣n lại một ḿnh tôi” trong nơi hoang vắng…!

Thánh Giacôbê đă viết: “Anh em không biết cuộc đời ḿnh ngày mai sẽ ra sao. Thật vậy, anh em chỉ là hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi.” (Gc 4, 14). Như đám sương mù buổi sáng, rất mong manh, bốc thành hơi nước dưới ánh triêu-dương rồi biến mất giữa ban ngày, đời người cũng giống như giọt sương mai hiện ra chốc lát rồi lại tan ngay.

Thật vậy, sự sống chẳng khác ǵ cái thoi dệt cửi: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa và chấm dứt, không một tia hy-vọng.” (Gióp 7, 6). Một văn-sĩ đă viết: “Chỉ khi nào thời gian, với một bàn tay không biết chán, xé hết phân nửa số trang sách của đời ḿnh để nung đốt ḷ dục-vọng, lúc ấy con người mới bắt đầu nhận thấy những trang c̣n lại của đời sống ḿnh không c̣n bao nhiêu nữa”. Tiên-tri I-Sai-A đă suy ngắm: “Lạy Chúa, con như người thợ dệt, đang măi dệt đời ḿnh, bỗng nhiên bị tay Chúa cắt đứt ngay hàng chỉ.” (Is 38, 12). Sách Biên-Niên-Sử quyển I cũng viết: “Ngày đời của chúng con trên mặt đất như bóng câu cửa sổ, không để lại dấu vết.” (1 Sb 29, 15).

Khi William Russel lên đoạn đầu đài, ông đă lấy đồng hồ trong túi áo ra rồi trao cho vị y-sĩ săn-sóc ông và nói: “Xin ông làm ơn giữ hộ cái đồng-hồ nầy v́ tôi không cần đến nó nữa. Bây giờ tôi sắp bước vào cơi đời đời.”

Thánh Gióp cũng đă từng than-thở: “V́ tuổi con người đă được Ngài ấn-định, sống được bao năm tháng là tùy thuộc ở Ngài. Ngài định giới-hạn rồi, sao có thể vượt qua.” (G 14, 5). Tác-giả Thánh-Vịnh cũng đă nói: “Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi, tươi thắm như cỏ nội hoa đồng, một cơn gió thoảng là xong, chốn xưa ḿnh ở cũng không biết ḿnh.” (Tv 103: 15,16).

Ngày nầy nối tiếp ngày khác, trôi qua với một tốc-độ tăng dần măi dường như theo nhịp tiến của chúng ta tới tuổi già. Những ngày của chúng ta trên mặt đất nầy giống hệt kiếp hoa: “Người phàm nào cũng đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội. Cỏ héo, hoa tàn khi thần khí Đức Chúa thổi qua.” (Is 40, 6-7).

Trong những giờ phút cuối cùng đời ḿnh, Cesar Bergia đă nói: “Trong suốt đời sống của tôi, tôi đă tiên-liệu mọi sự, trừ sự chết, và bây giờ, ôi, thật khốn nạn cho tôi, tôi phải chết mà không chuẩn-bị được ǵ trước cho sự chết của tôi.”

Một thanh-niên mới hai mươi bốn xuân xanh, suốt đời mạnh khỏe, nhưng bất th́nh-ĺnh lâm trọng bệnh. Trước khi sắp từ-giả cơi đời, anh đă rên-rỉ, than-van và quằn-quại trên giường bệnh với những lời gào thét sau đây: “Ôi, tôi đă phung-phí những ngày xanh của tôi, tôi đă làm khánh-tận đời tôi. Tôi sẽ thưa ǵ với Đức Chúa, khi tôi phải ứng hầu trước mặt Ngài?” Thánh Phaolồ. trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, đă cảnh-cáo: “Và nếu mọi vi-phạm cũng như bất tuân đều bị phạt đích đáng, th́ làm sao chúng ta thoát khỏi, nếu chúng ta thờ-ơ với ơn cứu-độ cao-quư như thế?” (Dt 2, 3).

Một văn thi-sĩ khuyết-danh đă viết những câu sau đây, trong bài thơ ‘Sách Sự Sống’:

“Tôi qú cầu-nguyện, nhưng chẳng lâu được; tôi có nhiều việc phải làm. Tôi phải cấp-tốc đi làm v́ hóa-đơn đ̣i tiền chồng chất.

V́ vậy, tôi qú gối, đọc vội một kinh và nhảy đứng dậy. Việc bổn-phận Kitô-hữu của tôi đă làm xong và tâm-hồn tôi thanh-thản, b́nh-an.

Suốt ngày tôi không có thời-giờ để buông một lời chào hỏi vui-vẻ hoặc nói về Chúa Kitô với bạn-bè v́ sợ họ cười nhạo tôi.

Tôi luôn miệng la lớn: Không có thời-giờ, không có thời-giờ, nhiều chuyện phải làm quá! Không có thời-giờ để lo cho việc rỗi linh-hồn, nhưng cuối cùng giờ chết đă đến.

Tôi tŕnh-diện trước mặt Đức Chúa; tôi đứng với đôi mắt cúi xuống, v́ Đức Chúa đang cầm trong tay một quyển sách, sách sự sống.

Đức Chúa nh́n vào trong sách và nói: ‘Cha không t́m thấy tên con, v́ có lần Cha dự-tính viết xuống, nhưng Cha chẳng lúc nào có thời-giờ.’ “

Khi thể xác của chúng ta chết và sự sống của chúng ta ở trên mặt đất nầy chấm dứt, phần linh-hồn của chúng ta vẫn tiếp-tục sống động trong cơi đời đời. Victor Hugo, một đại văn-hào Pháp đă nói: “Tôi cảm biết có sự sống tương-lai trong tôi.” Cyrus cũng đồng ư-kiến: “Tôi không thể nghĩ rằng linh-hồn chỉ sống khi c̣n ở trong một thân-thể hay chết.” Chính Emerson cũng nói: “Bằng chứng hiển-nhiên về sự bất-diệt của linh-hồn là chính nơi sự bất măn của chúng ta đối với mọi kết-luận trái ngược.” Mark Twain đă viết: “Tôi không bao giờ t́m thấy mảy-may sự thật có thể chứng-minh về đời sống tương-lai, nhưng tôi có khuynh-hướng chờ-đợi nó.”

Xưa kia Đức Chúa đă phán với vua Hezekiah: “Hăy lo thu xếp việc nhà, v́ ngươi chết, chứ không sống nổi đâu.” (2 V 20, 1). Do môi miệng của tiên-tri A-mốt, Đức Chúa cũng tuyên phán cho mọi người: “Ngươi hăy chuẩn-bị đi gặp Thiên-Chúa của ngươi.” (Am 4,12).

John Bunyan, tác-giả cuốn “Thiên-lộ lịch-tŕnh”, đă nói lúc ông gần qua đời: “Các bạn đừng than khóc cho tôi, nhưng hăy than khóc cho chính các bạn. Tôi sẽ về nhà đời đời nơi có Đức Chúa Trời là Cha Đức Giêsu Kitô: Ngài sẽ tiếp rước tôi dù tôi là một tội-nhân bởi công-lao cứu chuộc của con Ngài. Tôi tin rằng chúng ta chẳng bao lâu nữa sẽ gặp nhau trên nước sáng láng của Chúa để hát bài ca mới và sống sung-sướng trong cơi đời đời.”

Chúng ta hăy lợi-dụng những giây phút chóng qua của đời người để chuẩn-bị cho cuộc sống đời đời: “Thiên-Chúa yêu thương thế-gian đến nỗi đă ban Con Một, để ai tin vào Con của Người th́ khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3,16).

“Sinh kư tử qui” (sống gởi thác về). Người có Đức Tin đặt niềm tín-thác trọn-vẹn nơi Chúa Quan-Pḥng trong cuộc sống cũng như giờ phút lâm-chung, như lời Thánh Phao-Lồ đă nói: “V́ đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi.” (Pl. 1,21).

Trong tinh thần phó-thác tuyệt-đối đó, các Anh Chị trong ḍng Tiểu-Muội và Tiểu-Đệ, mỗi ngày đă đọc kinh “Dâng Ḿnh” của Cha Charles de Foucauld như sau:

“Lạy Cha, con phó-thác ḿnh con cho Cha. Xin hăy làm nơi con mọi sự đẹp ư Cha. Cha làm cho mặc ḷng, con cũng cám ơn Cha. Con sẵn-sàng luôn luôn, con nhận lănh tất cả, miễn ư Cha được trọn-vẹn trong con, trong tất cả loài Cha tạo-dựng. Con chẳng ước muốn chi khác nữa. Lạy Cha là Chúa Trời con, con phó-thác linh-hồn con trong tay Cha. Con dâng linh-hồn con cho Cha. Lạy Cha, với tất cả t́nh yêu của ḷng con, v́ con mến Cha và v́ mến Cha nên con thấy cần phải hiến-thân con, phó trót ḿnh con trong tay Cha, không do-dự đắn-đo song vô-cùng tin cậy, v́ Cha là Cha của con. Amen.”

[Mục Lục]

Bài 20. Họ sẽ được nh́n thấy Thiên Chúa

Một linh mục đang chuẩn bị cho trẻ em lănh bí tích thêm sức, Ngài kiểm tra những điều các em học hỏi. Ngài hỏi một em trai: “Thiên Chúa sẽ nói ǵ trong ngày phán xét chung với những người đă sống cuộc đời rất tốt lành?” Không do dự, chú bé đáp: “Hăy lên trời sống với Ta”. Rồi linh mục hơi một em bé gái: “C̣n những người sống cuộc đời rất xấu xa th́ sao? Thiên Chúa sẽ nói ǵ với họ?”. Cô bé đáp: “Các người không được lên trời. Các người phải đi nơi khác”. Linh mục nói tiếp: “Vậy Thiên Chúa sẽ nói ǵ với những người chưa tốt lành đủ để lên trời và cũng không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục?” Một em bé nhanh nhảu giơ tay và trả lời theo kiểu mới bằng những lời rất đúng: “Thiên Chúa sẽ nói: “Ta sẽ nh́n các con”.

Câu chuyện này làm nổi bật hai trong nhiều chân lư mà chúng ta cần nhắc lại trong ngày lễ các linh hồn hôm nay và trong cả trong tháng 11 này được dành riêng để kính nhớ các linh hồn c̣n trong luyện hgục. Chân lư thứ nhất là: một số linh hồn chưa đủ tốt lành để lên trời và không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục. Vậy những người đó đi đâu khi họ qua đời? Chỉ Giáo hội công giáo có câu trả lời, là họ vào luyện ngục. Chân lư khác được em bé gái diễn tả là: đau khổ lớn nhất của luyện ngục là các linh hồn ở đó không được nh́n thấy Thiên Chúa, v́ Thiên Chúa sẽ nh́n xem họ sau này, cho nên họ sẽ được nh́n thấy Thiên Chúa về sau.

Bạn không t́m thấy từ “luyện ngục” trong Thánh Kinh, nhưng bạn có thể t́m được ư tưởng về nó. Chính Chúa chúng ta muốn nói rằng: một số tội được đền chuộc lại ở đời sau khi Ngài nói về tội không thể tha thứ v́ từ chối kêu xin sự tha thứ (Mt 12,32)

Chúa Giêsu cũng nói về một ngục tù nơi linh hồn sẽ bị tống vào đó v́ một số tôi. Họ sẽ chẳng được ra khỏi đó cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng (Mt 5,26), thánh Phaolô nói về những người sống ở thế gian này không hoàn thiện, tuy nhiên họ sẽ được cứu độ như bằng lửa thử luyện (ICor 3,13).

Cựu ước cũng chỉ cho thấy luyện ngục. Giuda Macabê, nhà lănh đạo Do thái, đă dâng lễ tế đền tội cho người đă chết: “Cầu nguyện cho người đă chết là một ư tưởng lành thánh và đạo đức, để họ được tha thứ tội lỗi” (Amac 12,46).

Các linh hồn lành thánh không được lập công được nữa v́ họ cũng không thể phạm tội nữa. Họ không thể giúp ḿnh nhưng có thể giúp chúng ta. Họ đau khổ chính là v́ họ không có thể ở cùng Thiên Chúa và nh́n xem Thiên Chúa. Họ chịu thứ đau khổ thanh tẩy có thể so sánh với đau khổ v́ lửa. Nhưng họ vẫn vui mừng: họ nắm chắc là họ sẽ được lên trời.

Nhiêu linh hồn lành thánh này là những người thân yêu của chúng ta. Chúng ta có thể giúp đỡ họ bằng cầu nguyện, bằng việc lành và đặc biệt nhờ thánh lễ mà chúng ta cầu nguyện: “Xin Chúa nhớ đến tổ tiên, thân thuộc chúng con và anh chị em tín hữu đang an nghỉ chờ ngày sống lại, xin cho tất cả được hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa”.

Xin Chúa chúc lành cho các bạn.

[Mục Lục]

Bài 21. Bên kia sự chết

Trên giường hấp hối, thánh Monica đă nhắn nhủ con ngài là Augustino như sau: “Mẹ chỉ xin con một điều là hăy nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc thánh”.

Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng đă được nghe nhiều lời van xin tương tự phát ra từ môi miệng của những người thân của chúng ta, trước khi từ giă cơi đời… Nhưng xa mặt cách ḷng, nhiều người trong chúng ta lăng quên những lời van xin thống thiết ấy. Cần được thương, cần được nhớ: đó là khát vọng tự nhiên của con người. Không ai muốn là một hoang đảo cô đơn. Dưới cái nh́n Đức Tin, lời van xin kẻ khác cầu nguyện cho, c̣n chứng tỏ một ḷng khiêm tốn, một thái độ chấp nhận cái giới hạn mỏng manh bất lực của ḿnh.

Để giúp chúng ta có dịp đáp lại thỉnh cầu của những người đă đi vào thế giới bên kia và để thể hiện mối t́nh thông hiệp “các thánh thông công”, Giáo Hội ngay từ buổi đầu kỷ nguyên Kitô đă cổ động việc tưởng nhớ cầu nguyện cho những người quá cố. Những thế kỷ gần đây đă dành tháng 11 hằng năm cho việc đạo đức ấy. Hai ngày lễ mừng kính các thánh và cầu cho các linh hồn được ấn định vào hai ngày mùng một và mùng hai đầu tháng với những kinh nguyện rất ư nghĩa, nhắc chúng ta về sự hiệp thông trong Giáo Hội. Công đồng Vatican II trong hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội đă viết như sau: “Giáo Hội lữ hành hết ḷng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đă chết, v́ cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh…”.Nói về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Đồng viết như sau: “Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa Cha…”. Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận thảo hiếu đáp đền, đă thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện.

Quỳ cầu nguyện một ḿnh trong nhà thờ, hay ngậm ngùi đốt lên một ngọn bạch lạp tại một nghĩa trang nào, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy bùi ngùi xúc động khi nghĩ đến những người chết và chính cái chết. Chúng ta đang đứng giữa biên giới vô h́nh của sự sống và sự chết. Và một cách vô cùng huyền nhiệm và sống động, những người chết đang hiện diện với chúng ta bằng một sợi dây liên kết thâm sâu, thắm thiết… Cái chết không c̣n là một chấm hết cuối cùng đối với chúng ta nữa. T́nh yêu mạnh hơn sự chết. Chính T́nh Yêu đă làm cho những người đă chết được sống và cũng chính T́nh Yêu liên kết chúng tư với những người chết. Vâng, chỉ có T́nh Yêu mới làm cho con người được bất tử. Chỉ có T́nh Yêu mới làm cho con người liên kết với những người đă chết. Chỉ có T́nh Yêu mới mặc cho những nghĩa cử của con người sự bất diệt.

Mỗi lần chúng ta hy sinh cho một người nào đó, mỗi lần chúng ta săn sóc một người đau yếu, an ủi một người đau khổ, bênh vực một người cô thế, hay cùng với những người khác dấn thân để canh tân cuộc sống… Chúng ta đang tiến dần đến sự bất tử.Yêu thương chính là tái sinh, là sự thông dự vào sự sung măn của cuộc sống. Đó phải là niềm tin của chúng ta trong ngày hôm nay khi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố. Xin Chúa nâng đỡ Đức Tin yếu kém của chúng ta, xin Ngài ban thêm niềm hy vọng cho chúng ta.

[Mục Lục]

Bài 22. Lễ cầu nguyện cho các linh hồn

JK

(Lc 23,33-34.39-43)

Câu hỏi gợi ư:

1) Thiên Chúa không muốn con người đau khổ, tại sao Ngài lại bắt linh hồn người chết phải thanh luyện cho hoàn hảo mới được vào thiên đàng?

2) Chịu thanh luyện để nên hoàn hảo, Bản chất của sự hoàn hảo này là ǵ? Là t́nh yêu? đức tin? sự trong sạch? hay sự tôn trọng lề luật? hay sự ǵ khác?

3) Người gian phi đầy tội lỗi trong bài Tin Mừng, tại sao lại được Đức Giêsu cho vào thiên đàng ngay? Vậy yếu tố cốt yếu nhất để vào thiên đàng là ǵ? Đọc kinh? cầu nguyện? dâng lễ? bố thí? giữ luật? hay t́nh yêu? ḷng vị tha?

CHIA SẺ

1- Niềm tin của người Công giáo về luyện ngục

Hôm nay và suốt tháng 11 này, người Công giáo chúng ta đặc biệt quan tâm cầu nguyện cho những người quá cố. Chúng ta thường nghĩ họ đang phải chịu thanh luyện bằng đau khổ để trở nên hoàn hảo. Sự thanh luyện đó được Giáo Hội định tín: «Linh hồn kẻ chết chưa đền tội hoàn toàn sẽ được thanh luyện sau khi chết với những h́nh phạt được gọi là “Thanh Luyện”» (DS 856/464).

Mục đích của việc thanh luyện là làm cho linh hồn trở nên hoàn hảo, hoàn toàn vị tha, đầy t́nh thương, không c̣n một chút tâm địa ích kỷ, độc ác, tham lam nào nữa. Thiên Đàng đ̣i hỏi một sự hoàn hảo như thế thật là hợp lư, v́ đó là một «nơi» hoàn toàn hạnh phúc, hoàn toàn thánh thiện, là «nơi» chúng ta sẽ trở về để hưởng hạnh phúc muôn đời. (Gọi là «nơi» th́ chỉ là tạm gọi, v́ thật ra, Thiên đàng, luyện ngục hay hỏa ngục không phải là nơi chốn, là không gian vật lư cho bằng là những t́nh trạng tâm linh hoặc tâm lư. Chẳng hạn: Thiên Đàng là t́nh trạng tâm linh hoàn toàn hạnh phúc, không c̣n một chút đau khổ, của những tâm hồn hoàn hảo, thánh thiện. C̣n Hỏa Ngục là t́nh trạng tâm linh hết sức đau khổ của những tâm hồn độc ác, xấu xa, ích kỷ…)

2- Thiên đàng đ̣i hỏi người trong đó phải thật hoàn thiện

Không cần phải xét về phía Thiên Chúa, mà ngay chính chúng ta cũng đ̣i hỏi rằng: để vào Thiên Đàng th́ phải thật trọn hảo. Thật vậy, thử hỏi, khi trở về «nơi» lư tưởng đó để hưởng hạnh phúc, ta có thể hoàn toàn hạnh phúc khi phải sống chung với thân nhân, bạn bè với những tính nết xấu như họ đang có bây giờ không? Nếu người ở thiên đàng mà c̣n ích kỷ, c̣n ác ư, c̣n lănh đạm, c̣n hẹp ḥi, c̣n hay nghĩ xấu cho người khác, dù chỉ một chút xíu, th́ chính bản thân họ sẽ đau khổ, đồng thời c̣n gây nên đau khổ cho người khác nữa. Chưa hoàn hảo mà đă sống ở Thiên Đàng th́ ta sẽ làm ô nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền của Thiên Đàng, và biến Thiên Đàng trở thành một cái ǵ không c̣n là Thiên Đàng nữa. Do đó, Thiên Đàng đ̣i hỏi những người bước vào phải hoàn toàn trong sạch, tốt lành, nếu c̣n chút ǵ xấu xa th́ phải thanh luyện cho hết. T́nh trạng thanh luyện ấy được gọi là «luyện ngục».

3- Tội lỗi hay tính vị kỷ là đầu mối gây đau khổ

Chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ muốn con người phải đau khổ. Việc Ngài sai Con Một ḿnh xuống chịu chết một cách thảm thương để cứu nhân loại chứng tỏ điều ấy. Nhưng Ngài không thể trực tiếp cứu chúng ta khỏi đau khổ, mà chỉ có thể cứu chúng ta khỏi những nguyên nhân gây nên đau khổ là tội lỗi. Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan viết: «Người đă yêu mến chúng ta và lấy máu ḿnh rửa sạch tội lỗi chúng ta» (Kh 1,5). Đau khổ chỉ là ngọn, c̣n tội lỗi mới là gốc. Muốn tránh khổ th́ phải tránh tội lỗi. Diệt khổ th́ chỉ là diệt ngọn, khổ vẫn có thể tiếp tục phát sinh. Diệt tội lỗi mới là diệt khổ tận gốc. Nhưng con người v́ c̣n u mê nên thường sợ khổ chứ không sợ nguồn gốc phát sinh ra đau khổ là tội lỗi, là tính ích kỷ. Họ vẫn cứ tiếp tục phạm tội, sống ích kỷ. V́ thế, dù t́m đủ mọi cách để tránh khổ, con người vẫn cứ rơi vào đau khổ, hết khổ này đến khổ khác. Trong việc cứu khổ cho người khác, cho các linh hồn được thanh luyện, con người cũng chỉ nghĩ tới việc cứu họ khỏi đau khổ, chứ không nghĩ tới việc cứu họ khỏi những nguyên nhân gây đau khổ.

Nguồn gốc của tội lỗi chính là tính ích kỷ, chỉ biết nghĩ tới đau khổ và hạnh phúc của ḿnh, mà không quan tâm hay biết đến đau khổ và hạnh phúc của người khác. V́ thế, nguyên nhân sâu xa hơn của đau khổ chính là tính ích kỷ.

4- T́nh yêu hóa giải đau khổ và đem lại hạnh phúc

Nếu ích kỷ là nguồn gốc phát sinh đau khổ, th́ ngược lại, tính vị tha hay t́nh yêu chính là nguồn tạo nên hạnh phúc. Do đó, người ta chỉ có thể vào được thiên đàng khi họ có đầy tràn t́nh yêu và không c̣n chút tính ích kỷ nào nữa. Nắm vững điều này, ta mới hiểu được ư nghĩa sâu xa câu nói Đức Giêsu, khi có người – vốn đă giữ rất chu đáo các lề luật – hỏi Ngài về cách đạt được sự sống đời đời: «Anh chỉ thiếu có một điều, là hăy đi bán những ǵ anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hăy đến theo tôi» (Mc 10,21). Điều đó có nghĩa là phải biết yêu thương và thật sự thể hiện t́nh yêu ấy th́ mới được sự sống đời đời, tức được hạnh phúc đích thực. Kho tàng ở trên trời mà mọi người muốn lên đó phải sắm cho ḿnh chính là kho tàng t́nh yêu.

Người trộm lành trong bài Tin Mừng hôm nay đă thể hiện được tinh thần vị tha và t́nh yêu ấy. Trong cảnh khổ như thế mà anh không hề nghĩ tới đau khổ của bản thân ḿnh, mà chỉ nghĩ tới đau khổ của Đức Giêsu, thương cho Ngài bị hàm oan: «Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, v́ xứng với việc đă làm. Chứ ông này đâu có làm điều ǵ trái!». Chính v́ thế, anh đă được Đức Giêsu nói: «Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng». Người trộm lành tuy đầy tội lỗi, nhưng cuối cùng anh đă phát tâm yêu thương, và t́nh yêu đă biến anh thành người tốt lành, xứng đáng với hạnh phúc thiên đàng. Đúng như câu nói của thánh Phaolô: «T́nh yêu che phủ muôn vàn tội lỗi» (1Pr 4,8).

5- Chấp nhận đau khổ v́ t́nh yêu là bí quyết của hạnh phúc

Câu chuyện về người trộm lành trên làm tôi nghĩ đến một câu chuyện của Đức Phật. Trong một tiền kiếp nọ của ngài, ngài đă phạm một trọng tội khiến ngài bị đọa vào địa ngục. Tại đó, ngài cùng nhiều người khác bị đau khổ ghê gớm. Khi nh́n thấy những người trong đó đang quằn quại với những cực h́nh vô cùng đau đớn như ḿnh, ngài thương họ vô cùng. T́nh thương ấy khiến ngài phát tâm nguyện rằng: Tôi nguyện sẵn sàng chịu thay cho mọi người trong địa ngục này tất cả những đau khổ mà họ đang phải chịu, để họ thoát khỏi những cực h́nh ghê gớm này! Vừa nguyện như thế xong th́ lập tức ngài tự nhiên thoát khỏi cảnh đau khổ ấy. C̣n những người kia th́ vẫn tiếp tục ở lại đấy chịu đau khổ.

Tôi chỉ coi chuyện trên như một dụ ngôn. Tuy không có thực, nhưng nó nói lên một chân lư mà chính tôi đă thực nghiệm thấy rất đúng. Khi tôi chỉ quan tâm chú ư tới những đau khổ tôi đang phải chịu, th́ tôi thấy đau khổ ấy – một cách chủ quan – tăng lên gấp bội. Nhưng khi tôi quan tâm tới những đau khổ của người khác đang phải chịu, khi tôi muốn làm giảm bớt đau khổ cho họ, khi tôi chấp nhận chịu đau khổ thay cho họ, hay chịu khổ nhiều hơn nữa để họ bớt khổ hay để họ được hạnh phúc, th́ lập tức tôi cảm thấy tâm hồn ḿnh mạnh mẽ lên. Lúc ấy những đau khổ tôi đang chịu – tuy dù một cách khách quan không hề thay đổi, mà có thể c̣n tăng lên – bỗng nhiên mất đi tính dữ dội hay thảm khốc của chúng đối với tôi. Chúng không c̣n làm tôi đau khổ được như trước.

Áp dụng kinh nghiệm này vào đời sống gia đ́nh, tôi nhận thấy: khi tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, mọi đau khổ, mọi buồn phiền để làm những người thân yêu của tôi bớt khổ và được hạnh phúc, th́ điều lạ lùng tôi cảm nghiệm được là tôi không hề đau khổ mà lại thấy hạnh phúc hơn. Tôi hạnh phúc hơn v́ tôi thấy nhờ hành động ấy của tôi mà những người tôi yêu thương được hạnh phúc hơn. Điều làm họ hạnh phúc nhất là thấy tôi yêu thương họ, hết ḿnh với họ. Và chính v́ thế, họ cũng chẳng để tôi phải vất vả hay chịu đau khổ thay cho họ, ngược lại họ lại sẵn sàng chịu đau khổ thay cho tôi. Và thế là cả gia đ́nh tôi – trong đó có tôi – đều cảm thấy hạnh phúc trong bầu khí đầm ấm yêu thương. Thế là chỉ v́ tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, cực nhọc, đau khổ thay cho những người thân yêu, mà tôi biến gia đ́nh tôi thành một gia đ́nh hạnh phúc. So với nhiều người chủ gia đ́nh khác, tôi thấy ḿnh hạnh phúc hơn họ nhiều, xét cả mặt khách quan lẫn chủ quan. Tôi nhận thấy: không phải khi ḿnh sẵn sàng chịu đau khổ thay cho người khác th́ tất nhiên ḿnh sẽ phải chịu đau khổ nhiều hơn đâu! Mà ngược lại, thái độ quên ḿnh ấy lại đem lại hạnh phúc cho cả tôi lẫn những người chung quanh tôi. Đó là kinh nghiệm của tôi trong gia đ́nh. Và tôi đang áp dụng kinh nghiệm này ra ngoài gia đ́nh, trong xă hội… và tôi vẫn thấy nó đúng. Xin chia sẻ với mọi người kinh nghiệm có thật này để may ra hữu ích cho ai đó!

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, thánh Gioan nói: «T́nh yêu không biết đến sợ hăi; trái lại, t́nh yêu hoàn hảo loại trừ sợ hăi, v́ sợ hăi gắn liền với h́nh phạt và ai sợ hăi th́ không đạt tới t́nh yêu hoàn hảo» (1Ga 4,18). Con cảm thấy chính khi con thật sự có t́nh yêu th́ con không sợ đau khổ, mà sẵn sàng đón nhận đau khổ để người khác được hạnh phúc. Và khi con không sợ đau khổ, th́ đau khổ không c̣n tác oai tác quái trên con nữa. Nó không c̣n khả năng làm con mất b́nh an hạnh phúc được nữa. Và con cảm thấy b́nh an và hạnh phúc do t́nh yêu đem lại chính là thiên đàng. Một thiên đàng mà con có thể cảm nghiệm trước ở ngay trần gian này.

[Mục Lục]

Bài 23. Các tín hữu đă qua đời

Trong thánh lễ cầu cho những người đă qua đời, chúng ta thường hát:

- Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy.

Khi cầu xin với Chúa như vậy, chúng ta phải giả thiết các linh hồn ấy chưa đến được nơi hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng đồng thời cũng không bị đày đọa trong hỏa ngục. Và dựa vào giáo lư, chúng ta đă biết luyện ngục là nơi đau khổ, trong đó linh hồn những người công chính sẽ phải thanh tẩy tội lỗi trước khi bước vào Nước Trời.

Các linh hồn ấy không bị ném vào chốn cực h́nh muôn kiếp, nhưng cũng chưa được vào thiên đàng. Sở dĩ như vậy v́ Thiên Chúa là Đấng thánh thiện và trong sạch vẹn toàn. Ngài không bao giờ chấp nhận chút bùn nhơ tội lỗi, dù là nhỏ bé tầm thường. Linh hồn vấp phạm đă được tha thứ, nhưng c̣n phải đền bù và thanh luyện về những sai lỗi ấy. Và thật là may mắn, chúng ta có thể giúp đỡ bằng những lời kinh, những hy sinh và những thánh lễ dâng lên cho Thiên Chúa, để xin Ngài xóa bỏ tội lỗi, giảm bớt h́nh phạt và mau giải phóng các linh hồn ấy.

Sau đây chúng ta hăy lắng nghe một tiếng nói từ thế giới bên kia vọng về. Vào mùa chay năm 1922, nữ tu Joséfa xin với Chúa cho ḿnh được liên hệ với thế giới của luyện ngục, và nữ tu đă ghi nhận:

- Rất nhiều linh hồn đă xin ngài hy sinh và cầu nguyện cho.

Một linh hồn nói:

- Tôi đă sống trong t́nh trạng tội lỗi suốt bảy năm. Sau đó tôi bị đau ốm ba năm. Tôi từ chối không muốn xưng tội. Tự tay tôi đă xây lấy hỏa ngục cho tôi. Nhưng nhờ lời kinh và hy sinh của người mẹ, mà tôi ăn năn thống hối trở về với Chúa và sống trong t́nh trạng ơn thánh. Bây giờ tôi đang bị giam cầm trong luyện ngục. Tôi van xin ngài hăy cứu giúp tôi, để mau mau chóng ra khỏi tù ngục này.

Hăy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục v́ đó là một bổn phận bác ái. Nỡ ḷng nào mà chúng ta không ra tay trợ giúp kẻ kêu cầu chúng ta. Nỡ ḷng nào mà chúng ta lại lănh đạm trước một người bạn đang chới với giữa ḍng nước mà không t́m cách cứu vớt.

Hăy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục v́ đó là một bổn phận công bằng, v́ tất cả chúng ta đều liên đới với nhau trong sự thiện cũng như trong sự ác, trong sự tốt cũng như trong sự xấu. Những người bị đền bù, rất có thể v́ đời sống tầm thường, v́ gương mù gương xấu của chúng ta mà vấp ngă, rất có thể v́ yêu thương chúng ta mà các ngài đă sai lỗi điều nọ điều kia. Dù ít hay nhiều, chúng ta cũng liên đới chịu trách nhiệm về những h́nh phạt của các ngài và phải chia sẻ về những h́nh phạt ấy.

Sau cùng, hăy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục v́ đó là việc làm có lợi cho chúng ta. Cầu nguyện cho các ngài, th́ các ngài cũng sẽ bầu cử cho chúng ta v́ các ngài đă là những bạn hữu nghĩa thiết của Chúa. Tưởng nhớ đến các ngài, th́ chắc hẳn mai ngày khi ở trong hoàn cảnh khổ đau như thế, Chúa cũng sẽ không để chúng ta ch́m vào quên lăng.

Cách đây không lâu cha sở vùng Bretagne là một mục tử tận tâm chăm sóc đoàn chiên của ḿnh. Chẳng may ngài bị chết bất ngờ, và có tới hơn hai trăm linh mục khác đến đồng tế trong thánh lễ an táng của ngài.

Ngài đă nói với các em nhỏ trong giờ giáo lư cuối cùng như sau:

- Hăy cầu nguyện cho các linh mục. Nếu cha bị chết bất ngờ, chắc hẳn cha sẽ phải vào trong luyện ngục. Các em hăy hứa là sẽ cầu nguyện và cầu nguyện nhiều cho cha nhé.

Và để kết luận, tôi xin đưa ra nơi đây ư kiến của một tờ báo Công giáo:

- Bạn nhớ cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục và cũng thường xuyên nghĩ tới cái chết, sự phán xét, thiên đàng và hỏa ngục. Bạn c̣n có thể chuẩn bị cho ngày gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa. Trong ngày đó, chỉ có hai con đường: hoặc là đau khổ vĩnh viễn, hoặc là hạnh phúc muôn đời. Vậy chúng ta chọn con đường nào đây?

[Mục Lục]

Bài 24. Các linh hồn

Một người Mỹ tên là Habốc thành lập một hăng bưu điện kỳ quặc với cái tên giật gân “Liên minh thiên đàng”. Công việc của hăng này là chuyển thư từ của những ai muốn gởi đến những người thân quen đă qua đời. Thủ tục rất đơn giản: người gởi chỉ cần viết thư trên một tờ giấy mẫu in sẵn và nộp một khoản cước phí là xong. C̣n làm thế nào để chuyển lá thư ấy đến tay người chết là phận vụ của bưu điện. “Liên minh thiên đàng”. Theo lời ông Habốc quả quyết thư gởi nhất định sẽ tới tay người nhận do nhân viên đưa thưa của hăng là những người sắp chết t́nh nguyện chuyển giùm. Những nhân viên t́nh nguyện này sẽ học thuộc ḷng nội dung bức thư và cam kết sẽ nhắn lại đầy đủ với người nhận. Hơn nữa “Liên minh thiên đàng” tuyển chọn nhân viên của ḿnh rất cẩn thận. Họ phải là người trong sạch, không có ǵ mờ ám trước khi Chúa gọi ĺa khỏi đời này, nên nhất định họ sẽ lên thiên đàng chứ không thể xuống hỏa ngục được. Do uy tín của hăng bưu điện này ngày càng tăng mạnh mẽ nên ông Habốc đă mở rộng phạm vi hoạt động không những khắp nước Mỹ mà c̣n lan sang các lục địa khác nữa.

Mới nghe qua, nhất là đối với những người vô tôn giáo hay không tin có đời sau th́ câu chuyện trên chẳng những kỳ quặc mà c̣n phi lư không thể chấp nhận được. Nhưng c̣n đối với chúng ta không có ǵ đáng ngạc nhiên cả, chẳng qua chỉ có khác về cách thức liên hệ mà thôi. Bởi v́, giáo lư công giáo đă tŕnh rơ ràng từng chi tiết mối dây liên hệ giữa người c̣n sống và kẻ đă chết bằng một tín điều quan trọng buộc mọi người phải tin và phải thực hành: đó là tín điều Các Thánh cùng thông công.

Tuy nhiên, một điều khác biệt giữa tín điều của người công giáo và hăng bưu điện “Liên minh thiên đàng” của Habốc là cách thức liên lạc với chết. Cách thức của ông Habốc vừa thiên về vật chất vừa dựa vào khả năng giới hạn của con người nên rất khó mà đạt được mong muốn. C̣n các thức liên lạc với người quá cố của đạo công giáo phần lớn nhờ vào quyền năng, lời bảo đảm của Chúa, cũng như được minh chứng cụ thể do những cuộc hiện về của các linh hồn mà Chúa cho phép. Như thế, việc liên hệ với người thân quen đă qua đời đối với chúng ta là một chuyện thường t́nh, dễ dàng và có từ ngàn xưa. Chỉ c̣n lại một công đoạn cuối cùng là chúng ta có muốn liên lạc hay không mà thôi.

Thật vậy, con người sống được với nhau là nhờ ân nghĩa. T́nh nghĩa càng thắm thiết càng thương nhớ đến nhau và muốn sống măi bên nhau, nhất là đối với những người thân quen đă qua đời. Hơn nữa, khi biết sống t́nh nghĩa với nhau cách đằm thắm hay nhạt nhẽo th́ mới rơ ai tốt hay xấu, ai thật ḷng ai gian dối. Do đó, t́nh nghĩa không những là một nhu cầu cần thiết cho đời sống mà c̣n là một bổn phận, trách nhiệm phải đền đáp, chu toàn hết khả năng sẵn có.

Nếu thế th́ chúng ta, những người c̣n sống tại dương thế, đang có tự do hành động theo ư muốn của ḿnh lại càng sống thật t́nh nghĩa với những người đă khuất v́ giờ đây họ chẳng khác ǵ những tù nhân chỉ c̣n trông mong sự cứu giúp của chúng ta mà thôi. Nhưng sống t́nh nghĩa với những người đă chết không có nghĩa là nhớ lại những kỷ niệm, những h́nh ảnh, dáng điệu, lời nói của họ để mà thương tiếc, nhớ nhung, trái lại điều quan trọng là hăy biến những t́nh cảm đó thành những hành động thương yêu thật cụ thể và có giá trị đời đời.

Đó là lư do chính yếu của ngày lễ hôm nay và trong tháng 11 này mà Giáo hội đề xướng ra để kêu gọi toàn thể mọi người hăy hướng ḷng về những người thân quen cũng như xa lạ đă qua đời, nhất là ra sức t́m kiếm những tặng phẩm thiêng liêng để gởi làm quà cho họ. Và một khi đă biết rơ cách thức gởi, gởi những ǵ và gởi nhờ ai th́ sẽ đến tay các linh hồn. Chỉ c̣n lại khâu cuối cùng là chúng ta có hăng say kiếm quà mà gởi hay không mà thôi.

Và nếu những người thân quen ở bên kia thế giới đang quằn quại đau khổ trăm chiều, từng giây từng phút đợi chờ sự cứu giúp của chúng ta, được chóng giải thoát cực h́nh hay phải giam phạt thêm là hoàn toàn do chúng ta có thương xót hay thờ ơ mà thôi, chẳng lẽ chúng ta cứ thờ ơ, lăng quên họ măi hay sao? Vậy hăy mau cố gắng hết sức, t́m đủ mọi cách để giải thoát cho họ như siêng năng xưng tội rước lễ, làm việc lành phúc đức, ăn chay hăm ḿnh, xin lễ cầu nguyện… Và nếu chúng ta cứu được các Đẳng, chắc chắn các Ngài sẽ không bao giờ quên ơn chúng ta.

Đó là chưa nói đến t́nh máu mủ mà chắc chắn không ai trong chúng ta nở ḷng nào quên t́nh nghĩa với ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, cháu chắt, họ hàng thân thuộc đă qua đời chờ sự cứu giúp của chúng ta. C̣n xét về mặt trách nhiệm, nếu những ai đă làm ơn cho chúng ta hoặc v́ lỗi lầm gương xấu của chúng ta mà đang bị gian cầm, chúng ta cần phải đền ơn và chuộc lỗi lầm cho họ.

Vậy ai c̣n sống mà không biết tưởng nhớ đến người chết th́ kẻ đó không phải là con người. Và ai chỉ biết tưởng nhớ suông mà không biết làm những việc lành phúc đức cụ thể th́ cũng không thể xứng đáng lám con cái của Chúa.

[Mục Lục]

Bài 25. UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN

JM. Lam Thy ĐVD.

Sau những trận chiến giao tranh giữa 2 phe đối nghịch, người ta thường tổ chức lễ “Cầu cho các chiến sĩ trận vong” (những chiến sĩ tử trận). Cứ tưởng chỉ ở thời cận kim hay hiện đại mới có lễ này, thật không ngờ từ cổ xưa đă có. Đọc sách Ma-ca-bê 2 (chương 12) tŕnh thuật tướng Giu-đa sau khi chiến thắng tướng Goóc-ghi-át đă làm một việc rất lành thánh, đó là: “Vị anh hùng Giu-đa khuyên nhủ toàn quân giữ ḿnh sạch tội, v́ họ đă nh́n thấy nhăn tiền những việc xảy ra là do tội của những người đă bị giết chết. Ông Giu-đa quyên được khoảng hai ngàn quan tiền, và gửi về Giê-ru-sa-lem để xin dâng lễ đền tội; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quư này v́ cho rằng người chết sẽ sống lại. Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đă ngă xuống sẽ sống lại, th́ cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn. Nhưng v́ ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đă an nghỉ trong tinh thần đạo đức. Đó là lư do khiến ông đến dâng lễ tế đền tạ cho những người đă chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi.” (2Mcb 12, 42-46).

Giáo Hội đă ghi nhận hành động tốt lành đó như một tín điều nhằm răn dạy các tín hữu: “Nhận biết sự hiệp thông này trong ḷng toàn Nhiệm Thể Chúa Giê-su Ki-tô, ngay từ buổi đầu của Ki-tô Giáo, Hội Thánh lữ hành hết ḷng kính mến, tưởng nhớ những người đă chết và dâng lời cầu cho họ “v́ cầu nguyện cho người chết để họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một ư tưởng lành thánh”(2Mcb 12, 46; GH, 51).Khi cầu nguyện cho họ, chúng ta không chỉ giúp họ, mà c̣n làm cho lời họ chuyển cầu cho chúng ta hiệu quả hơn.” (Giáo lư HTCG, số 958). Ngay cả Công Đồng Chung Va-ti-ca-nô II, trong Hiến chế Tín Lư về Giáo Hội “Lumen Gentium” (số 51) cũng khẳng định: “Thánh Công Đồng kính cẩn đón nhận niềm tin cao trọng của tiền nhân chúng ta trong việc hiệp thông sống động với các anh em được hiển vinh trên trời hay c̣n phải tinh luyện sau khi chết, và lấy lại các sắc lệnh của các thánh Công Đồng Nicea II, 20; Firenze 21 và Trentô 22.”

Trong sự hiệp thông khơi nguồn từ sự hiệp thông viên măn của Thiên Chúa Ba Ngôi, đă tạo nên sự hiệp thông của 3 Giáo Hội: Giáo Hội Chiến Đấu (GH Lữ Hành), Giáo Hội Đau Khổ (GH Thanh Luyện) và Giáo Hội Chiến Thắng (GH Khải Hoàn). Người tín hữu khi c̣n tại thế đă trải qua một cuộc lữ hành phải chiến đấu với ba thù, một cuộc chiến đấu đầy cam go thử thách. Khi từ trần, ngoại trừ những người thỏa hiệp với sự dữ, cố t́nh không chịu ăn năn sám hối về những tội lỗi mắc phạm, phải chịu án phạt đời đời (hỏa ngục); th́ số người c̣n lại chỉ một số ít được trực tiếp vinh thăng Thiên Quốc, đa phần đều phải tiếp tục được thanh luyện nơi Luyện ngục. Thật vậy, “Công việc xây dựng của ai tồn tại trên nền, th́ người ấy sẽ được lĩnh thưởng. C̣n công việc của ai bị thiêu huỷ, th́ người ấy sẽ phải thiệt. Tuy nhiên, bản thân người ấy sẽ được cứu, nhưng như thể băng qua lửa.” (1Cr 3, 14-15).

Những linh hồn nơi Luyện ngục đă mất khả năng tự “lập công chuộc tội” cho ḿnh, mà chỉ trông nhờ vào công đức của các tín hữu c̣n tại thế cầu thay nguyện giúp cho các ngài mà thôi. Công Đồng Tri-đen-ti-nô (1545-1563) đă nhấn mạnh: “Lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết.” Công Đồng Va-ti-ca-nô II cũng dạy: “Giáo Hội lữ hành hết ḷng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đă chết, v́ cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh.” (Hc Tín Lư về Giáo Hội “Lumen Gentium”, số 50). Nhờ vậy, khi “được về quê trời và hiện diện trước nhan Chúa (x. 2Cr 5, 8) nhờ Người, với Người và trong Người, các Thánh không ngừng cầu bầu cho chúng ta bên Chúa Cha, bằng cách tŕnh bày các công nghiệp đă lập được khi c̣n ở dưới thế, nhờ Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người là Chúa Giê-su Ki-tô (x. 1Tm 2, 5)” (Hc Tín Lư về Giáo Hội “Lumen Gentium”, số 49).

Đó là lư do giải thích tại sao Hội Thánh đă chọn ngày 01/11 làm lễ kính Các Thánh và ngày 02/11 làm lễ cầu cho các Tín hữu đă qua đời; đồng thời c̣n dành cả tháng 11 trong năm Phụng Vụ để cầu nguyện cho các tín hữu đă ly trần (ở Việt Nam vẫn gọi tháng 11 là tháng Cầu Hồn). Việc cầu nguyện cho các tín hữu đă qua đời liên quan đến niềm tin về luyện ngục và các thánh thông công (Kinh Tin Kính). Sự trao đi nhận lại ấy vừa là một việc bác ái, vừa là một bổn phận thảo hiếu phải đáp đền, đă thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện. Đó là những thực hành rất lành thánh để tưởng nhớ người đă qua đời, thực thi bổn phận “hiệp thông cùng các thánh”, nối tiếp truyền thống hiệp thông 3 Giáo Hội trở nên một Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, Công giáo và tông truyền (Kinh Tin Kính).

Trong truyền thống hiệp thông, Giáo Hội luôn mời gọi người tín hữu dâng các việc lành phúc đức và cầu nguyện cho những người đă khuất. Khi thực hiện những hành vi lành thánh đó, chính là lúc người Ki-tô hữu tuyên xưng niềm tin của ḿnh vào sự sống lại và sự sống đời đời (Ga 11, 25) – sự sống mà chính Đức Ki-tô đă khai mở, v́ Người chính là hoa quả đầu mùa của những kẻ đă yên giấc (“Đức Ki-tô đă trỗi dậy từ cơi chết, mở đường cho những ai đă an giấc ngàn thu.” – 1Cr 15, 20).Nếu không tin vào sự sống mai sau th́ chẳng ai cầu nguyện cho các linh hồn làm ǵ và cũng chẳng có lễ cầu hồn, như người Công giáo vẫn thường dâng hàng ngày, đặc biệt là trong cả tháng 11 hàng năm. Nếu không tin vào sự chung thẩm (luận định, phán xét cuối cùng) ở ngày cánh chung, th́ mọi lời cầu nguyện và nghĩa cử người tín hữu làm cho người chết đều trở nên vô nghĩa (sách Ma-ca-bê c̣n gọi đó là việc làm “dư thừa và ngu xuẩn” – 2Mcb 12, 44).

Như vậy là đă rơ, để thanh tẩy cho sạch mọi tội lỗi, giũ sạch mọi vết nhơ gây nên đau khổ, con người cần phải được thanh luyện không những khi c̣n tại thế mà cả sau khi đă qua đời. Nơi thanh luyện đó Giáo Hội định tín là “Luyện ngục” (“Những người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắc chắn được cứu độ đời đời, c̣n phải chịu thanh luyện sau khi chết, để đat được sư thánh thiện cần thiết để vào hưởng phúc Thiên đàng”“Hội Thánh gọi việc thanh luyện cuối cùng của những người được chọn là Luỵên ngục. Điều này khác hẳn với h́nh phạt đời đời của kẻ bị chúc dữ: Hội Thánh công bố giáo lư về Luyện nguc cách riêng trong các Công đồng Flôrence và Trentô. Dựa vào một số đoạn Kinh Thánh, Hội Thánh nói về lửa thanh luyện” (1Cr 3, 15; 1Pr 1, 7). – Giáo lư Hội Thánh Công Giáo, số 1030-1031).

Sách “Những ngày lễ Công Giáo” (Lịch Phụng Vụ) phổ biến ở Việt Nam (nhà xuất bản tôn giáo ấn hành), ghi ngày 02/11 là: CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐĂ QUA ĐỜI (LỄ CÁC ĐẲNG). Cũng v́ cụm từ viết tắt LỄ CÁC ĐẲNG khiến nảy sinh thắc mắc, không hiểu CÁC ĐẲNG là ǵ. Nếu viết đầy đủ th́ phải là LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN. Nhưng như thế th́ lại hiểu là linh hồn người chết vẫn c̣n phân đẳng cấp sao? Đúng là theo từ nguyên Hán Việt th́ “các đẳng 各等” có nghĩa là: tất cả các thứ hạng, cấp bậc (“các”: tất cả, số nhiều; “đẳng”: thứ bậc, đẳng cấp). Vd: Thượng đẳng (bậc cao nhất); Trung đẳng (bậc giữa); Hạ đẳng (bậc thấp nhất). Tuy nhiên, “Các đẳng linh hồn” không có nghĩa là trong luyện ngục các linh hồn vẫn có sự phân chia đẳng cấp, điạ vị, thứ hạng như khi c̣n ở thế gian. Trong Luyện Ngục, t́nh trạng thanh luyện của họ có thể khác nhau, thời gian thanh luyện có thể khác nhau, nhưng được “phân cấp” như thế nào th́ không ai biết được.

Có lẽ do ở Việt Nam từ trước khi gia nhập Ki-tô giáo, truyền thống dân tộc dành tháng 7 âm lịch để cúng “cô hồn các đẳng” (cúng tế những vong hồn người chết). Khi hạt giống Tin Mừng được gieo trên mảnh đất VN, tiền nhân đă dùng tiếng “các đẳng linh hồn” để dịch cụm từ La-tinh “Commemoratio omnium Fidelium Defunctorum” (Lễ cầu cho các người đă qua đời). Sau này, Uỷ Ban Phụng Tự dịch là “Lễ cầu cho các tín hữu đă qua đời” là đă đầy đủ ư nghĩa, nhưng vẫn mở ngoặc chú thích thêm là “Lễ Các Đẳng” cho phù hợp với truyền thống dân tộc VN. Tóm lại, không nên quá câu nệ vào từ ngữ, mà chĩ cần nhận chân một điều: Lễ “Cầu Hồn” hay tháng “Cầu Cho Các Linh Hồn” nơi Luyện Ngục, chính là dịp để người Ki-tô hữu tuyên xưng Đức Tin được xây dựng trên nền tảng Đức Ái Ki-tô Giáo (“Quả thật, trong Đức Ki-tô Giê-su, cắt b́ hay không cắt b́ đều không có giá trị, chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái.” – Gl 5, 6; “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có ḷng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo.” – Cl 3, 14).

Quả thực không ǵ cao đẹp hơn khi mọi người cỏn sống hay đă chết cùng hiệp thông trong Thánh lễ tạ ơn, trong lời kinh tiếng hát dâng lên Thiên Chúa. Thánh lễ đặc biệt trong những ngày đầu tháng và trong suốt tháng 11 nhằm kính nhớ và cầu nguyện cho các đẳng linh hồn, như một nhắc nhở cần thiết: “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”, để những thế hệ hậu sinh kính dâng cho các hương hồn tiền nhân đă dày công xây đắp cho con cháu. Các ngài măi măi rời xa chúng ta về mặt thể lư; nhưng trong mầu nhiệm hiệp thông của Giáo Hội, th́ các ngài vẫn luôn luôn gần gũi mỗi người trong thế gian. Sẽ là những món quà vô giá mỗi khi người Ki-tô hữu hy sinh, chay tịnh, làm công tác tông đồ bác ái, cầu nguyện cho những người thân yêu và tất cả những ai đă đi vào cơi vĩnh hằng.

Ôi! “Lạy Chúa, Con Một Chúa từ cơi chết sống lại đă tăng cường niềm tin của chúng con. Giờ đây, xin Chúa thương nhận lời chúng con khẩn nguyện mà làm cho ḷng chúng con luôn trông vậy vững vàng: chính Đức Giê-su sẽ cho các tín hữu đă ĺa cơi thế được phục sinh vinh hiển. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ, lễ Cầu cho các tín hữu đạ qua đời).

[Mục Lục]

Bài 26. HĂY NHỚ ĐẾN CÔNG ĐỨC CỦA CÁC NGÀI

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Tại đất nước của chúng ta hay trên thế giới, có lẽ không ai lại không biết đến cây chuối. Có nhiều loại chuối, nhưng các loại chuối đều giống nhau ở một điểm là: chúng chỉ sản sinh ra một buồng chuối duy nhất, không bao giờ có buồng thứ hai. Lúc mới lớn, chúng to cao, thân vạm vỡ, lá xanh tươi. Nhưng khi chúng bắt đầu có buồng, th́ cũng là lúc chúng chuẩn bị héo tàn xơ xác với thời gian và, khi buồng chuẩn bị chín, cây chuối mẹ sẽ ủ rũ, héo úa như muốn dồn hết sức lực c̣n sót lại để nuôi chúng. Sự sống của nó kết thúc khi buồng chuối đă chín hẳn.

Như vậy, trong quá tŕnh sinh trưởng của buồng, cây chuối mẹ phải hy sinh những tinh túy nhất của ḿnh cho buồng chuối. Có thế, chúng ta mới được tận hưởng những trái chuối to, thơm ngon và bổ dưỡng…

Cây chuối là biểu tượng cho một t́nh yêu cao thượng. Nh́n cây chuối đang mang buồng, chúng ta suy nghĩ đến sự quảng đại, hy sinh đến quên ḿnh của những bậc tiền nhân chúng ta.

Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta cử hành thánh lễ cầu hồn để cầu nguyện cho các linh hồn là những ông bà, cha mẹ, tổ tiên, những người thân yêu, ân nhân, thân nhân, bạn hữu… của chúng ta đă ra đi về với Chúa.

Cầu nguyện cho các ngài là bổn phận, là sống tinh thần hiệp thông, là thể hiện đức ái và nhất là biểu lộ niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa.

Như vậy, tháng 11 đối với đạo Công Giáo được gọi là tháng báo hiếu tổ tiên. V́ thế, những người con, cháu, chắt hăy nhớ công ơn trời bể, nhất là những lời dạy dỗ, bảo ban của các ngài mà khắc cốt nghi tâm: “Hỡi con, lệnh cha con truyền, hăy lo tuân giữ, lời mẹ con dạy, chớ bỏ ngoài tai [...], v́ huấn lệnh là ngọn đèn, lời dạy dỗ là ánh sáng, và lời quở trách bảo ban là đường dẫn tới sự sống” (x. Cn 6,20.23).

Thật vậy, cả cuộc đời của các ngài đă sống hết ḿnh v́ con cái. Đôi khi v́ hạnh phúc của con mà người mẹ phải chấp nhận tần tảo ngược xuôi, ăn bữa nay, lo bữa mai, nhưng nhất quyết không để con ḿnh phải đói, phải rách, hay bị thất học… Có những người mẹ đă cống hiến luôn cả một phần cơ phận của ḿnh để có tiền lo cho con cái ăn học hay chữa bệnh…:

“Nuôi con buôn tảo bán tần, chỉ mong con lớn nên thân với đời. Những khi trái nắng trở trời, con đau làm mẹ đứng ngồi không yên. Trọn đời vất vả triền miên,chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.

Hoặc có những người cha đă phải thức khua dạy sớm, làm lụng vất vả để nuôi sống gia đ́nh và lo cho con cái bằng bạn bằng bè:

“Cha tôi tuy đă già rồi, nhưng c̣n làm lụng để nuôi cả nhà. Sớm hôm vừa dấy tiếng gà, cha tôi đă dạy để ra đi làm”.

Đó là về vật chất, c̣n về tinh thần th́ sao? Chắc hẳn không có người cha, người mẹ nào lại muốn con cái ḿnh sinh ra hư hỏng, trái lại, các ngài luôn mong muốn cho chúng càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan, đạo hạnh… Tuy nhiên, v́ sự lêu lổng, tính ham chơi và tuổi đời bồng bột, nên đă không biết bao lần con cái làm cho cha mẹ phải tủi nhục đắng cay! Đấy là chưa kể đến những đứa con bất hiếu đến độ đuổi cha mẹ ra khỏi nhà, chửi mắng các ngài chỉ v́ không đáp ứng những nhu cầu bất chính của chúng! Quả đúng là: “Cha mẹ thương con như biển hồ lai láng, con thương cha mẹ tính tháng tính ngày”.

Nhiều khi con cái đâu có hiểu được rằng: chúng được thành đạt, nên người; được cơm no áo ấm; được nở mặt nở mày với những nụ cười rạng rỡ; được nhiều người thương mến, kính trọng… Có bằng này chức kia lại là kết quả của cha mẹ một nắng hai xương, dầm mưa dăi nắng; cầy sâu cuốc bẫm; suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời để dành dụm được chút ít dư dật, hầu lo cho con cái được ấm nó, hạnh phúc.

Nói chung: “Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Đây là gia tài quư báu mà các ngài truyền lại cho con cháu.

Thật vậy, công đức, gương sáng của các ngài đă để lại cho chúng ta là cả một gia tài vô giá, v́ thế,“Uống nước phải nhớ nguồn, ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây”, v́: “Mẹ cha vất vả nuôi ḿnh. từ khi trứng nước công tŕnh biết bao. Làm con phải nhớ công lao, cho tṛn chữ hiếu mới là đạo con”.

Khi Đức Giêsu đến, Ngài đă kiện toàn lề luật Cựu Ước xưa và mặc cho nó một giá trị cứu độ. Đồng thời chính Ngài đă làm gương trong việc tôn thờ Thiên Chúa Cha, tôn kính, hiếu thảo với Đức Mẹ và thánh Giuse. Qua đó, Đức Giêsu muốn chứng tỏ tầm quan trọng của chữ Hiếu trong mầu nhiệm cứu chuộc của Ngài.

V́ thế, niềm tin Kitô Giáo cho chúng ta một niềm hy vọng rằng: chết không phải là hết, nhưng là một cuộc đi về Quê Thật, v́: “Sinh kư, tử quy”. Chính trong niềm tin này mà chúng ta có một sự liên hệ mật thiết giữa người sống và người chết cách nhiệm mầu, nhưng sống động. Thế nên, khi chúng ta đứng trước hay nh́n thấy các nấm mồ của người thân yêu chúng ta đă quá cố, chúng ta không thể quên công ơn của các ngài v́: “Mồ thật chôn các người chết là trái tim của người sống” (Tục ngữ). Sự sống và tinh thần của các bậc tổ tiên được lưu truyền hậu thế măi măi nơi những khuôn mặt, trái tim của hậu sinh là chúng ta.

V́ thế, Mẹ Giáo Hội mời gọi chúng ta hăy tưởng nhớ công ơn của các ngài để noi gương và nhất là dâng lời cầu nguyện, hy sinh cho các linh hồn. Đây là cách báo hiếu tốt nhất dành cho người quá cố và đây cũng là niềm tin của mỗi chúng ta. Trong kinh Tin Kính, chúng ta vẫn tuyên xưng: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cơi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, th́ với tấm thân, tôi sẽ được nh́n ngắm Thiên Chúa” (G 19,25-26). Xác tín này cũng chính là niềm tin của Mattha trước cái chết của Lazarô, v́ thế, cô được Đức Giêsu mặc khải về sự sống sau cái chết nơi những người tin: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, th́ dù đă chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25-26). Lời hứa về sự sống đời đời c̣n được Đức Giêsu mặc khải nhiều lần khác nhau: “Ư của Đấng đă sai tôi là tất cả những kẻ Người đă ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6, 39). Lúc khác Ngài khẳng định mạnh mẽ hơn: Ai “tin vào người Con, th́ được sống muôn đời” (Ga 6, 40). Hay: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, th́ được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6, 54).

Mỗi khi cầu nguyện cho các linh hồn, ngoài việc chúng ta biểu lộ niềm tin mănh liệt vào sự sống vĩnh cửu, chúng ta c̣n sống mầu nhiệm các thánh cùng thông công cách cụ thể nhất, v́: “Trong số những môn đệ Chúa, có những kẻ tiếp tục cuộc hành tŕnh nơi dương thế, có những kẻ đă hoàn tất cuộc sống này nhưng đang được tinh luyện và có những người đang được chiêm ngưỡng rơ ràng Thiên Chúa Ba Ngôi vinh hiển. Cả ba thành phần đều hiệp thông với nhau trong đức mến và truyền thông cho nhau những của cải thiêng liêng. Nhận biết đúng đắn sự hiệp thông này trong toàn Nhiệm thể Chúa Kitô, ngay từ buổi đầu, Giáo Hội lữ hành hết ḷng kính nhớ, cầu nguyện cho những người đă chết” (x. Vat II. Lumen Gentium, số 49-50).

Cuối cùng, mỗi khi tưởng nhớ và cầu nguyện cho các linh hồn, chúng ta cũng ư thức rằng: “Nay người, mai ta”. Sự ra đi của tiền nhân là dấu chỉ báo trước cho chúng ta biết, một mai chúng ta cũng sẽ lần lượt ra đi như các ngài để trở về thế giới bên kia, v́: “Mọi sự dầu hay, hay dở, đều không chắc chắn, chỉ sự chết là chắc chắn sẽ xảy đến” (thánh Augúttinô).

Tuy nhiên, thông điệp được sáng lên từ những nấm mồ tưởng chừng như bất động kia lại rất sống động khi nó chuyển tải cho chúng ta những chân lư như: cuộc đời này thật hữu hạn. Sẽ có ngày tôi cũng phải từ giă mọi người để ra đi về với Chúa và được chôn cất trong ba tấc đất nhỏ bé kia. Thân xác chúng ta sẽ trở về với cát bụi, và mọi cố gắng của kẻ chết đến đây chấm dứt, chỉ c̣n biết cậy trông ḷng thương xót của Thiên Chúa, ḷng nhân ái của mọi người bằng đời sống hy sinh và cầu nguyện mà thôi.

Bên cạch đó, từ mơi nấm mồ toát lên lời mời gọi chúng ta: hăy sống lành để được chết thánh; hăy yêu thương để được yêu thương; hăy tha thứ để được thứ tha; hăy sống như ngày mai sẽ chết, để ngay từ giây phút này sám hối ăn năn, đây chính là tinh thần tỉnh thức trong ân sủng.

Lạy Chúa Giêsu, chính Chúa là sự sống đời đời, xin ban cho các linh hồn được an nghỉ trong t́nh thương của Chúa và xin cho chúng con được noi gương các ngài để hy vọng mai ngày được cùng các ngài ca tụng Chúa trên Nước Trời. Amen.

[Mục Lục]

Bài 27. LUYỆN H̀NH – NƠI CHỐN VẪN C̉N T̀NH YÊU !

P. Trần Đ́nh Phan Tiến

“Hăy chiếu soi lửa hồng vào đêm tối sâu thẳm hồn con, lửa t́nh yêu, lửa huyền siêu, Ngôi Ba Thiên Chúa ban nhiều thánh ân” (Phanxico).

Vâng, đây là Điệp khúc của bài hát, do nhạc sĩ Phanxico sáng tác, mà ai cũng biết. Để gợi hứng cho bài chia sẻ Lễ Các Linh Hồn 2014, xin được mượn lời bài hát ư nghĩa nầy. Thật ra, lời bài hát là về Chúa Thánh Thần, nhưng cảm nhận phù hợp với lễ các Linh Hồn, v́ chính Chúa Thánh Thần tác động đến. Vâng, như vậy, có thể minh định rằng: “Lửa t́nh yêu, lửa huyền siêu “ nầy đang tác động đến luyện h́nh, nơi các linh hồn đang được thanh luyện. V́, chính Ngôi Ba Thiên Chúa ban nhiều thánh ân.Vâng, Ngôi Ba Thiên Chúa ban nhiều thánh ân, cho người trần thế và nơi các linh hồn trong luyện h́nh. Nhưng, để minh chứng cho điều nầy, chúng ta hăy cùng suy niệm về “Luyện H́nh ”.

“Luyện h́nh” là nơi dùng h́nh thực thanh luyện, có nghĩa là” bị phạt”. Nhưng “phạt “có thời gian , không như hỏa ngục, nơi “phạt ” đời đời.

Như vậy, nơi “ phạt “ luyện h́nh vẫn c̣n t́nh yêu. Thiên Chúa vẫn yêu thương các linh hồn nơi luyện h́nh, như yêu con người dương thế. Bởi v́, luyện h́nh, mặc nhiên không phải là nơi luận phạt vĩnh viễn. Như, chúng ta biết, Giáo Hội Công Gíao có ba thành phần, Chiến Đấu ( Lập Công ), Chiến Thắng( Khải Hoàn), Đau khổ ( Đền Tội ). Như vậy, chỉ có thành phần Giáo Hội Khải Hoàn mới hoàn toàn chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Quốc. C̣n thành phần Giáo Hội Lữ Hành và giáo hội đền tội là hai thành phần chưa được chiêm ngắm Thánh Nhan Thiên Chúa. Bởi v́, hai thành phần nầy chưa hoàn toàn tẩy trắng áo ḿnh trong Máu Con Chiên. V́ vậy, thành phần Giáo Hội đau khổ cũng như thành phần giáo hội lữ hành đều có chung một niềm khao khát như nhau, đó là, c̣n xa cách Thánh Nhan Thiên Chúa.Chỉ khác nhau ở một điểm là: Giáo Hội Lữ Hành là thành phần c̣n điều kiện lập công, c̣n giáo hội Đau Khổ th́ mất “quyền” lập công. V́ vậy, các ngài cần đến sự trợ giúp của chúng ta, nói cách khác, các ngài là những cầu thủ bị “việt vị”, tức “liệt vị “, không c̣n “cựa quậy” ǵ nữa. Nên chi, từ đó, “sự chết” theo tín lư công giáo là như vậy, một là lên Thiên Đàng, hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa, đó là các thánh, giáo hội chiến thắng. Hai là vào luyện h́nh, nơi chờ đợi để thanh luyện. Xin miễn bàn nơi thứ ba. V́ vậy, Lửa thánh luyện cũng chính là : ” Lửa Huyền Siêu, Lửa T́nh Yêu”, do chính Thánh Ân của Chúa Thánh Thần. theo đó, lửa luyện h́nh vẫn là h́nh thức yêu thương, nhưng nơi đó, t́nh yêu “bị động”, có nghĩa là chỉ hưởng nhờ , chứ không được chủ động” lập nên” như chúng ta, ví dụ: Như đọc kinh, lần hạt, hay làm việc bác ái. Nên chi, lửa t́nh yêu, lửa huyền siêu chiếu vào chỉ một việc là thanh luyện. Dù là Thánh Ân, nhưng giống như “mất quyền tự do”, nên chi, các ngài phải chịu thua thiệt. T́nh yêu của Thiên Chúa nơi các linh hồn cũng là vô biên, nhưng hữu nhiên t́nh yêu Thánh Ân không phải là” hai chiều” giống như trần thế. Đó là lư do, người ở trong luyện h́nh cần đến chúng ta, Giáo Hội lập công.

Như vậy, trần gian không phải là Thiên Đàng, cũng vậy, không phải là Luyện H́nh. Nhưng trần gian có vị thế của trần gian. Theo đó, trần gian th́ hạnh phúc hơn Luyện H́nh, Thiên Đàng hạnh phúc hơn trần gian. Hiểu như vậy, chúng ta phải yêu mến các Đẳng linh hồn, bằng cách cầu nguyện, dâng việc lành, hy sinh để đền thay, cầu thay cho các ngài, đó là bác ái Kitô giáo cho người đă khuất mà chưa được hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa. Đây là một hành động cao đẹp, đồng thời là nghĩa cử cứu độ. Mặc nhiên, quyền xét đoán là duy ḿnh Thiên Chúa, nhưng việc bác ái đối với các linh hồn th́ chính là như việc truyền giáo vậy. Thương người có 14 mối, th́ bảy mối thương linh hồn, như vậy, hồn xác bằng nhau. Nay các linh hồn không c̣n trong thân xác, th́ các ngài được yêu thương trong linh hồn. V́ linh hồn mà được hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa, th́ không gọi là linh hồn, mà được gọi là thánh. Khi , các ngài được cứu độ trọn vẹn, th́ các ngài ở trên thiên đàng, th́ mặc nhiên các thánh là các ngài sẻ cầu bàu cho chúng ta. Theo đó, Luyện H́nh là nơi được “Lửa Hồng” chiếu soi, lửa huyền siêu, lửa t́nh yêu, Ngôi Ba Thiên Chúa ban nhiều Thánh Ân.

Dù rằng lời ca từ không dành cho các linh hồn trong Luyện H́nh, nhưng, từng lời ca từ trong bài hát cho chúng ta một sự kết nối đầy ư nghĩa Công Giáo. V́ vậy, lễ các linh hồn 2014, xin chia sẻ theo ư tưởng nầy, hầu mang đến tính hiệp thông trong Giáo Hội. V́, nếu như, khi c̣n trên dương thế, trong thân xác hữu hạn, nhưng ư thức được tính hiyền siêu bởi lửa t́nh yêu th́ hạnh phúc cho tất cả chúng ta.

Mong rằng” Lửa Huyền siêu” mà Thánh Linh Thiên Chúa luôn chiếu soi trên các linh hồn nơi Luyện H́nh chính là “Lửa T́nh Yêu “ duy nhất, mà Ngôi Ba Thiên Chúa ban nhiều xuống trên các linh hồn.

Chúa Giêsu –Kitô đă dùng cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người để cứu rỗi các linh hồn, th́ chính là các linh hồn trong Luyện H́nh. V́ , phàm nhân nơi trần thế hoặc sẽ là các thánh, hoặc sẽ là các linh hồn. C̣n nếu ở trong Hỏa Ngục, th́ xin miễn bàn.

V́, “ Ngay từ buổi đầu của Kitô giáo, Hội Thánh lữ hành đă hết ḷng kính nhớ, dâng lời cầu nguyện cho những người đă qua đời, v́ cầu nguyện cho họ để được giải thoát khỏi tội lỗi là một ư nghĩ lành thánh ( 2 Mcb 12, 45). Chúng ta hăy dâng thánh lễ và các việc lành để cầu nguyện cho các tín hữu đă qua đời”.( Trích Lịch Phụng Vụ)

Lạy Chúa Thánh Linh, Ngôi Ba Thiên Chúa xin tiếp tục tuôn đổ Thánh Ân trên các linh hồn nơi Luyện H́nh, để chính lửa hồng mà Chúa chiếu soi là “Lửa T́nh Yêu, Lửa Huyền Siêu “ trên các linh hồn. V́ các linh hồn cũng chính là thành phần đáng được hưởng công nghiệp Máu Cứu Chuộc của Đức Giêsu – Kitô/. Amen.

[Mục Lục]

Bài 28. Lạy Chúa, xin đưa họ vào hưởng niềm hoan lạc cùng chư thánh

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Nếu như hôm qua, lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca phụng vụ lễ Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt quá những giới hạn của không gian và thời gian, bay lên cơi trời cao để chiêm ngưỡng các thánh, những người được coi là diễm phúc ở “đô thành thiên quốc, thành Giêrusalem trên trời là mẹ của chúng ta” (Tiền tụng lễ Các thánh). Th́ hôm nay, mùng 02 tháng 11, màu sắc, âm thanh, phụng ca của ngày lễ hướng tâm hồn chúng ta về các thực tại mai hậu, tưởng nhớ các tín hữu đă qua đời “ những người đă ra đi trước chúng ta với dấu ấn đức tin và nay đang nghỉ giấc b́nh an” (Kinh nguyện Thánh Thể số I), ở nơi luyện ngục, để xin Chúa dâng lễ cầu nguyện cho họ, xin Chúa cho ánh sáng hào quanh vĩnh cửu chiếu soi họ và đưa họ vào hưởng niềm hoan lạc cùng chư thánh mới thầm thía biết bao.

Luyện ngục là làm sao ? Luyện ngục là h́nh phạt người lành c̣n mắc tội mọn hay là đền tội chưa đủ.

Câu trả lời trên giúp chúng ta hiểu việc chúng ta phải làm cho họ. Dù đang sống cuộc sống dương gian, hay hưởng phúc thiên đàng hoặc đang thanh luyện nơi luyện ngục, tất cả mọi người đều liên đới với nhau trong Đức Kitô. Đó chính là ư nghĩa của tín điều các Thánh Thông Công mà chúng ta tuyên xưng và thực hành.

Các thánh thông công

Một câu hỏi lớn : Các thánh thông công nghĩa là làm sao ?

Thưa. Các thánh ở trên trời cùng các linh hồn ở luyện ngục và các bổn đạo dưới đất đều thông công với nhau. Các bổn đạo tôn kính cầu xin các thánh, và các thánh cầu bầu cho các bổn đạo trước mặt Đức Chúa Trời. Các bổn đạo dâng việc lành phúc đức cầu cho các linh hồn ở luyện ngục, mà khi các linh hồn ấy đă được lên thiên đàng th́ cùng cầu bầu cho các bổn đạo nữa. Các bổn đạo có ḷng kính mến Đức Chúa Trời cùng thương yêu nhau th́ chẳng những lập công cho ḿnh mà lại làm ích cho kẻ khác nữa. (Sách Bổn Hà Nội tr. 39-40)

Những câu bổn căn bản trên giúp chúng ta hiểu tại sao Giáo Hội dành hẳn tháng 11 hàng năm để cầu nguyện cho anh chị em đă qua đời. V́ niềm hy vọng Kitô giáo không bao giờ chỉ mang tính cách cá nhân, nhưng c̣n là hy vọng cho tha nhân nữa. Nên, cuộc sống của chúng ta được liên kết với nhau, và điều tốt hay điều xấu của người này liên quan tới người kia nữa. Thế nên, lời cầu nguyện của một người c̣n đang lữ hành trên dương thế có thể giúp đỡ một linh hồn khác đang được thanh luyện sau khi đă qua đời. Đó là lư do v́ sao ngày hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta cầu nguyện cho những người thân yêu đă qua đời, và đến viếng thăm mộ của họ. V́ chúng ta có trách nhiệm phải nhớ đến nhau, cầu nguyện, hy sinh, đền tội thay cho nhau.

C̣n tin là c̣n cầu nguyện, c̣n chia sẽ một Thánh Thể là c̣n nhớ đến nhau, thuộc về nhau. T́nh yêu thương bác ái dành cho các linh hồn trong lúc này chính là lời cầu nguyện, là thánh lễ là sự hy sinh.

Khi cầu nguyện cho các tín hữu đă qua đời, Giáo Hội hướng về Chúa Kitô phục sinh, Đấng đă chết và sống lại để cho tất cả chúng được sống lại. Tin vào sự sống lại của thân xác là nh́n nhận rằng sẽ có một chung cục, một cùng đích cho mọi người.

Đức tin không giải thoát những kẻ tin khỏi sự khổ năo phải chết, nhưng đức tin sẽ làm êm dịu với hy vọng : “Nếu có buồn sầu v́ số phận phải chết… cũng sẽ được ủi an”. (Kinh Tiền Tụng cầu ngày lễ các linh hồn).

Cầu nguyện cho người quá cố, chúng ta không chỉ tưởng nhớ đến những người thân và các tín hữu Kitô. Nhưng c̣n được mời gọi để tưởng nhớ và cầu nguyện cho tất cả mọi người quá cố, dù tin hay không tin, dù thuộc về Giáo hội hay ở ngoài Giáo hội hữu h́nh. Với niềm xác tín, Chúa Kitô là trung gian duy nhất và là Đấng Cứu Độ duy nhất, t́nh thương của Thiên Chúa ôm trọn tất cả mọi người. Do đó những ai không do lỗi của họ mà không biết Tin Mừng của Chúa Kitô và Giáo Hội của Chúa, nhưng thành tâm t́m kiếm Chúa và hành động theo lương tâm của ḿnh nhờ ơn Chúa thúc đẩy, mà thực thi ư muốn của Chúa, họ cũng thuộc về Chúa, cho dẫu chúng ta không thấy và do đó cũng có thể được phần rỗi đời đời. Chỉ một ḿnh Chúa mới biết ḷng tin của họ.

Dịp Đạo hiếu được thi hành.

Báo hiếu là bổn phận thiêng liêng của tất cả mọi người. Đông cũng như Tây, xưa cũng như nay, những người có hiếu không ai là không nghĩ đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Nhưng cách thể hiện tấm ḷng cụ thể tùy theo tŕnh độ văn minh và phong tục tập quán của mỗi dân tộc mà có những khác biệt.

Ở Việt Nam ta, với triết lư Á Đông vốn đề cao chữ hiếu. Có hai cách báo hiếu: khi cha mẹ c̣n sống, con cái phải chu cấp đầy đủ những nhu yếu vật chất để cha mẹ được an vui, khi cha mẹ qua đời, con cái phải phụng thờ và thực hiện những di chúc để lại.

Đây là cơ hội quư báu để những người con hiếu thảo báo đáp phần nào công ơn trời bể của tổ tiên, ông bà, cha mẹ: “Cây có cội, nước có nguồn, Con người có tổ có tông : có cha có me, có ông có bà”. Ai trong chúng ta cũng đều thuộc nằm ḷng những câu ca dao tục ngữ của người xưa răn dạy về đạo hiếu, đạo làm người ấy.

Cũng như muôn tạo vật, con người cũng có cội, có nguồn, có tổ có tông. Họ là những “tiền nhân” đă ra đi trước chúng ta, để lại hậu duệ là chính chúng ta, với ước mong gịng giống của các ngài được trường tồn, đó chính là quy luật “bảo tồn sự sống” mà Thiên Chúa đă thiết lập.

Thảo kính cha mẹ phải phát xuất từ trái tim, thôi thúc ḷng người hiếu thảo thấm thía ơn đức cao cả của mẹ cha:

Mẹ cha vất vả nuôi ḿnh

Từ khi trứng nước công tŕnh biết bao.

Làm con phải nhớ công lao,

Cho tṛn chữ hiếu mới là đạo con (Ca dao).

Việc thảo kính cha mẹ không chỉ là việc: con cái trả ơn sinh thành mà c̣n là nghĩa vụ thiêng liêng gắn liền với huyết thống, máu mủ, t́nh thân, hay là một qui định của xă hội mà là một điều răn của Chúa dạy :“Thứ bốn thảo kính cha mẹ”.

Thiên Chúa đă nâng điều răn thứ bốn lên ngang hàng với các điều răn khác ; điều đó chứng tỏ con cái phải hiếu kính đối với cha mẹ đến mức nào. Môisen đă nói “Hăy thảo kính cha mẹ và ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử tử”(Mc, 7-13).

Nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục, tất cả chúng ta đều phải biết sống hiếu thảo, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ lúc sinh thời cũng như khi đă khuất bóng.

Bên Đông phương người ta đề cao chữ HIẾU và nâng lên thành ĐẠO, đó là ĐẠO HIẾU. Theo truyền thống Nho giáo, trong các tội người ta phạm th́ tội bất hiếu là tội nặng nhất.

“Cùng tột điều thiện, không ǵ hơn hiếu,

Cùng tột điều ác, không ǵ hơn bất hiếu”. (Kinh Nhẫn Nhục)

Không ai có thể phủ nhận được công ơn cha mẹ trong việc sinh thành và dưỡng dục con cái.Thiến Chúa đă dựng nên con người, nhưng không trực tiếp mà phải qua trung gian cha mẹ. Đầu tiên Thiên Chúa dựng nên ông Adam và bà Evà, rồi từ đó con cháu nối tiếp. Đúng là :

Người ta có cố có ông,

Như cây có cội như sông có nguồn

Lư thuyết là như thế, nhưng trong ngày nay chúng ta hăy nh́n qua lại ḷng hiếu thảo của chúng ta đối với cha mẹ để mà yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi c̣n sống và đă qua đời (theo sách giáo lư Tân định). Đồng thời Lời Chúa nhắc cho chúng ta phải thi hành bổn phận thảo hiếu của chúng ta.

Ai mà phụ nghĩa quên công

Th́ đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm.

(Ca dao)

Nhớ đến cùng đích của chính ḿnh

Khi cầu nguyện cho những anh chị em tin hữu đă qua đời, chúng ta không chỉ dừng lại nơi họ, cho họ, v́ họ mà c̣n cho chúng ta nữa những người c̣n sống. Sự ra đi trước của họ, nhắc nhớ chúng ta về một cơi đi về mà ai ai trong chúng ta cũng phải về, đó là quê trời vinh phúc. Trong khi cầu nguyện cho anh chị em đă qua đời, chúng ta cũng xin Chúa làm cho đức tin vào Con Chúa đă sống lại từ cơi chết được lớn mạnh nơi chúng ta. Nhờ niềm tin vào sự sống đời sau, tin vào Đức Kitô là sự sống lại và là sự sống mà mỗi người chúng ta ngày nay luôn bước tới trong niền hy vọng. Cùng đích của người Kitô hữu là được trở về nhà Cha hưởng vinh phúc. Cùng đích này cũng giúp chúng ta sống cuộc sống hiện tại sao cho thật có ư nghĩa, thật có giá trị, không hổ thẹn là con cháu đáng quí của những người đă khuất, không hổ thẹn là người môn đệ của Đức Kitô, Đấng hằng sống. Hy vọng rằng qua đời này tất cả lại cùng đoàn viên trong nhà Cha trên Trời.

Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Chúa đời đời. Amen.

Bài 29. Sinh và tử hiệp thông

AM Trần B́nh An

Lúc 7 giờ rưỡi sáng ngày 2-9-1918 có tiếng chuông reo ở Pḥng Thánh. Mẹ Maria Teresa di Gesù (1878-1948) liền đến xem. Mẹ vừa là Bề Trên vừa là người phụ trách Pḥng Thánh, nơi có chiếc bàn quay của Đan Viện để liên lạc với bên ngoài và nhận các vật dâng cúng của tín hữu. Sau lời chào thường lệ:”Ngợi Khen Đức Chúa GIÊSU và Đức Mẹ MARIA – Siano lodati GESÙ e MARIA” của Mẹ Bề Trên th́ có tiếng nói vừa bi-ai vừa cay đắng đáp lại: “Tôi phải để lại đây của bố thí này!” Đó là tờ giấy bạc 10 lire của thời bấy giờ tức là tương đương với 200 euros. Khi Mẹ Bề Trên hỏi danh tánh th́ tiếng nói trả lời không cần biết tên tuổi.

Đây là lần xuất hiện đầu tiên trong tổng số 28 lần. Các cuộc viếng thăm sau đó đi kèm tờ giấy bạc 10 lire khiến các Nữ Tu Kín đơn sơ nghĩ rằng có lẽ vị ân nhân không muốn tỏ lộ danh tánh. Ngày 16-9-1919 tiếng chuông Pḥng Thánh lại reo vang sau khi các Nữ Tu đă cẩn thận đóng kín các cửa ra vào và cửa Nhà Nguyện. Không có tiếng nói nhưng chỉ có tờ giấy bạc 10 lire. Mẹ Bề Trên không lấy tờ giấy bạc. Nhưng khi Chị kia quay đi th́ Mẹ lại nghe tiếng chuông báo hiệu. Mẹ Bề Trên một ḿnh trở lại bàn quay th́ lần này có tiếng nói: “Việc lấy tờ giấy bạc là để làm nguôi Phép Công Thẳng của THIÊN CHÚA!” Ngày 3-10-1919 chuông Pḥng Thánh lại reo. Thể theo lời Cha Giải Tội dặn, v́ sợ rằng đây là tṛ đùa của ma quỉ chăng, nên Mẹ Maria Teresa di Gesù từ chối không nhận tờ giấy bạc 10 lire. Trước sự kiện này, tiếng nói vừa buồn-sầu vừa áo-nảo trấn an Mẹ Bề Trên: “Không, tôi là một Linh Hồn Luyện Tội, từ 40 năm qua, tôi phải ở trong Lửa Luyện H́nh v́ tội đă phung phí tài sản của Hội Thánh!” Trước lần hiện về sau cùng, chuông Pḥng Thánh reo vào lúc 2 giờ 45 phút sáng. Mẹ Maria Teresa di Gesù trịnh trọng nói: “Theo lệnh của Cha Giải Tội, xin nói cho con biết ngài là ai: có phải là Linh Mục không?” Tiếng nói bên ngoài bàn quay đáp lại: “Đúng thế!” Lần hiện về cuối cùng Linh Hồn báo tin đă được giải thoát khỏi Lửa Luyện Tội. Lúc ấy là 4 giờ 45 phút sáng ngày 9-11-1919.(Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt, RadioVatican).

Ai cũng chỉ một thời cơi trần, rồi sống măi với linh hồn bất tử. Người Kitô hữu th́ luôn tâm niệmsinh kư tử quy, cố gắng sống tạm dương thế sao cho tử tế, tốt lành, đức hạnh, xứng đáng làm con Chúa, để khi thác được trở về quê hương Nước Trời. Tin Mừng Thánh Gioan hôm nay thật vắn tắt gói ghém bốn câu Lời Chúa phán dạy về đời sau.“Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi sẽ không bị loại ra ngoài.” (Ga 6, 37)

Như thế, Đức Giêsu chính thức long trọng hứa với những ai đến với Người, đều được hưởng phúc trường sinh. Người đă mở toang cánh cửa Thiên Đàng cho những ai chân thành theo Người. Vấn đề chỉ c̣n tùy thuộc con người tự do chọn lựa, có đến với Người hay dại dột chối từ.

Tuy nhiên, con người thật khó dứt khoát chọn theo Người, dù đă được thanh tẩy làm con Chúa, dù đă lănh nhận các bí tích nhiệm mầu, nhất là Ḿnh Máu Chúa làm của ăn đi đàng. Do vậy, con người vẫn khó tránh khỏi lửa luyện ngục, để thanh tẩy lần cuối, trước khi vinh dự diện kiến Thánh Nhan Thiên Chúa.

Cầu nguyện cho kẻ khuất bóng

“Cầu nguyện cho người chết để họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một ư tưởng lành thánh”(2Mcb 12, 46) C̣n ông Gióp cũng xác tín quyết liệt: “Tôi tin rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng sống, và ngày sau hết khi thân xác tiêu tan, tôi sẽ được chiêm ngưỡng Người” (G 19, 25-27).

Công Đồng Vaticanô II dạy: “Giáo Hội lữ hành hết ḷng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đă chết, v́ cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh..”(GH 50)

Vào Tháng Các Đẳng, Kitô hữu nhớ đến những người khuất núi, ông bà, cha mẹ, anh chị em, con cái, bạn bè, thân bằng quyến thuộc, để báo hiếu, tri ân, cảm tạ và thương yêu bằng cầu nguyện, dâng lễ và làm những việc lành phúc đức với ư chỉ dành cho các linh hồn đang chịu thanh luyện.

“Đối với Kitô hữu, không có người chết. Tất cả kẻ chết của chúng ta đang sống. Họ là chi thể của Chúa Kitô như chúng ta, chúng tôi hiệp thông với nhau trong đức tin.” (Đường Hy Vọng, số 690)

Cầu nguyện cho kẻ đang sống

Người Kitô hữu lữ hành hiệp thông chặt chẽ nguyện cầu cho người quá cố trong Giáo Hội Thanh Luyện, cũng chính là cầu nguyện cho bản thân thuộc Giáo Hội Chiến Đấu. Mỗi khi cầu nguyện cho người đă khuất, lại thêm cơ hội ư thức rơ ràng cuộc sống quá phù du, hay thay đổi, bất an, bất trắc.

Mỗi ngày, mỗi gần thêm nấm mộ. Vậy th́ hằng ngày mỗi chết đi những thói hư tật xấu, tội lỗi nhớp nhơ, mỗi chết đi tánh xác thịt, đam mê, tham sân si, vị kỷ, kiêu căng, ngạo mạn, bất chính, bất nhân, để sau này được sống viên măn. Thánh Phaolô đă thân thương và tha thiết cảnh báo:”V́ nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, th́ anh em sẽ được sống.” (Rm 8, 13)

Mặc dù dưới mắt người đời, người Kitô hữu đang yếu đuối, thất thế, bị rẻ rúng, bị vu oan cáo vạ, và nhất là “bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực (chúng tôi) vẫn sống.” (2Cr 6, 9) Hằng ngày Kitô hữu đang chết dần để có thể sống theo Đức Kitô, như Thánh Phaolô khẳng nhận: “Mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết.” (1Cr 15, 31) Bởi v́: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là mối lợi.” (Pl 1, 21)

Mặt khác, Giáo Hội Chiến Thắng gồm các Thánh, các linh hồn vinh hiển trên Thiên Đàng, vẫn luôn liên lỉ an ủi, cầu bầu, phù hộ cho Kitô hữu lữ hành, đang c̣n phải gian nan chiến đấu, như Kinh Tin Kính hằng xác tín với niềm hy vọng: “Thần Khí của Đấng đă làm cho Đức Giêsu sống lại từ cơi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em , mà làm cho thân xác của anh em được sống mới.” (Rm 8, 11)

“Trên Thiên Đàng, người tông đồ mới thôi lao nhọc. Nhưng ngay ở Thiên Đàng, người tông đồ vẫn tiếp tục cứu giúp trần gian.” (Đường Hy Vọng, số 677)

Lạy Chúa Giêsu, chúng con hiệp thông với Giáo Hội Thanh Luyện, kính dâng lên Chúa lời nguyện cầu, Thánh Lễ và những việc tốt lành, hy sinh, bác ái, để khẩn cầu Chúa thương xót đoái thương những linh hồn, đang chịu thanh tẩy, sớm được về hưởng Thánh Nhan Chúa.

Lạy Mẹ Maria, tràn đầy Chúa Thánh Thần, kính xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa Thánh Thần, ban cho chúng con ơn sáng suốt, luôn thức tỉnh, nhớ rằng thế gian phù du, chóng qua, và ơn ăn năn, thống hối, để chúng con có thể hiệp thông cầu nguyện cho những linh hồn đang chịu luyện tội, sớm được thanh thỏa về Nước Trời. Amen.

[Mục Lục]

Bài 30. HẠNH PHÚC CỦA NHỮNG NGƯỜI THUỘC VỀ CHÚA

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Trong tín lư Kitô giáo chúng ta nói đến Hội Thánh chiến thắng, Hội Thánh lữ hành hay chiến đấu và Hội Thánh thanh luyện. Lễ cầu cho các tín hữu đă qua đời tiếp sau ngay lễ các Thánh diễn tả tín lư ấy.

Ngay từ buổi đầu Hội Thánh lữ hành đă hết ḷng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đă qua đời, v́ cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một ư nghĩ lành thánh (2 Mcb 12,45). Chúng ta hăy dâng thánh lễ và các việc lành để cầu nguyện cho các tín hữu, nhất là cho những người thân quen của chúng ta, đă qua đời, để họ sớm được hưởng nhan thánh Chúa và hạnh phúc thiên đàng. Chúng ta không chỉ trong ngày hôm nay mà trong suốt tháng 11 dương lịch này.

II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

2.1 Trong bài đọc 1 (G 19,1.23-27a): Tôi biết Đấng bênh vực tôi vẫn sống.

2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 5,5-11): Chúng ta đă được nên công chính nhớ máu Đức Kitô đổ ra, hẳn sẽ được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.

2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 6,37-40): Ai tin vào Người Con, th́ được sống muôn đời và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. 37 Khi ấy Đức Giêsu nói với dân chúng rằng: “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài, 38 v́ tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ư tôi, nhưng để làm theo ư Đấng đă sai tôi. 39 Mà ư của Đấng đă sai tôi là tất cả những kẻ Người đă ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. 40 Thật vậy, ư của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, th́ được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:

- là Đấng đă nâng đỡ ông Gióp, một con người công chính không chỉ trong những lúc thịnh vượng mà c̣n và nhất là trong cảnh gian nan khón khó. Dù bị thử thách dữ dội, ông Gióp vẫn luôn vững ḷng tin vào Thiên Chúa là Đấng hằng sống và hằng bênh vực ông: Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cơi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, th́ với tấm thân, tôi sẽ được nh́n ngắm Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nh́n Người, Đấng mắt tôi nh́n thấy không phải người xa lạ. Ḷng tôi những tha thiết mong chờ. (bài đọc 1).

- là Chúa Giê-su, Đấng đă được Chúa Cha ban cho nhân lọai nói chung, cho các tín hữu nói riêng. Người luôn ǵn giữ những kẻ Chúa Cha đă ban cho Người được an toàn. Hơn nữa Người c̣n ban cho họ được sống lại trong ngày sau hết v́ họ đă tin vào Người: Tất cả những kẻ Người đă ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. 40 Thật vậy, ư của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, th́ được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. (bài Phúc âm).

- là Chúa Thánh Thần, Đấng hiện diện và hành động cùng Chúa Cha và Chúa Con trong Tông Đồ Phao-lô để ngài ”rao giảng ơn cứu độ được ban cho loài người nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô.” (bài đọc 2).

3.2 Giáo Huấn của Thiên Chúa (Thiên Chúa dậy ǵ hay muốn chúng ta làm ǵ?) hay sứ điệp của Lời Chúa hay ư của Chúa Cha hôm nay là ”tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, th́ được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”

IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như tạo vật đối với Đấng Tạo Hóa, như môn đệ đối với Thầy.

4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa

Để thực hiện giáo huấn của Lời Chúa hôm nay, chúng ta hăy khiêm tốn xét ḿnh xem chúng ta có vững tin vào Thiên Chúa quyền năng và yêu thương không, nhất là trong những hoàn cảnh khó khăn, thử thách?

V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH

5.1 «Chính tôi sẽ được ngắm nh́n Người, Đấng mắt tôi nh́n thấy không phải người xa lạ. Ḷng tôi những tha thiết mong chờ.» Chúng ta hăy hiệp dâng lời cầu cho mọi người sống trên thế gian này để họ nhận ra Thiên Chúa là Đấng gần gũi, thân thương và vô cùng đáng mến.

X. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Đ. Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.2 «Chúng ta c̣n có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Đấng nay đă hoà giải chúng ta với Thiên Chúa.» Chúng ta hăy hiệp dâng lời cầu cho mọi thành phần Dân Chúa, nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các hồng y, giám mục, cho các linh mục và tu sĩ nam nữ, để mọi Ki-tô hữu thể hiện ḷng biết ơn sâu xa của ḿnh đối với Thiên Chúa và Chúa Kitô Giêsu.

5.3 «Thưa anh em, trông cậy không làm chúng ta phải thất vọng, v́ Thiên Chúa đă đổ t́nh yêu của Người vào ḷng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta» Chúng ta hăy hiệp dâng lời cầu cho mọi người thuộc giáo xứ/cộng đoàn chúng ta để ai nấy đều vững ḷng trông cậy vào t́nh yêu của Thiên Chúa, dù có gặp phải gian nan khốn khó trong cuộc sống.

5.4 «Thật vậy, ư của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, th́ được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết » Chúng ta hăy hiệp dâng lời cầu cho những người chưa thấy, chưa biết và chưa tin Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa Cứu Độ muôn người, để họ sớm nhận ra và tin vào Người mà được cứu độ.

[Mục Lục]

Bài 31. Giáo hội đau khổ

Trầm Thiên Thu

Tháng Mười Một được Giáo hội dành riêng để chúng ta nỗ lực chân thành cầu cho các linh hồn nơi Luyện H́nh, dịp tốt để thể hiện đức ái Kitô giáo, thể hiện ḷng thương xót với người khác và thể hiện tính liên kết của tinh thần “các thánh cùng thông công”.

Tháng Cầu Hồn tím rịm nỗi nhớ thương, khói nhang trầm buồn, nhưng những ánh nến vẫn lung linh niềm hy vọng, tất cả nỗi buồn thương chợt hóa thành niềm hạnh phúc vô thường. Hằng năm, những ngày này có biết bao linh hồn được giải thoát – trong đó có những người thân của mỗi chúng ta nữa. Rồi các ngài bay thẳng về Thiên Quốc hợp đoàn cùng các thánh, cùng được diện kiến Tôn Nhan Thiên Chúa và đời đời chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi.

Khi cầu nguyện, người ta thường cầu cho các linh hồn mồ côi. Thiết nghĩ chẳng có linh hồn nào mồ côi. Có lẽ chữ mồ côi chúng ta hiểu theo phần đời, v́ có những người mồ côi theo nghĩa nào đó, có thể họ bị hất hủi, bị bỏ rơi, cô thân, đơn độc. Nhưng về tâm linh, không linh hồn nào mồ côi – kể cả các linh hồn thai nhi. Tại sao? Hằng ngày, trong mọi giờ kinh, đặc biệt là các Thánh Lễ, Giáo hội luôn cầu cho tất cả các linh hồn – thậm chí cầu cho cả người c̣n sống. Tính liên đới của Giáo hội thật tuyệt vời!

C̣n nữa, mỗi khi lần Chuỗi Mân Côi, chúng ta luôn cầu xin nhiều lần: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin đưa các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Ḷng Chúa Thương Xót hơn”. Cuối giờ kinh, chúng ta cũng thường đọc Kinh Vực Sâu để cầu cho các linh hồn, tức là không phân biệt linh hồn thân quen hay xa lạ, bất kỳ dân tộc nào. Tại các cộng đoàn tu tŕ, các giờ Kinh Nhật Tụng (Thần Tụng, Thần Vụ) đều cầu cho các linh hồn. Vâng, không hề có linh hồn mồ côi như chúng ta tưởng.

Có sinh th́ có tử. V́ phạm tội mà con người phải chết. Quy luật muôn thuở. Chết là nỗi buồn kinh khủng của con người, là thất bại lớn nhất của con người. Nhưng nỗi u sầu đó trở thành niềm hy vọng đối với những ai tin vào Đức Kitô. Thánh Phaolô đặt vấn đề và giải thích: “Khi chúng ta được d́m vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được d́m vào trong cái chết của Người sao? V́ được d́m vào trong cái chết của Người, chúng ta đă cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đă được sống lại từ cơi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6:3-4). Vâng, như vậy cái chết không phải là “dấu chấm hết”, mà chỉ là “dấu phẩy”, là bước chuyển tiếp sang cuộc sống mới vĩnh hằng. Thánh Phanxicô Assisi xác định: “Chết là sống muôn đời” (Kinh Ḥa B́nh).

Sự thật kỳ diệu vậy ư? Đúng và chắc chắn như thế. Thánh Phaolô phân tích: “V́ chúng ta đănên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đă chết, chúng ta cũng sẽ nên một với Người nhờ được sống lại như Người đă sống lại. Con người cũ nơi chúng ta đă bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đă bị huỷ diệt, để chúng ta không c̣n làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai đă chết th́ thoát khỏi quyền của tội lỗi” (Rm 6:5-7). Chết là giải thoát khỏi đau khổ, hoàn toàn có lợi cho chúng ta. Triết lư tâm linh này không hề dễ hiểu nếu không có niềm tin Kitô giáo.

Thánh Phaolô định tín: “Nếu chúng ta đă cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đă sống lại từ cơi chết th́ không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng c̣n quyền chi đối với Người” (Rm 6:8-9). Tử thần chính là ma quỷ. Đoàn âm binh của tướng Luxiphe đành thúc thủ, v́ thế chúng cố vùng vẫy như con giun oằn khi bị đạp, như con rắn t́m cách cắn gót chân Đức Maria. Và rồi chúng t́m cách cám dỗ phàm nhân theo phe chúng. Nhưng cuối cùng, chắc chắn chúng sẽ hoàn toàn thất bại.

Cầu cho các linh hồn là dịp để chúng ta nh́n lại thân phận ḿnh mà chấn chỉnh Đức Tin. Có Chúa là có tất cả: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn ǵ” (Tv 23:1). Tất cả đều sẵn sàng như tác giả Thánh Vịnh đă xác nhận: “Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới ḍng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính v́ danh dự của Người” (Tv 23:2-3). Thiên Chúa là Chúa Tể càn khôn, chí minh và chí thiện, nơi Ngài chỉ có những ǵ thánh thiện nhất. Do đó, Ngài cũng chỉ làm những ǵ tốt lành mà thôi. Sự xấu có xảy ra với chúng ta là TẠI CHÚNG TA!

Có được Vị Chúa như vậy th́ thật hạnh phúc, chẳng c̣n ǵ phải lo nữa. : “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ ǵ nguy khốn, v́ có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Ḷng nhân hậu và t́nh thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:4-6).

Cô Mác-ta là người đại diện cho cả nhân loại ghi nhận lời hứa của Đức Giêsu Kitô: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, dù đă chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11:25-26). Chúng ta may mắn là những người đă tin Ngài, vấn đề c̣n lại là chúng ta phải cố gắng trung tín với Ngài cho tới hơi thở cuối cùng, dù hoàn cảnh có thế nào.

Để có được sự sống đó, chúng ta phải có Bánh Hằng Sống. Đúng như Chúa Giêsu đă nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống” (Mt 6:51).

Khi nghe nói vậy, người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau v́ lời đó không b́nh thường, khiến họ chói tai. Họ không thể hiểu được Chúa Giêsu có thể cho chúng ta ăn thịt Ngài. Họ không tin v́ họ hiểu theo cách thức của phàm nhân. B́nh thường th́ đúng là không ai ăn thịt hoặc uống máu người, nhưng họ đâu biết rằng với Thiên Chúa th́ mọi thứ đều có thể.

Và Chúa Giêsu tái xác định với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi ḿnh. Ai ăn thịt và uống máu tôi th́ được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, v́ thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống” (Mt 6:52-55). Chúa Giêsu biết điều Ngài nói rất khó hiểu với phàm nhân, thậm chí là không thể hiểu, thế nên Ngài giải thích chi tiết hơn: “Ai ăn thịt và uống máu tôi th́ ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đă sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào th́ kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đă ăn, và họ đă chết. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Mt 6:56-58).

Hôm đó, chắc chắn cả hội đường Ca-phác-na-um rất ồn ào v́ người ta xôn xao bàn tán. Nhưng sự thật vẫn măi măi là sự thật. Nếu chúng ta hiện diện lúc đó, chúng ta cũng chẳng hơn ǵ người Do-thái, nhưng thật may v́ chúng ta là hậu duệ, được truyền lại đức tin được kiểm chứng lâu đời.

Các linh hồn nơi Luyện H́nh là những người đă từng được ăn Bánh Trường Sinh, Bánh Giêsu, các linh hồn đó sẽ có ngày được sống đời đời sau khi được thanh luyện cho xứng đáng với Thiên Chúa chí thiện. Nhân vô thập toàn, mấy ai vô tội đâu!

Có một loài hoa nhỏ có màu tím buồn: Forget-me-not, Việt ngữ gọi là Lưu Ly Thảo. Ư nghĩa của loài hoa này nói về sự chung thủy của t́nh yêu đôi lứa. Nhưng với người Công giáo, nó mang một ư nghĩa khác, đặc biệt trong Tháng Cầu Hồn này. Vâng, Lưu Ly Thảo đang nhắc nhở chúng ta về lời kêu cứu tha thiết của các linh hồn nơi Luyện H́nh: “Forget-me-not – Xin đừng quên tôi!”.

Khi cầu nguyện cho họ th́ lại là chính cầu nguyện cho chúng ta. Đúng như Thánh Phanxicô Assisi nói: “Chính lúc quên ḿnh là lúc gặp lại bản thân”. Các linh hồn không tự “cải thiện” mức án, nhưng các ngài vẫn có thể cầu nguyện cho chúng ta. Hy vọng mai đây mỗi chúng ta cũng được phân loại là “chiên” và được nghe Chúa nói: “Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hăy đến lănh nhận phần gia nghiệp Nước Trời đă chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ” (Ga 11:25-26).

Tháng Mười Một, chúng ta cùng nhau nhớ lại tâm sự của Thánh Faustina: “Tôi bị thiêu đốt trong ḷng bằng lửa yêu mến Chúa và muốn cứu các linh hồn mà tôi cảm thấy ḿnh bị thiêu đốt. Tôi sẽ chiến đấu với ma quỷ bằng Vũ khí Ḷng Chúa Thương Xót. Tôi khao khát cháy bỏng là cứu các linh hồn. Tôi đi xuyên qua sức mạnh và hơi thở của thế giới và mạo hiểm đến nỗi các biên giới và các vùng đất hoang vu nhất để cứu các linh hồn. Tôi làm điều này bằng cách cầu nguyện và hy sinh” (Nhật Kư, số 754). T́nh yêu lớn lao quá!

Có Chúa là có tất cả, Ngài là Alpha và Omega, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng (Kh 1:8; Kh 21:6; Kh 22:13). Ước ǵ chúng ta nói được như Thánh Thomas Aquino, Tiến sĩ Giáo hội: “Lạy Chúa, con chỉ muốn Ngài mà thôi”. Đó mới chính là phần thưởng cao quư nhất và tuyệt vời nhất của chúng ta.

Lạy Thiên Chúa là Cha giàu ḷng thương xót, v́ cuộc khổ nạn đau thương và máu của Đức Kitô, xin thương tha thứ và cho các linh hồn sớm về hưởng phúc trường sinh muôn đời. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.