Một ngày kia, khi nói về sự khó khăn để những người giầu được vào Nước Trời,
Chúa Giêsu đă nói: ''con
lạc đà chui qua lỗ kim c̣n dễ hơn người giầu có
vào Nước Thiên Chúa''.
Nghe nói thế, các môn đệ vô cùng sửng sốt và hỏi Chúa: ''thế
th́ ai có thể được cứu?'' Chúa Giêsu nh́n thẳng vào các ông và nói: ''đối
với loài người th́ điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa th́ mọi
sự đều có thể được'' (Mt 19: 24-26; Mc 10: 23-27; Lc 18:24-26 )
Từ câu trả lời trên của Chúa Giêsu, chúng ta thử t́m hiểu xem trước hết, có
phải Chúa lên án những ai giầu có của cải vật chất ở đời này không, và suy
rộng thêm ra, th́ những ai sẽ được cứu rỗi? Chỉ những người đă tin và chịu
phép rửa hay c̣n cả những người không biết Chúa và không được rửa tội nữa?
I- Chúa có lên án những người giầu có của cải vật chất không?
Trong Phúc Âm Thánh Matthêu, chúng ta đọc thấy Chúa Giêsu đă đề cao sự khó
nghèo về tinh thần như sau:
'' Phúc
thay ai có tinh thần nghèo khó, V́ Nước Trời là của họ'' (Mt
5,1)
(How happy are the poor in spirit
Theirs is the Kingdom of Heaven. (The Jerusalem Bible)
Điều này hiển nhiên cho thấy Chúa chỉ đề cao tinh thần nghèo khó, chứ không
đ̣i hỏi phải nghèo đói về thể xác, phải rách rưới tiều tụy, phải lang thang
không cửa không nhà mới được vào Nước Trời. Bằng cớ là khi thấy đám đông dân
chúng đi theo Người và không có ǵ để ăn, Chúa đă bảo các môn đệ: ''Họ
không cần phải đi đâu cả. Chính anh em hăy cho họ ăn''.Nhưng v́ không có
đủ thức ăn cho mấy ngàn người đang đói lúc đó, nên Chúa Giêsu đă hai lần làm
phép lạ để biến bánh và cá ra nhiều cho mấy ngàn người ăn no nê. (Mt
14:15-21; 15:32-38; Mc 6:34-44)
Trong những trường hợp này, sao Chúa không nói với họ: phúc cho anh em phải
chịu đói khát, mà lại làm phép lạ để có thực phẩm cho họ ăn dư thừa? Phải
chăng v́ Chúa đă nh́n nhận giá trị và sự cần thiết phải được thoả măn những
nhu cầu tự nhiên cho thân xác con người như cơm ăn áo mặc nhà ở, bao lâu c̣n
sống trên trần thế này?
Lại nữa, cũng trong Phúc Âm Thánh Matthêu, qua dụ ngôn về Ngày Phán Xét
chung, Chúa Giêsu đă đồng hoá Ḿnh với những ngườ́ nghèo đói bị bỏ rơi,
những ngướ vô gia cư bị xă hội và những người giầu có nhắm mắt, bịt tai
trước t́nh cảnh cơ cực của họ. V́ thế, Chúa đă nặng lời quở trách những
người đứng bên tả như sau:
''Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khất mắt Ta mà vào lửa đời đời ….v́ xưa
Ta đói các ngươi đă không cho ăn; Ta khát các ngươi đă không cho
uống...''(Mt 25: 41-42)
Như vậy, rơ rệt cho thấy là Chúa đă không đề cao hay chúc phúc cho sự nghèo
đói thể lư. Ngược lại, Chúa đ̣i hỏi chúng ta phải biết quan tâm đúng mức đến
những nhu cầu chính đáng này của người khác và thực thi bác ái đối với họ,
nhất là với những người kém may mắn hơn ḿnh. Cụ thể, phải nh́n thấy Chúa
thực sự hiện diện nơi những người nghèo đói, vô gia cư, tật nguyền, bất hạnh
ở khắp mọi nơí trong xă hội ngày nay và mở ḷng thương giúp họ cách thiết
thực như Thánh Giacôbê Tông Đồ đă khuyên dạy như sau:
''Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn
hàng ngày mà có ai trong anh em lại nói với họ :Hăy đi b́nh an mặc cho ấm và
ăn cho no, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần th́ nào có
ích lợi ǵ?''(Gc
2:15-16)
Nhưng tại sao Chúa lại đề cao và chúc phúc cho những người ''có tinh thần
nghèo khó''?
Không những Chúa đề cao mà chính Người cũng đă nêu gương trước tiên về tinh
thần này cho các môn đệ xưa kia và cho tất cả chúng ta ngày nay khi Người tự
ư chọn sinh ra trong hang ḅ lừa, lớn lên sống lang thang'' không
có chỗ dựa đầu, trong khi con chồn có hang, chim trời có tổ''(Lc 9:58)
và đặc biệt khi chết, không có chỗ chôn, phải mượn ngôi mộ trống chưa dùng
của Ông Giuse để nằm tạm trong 3 ngày! (Mt 27:57-60).
Tại sao Chúa Giêsu lại sống và chết trong cảnh khó nghèo cùng cực như vậy?
Thánh Phaolô đă trả lời câu hỏi này như sau: ''Chúa
vốn giầu sang, phú quư, nhưng đă tự ư trở nênnghèo khó v́ anh em để lấy cái
nghèo của ḿnh mà làm cho anh em trở nên giầu
có'' (2 Cor 8:9).
Như thế, trước hết có nghĩa là Chúa muốn chúng ta đi t́m sự sang giầu thực
sự trên Vương Quốc của Người, nơi ''trộm
cắp không bén bảng, mối mọt không đục phá'' (Lc
12:33) hơn là t́m những sự hư vô (vanity) giả tạo ở đời này, như giầu có về
tiền bạc và của cải vật chất, là những lôi cuốn, cám dỗ mạnh mẽ nhất đối với
con người ở khắp mọi nơi và mọi thời đại. Đây là một trong những trở ngại
lớn nhất cho con người muốn vươn ḿnh lên cùng Thiên Chúa là cội nguồn của
mọi vinh quang, phú quư và lạc thú bất tận. Đây cũng là trở ngại lớn lao
nhất cho những ai muốn vào Nước Thiên Chúa. Do đó, muốn khắc phuc trở ngại
này, th́ phải có tinh thần nghèo khó mà Chúa Giêsu đă làm gương bắt chước
cho chúng ta qua chính cuộc đời của Người từ lúc sinh ra trong hang đá máng
cỏ cho đến khi chết tất tưởi trên thập giá.Chắc chắn Chúa đă không ''đóng
kịch' khó nghèo mà thực sự Người đă sống trọn vẹn với tính thần này để chỉ
cho chúng ta mối hiểm nguy về sự nô lệ, tôn thờ tiền của ở đời này, phuơng
hại cho mục đích ''khao khát t́m Chúa=quaererer Deum'' và vinh quang của
Người trên hết mọi sự như Chúa mời gọi chúng ta.
Thật vậy, khi làm nô lệ cho của cải, tiền bạc, người ta sẽ vô t́nh hay cố ư
tôn thờ những thực tại này như chính Thiên Chúa của ḷng ḿnh, một nguy cơ
mà Chúa Giêsu đă cảnh cáo :
''Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ v́ hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu
chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh chê chủ nọ. Anh em không thể
vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được''(Lc
16,13)
Bằng chứng cụ thể của nguy cơ này là thái độ của chàng thanh niên giầu có
trong Phúc Âm Thánh Marcô. Anh '' đă buồn rầu bỏ đi'' sau khi nghe Chúa
Giêsu bảo anh ta về bán hết tài sản, bố thí cho người nghèo rồi trở lại theo
Chúa.!(x. Mc 10:17-22). Anh ta bỏ đi, v́ có quá nhiều của cải và không thể
hy sinh những của này cho Chúa được. Như vậy, rơ rệt cho thấy sự ham mê của
cải, tiền bạc là trở ngại lớn lao để vào Nước Trời.
Thánh Phaolô cũng lưu ư chúng ta về nguy hại của sự ham muốn tiền của như
sau:
''cội dễ sinh ra mọi điều ác là ḷng ham muốn tiền bạc, v́ buông theo ḷng
ham muốn đó , nhiều người đă lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đau đớn xâu
xé'' (1
Tm 6,10)
Ngoài ra, Phúc Âm Thánh Luca c̣n kể dụ ngôn người phú hộ kia phải phạt xuống
hỏa ngục sau khi chết, trong khi người nghèo Lazarô được lên Thiên Đàng bên
tổ phụ Abraham.Người giầu bị phạt không phải v́ tội giầu có phú qúy khi c̣n
sống, mà bị phạt v́ không có ḷng bác ái, nên đă dửng dưng trước người nghèo
Lazarô hằng ngày ngồi ăn xin ở cửa nhà ḿnh mà không được bố thí chút của ăn
dư thừa nào của người giầu kia.. (Lc 16:19-25).
Thực trạng của thế giới ngày nay đă phơi bày rất rơ nét những hậu quả vô
cùng khốc hại của ḷng đam mê tiền bạc, của cải, tôn thờ vật chất của con
người ở khắp mọi nơi.
Có thể nói: nguyên nhân sâu xa của mọi cuộc chiến, xung đột trên thế giới,
từ xưa đến nay, đều bắt nguồn từ tham vọng muốn chiếm đoạt tài nguyên thiên
nhiên và nguồn lợi kinh tế của nước khác dưới những chiêu bài hoa mỹ đạo đức
giả như tự do, dân chủ, giải phóng, độc lập bảo vệ ḥa b́nh và công lư.Nhưng
thực chất, chỉ là ḷng tham vô đáy, vô đạo của mọi thế lực đế quốc Đông Tây
muốn chiếm đoạt tối đa mọi của cải vật chất của người khác chẳng may rơi vào
ách thống trị của họ để họ mặc sức bóc lột nhân danh công lư giả hiệu hay
ngụy thuyết “giải phóng cho gia cấp vô sản.! Nhưng kết cục là làm giầu cho
giai cấp thống trị, cho tập đoàn tham quyền cố vị từ đời này đến khác, bất
chấp mọi nguyên tắc về dân chủ, dân quyền, đạo lư và công b́nh mà lương tri
con người biết đến và đ̣i hỏi phải tuân thủ.
Hậu qủa là t́nh trạng nghèo đói, lạc hậu dưới mức người của các dân tộc bị
cai trị, bị bóc lột tàn nhẫn trong các chế độ hà khắc c̣n sót lại trên thế
giới ngày nay.
Thê thảm hơn cả là t́nh trạng tụt hậu đáng ghê sợ về mặt đạo đức, luân lư
nơi những người mà ḷng ham mê tiền của đă khiến họ lao ḿnh vào việc khai
thác các kỹ nghệ cờ bạc, buôn bán ma tuư, măi dâm, sản xuất phim ảnh khiêu
dâm, buôn bán phụ nữ và ''măi dâm trẻ em (child prostitution)'' để cung cấp
những thú vui vô luân, vô đạo, cực kỳ nhơ nhuốc và khốn nạn cho những kẻ
sống không niềm tin, chỉ biết vùi đầu đi t́m những thú vui man rợ, vô luân
này, như báo chí quốc tế đă tố cáo ở nhiều nơi trên thế giới- trong đó có
Việt Nam- hiện nay.
Lại nữa ,cũng v́ ham tiền,v́ tôn thờ của cải vật chất mà nhiều chủ nhân các
đại công ty,các tay tài phiệt đang làm chủ các kỹ nghệ sản xuất công nghiệp,
đặc biệt là kỹ nghệ dầu hỏa, đă cấu kết với nhau để tạo nên t́nh trạng khan
hiếm giả tạo hầu tăng giá sản phẩm, thao túng thị trường chứng khoán để kiếm
lợi nhuận lên đến hàng trăm tỷ đôla, bất chấp nạn nhân là đại đa số công
nhân và người lao động phải gánh chịu mọi mọi hậu quả do ḷng tham lam vô
đạo của những kẻ đang nắm giữ huyết mạch kinh tế quốc gia và thế giới.Phong
trào Occupy Wallstreets đang rầm rộ từ mấy tháng nay ở Mỹ đă nói lên sự phẫn
uất của người dân đối với những kẻ làm giầu trên sự đau khổ và nghèo túng
của người dân lao động ở quốc gia manh tiếng là giầu có này.
Nhưng, những kẻ tham tiền kia đâu cần quan tâm đến, v́ họ đă hoàn toàn mất
lương tri và mọi ư thức đạo đức khi lao ḿnh vào những mục tiêu kiếm tiền,
làm giầu bằng mọi cách bất lương, và dửng dưng trước sự đau khổ , nghèo đói
của những nạn nhân mà họ đang bóc lột bằng những xảo thuật kinh tài rất tinh
vi và đầy bất lương,vô nhân đạo.
Trong viễn ảnh này, chúng ta hiểu được v́ sao Chúa Giêsu đă nói với các môn
đệ xưa kia rằng: ''Con
lac đà chui qua lỗ kim c̣n dễ hơn ngướ giầu có vào nước Thiên Chúa
'' (Lc 18:25) Thánh Phaolô cũng quả quyết rằng: ''không
một kẻ gian dâm, ô uế hay tham lam nào- mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng-
được thừa hưởng cơ nghiệp trong Nước của Đức Kitô và của Thiên Chúa'' (Ep
5,5)
Người giầu và người tham lam mà Chúa Giêsu và Thánh Phaolô muốn nói ở đây
chính là những kẻ đang tôn thờ tiền của, đang làm giầu bằng những phương
pháp vô nhân đạo, phi luân lư ở khắp nơi trên thế giới ngày nay. Họ không
thể vào được Nước Chúa là Vương Quốc của t́nh yêu, của công bằng, bác ái và
thánh thiện v́ những ǵ họ yêu thich và tôn thờ đă hoàn toàn đi ngược lại
với những đ̣i hỏi của Vương Quốc này.
Đó chính là mối nguy hại của sự giầu có mà Chúa muốn cảnh giác chúng ta. Và
để giải trừ ḷng mê say giầu có tội lỗi này, Chúa đă rao giảng và thực hành
tinh thần nghèo khó của Phúc Âm Sự Sống để dẫn đưa con người vào hưởng sự
giầu sang phú qúy của Nuớc Thiên Chúa là nơi ''Chúa
Kitô vốn giầu
sang, phú quư nhưng đă tự ư trở nên nghèo khó, để lấy cái nghèo của ḿnh mà
làm cho anh em trở nên giầu có'' như
Thánh Phaolô đă giải thích.(x 2Cor 8,9)
Nói thế không có nghĩa là không được phép kiếm tiền, làm giầu, ăn ngon ,mặc
đẹp, ở nhà cao cửa rộng với mọi tiện nghi của xă hội văn ḿnh ngày nay. Cũng
không có nghĩa là phải sống đói rách, bần cùng th́ mới được vào Nước Trời.
Ngược lại, chúng ta cần phân biệt rơ ranh giữa ḷng tham ,nô lệ cho của cải
với mục đích chỉ dùng tiền của như phương tiên cần thiết để sống ở đời và
thực thi đức ái, thể hiện đức tin cách cụ thể. Nói khác đi, dùng tiền của
như phương tiện cần thiết để phục vụ cho nhu cầu sống tự nhiên trong khi
theo đuổi những mục đích siêu nhiên th́ không có ǵ là sai trái, phải tránh.
Chỉ có nô lệ cho tiền của, tôn thờ vật chất trên hết mọi sự mới là điều nguy
hại phải loại trừ mà thôi. Trong tinh thần này, chúng ta đuợc phép kiếm t́m
tiền của cách chính đáng và hưởng thụ mọi tiện nghi của cuộc sống vật chất
miễn là chúng ta chỉ coi đó như những phương tiện chính đáng cần thiết chứ
không phải là mục đích chính yếu của đời ḿnh. Mục đích tối cao của người
tín hữu chúng ta là Thiên Chúa và Vương Quốc của Người.
Như vậy bao lâu c̣n theo duổi mục đích này th́ mọi phuơng tiện chính đáng
như th́ giờ, tiền bạc, tài năng, công sức, đều được phép xử dụng để đạt mục
đích đó. Nhưng cũng cần phải nói ngay là không phải mọi phương tiện đều tốt
cho mục đích. Nghiă là không thể ăn cắp tiền của ai để dâng cúng cho nhà
thờ, hay biếu các linh mục, Giám mục. Cũng không thể mở ṣng bài, động măi
dâm, buôn bán ma túy, lường đảo ... để lấy tiền xây trường học, nhà thương,
hoặc giúp nhà thờ, nhà chùa, Tu viện hay giúp nuôi trẻ mồ côi, khuyết tật,
người già v.v.
Tóm lại ,giầu có của cải vật chất không phải là tội, là trở ngại cho phần
rỗi linh hồn. Chỉ có làm nô lệ cho tiền của để đi t́m nó một cách bất chính
mới là nguy cơ cho phần rỗi mà thôi. Người giầu có biết dùng tiền của như
phương tiện tốt để sống ở đời và sống đức ái Kitô giáo th́ tiền của giầu
sang của họ trở thành một ''đầy tớ tốt'' thay v́ là một ''ông chủ tàn ác”.
II- SỰ CỨU RỖI CỦA NHỮNG NGƯƠI KHÔNG BIẾT CHÚA và PHÚC ÂM CỦA CHÚA
Trong Tin Mừng Thánh Marcô, chúng ta đọc được lời Chúa sau đây:
''Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; C̣n ai không tin sẽ bị kết án ''
(Mc 16:16)
Lại nữa, trong Tin Mừng Thánh Gioan, Chúa Giêsu cũng nói với ông già
Nicôdêmô:
''Thật Tôi bảo thật ông:
Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa
Nếu không sinh ra bởi nước và thần khí ''
(Jn 3,5)
Chúng ta phải hiểu thế nào về những lời Chúa nói trên đây? Có phải Chúa muốn
loại trừ những ai không tin và không được lănh bí tích Thánh Tẩy (Rửa tội)
không?
Trước hết, những lời của Chúa trên đây chỉ rơ cho chúng ta biết tầm quan
trọng và sự cần thiết của bí tích Thánh tẩy cho việc cứu rỗi con người. Thậy
vậy, tội nguyên tổ (original sin) đă cắt đứt mọi thân t́nh giữa Thiên Chúa
và loài ngướ. Hậu qủa của tội này là ''sự
chết đă làn tràn tới mọi ngườiv́ một người duy nhất đă phạm tội.” như
Thánh Phaolô đă viết. (Rm 5 :12).
Nhưng v́ “ Thiên
Chúa là Đấng từ bi nhân hậu. Người chậm giận và giầu t́nh thương” ( Tv
103 : 8), nên Người đă sai Con Một là Chúa Kitô đến trần gian để cứu chuộc
cho nhân loại khỏi chết đời đời v́ tội. Nhờ đó, con người lại được giao hoà
với Thiên Chúa và ''
trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban
nhưng không, nhờ công tŕnh cứu chuộc thực hiện trong Đức Kitô Giêsu''
(Rm 3: 24). Nhưng cho được hưởng ơn cứu chuộc này th́ nhất thiết đ̣i hỏi
phải tin Chúa Kitô và lănh nhận phép rửa Người ban để được tái sinh trong sự
sống mới, và nhờ Thần Khí, trở nên con cái mới củaThiên Chúa để được gọi
Người là ''Cha=Abba'.
Được như vậy là v́ qua phép rửa, chúng ta được ''tẩy rửa, được thánh hoá,
được nên công chính nhờ công nghiệp Chúa Giêsu Kitô và nhờ Thần Khí của
Thiên Chúa chúng ta'. (1 Cr 6,11). Như thế cho thấy phép Rửa thật vô cùng
quan trọng và cần thiết cho phần rỗi của mỗi người chúng ta , v́ khi được
thanh tẩy qua Bí tích này, chúng ta được 'tái sinh' và trở nên những tạo vật
mới để hy vọng trời mới đất mới trong viễn ảnh được ơn cứu độ để sống hạnh
phúc v́nh cữu với Thiên Chúa mai sau trên Nước Trời.
Dầu vậy, vấn đề khúc mắc đặt ra cho chúng ta là Chúa Giêsu đă sinh ra, lớn
lên đi rao giảng Tin mừng Cứu Độ, rồi chết và được sống lại cách nay mới hơn
2000 năm, trong khi loài người đă có mặt trên trái đất này th́ không biết là
bao nhiêu triệu năm. Như vậy, đối với những người đă sinh ra và chết đi
trước Chúa Kitô ra đời, nên không được nghe Phúc Âm của Chúa và được rửa tội,
th́ số phận đời đời của họ ra sao ? không lẽ họ bị phạt xuống hỏa ngục cả ?
Để trả lời cho những thắc mắc quan trọng này,trước hết chúng ta phải tin
chắc rằng Thiên Chúa là Cha rất nhân từ và thông biết mọi sự, nên Chúa không
thể ''bất công'' với ai trong việc phán đoán con người. Do đó, những người
sinh ra và chết đi trước Chúa Kitô th́ chắc chắn họ không được biết ǵ về
Chúa và Phúc Âm của Người, v́ không có ai rao giảng cho họ biết về những
điều này.Như vậy, hoàn toàn họ không có lỗi ǵ về việc đă không tin và chịu
phép rửa như Chúa Giêsu đ̣i hỏi. Nếu đă không v́ lỗi của họ th́ Chúa không
thể loại trừ họ v́ lỗi đă không tin và không được rửa tội.
Vậy họ có được cứu rỗi không và bằng cách nào?
Trước hết, họ vẫn được cứu độ v́ Thiên Chúa, “Đấng
cứu độ chúng ta, Đấng
muốn cho mọi người được cứu
độ và nhận biết chân lư'' (1Tm
2:4).
Đây là nền tảng đức tin của ơn cứu độ, dựa vào chính Ư định của Thiên Chúa
muốn cho mọi người được hưởng ơn cứu rỗi trong Chúa Kitô.
Do đó, những người sinh ra và chết đi trước Chúa Cưú Thế Giêsu ra đời, vẫn
có thể được cứu rỗi theo Giáo lư sau đây của Giáo Hội Công Giáo:
''Những người không biết Phúc Âm của Chúa Kitô, và Giáo Hội của Chúa không
v́ lỗi của họ, nhưng họ vẫn t́m kiếm Chúa với ḷng thành và được thúc đẩy
bởi ơn sủng, cố gắng hành động để thi hành Ư Chúa theo tiếng nói của lương
tâm họ, th́ họ cũng có thể được cưú rỗi đời đời'' (Sách
Giáo Lư Công Giáo (SGLGHCG) số 847)
(Those who, through no fault of their own,do not know the Gospel of Christ
and His Church, but who nevertheless seek God with a sincere heart ,and,
moved by grace, try in their actions to do His will as they know it through
the dictates of their conscience, those too may achieve eternal salvation)
(CCC.n.847)
Thánh Công Đồng Vaticanô II, trong Hiến Chế Tín lư Lumen Gentium, cũng dạy
như sau:
Thực thế, những kẻ vô t́nh không biết Phúc Âm của Chúa Kitô và Giáo Hội
Người, nhưng nếu thành tâm t́m kiếm Thiên Chúa, và dưới sự tác động của ơn
thánh, họ cố gắng chu toàn Thánh Ư Thiên Chúa trong công việc ḿnh theo sự
hướng dẫn của luơng tâm th́ họ có thể được cứu rỗi. Cả những kẻ vô t́nh chưa
chưa nhận biết Thiên Chúa cách rơ ràng, nhưng nhờ ơn Chúa, cố gắng sống đời
chính trực, Chúa Quan Pḥng không từ chối ban ơn trợ lực cần thiết để họ
được cứu rỗi '' (LG. số 16)
Những lời dạy trên đây của Giáo Hội thật t́nh hơp lư đối với muôn vàn triệu
người, trong đó có cha ông, tổ tiên người Việtnam chúng ta đă sinh ra và
chết trước khi Chúa Giêsu xuống trần gian hàng bao nhiêu thế kỷ và hoàn toàn
không được biết ǵ về Chúa và Tin Mừng Cứu Độ của Người. Nhưng nếu họ vẫn
khao khát t́m chân lư và sống phù hợp với những đ̣i hỏi của lương tâm- hay
nói nôm na- là họ đă 'ăn hiền ở lành' khi c̣n sống th́ họ vẫn có thể được
hưởng công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô v́:
''Ngoài Người ra ( Đức Kitô), không ai đem lại ơn cứu độ; v́ dưới gầm trời
này, không có một danh nào khác đă được ban cho nhân loại để chúng ta phải
nhờ vào Danh đó mà được cứu độ'' (Cv 4:12)
Nói rơ hơn, công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô được áp dụng cho hết mọi
người đă sinh ra và chết đi trước hay sau khi Chúa đă xuống trần gian và đi
rao giảng tin mừng Cứu Độ. Nghĩa là tất cả mọi người đều phải nhờ công
nghiệp cứu chuộc của Chúa để được sống muôn đời. Điều này phù hợp với lời
dạy của Thánh Phaolô về vai tṛ và công nghiệp của Chúa Cứu Thế Giêsu như
sau:
''Chỉ có một Thiên Chúa chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài
người đó là một Con Người, Đức Kitô Giêsu - Đấng đă tự hiến làm giá chuộc
mọi người'' (1Tm 2: 5-6)
Người hiến ḿnh làm giá chuộc cho mọi người đă tin, đă được chịu phép rửa và
kiên tŕ sống đức tin ấy cho đến hơi thở cuối cùng, hay cho cả những người
không có cơ hội được biết Chúa, được lănh phép rửa nhưng đă sống trong khát
vọng t́m chân lư và hành động phù hợp với tiếng nói của lương tâm ḿnh như
Giáo Hội đă dạy trên đây.
III- VẤN ĐỀ CỨU RỖI CHO NHỮNG AI BIẾT CHÚA Và Đă ĐƯỢC RỬA TỘI
Đây là vấn đề rất quan trọng chúng ta cần biết để nắm vững.
Căn cứ vào lời Chúa th́ ''không
ai có thể vào
Nước Trời nếu không được sinh ra bởi nước vả Thần Khí'' (Ga
3,5) nghĩa là được rửa tội. Tuy nhiên, điều này chỉ nói lên tầm quan trọng
của bí tích Thánh Tẩy là buớc đầu cần thiết cho việc cứu rỗi mà thôi, chứ
không phải là điều kiện duy nhất để được cứu độ. Muốn được cứu rỗi th́ dĩ
nhiên trước hết phải được tái sinh qua phép rửa để đoạn tuyệt với tội lỗi và
bắt đầu một đời sống mới theo Thần Khí. Đời sống mới này chính là ơn cứu độ
Thiên Chúa ban nhờ công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô. Ơn này được
ban do ḷng thương xót vô biên củaThiên Chúa, Đấng đă tạo dựng, tha thứ và
cứu chuộc con người trong Đức Kitô-Giêsu, chỉ v́ yêu thương chứ tuyệt đối
không v́ lợi lộc nào về phần Ngài. Đây là điều chúng ta phải xác tín để
không bao giờ có thể nghĩ lầm rằng ḿnh có lợi ǵ cho Chúa khiến Ngài phải
cầu cạnh ta đến thế.
Chúa Giêsu đă thực hiện Chương Tŕnh Cứu Độ con người của Chúa Cha qua sự
vâng phục và hy sinh chịu chết của Ngài cho chúng ta được ơn cứu chuộc như
Thánh Phaolô đă dạy:
''Trong Thánh Tử ,nhờ máu Thánh Tử đổ ra
Chúng ta được cứu chuộc được tha thứ tôi lỗi
Theo lượng ân sủng rất phong phú của Người ''
(Ep 1,7)
Như vậy, ân sủng của Chúa Cha và công nghiệp này của Chúa Giêsu Kitô là điều
kiện căn bản để con người được hưởng ơn cứu chuộc. Nghiă là nếu không có ơn
sủng và công nghiệp này th́ không ai có thể được cứu rỗi, được hy vọng sống
đời đời với Chúa trong Vương Quốc hạnh phúc của Người.
Dầu vậy, muốn được huởng trọn ân sủng này, Thiên Chúa vẫn đ̣i sự đóng góp ,
hay cộng tác của con ngướ vào Chương Tŕnh Cứu Độ của Ngài. Sự cộng tác này
thật rất cần thiết, v́ nếu không có th́ Chúa không thể cứu ai được. Sở dĩ
Chúa đ̣i hỏi sự cộng tác của con người không phải v́ ơn của Chúa và công
nghiệp của Chúa Kitô chưa đủ, mà v́ Chúa muốn tôn trọng ư chí tự do(free
will) của con người trong việc vô cùng hệ trọng này.
Đúng thế, khi tạo dựng con người, Thiên Chúa không cần hỏi ư ai và cần ai
cộng tác.
Nhưng để tiếp tục Chương Tŕnh sáng tạo nhân loại và nhất là để cứu chuộc
con người trong Chúa Kitô, th́ Thiên Chúa lại cần sự cộng tác, sự đồng ư của
con người. Điều này được thể hiện rơ qua Dụ ngôn Tiệc Cưới trong Phúc Âm
Thánh Matthêu (x.Mt 22: 1-14), qua đó Nước Trời được ví như một tiệc cưới mà
chủ tiệc là chính Thiên Chúa trong h́nh ảnh nhà Vua sai gia nhân đi mời thực
khách tứ phương đến chung vui. Nhưng có bao nhiêu người đă đáp lời mời và
bao nhiêu người đă viện đủ lư do để khước từ tham dự?
Dầu vậy, Nhà Vua, tuy có tức giận v́ bị từ chối, nhưng đă không xử dụng uy
quyền của ḿnh để cưỡng ép ai phải đến dự tiệc cưới của Hoàng tử .Nghĩa là
Chúa cũng không ép buộc ai phải nhận ơn cứu độ của Ngài để được vào Nước
Trời. Ngài cũng không 'tiền định' cho ai phải hư mất đời đời, v́ như vậy th́
trái với t́nh thương và công bằng của Ngài đối với mọi tạo vật. Ngài chỉ mời
gọi và tùy con người đáp trả mà thôi.
Nếu người ta dùng ư chí tự do (free will) để khước từ Chúa th́ chắc chắn
Ngài sẽ tôn trọng ư muốn đó và con người phải chịu trách nhiệm về mọi quyết
định của ḿnh. Như vậy, con người cần tỏ thiện chí muốn thuộc về Chúa và tha
thiết mong muốn được cứu dộ bằng quyết tâm đáp ứng những đ̣i hỏi của ơn này.
Đó là lư do tại sao Chúa Giêsu đă nói rơ với các môn đệ xưa kia như sau:
''không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lậy Chúa ,lậy Chúa là được vào Nước
Trời cả đâu.Nhưng chỉ ai thi hành ư muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên Trời
mới được vào mà thôi.''
(Mt 7,21).
Nói khác đi, không phải cứ được rửa tội, cứ mang danh Kitô hữu, là đương
nhiên được cứu độ , mặc dù đây là điều kiện cần thiết Chúa đ̣i hỏi. (x. Mc
16,16; Ga 3,5).
Rửa tội là cần thiết,là điều kiện trước tiên, nhưng cần thiết hơn nữa là
sống và thực hành những cam kết của bí tích này suốt cả đời ḿnh cho đến
phút cuối cùng trên trần thế. Đó là tin yêu một Thiên Chúa là Cha, tin Chúa
Kitô là Đấng Cứu Chuộc, tin Chúa Thánh Thần, tin Hội Thánh Công Giáo...và
cam kết từ bỏ ma quỷ là kẻ gây ra và cầm đầu mọi thứ tội lỗi...Nếu không
sống và thực hành những cam kết này th́ phép rửa sẽ thành vô hiệu quả cho
những ai đă lănh nhận .Chắc chắn như vậy. Thực hành những cam kết này chính
là sống theo Thần Khí, sống đời sống mới trong ơn sủng được tái sinh để cộng
tác tích cực vào ơn cứu độ. Sau nữa , thực hành những cam kết này cũng đ̣i
hỏi phải ư thức sâu xa về nguy cơ làm nô lệ cho tiền bạc, tôn thờ của cải
vật chất và mọi thú vui vô luân vô đạo của ''văn
hóa sự chết''
mà Đức cố Giáo Hoàng Joan Phaolô II ( nay là Chân Phước= Blessed) đă cảnh
giác.
Tóm lại, nếu không thi hành những cam kết khi lănh nhận bí tích rửa tội th́
đă chối từ ơn cứu độ của Chúa và tự chọn cho ḿnh con đường đi riêng ngoài Ư
muốn của Chúa.
Mặt khác, sự kiên tŕ sống trong Giáo Hội của Chúa cũng cần thiết cho ơn cứu
độ như Thánh Công Đồng Vaticanô II đă dạy: ''Những
ai biết Giáo Hội Công Giáo được Thiên Chúa thiết lập nhờ ChúaGiêsu Kitô như
phương tiện cứu rỗi cần thiết mà vẫn không muốn gia nhập hoặc không muốn
kiên tŕ sống trong Giáo Hội này th́ không thể được cứu rỗi ''
(Lumen Gentium, số 14). Như vậy, ngoài cậy trông ơn sủng của Thiên Chúa và
công nghiệp của Chúa Kitô ra, chúng ta c̣n phải tích cực cộng tác bằng cách
sống đức tin ,đức ái, đức cậy cách kiên tŕ trong Giáo Hội và quyết tâm xa
tránh mọi tội lỗi th́ mới hy vọng được cứu độ. Thành ngữ Anh-Mỹ có câu:
''God helps them that help themselves= Chúa giúp những ai tự giúp ḿnh.
Nghiă là, nếu không có sự cộng tác vào ơn cứu độ bằng quyết tâm cải thiện
đờ́ sống theo tinh thần của Tin Mừng và đ̣i hỏi của bí tích Thánh Tẩy, th́
Chúa không thể cứu ai được, cho dù công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô có
giá trị tuyệt đối. Đây là căn bản thần học, là giáo lư vững chắc của Giáo
Hội về ơn cứu độ.
Tôi phải nhấn mạnh điều này một lần nữa để lưu ư những ai lầm tưởng rằng
phần rỗi của ḿnh có thể nhờ người khác làm thay, mua hộ cho, bằng cách bỏ
nhiều tiền ra ''mua hậu '', một h́nh thức ''bảo hiểm đời sau'' do một số
người đă lập ra cái gọi là ''Hội đời đời '' để nhận tiền xin Lễ đời đời cầu
cho những người đă chết, hoặc '' mua hậu'' giữ chỗ trước cho những người c̣n
sống !
Tôi bảo đảm việc này hoàn toàn sai trái về thần học và giáo lư v́ có nội
dung '' mại thánh=simony'' rất trầm trọng, phải lên án và xa tránh.
Cầu nguyện cho người sống và người chết là việc bác ái thiêng liêng rất tốt
đẹp và phù hợp với giáo lư của Hội Thánh. Xin Lễ cũng vậy. Nhưng xin nhớ:
những việc lành này chỉ có ích cho những linh hồn đang ở nơi gọi là ''Luyện
tội=Purgatory' mà thôi, v́ 'họ là những tín hữu, khi c̣n sống đă hoàn toàn
qui hướng về Chúa và chết trong ơn nghĩa của Người, ,nhưngchưa được tẩy sạch
khỏi ''h́nh phạt hữu hạn' của tội đă được tha qua bí tích ḥa giải. V́ thế
họ phải 'tạm trú' ở nơi này một thời gian để được thanh luyện trước khi được
gia nhập hàng ngũ các Thánh trên Thiên Đàng để huởng Thánh Nhan Chúa đời
đời.
Cũng cần giải thích thêm là, theo giáo lư của Giáo Hội, th́ mọi tội con
người mắc phạm sau khi được rửa tội đều có hai hậu quả nặng hay nhẹ. Tội
trọng làm mất sự hiệp thông tức khắc với Chúa và nếu không được tha kịp thời
qua bí tích hoà giải và chết trong t́nh trạng này, th́ sẽ bị h́nh phạt đời
đời trong nơi gọi là hoả ngục.( x. SGLGHCG số 1033, 1035).
Tội nhẹ không làm mất sự hiệp thông này nhưng cũng gây thương tổn cho linh
hồn và cần được tẩy sạch qua bí tích hoà giải.Sau khi đă được tha qua bí
tích này các hối nhân vẫn phải làm việc ''đền tội ' cho các tội đă được tha
nhưng '' không sửa lại được những xáo trộn mà tội đă gây ra' (CĐ Trentô
DS1712)
Việc đền tội này nếu không được làm đầy đủ khi c̣n sống th́ phải được thanh
tẩy sau khi chết trong nơi Luyện tội để đuợc giải thoát khỏi ''h́nh phạt hữu
hạn=temporal punishment''của tội lỗi. Ỡ nơi luyện tội, các linh hồn không
thể tự giúp ḿnh được nữa v́ thời giờ đă hết. Do đó, họ chỉ trông chờ sự cứu
giúp của Đức Mẹ và các Thánh trên Thiên Đàng và của các tín hữu c̣n sống
đang hiệp thông trong Giáo Hội lữ hành trên trần thế. Đó là lư do tại sao
Giáo Hội dạy phải cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện tội , giúp họ mau
được tha thứ h́nh phạt hữu hạn để thanh thoát được lên hưởng Thánh Nhan Chúa
trên Thiên Đàng.
Với tư cách là Người Quản Lư ''Kho Tàng Ơn Cứu chuộc của Chúa Kitô và công
nghiệp của Đức Mẹ và các Thánh'', Giáo Hội được quyền ban phát Ân Xá
(Indulgences) lấy từ Kho Tàng trên để tha các h́nh phạt hữu hạn cho kẻ sống
và nhất là cho các linh hồn c̣n đang được thanh luyện trong Luyện tội.
Theo tín điều các Thánh thông công, th́ các Thánh trên Thiên Đàng có thể
nguyện giúp cầu thay cho các linh hồn nơi luyện tội và cho các tín hữu c̣n
sống trên trần thế này.Các tín hữu cũng có thể giúp ích cho các linh hồn
bằng lời cầu nguyện, làm việc lành và xin dâng Lễ cầu cho các linh hồn.
Nhưng cầu nguyện hay xin Lễ chỉ có giá trị bù đắp thiếu sót cho những linh
hồn thánh đang c̣n được thanh luyện trong Luyện tội mà thôi chứ tuyệt đối
không giúp ích ǵ cho những ai đă bị phạt đời đời trong nơi gọi là ''hoả
ngục=hell''. Các linh hồn thánh (holy souls) chỉ ở trong Luyện Tội có thời
hạn chứ không ở vĩnh viễn đời đời như những người bị phạt trong hoả ngục.Vậy
không có vấn đề cầu nguyện đời đời cho các linh hồn đang ở Luyện tội. Càng
không thể cầu cho những người trong hỏa ngục được v́ lư do không có sự hiệp
thông(comunio) nào giữa những người ở đây với các Thánh trên Thiên Đàng, các
linh hồn thánh trong Luyện tội và các tín hữu c̣n sống trên trần gian theo
tín điều các thánh thông công nói trên. (Sách Giáo Lư Công Giáo, các số
1030-1033; 1459-1460; 1471-1479)
Bao lâu c̣n sống th́ chúng ta cứ cầu nguyện cho kẻ sống và kẻ chết cũng như
cho chính ḿnh. Nhưng xin nhớ rằng muốn được hưởng ơn cứu rỗi th́ trước hết
phải được tái sinh qua phép rửa, cậy nhờ ḷng thương xót của Chúa và công
nghiệp cực trọng của Chúa Kitô cộng với phần đóng góp cần thiết của mỗi cá
nhân trong suốt cuộc đức tin trên trần thế này cho đến khi chết, như đă nói
trên đây. Nếu tự ḿnh không cố gắng làm việc này th́ không ai có thể làm
thay được, nghĩa là không thể 'khoán trắng phần rỗi' của ḿnh cho người khác
bằng cách bỏ tiền ra '' mua hậu đời sau', từ bây giờ để được yên tâm về phần
rỗi của ḿnh. Tôi cam đoan những ''Giấy chứng mua, bán hậu này'' không có
một chút giá trị cứu rỗi nào trước mặt Chúa sau này. Nó chỉ có lợi tài chính
bây giờ cho người bán buôn nó mà thôi.Tuyệt đối không có vấn đề mua ' bảo
hiểm đời sau'' hay xin Lễ đời đời trong Giáo lư Giáo Hội Công Giáo. Nếu một
người đă hoàn toàn khước từ Chúa cho đến chết th́ Chúa không thể cứu hay''ép
''người đó nhận ơn cứu chuộc để vào Nước Trời được. Nói ǵ đến nhờ ai cúu
giúp nữa. Nói cách khác, nếu việc mua '' hậu'của mấy người không am hiểu
giáo lư -(không có giáo lư nào dạy điều này)- đă lập ra cái gọi là ''Hội đời
đời' để bán hậu đời sau cho những người nhẹ dạ, mà có giá trị cứu rỗi, th́
chủ nhân các ṣng bạc lớn nhỏ, chủ các động măi dâm, ma cô đang buôn bán phụ
nữ cho kỹ nghệ măi dâm rất khốn nạn, và những tay tài phiệt đang kiếm bạc
triệu, bạc tỷ nhờ những xảo thuật kinh tế bất lương, khỏi cần phải từ bỏ
cách sống vô luân vô đạo của họ. Và chỉ cần bỏ hàng triệu đồng ra xin “Lễ
đời đời” và ''mua hậu'' đời sau cho ḿnh là chắc ăn hay sao ?
Nhưng làm ǵ có chuyện quái đản, phản đức tin, phản giáo lư và thần học này
.
Tóm lại, phải dứt khoát loại trừ mọi thực hành dối trá sai trái nói trên,
nếu muốn sống đức tin cách chân thật, vững chắc và tinh tuyền trong Giáo Hội
Công Giáo.
Đó là tất cả những điều cần yếu tôi muốn nói thêm một lần nữa về ơn cứu độ
với ước mong giúp ích phần nào cho sự t́m hiểu của quí tín hữu khắp nơi.
LM. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn