|
Theo hướng mục vụ của Hội Thánh, là Bí Tích của ơn độ cũng là người mẹ không bao giờ bỏ rơi con cái ḿnh, xin kính gởi bài viết này đến tất cả các vị mục tử.
Trong Tông Huấn Familiaris
Consortio, của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, ban hành ngày
22-11-1981, ở số 84 về người ly dị tái hôn, ngài kêu gọi: "Hội
Thánh phải cố gắng không biết mỏi mệt để đem các phương tiện cứu rỗi của
ḿnh cho họ sử dụng" (FC,
84). Sự
kêu gọi lại càng khẩn thiết hơn với những kêu gọi tương tự của Đức Giáo
Hoàng Phanxicô, do sự tách ĺa khỏi Giáo Hội hay bỏ đạo nơi những người
trong t́nh trạng hôn nhân "bất quy tắc", mà ngày càng gia tăng rất
nhiều.
Để đáp ứng với lời kêu gọi khẩn thiết "… đem
các phương tiện cứu rỗi" cho
người ly dị tái hôn tại Việt Nam, xin các vị mục tử, hăy lưu tâm xem xét
đến một phương tiện là Bí Tích Giải Tội.
1. Một thực trạng thật đau buồn
Tại sao lại xem xét đến Bí Tích Giải Tội?
Bởi v́ trong khi Giáo Hội đang bận tâm là làm sao cho người ly dị tái
hôn được hiệp thông mạnh mẽ với Hội Thánh, do họ không được đón nhận
Thánh Thể, th́ ở tại Việt nam họ lại bị thêm một h́nh phạt là cấm Xưng
Tội. Câu hỏi mà toàn Giáo Hội hoàn vũ đặt ra là: "Người ly dị tái hôn có
được lănh nhận Thánh Thể không?" Không hề thấy đặt ra: "Người ly dị tái
hôn có được lănh nhận Bí Tích Thống hối và Thánh Thể không?"
"Cấm xưng tội rước lễ" là từ ngữ thường được sử dụng ở Việt Nam và được
áp dụng từ lâu đời và sau này lại được cũng cố qua số 1650 của Sách
GLCG:
V́ thế, bao lâu c̣n sống trong t́nh trạng này, họ không được rước lễ.
Cũng vậy, họ không thể đảm nhận một số trách nhiệm trong Hội Thánh. Chỉ
những người hối hận v́ ḿnh đă vi phạm đến dấu chỉ giao ước và sự trung
thành với Đức Ki-tô, và cam kết sống tiết dục trọn vẹn, mới được giao
ḥa nhờ bí tích Thống Hối.
(Bản dịch Việt ngữ của Tgp Hồ Chí Minh năm 1993).
Áp dụng theo một điều cấm có từ lâu đời và được sách GLCG minh xác th́
quả là điều đúng đắn. V́ vậy ở Việt Nam người rối hôn phối đều bị cấm
Xưng Tội và Rước lễ.
Tuy nhiên, nếu nh́n vào thực trạng và nếu nh́n vào tâm thức của Hội
Thánh là ḷng từ mẫu yêu thương th́ tự nhiên bất cứ ai cũng cảm thấy có
vấn đề nghiêm trọng. Xin mô tả một ví
dụ:
Một phụ nữ ly dị tái hôn mang tội phá thai, vào ṭa để xưng tội. Vừa nói
xong: "Con đang ở với chồng bất hợp luật Giáo Hội". Cha giải tội bảo:
"Về đi, về chia tay chồng đi, phải chừa cải dứt bỏ tội kết hôn bất hợp
pháp đó đi th́ tôi mới có thể giải tội". Người phụ nữ năn nĩ: "Thưa cha
con có tội phá thai". Cha giải tội nói thêm: "Nếu tôi giải tội cho bà,
tôi sẽ làm hư phép giải tội, tôi mắc tội phạm thánh!"
Người
phụ nữ đó đă đi, đi ra khỏi nhà thờ mà chỉ biết than thầm: "Chúa ơi, con
con thật là tội lỗi, nhưng làm sao con bỏ chồng con được! C̣n thằng Cu,
con Tít, cái Nhớn, cái Bé để ai muôi! Con đă cố gắng nuôi bốn đứa con
thơ rồi, bây giờ con lỡ dại phá thai! Có phải v́ vậy con xuống hỏa ngục
không?"
Về nhà
bà kể lại sự việc, chồng chưởi thề to tiếng: "Không đạo nghĩa ǵ nữa cả,
không đứa nào được học giáo lư ǵ nữa cả!"
Hai vợ
chồng từ đó đă bỏ đạo và các thế hệ con cháu kế tiếp chẳng biết ǵ là
đạo nữa!
Một trong những nguyên nhân quan trọng của sự ĺa xa Giáo Hội của Châu
Âu vào những năm thế chiến thứ hai và sau đó là sự cấm cách lănh nhận
các bí tích. Một giáo sư chia sẻ: "Người ta hoảng loạn, đói khát, mất
niềm tin trước những đau khổ… Những ổ măi dâm nằm gần những chỗ đóng
quân. Cưới vợ lấy chồng vô trật tự. Có những cô gái bán ḿnh chỉ v́ một
khúc bánh mỳ… Họ bị phạt không được xưng tội rước lễ v́ lỗi luật Hội
Thánh. Họ bị đẩy ra khỏi Hội Thánh cùng với con cháu họ. Một phần khác
họ qua Tin Lành. Những người Công Giáo c̣n lại không biết c̣n được bao
nhiêu"!
Việt Nam hiện nay cũng đang phải đương đầu với những lối sống ảnh hưởng
Tây phương, ly dị tái hôn, di dân từ thôn quê lên thành thị rồi kết hôn
bất quy tắc … ngày càng gia tăng… Cũng đă có rất nhiều người v́ không
được xưng tội rước lễ nên đă xa nhà thờ, bỏ đạo. Nếu đi thăm ḍ kỹ lưỡng
sẽ khám phá ra nhiều gia đ́nh mà cứ tưởng là người lương nhưng thật sự
họ đă có đạo nhưng nay đă bỏ đạo, nhất là ở những khu vực dân mới hay
thành thị.
Thật là đau ḷng!
Giáo Hội ư thức rất rơ vấn đề nguy hại này, cố gắng là làm sao ngăn ngừa
được sự ĺa bỏ Giáo Hội, kêu gọi các mục tử hăy t́m mọi phương thế để
cho những người sống trong t́nh trạng ly dị tái hôn được hiệp thông với
Hội Thánh.
Các vị mục tử, nhất là các vị chủ chăn của giáo phận, chắc hẳn sẽ cảm
thấy đau xót và cảm thấy cần phải đặt vấn đề: Phải chăng Giáo Hội đă có
luật hay mệnh lệnh của Đức Giáo Hoàng là cấm người ly dị tái hôn lănh
nhận Bí tích Thống hối?
Chúng con biết các vị chủ chăn giáo phận, tuy là rất quan tâm về vấn đề
này, nhưng bận lo biết bao nhiêu công việc mục vụ, đâu có thời giờ để
nghiên cứu một vấn đề rất khó. Cái khó là làm sao có thể hủy bỏ một điều
đă được thực hành lâu năm và được sách Giáo Lư Công Giáo viết ra. V́
vậy, bài viết này có ư cung cấp những tài liệu chính thức, những lư giải
cần thiết để các chủ chăn có cơ hội suy xét.
Trọng tâm của vấn đề người ly dị tái hôn không được lănh nhận Thánh Thể
được nói đến trong của Tông Huấn Familiaris
Consortio ban hành năm
1981 do Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Tông Huấn Amoris
Laetitia ban hành năm
2016 của Đức Phanxicô có mở ra một số điều. V́ vậy,Familiaris
Consortio và những tài
liệu hướng dẫn của Hội Thánh sau đó là những nên tảng để chúng ta suy
xét vấn đề.
2. Đi từ tâm thức đạo đức: Giáo Huấn Giáo Hội không tự mâu thuẩn
Khởi đi từ tâm thức của Giáo Hội, chúng ta thấy ngay một sự bất ổn về
luật cấm xưng tội.
Giáo Hội nếu cấm hoặc hạn chế tín hữu ly dị tái hôn lănh nhận Bí Tích
Thống hối th́ Giáo Hội sẽ tự mâu thuẩn, v́ điều cấm này đi ngược lại với
lời kêu gọi của Giáo Hội là hăy tỏ ḷng nhân từ của ḿnh như là một
người mẹ đối với con cái.
Những Giáo huấn của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II trong Tông Huấn Familaris
Consortio (FC, 84), của
Đức Benedicto XI trong Sacramentum
Caritatis (SC, 29) và của
Đức Phanxicô trong Tông Huấn Amoris
Laetitia (AL, 79-79) cũng
trở thành những lời lẽ sáo ngữ rỗng tuếch, nếu ngăn chận con cái ḿnh
đến với Bí Tích Sám Hối để được ơn tha thứ.
Tại sao có thể khẳng định như vậy?
a- Ḷng
nhân từ tha thứ không thể thấy tội quá nặng mà không thể tha thứ
Làm sao có thể biểu lộ ḷng nhân từ tha thứ một khi chỉ nh́n thấy tội
nhân là một kẻ đang mắc một tội nghiêm trọng mà không thể tha thứ, và hệ
quả là cấm người ấy Bí Tích Giải Tội?
Phải chăng khi tội nhân đă ăn năn thống hối nhưng bị áp lực của bổn phận
yêu thương, bổn phận duy tŕ một gia đ́nh hạnh phúc, bổn phận lo cho con
cái … mà không thể bỏ t́nh trạng tội đang sống th́ họ vẫn mang thân phận
của một tội nhân có tội nghiêm trọng không thể tha thứ?
Phải chăng những người trong những hoàn cảnh Tông Huấn Familaris
Consortio nêu ra, mà Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolo II kêu gọi là hăy phân định, tội của họ không
như những người cố t́nh ly dị tái hôn, lại phải chịu h́nh phạt như những
người cố t́nh? Đức Giáo Hoàng kêu gọi phân định làm chi vô ích!
Các ngài có thể tự mâu thuẩn hay có những lời hoa mỹ để mị dân hay
không? Tuyệt đối là không!
b- Cấm
lănh nhận Thánh Thể trong Tông Huấn số 84 không phải là v́ tội trọng
Nếu như để ư th́ thấy, lư do của cấm không được lănh nhận Thánh Thể
không phải là lư do tội nặng, đáng phạt, hay lư do "ngoan
cố sống trong tội trọng tỏ tường" (đ.915). Có rất nhiều khẳng định
của Giáo Huấn Giáo Hội cho thấy không phải là do tội nặng của họ mà họ
bị cấm cho lănh nhận Thánh Thể. Có thể thấy như sau:
Niên trưởng Bộ Giáo Lư Đức Tin, Đức Hồng y Ratzinger trong "Thư gởi cho
các Giám Mục Giáo hội Công Giáo về việc nhận lănh Thánh Thể bởi những
tín hữu ly dị và tái hôn", ngày 14-9-1994, xác định cấm đây không phải
một h́nh phạt hay là sự kỳ thị:
"Hệ quả, là họ không thể nhận Thánh Thể bao lâu t́nh trạng này tồn tại. Quy
tắc này không
hề là một h́nh phạt hay là sự kỳ thị, chống lại người ly dị và tái
hôn, nhưng là một diễn tả một t́nh trạng khách quan mà chính nó khiến
không thể lănh nhận Thánh Thể".
Ở đoạn khác của thư, Ngài biểu lộ rằng họ có thể là những người đang
sống trong ân sủng, chứ không phải cho những người được coi là chết
trong ân sủng v́ tội trọng:
"Tín hữu phải được giúp hiểu sâu xa hơn giá trị của sự thông phần hiến tế của Đức Kitô trong Thánh lễ, của sự rước lễ thiêng liêng, của cầu nguyện, của suy gẫm Lời Chúa, của việc bác ái và sống công chính."
Đức Giáo Hoàng Phanxicô, trong Amoris Laetitia cũng cho thấy rơ:
“không thể nào cho rằng, tất cả những ai trong hoàn cảnh “không b́nh thường” đều là sống trong t́nh trạng tội trọng hay không có ơn thánh hoá.” (AL, 301).
Ngài dạy tiếp:
“Một mục tử không bao giờ được cảm thấy đủ khi chỉ biết đơn giản là áp dụng các nguyên tắc luân lư cho những người sống trong những hoàn cảnh “không b́nh thường”, như thể chúng là viên đá ném vào họ… Do bởi những điều kiện và các yếu tố giảm nhẹ, đôi khi trong một t́nh trạng tội khách quan, một người vẫn có thể sống trong ân sủng của Thiên Chúa, vẫn có thể tăng trưởng trong đời sống của ân sủng và bác ái, khi nhận được sự trợ giúp của Giáo Hội.” (AL,305).
Theo những giáo huấn trên, những người ly dị tái hôn vẫn có thể hiệp thông với Hội Thánh trong chính cử hành phụng vụ và trong cuộc sống đạo, vậy th́ làm sao mà có thể tuyên kết tất cả họ là tội trọng hay là để ngăn cấm không cho họ lănh nhận ơn tha thứ qua Bí tích Giải tội?
Họ có thể đang cần Thiên Chúa thứ tha, không những cho tội tái hôn mà v́
hoàn cảnh không thể dứt bỏ mà c̣n về những tội nặng nhẹ khác trong cuộc
sống. Họ đang cần hoán cải và được tha tội từng ngày, cần được lớn lên
trong ân sủng.
Một sự cấm đoán ơn tha thứ cho tội nhân, quả thực là đi ngược lại với
Giáo Huấn Giáo Hội, là một tội xúc phạm đến chính T́nh Yêu Thiên Chúa và
cũng là phạm đến Chúa Thánh Thần.
3. Đi từ những quy tắc giáo luật
Nếu nh́n về khía cạnh Giáo Luật, sự khẳng định có một luật cấm đ̣i hỏi
nhiều yếu tố. Luật lệ là v́ con người, là bảo vệ cho quyền lợi của con
người chứ không bảo vệ cho chính nó. Về một điều hạn chế tự do hay quyền
lợi của tín hữu, Giáo Luật đ̣i phải giải thích theo nghĩa hẹp và phải
dựa theo một điều luật được phát biểu rơ ràng.
3.1. Những nguyên tắc
a- Phải giải thích theo nghĩa hẹp
Điều 18: Những
luật ấn định h́nh phạt hay hạn chế tự do sử dụng các quyền lợi hoặc hàm
chứa một ngoại lệ, th́ phải giải thích theo nghĩa hẹp.
Ví dụ:
Điều 1398 quy định: Người
nào thi hành việc phá thai và nếu việc phá thai có hiệu quả, th́ bị vạ
tuyệt thông tiền kết.
Không được phép giải thích rộng ra để gán vạ tuyệt thông tiền kết cho
người cộng tác tích cực phá thai v́ ở đây nói rơ là người "thi
hành". Người phá thai không hiệu quả, người có tội sát nhân có thể
có tội luân lư rất nặng nhưng không bị vạ tuyệt thông tiền kết.
b- Ấn định minh nhiên:
Điều 1314 quy định: Thường thường, h́nh phạt là hậu kết, nghĩa là tội nhân không phải chịu h́nh phạt bao lâu chưa bị tuyên bố; c̣n h́nh phạt là tiền kết, nghĩa là phạm nhân phải chịu h́nh phạt tức khắc do chính sự kiện phạm tội, nếu luật và mệnh lệnh minh nhiên ấn định như thế.
Điều 1398 nói trên là một ví dụ cho sự minh nhiên của một h́nh phạt tiền
kết, nói rơ ràng là người thi hành việc "phá
thai có hiệu quả, th́ bị vạ tuyệt thông tiền kết". C̣n người phạm
tội sát nhân th́ không bị vạ tuyệt thông tiền kết v́ không được luật nói
rơ ràng như thế.
V́ Tông Huấn chỉ cấm được lănh nhận Bí Tích Thánh Thể, ta không được nới
rộng lệnh cấm để cấm lănh nhận tất cả các bí tích khác và cũng không nới
rộng để cấm lănh nhận Bí Tích Ḥa Giải.
3.2. Tông Huấn không minh nhiên cấm lănh nhận Bí Tích Thống Hối
Câu "Việc giao ḥa bằng Bí tích thống hối – là Bí tích mở đường cho Bí tích Thánh Thể – chỉ có thể được ban cho…” là không minh nhiên rơ ràng là cấm lănh nhận Bí Tích thống hối, v́ câu văn có thể được hiểu khác đi, như sẽ được phân tích ở phần sau của bài này.
Nếu có cấm lănh nhận Bí Tích Thống Hối, vốn là một bí tích quan trọng
cho phần rỗi linh hồn là để được ơn tha thứ, th́ càng đ̣i Tông Huấn
phải nói rất rơ ràng là áp dụng cho trường hợp nào, dựa trên nền tảng
Kinh Thánh nào, lư do tại sao…
Trong số 84 của Tông Huấn chỉ thấy có hai chỗ nói đến sự cấm cách khá
rơ. Thứ nhất là ở đoạn [4], cấm nhận Thánh Thể với câu: "không
chấp nhận (non admittendi) cho những tín hữu ly dị tái hôn được hiệp
thông Thánh Thể”. Thứ
hai, cấm cử hành nghi thức hôn phối với câu: "tất
cả mọi chủ chăn, dù bất cứ v́ nguyên do nào hay bất cứ vịn cớ ǵ, ngay
cả v́ lư do mục vụ, đều không được cử hành bất cứ một thứ nghi thức nào
cho những người đă ly dị nay kết hôn lại". Cả hai sự cấm này đều
được nêu ra lư do cách rơ ràng.
Trong khi hai điều cấm trên lại được nói rơ ràng, việc cấm lănh nhận Bí
tích Thống Hối lại chẳng nói rơ, cũng chẳng lư giải ǵ cả về điều cấm.
V́ vậy không thể nào lại kết luận Tông Huấn đă cấm.
3.3. Những văn bản Ṭa Thánh đều chỉ bàn đến cấm lănh nhận Thánh Thể
Sau khi Tông Huấn Familiaris Consortio ban hành năm 1981 cho đến Tông Huấn Amoris Laetitianăm 2016, các văn bản liên quan đến việc lănh nhận bí tích cho người ly dị tái hôn, được chú ư khảo sát phân tích bao gồm:
- "Thư gởi cho các Giám Mục Giáo hội Công Giáo về việc nhận lănh Thánh
Thể bởi những tín hữu ly dị và tái hôn", ngày 14-9-1994, của bộ Giáo Lư
Đức Tin, do Đức Hồng y Ratzinger, bộ trưởng ấn kư, vào dịp Năm Quốc Tế
Gia Đ́nh.
(http://www.vatican.va...-holy-comm-by-divorced_it.html)
- "Tuyên
Bố về việc lănh nhận
Thánh Thể của người ly dị tái hôn", của Ủy
Ban Giáo Hoàng về Những Văn Bản Lập Pháp, ngày 24-6-2000 (PONTIFICIO
CONSIGLIO PER I TESTI LEGISLATIVI,Dichiarazione circa
l’ammissibilità alla santa comunione dei divorziati risposati).
(http://www.vatican.va...declaration_it.html)
- Tông Huấn Sacramentum
Caritatis của Đức Giáo
Hoàng Benedicto XVI, ngày 22-2-2007, về Bí Tích Thánh Thể. Tông Huấn có
nói đến Bí tích Thánh Thể và sự bất khả phân ly của hôn nhân ở số 29. Số
này, gần như nhắc lại Familiaris
Consortio 84, chủ ư kêu
gọi sự phân định các trường hợp, sự cảm thông nâng nâng đở. Ngài cũng
kêu gọi thiết lập ṭa án hôn phối để giúp cho những vụ hôn nhân vô hiệu.
Các tài liệu chính thức nói trên đều bàn về việc cấm lănh nhận "Bí Tích
Thánh Thể" đối với người ly dị tái hôn. Vậy cần đặt vấn đề: Nếu đấng có
thẩm quyền Giáo huấn có cấm lănh nhận Bí tích Thống Hối, sao đấng ấy
chẳng ra một văn bản chính thức nào nói minh nhiên là cấm và cũng chẳng
có văn bản của Ṭa Thánh bàn thảo về vấn đề này cho rơ ràng?
Ngay cả trong Tông Huấn về Bí Tích Giải Tội "Ḥa Giải và Thống Hối" (Reconciliatio
Et Paenitentia) hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục, ban hành ngày
2-12-1984 cũng chẳng có chỗ nào nói rằng cấm người ly dị tái hôn không
được lănh nhận Bí Tích Thống Hối. Chỉ trong một đoạn nhỏ, Đức Giáo Hoàng
cho biết là ngài đă nói rơ về họ trong tông huấn Familiaris
Consortio.
3.4. Trong Bộ Giáo Luật chỉ có nói đến cấm lănh nhận Thánh Thể
Bộ Giáo Luật 1983, được ban hành 2 năm sau Tông Huấn Familiaris Consortio. Vào thời gian Thượng Hội Đồng Giám Mục diễn ra năm 1980 và Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng năm 1981 th́ Bộ Giáo Luật đang ở thời kỳ duyệt xét lại bản văn sau cùng. Lời dạy của Tông Huấn và Bộ Giáo Luật, tất nhiên phải ḥa hợp với nhau. Chúng ta hăy t́m hiểu xem bộ Giáo Luật đă có quy định ǵ liên quan đến vấn đề đang bàn thảo.
Quyển 4 trong bộ Giáo Luật nói về Nhiệm
Vụ Thánh Hóa trong Giáo
Hội, phần lớn là đưa ra quy định về Bảy Bí Tích. Bí Tích Thánh Thể được
nói ở trong Đề Mục 3, từ điều 897 đến điều 958. Bí Tích Sám Hối được nói
ở trong Đề Mục 4, từ điều 959 đến điều 991.
Ngay từ phần đầu nói chung về Bí Tích, Giáo Luật điều 843#1 đă quy định:
"Các thừa tác viên có chức thánh không thể từ chối ban các bí tích cho những người xin lănh nhận các bí tích cách thích đáng, đă được chuẩn bị đầy đủ và không bị luật cấm lănh nhận các bí tích."
Trong đề mục về Bí Tích Thánh Thể, có hai điều cấm:
Điều 915
Những người bị vạ tuyệt thông và những người bị cấm chế sau khi h́nh phạt đă được tuyên kết hay tuyên bố, cũng như những người ngoan cố sống trong tội trọng tỏ tường, không được rước lễ (CIS 855 ; CIO 712).
Điều 916
Người nào ư thức ḿnh đang mắc tội trọng th́ không được cử hành Thánh Lễ
và cũng không được rước Ḿnh Thánh Chúa, nếu không nhận lănh bí tích Sám
Hối trước, trừ khi có một lư do nghiêm trọng và không có dịp để xưng
tội, trong trường hợp này, người ấy phải nhớ rằng ḿnh phải ăn năn tội
cách trọn, trong đó bao gồm việc quyết tâm xưng tội sớm hết sức (CIS 807
; CIS 856 ; CIO 711).
Tuy nhiên, trong đề mục về Bí Tích Sám Hối, không thấy có một quy định
nào là cấm lănh nhận Bí Tích này.
Ngược lại, điều 980 quy định về sự sẵn sàng ban Bí Tích, không được tŕ
hoăn:
Nếu cha giải tội không hồ nghi về sự chuẩn bị của hối nhân, và nếu hối
nhân xin xưng tội, th́ ngài không được từ chối và cũng không được hoăn
ban ơn xá giải (CIS 886).
4. Đi vào chính văn bản: Khảo sát tổng quát Tông Huấn Familiaris
Consortio số 84
Số 84 này gồm 8 đoạn:
Đoạn [1]: Đức Giáo Hoàng nêu vấn đề ly dị tái hôn và kêu gọi: "Nên
Hội Thánh phải cố gắng không biết mỏi mệt để đem các phương tiện cứu rỗi
của ḿnh cho họ sử dụng".
Đoạn [2]: Ngài kêu họi sự phân định các trường hợp ly dị tái hôn khác
nhau:
- "những người đă thành tâm cố gắng cứu văn cuộc hôn nhân thứ nhất nhưng đă bị ruồng bỏ một cách bất công, th́ khác hẳn với những người do sai lỗi trầm trọng đă phá huỷ cuộc hôn nhân thành sự theo giáo luật."
- "những người đă lấy một người khác để giáo dục con cái và đôi khi trong ḷng cứ chủ quan tin chắc rằng cuộc hôn nhân trước, mà bây giờ đă bị phá huỷ không sao cứu văn được, xưa nay vẫn không hề thành sự."[1]
Đoạn này kêu gọi sự phân định về t́nh trạng của họ để nhận ra mức độ nặng nhẹ của "sai lỗi", chứ không đổ đồng tất cả đều là "sai lỗi trầm trọng". Điều này có nghĩa là: có tội ở mức độ nặng nhẹ khác nhau là tùy theo mỗi hoàn cảnh của tội nhân.
Đoạn [3]: Đức Giáo Hoàng kêu gọi giúp đỡ người ly dị tái hôn.
Đoạn [4]: Ngài xác nhận việc không cho lănh nhận Thánh Thể là theo tập
tục của Hội Thánh và nêu ra lư do của sự cấm này:
"Tuy nhiên, Hội Thánh vẫn nhắc lại tập tục của ḿnh (inculcat consuetudinem suam), đặt trên nền tảng Thánh Kinh, không chấp nhận (non admittendi) cho những tín hữu ly dị tái hôn được hiệp thông Thánh Thể. Họ bị ngăn trở (impediunt) đón nhận Thánh Thể v́ t́nh trạng của họ và v́ điều kiện sống của họ trái ngược khách quan (obiective dissideant) với sự kết hiệp t́nh yêu (amoris coniunctione) giữa Đức Kitô và Hội Thánh, mà sự kết hiệp này được biểu hiệu (significatur) và thực hiện (peragitur) bởi Thánh Thể. Ngoài ra c̣n có một lư do mục vụ riêng biệt khác: nếu chấp nhận cho những người ấy được rước lễ, điều đó sẽ dẫn các tín hữu đi tới chỗ lầm lạc và bối rối (errorem turbationemque) về giáo lư của Hội Thánh về sự bất khả phân ly của hôn nhân."
Đoạn này xác định: "không chấp nhận (non admittendi) cho những tín hữu ly dị tái hôn được hiệp thông Thánh Thể", với hai lư do được nêu ra.
Hai lư do được nêu không là lư do "tội nặng" làm xúc phạm đến Thánh Thể,
như hầu hết chúng ta vẫn thường nghĩ, nhưng là lư do gây tác hại khách
quan: 1- làm tổn hại đến ư nghĩa thần học của sự kết hợp t́nh yêu giữa
Đức Kitô và Hội Thánh và của Thánh Thể; 2- gây lầm lạc và bối rối về
giáo thuyết hôn nhân.
- Đoạn [5] bắt đầu bằng câu: "Việc
giao ḥa trong Bí tích Thống hối – (việc) mà có thể mở đường cho Bí tích
Thánh Thể – có
thể được ban chỉ cho những người biết hối hận v́ đă phạm đến dấu hiệu
của Giao ước và của sự trung thành với Đức Kitô…".[2]
Đây chính là câu mở đầu cho một đoạn văn đă gây hiểu lầm là Tông Huấn
cấm lănh nhận Bí Tích Thống Hối, trừ khi ăn năn sám hối và đảm nhận sống
tiết dục. Vấn đề như đúng sai như thế nào, sẽ được khảo sát sau.
Thực ra, theo mạch văn, sau khi đă nói đến sự cấm lănh nhận Thánh Thể,
Tông Huấn chỉ ra con đường để có thể nhận Thánh Thể là khi đă "giao ḥa"
với việc lănh nhận Bí Tích Thống Hối và đảm nhận sống tiết dục, chứ
không hề có ư cấm lănh nhận Bí Tích Thông hối.
- Đoạn [6] Tông Huấn cấm "tất
cả mọi chủ chăn, dù bất cứ v́ nguyên do nào hay bất cứ vịn cớ ǵ, ngay
cả v́ lư do mục vụ, đều không được cử hành bất cứ một thứ nghi thức nào
cho những người đă ly dị nay kết hôn lại". Lư do cấm được đưa ra là:
"làm cho
người ta có cảm tưởng rằng việc cưới hỏi mới này đă thành sự do một cuộc
cử hành bí tích nào đó, và như thế sẽ đưa người ta đến chỗ hiểu sai lạc
về sự bất khả phân ly của hôn nhân". Đoạn này có nghĩa là cấm các
thừa tác viên cử hành bất cứ nghi thức kết hôn nào cho người tái hôn.
- Đoạn [7] Tông Huấn đưa ra hai lư do của giáo huấn: 1- Hội
Thánh tuyên xưng rằng ḿnh trung thành với Đức Ki-tô và với bản chất
đích thực của ḿnh; 2- "với
một ḷng từ mẫu, Hội Thánh cúi ḿnh lo cho con cái, cách riêng là những
người con đă bị người phối ngẫu hợp pháp của họ rầy bỏ mà không do lỗi
của họ".
- Đoạn [8]: Tông Huấn bày tỏ ḷng tin tưởng rằng người đang sống và vẫn
tiếp tục sống xa huấn lệnh của Chúa cũng có thể nhận được ơn hoán cải và
cứu rỗi nơi Thiên Chúa, nếu họ kiên tŕ trong kinh nguyện, thống hối và
bác ái. Đoạn [8] này cũng cho thấy rằng người dị tái hôn có thể được ơn
tha thứ, được ơn cứu rỗi nếu họ hoản cải.
5. Đi
vào chính câu văn trọng điểm bằng phân tích cú pháp
Hăy thử phân tích câu quan trọng nhất mà đă gây hiểu lầm là Tông Huấn
cấm Xưng Tội:
· Việc
giao ḥa trong bí
tích thống hối – (việc) mà có thể mở đường đến bí tích Thánh Thể – có
thể được ban cho chỉ những ai biết
hối hận…
· Porro
reconciliatio in sacramento paenitentiae — quae ad
Eucharistiae sacramentum aperit viam
— illis unis concedi potest, qui dolentes quod signum violaverint
Foederis et fidelitatis Christi, sincere…
(quae là nominative
feminine singular của qui,
đại diện cho reconciliatio, không
đại diện chosacramento
paenitentiae)
· La
riconciliazione nel sacramento della penitenza - che
aprirebbe la strada
al sacramento eucaristico - pụ essere accordata solo a quelli che,
pentiti di… (third-person singular conditional of aprire).
· La
réconciliation par le sacrement de pénitence - qui
ouvrirait la voie au
sacrement de l'Eucharistie - ne peut être accordée qu'à ceux qui se sont
repentis d'avoir violé le signe de l'Alliance et de la fidélité au
Christ, et sont sincèrement …(third-person singular conditional of ouvrir).
· Reconciliation
in the sacrament of Penance which
would open the way to
the Eucharist, can only be granted to those who, repenting of having
broken the sign of the Covenant and of fidelity to Christ, are sincerely
ready to undertake…(would, a modal verb, describe
a prediction -hypothetical situations).
Cần đặt câu hỏi: Đại từ quan hệ - quae, che, que, which được dịch: cái mà, điều mà… thay cho chữ "Việc giao ḥa' hay "Bí tích Thống hối"?. Theo văn phạm Latinh th́ rơ ràng chữ quae thay cho chữ reconciliatio (quae là nominative feminine singular của qui, th́ hợp cas giống số củareconciliatio - nominative feminine singular, trong khi đó sacramento lại là ablative neuter singular).
Mệnh đề "(việc) mà
có thể mở đường cho Bí tích Thánh Thể" là
một mệnh đề phụ, đứng đầu bởi một đại từ quan hệ (relative pronoun),
giúp nói rơ ư nghĩa của cụm chủ ngữ đi trước nó: "Việc
giao ḥa trong
bí tích thống hối".
Cũng nên xác định, chủ ngữ của mệnh đề phụ là "Việc giao ḥa" chứ không
phải là "bí tích thống hối".[3] Khi
đặt "Việc giao ḥa" làm chủ câu văn th́ ư nghĩa của nó không chỉ là vấn
đề tha tội trọng mà c̣n rộng lớn hơn. Đó là sự ly dị tái hôn làm tổn hại
khách quan đến Hội Thánh, do việc gây hiểu lầm… nên cần giải ḥa.
Mệnh đề phụ đi sau: "(việc)
mà có thể mở đường cho bí tích Thánh Thể "
có chức năng hạn định rơ ư nghĩa của cụm chủ ngữ đi trước nó: "Việc
giao ḥa trong
Bí tích Thống hối". Lư do là mệnh đề phụ được đứng đầu bằng một đại
từ quan hệ thường có vai tṛ giúp hạn định lại ư nghĩa tổng quát của
danh từ trước nó, để định cho nó riêng biệt hơn, và như vậy xác định
được danh từ ấy đang được ám chỉ đến ư nghĩa nào. Các đại từ quan hệ
trong các bản văn trên là -
quae, che, que, whichđược dịch: cái mà, điều mà, …
Hăy thử xem vài ví dụ:
- Gạo, (che /que/ which/cái mà/ gạo mà) mà
làm bún, chỉ làm được khi xay nó thành bột và phải ép thành sợi.
Câu trên, nếu được giải thích là hễ là gạo dùng được chỉ khi nó được xay thành bột và phải được máy ép thành sợi, th́ là một sai lầm.V́ rơ ràng là câu này không hề chỉ định đến gạo một cách tổng quát hay gạo nói chung nhưng hạn định lại là khi làm ra bún.
Chúng ta có thể lấy thêm các ví dụ khác:
- Cây gỗ,(which/cái mà ) để làm cột nhà, chỉ được dùng khi nó to và
tṛn…
Ở đây không có ư nói đến cây gỗ nói chung, nhưng hạn hẹp vào gỗ để làm
cột nhà. Khi đó nó mới cần to và tṛn.
- Linh mục, (mà) dạy trong Đại Chủng Viện, cần phải có thanh danh và có
bằng cử nhân hay tiến sĩ thần học.
Rơ rang là sự hiện diện của mệnh đề phụ "dạy trong Đại Chủng Viện" đă
hạn định ư nghĩa của từ "linh mục" đi trước nó. Không thể hiểu: tất cả
các linh mục đều phải có thanh danh và có bằng cử nhân hay tiến sĩ thần
học.
Khi bỏ đi mệnh đề phụ th́ sẽ thấy ư nghĩa thay đổi khác hẳn đi: Linh
mục cần phải có thanh danh và có bằng cử nhân hay tiến sĩ thần học.
Từ sự phân tích trên rồi so sánh hai câu sau sẽ thấy sự khác biệt rơ
ràng giữa hai câu sau:
- Việc giao ḥa trong Bí tích Thống hối – (việc) mà mở đường cho Bí tích
Thánh Thể – chỉ có thể được ban cho những người biết hối hận…
- Việc giao ḥa trong Bí tích Thống hối chỉ có thể được ban cho những
người biết hối hận…
Chỉ có câu sau mới cấm hay hạn chế "Việc giao ḥa trong Bí tích thống hối", nhưng câu đầu chỉ cấm hay hạn chế việc này khi nó "mở đường cho Bí tích Thánh Thể".
Như vậy, câu văn trong Tông Huấn số 84 đă không có ư nói đến "Việc
giao ḥa bằng Bí tích Thống hối" hay
"Bí tích
Thống hối" một cách chung
hay tổng quát nhưng chỉ nói đến trong một hạn định là để lănh nhận Bí
tích Thánh Thể.
6. Hiểu đoạn văn một cách chính thức từ thẩm quyền Hội Thánh
Trong chính "Thư gởi cho các Giám Mục Giáo hội Công Giáo về việc nhận
lănh Thánh Thể bởi những tín hữu ly dị và tái hôn" đă nói, Đức Hồng y
Ratzinger, bộ trưởng bộ GLĐT đă viết lại câu chủ chốt trên. Hăy quan sát
sự song đối của hai đoạn văn sau để thấy cách hiểu của ngài.
|
|
La riconciliazione nel sacramento della penitenza - che
aprirebbe la strada al sacramento eucaristico - pụ
essere accordata solo a quelliche,
pentiti… |
Per i fedeli che permangono in tale situazione
matrimoniale, l'accesso alla Comunione eucaristica è
aperto unicamente dall'assoluzione sacramentale, che pụ
essere data «solo a quelli che,
pentiti …[4] |
|
Đối với những tín hữu vẫn cứ ở trong t́nh trạng hôn nhân như thế, con đường đến lănh nhận Thánh Thể chỉ được mở ra từ sự xá giải bí tích, có thể được ban cho "chỉ những ai biết hối hận v́ đă phạm đến dấu hiệu của Giao ước và của sự trung thành với Đức Kitô, và thành thật sẵn ḷng chấp nhận một h́nh thức sống không c̣n mâu thuẫn với sự bất khả phân ly của hôn nhân nữa. Nói như thế là mặc nhiên cho rằng, khi có những lư do hệ trọng – chẳng hạn để làm gương và giáo dục con cái – người nam và người nữ không thể xa ĺa nhau như luật buộc, th́ “họ có thể đảm nhận sống tiết dục ḥan toàn nghĩa là tránh hẳn những hành vi dành riêng cho vợ chồng” (FC, 84). |
Đức Hồng y Ratzinger, đă trích nguyên văn đoạn cuối số 84 của Tông Huấn
ở phần sau và đă mở đầu bằng câu:
"Đối với
những tín hữu vẫn cứ ở trong t́nh trạng hôn nhân như thế, con đường đến
lănh nhận Thánh Thể chỉ được mở ra từ sự xá giải bí tích, có thể được
ban cho "chỉ
những ai biết
hối hận…"
Ngài
dùng nó để diễn đạt thay cho câu: "Việc
giao ḥa trong Bí
tích Thống hối – (việc) mà mở đường cho bí tích Thánh Thể – có
thể được ban cho chỉ những ai biết
hối hận…"
Đức Hồng Y đă thay chủ từ câu văn "Việc
giao ḥa trong bí tích thống hối" bằng
"con
đường đến lănh nhận Thánh Thể", để dẫn đầu cho một đoạn văn, làm cho
câu văn được dễ hiểu.
Đoạn này, v́ thế, là một chỉ dẫn cho một sự được phép lănh nhận Thánh
Thể trong một hạn định. Đó là lănh nhận Bí Tích Thống hối với tâm t́nh
sám hối ăn năn và có quyết tâm sống tiết dục. Nói cách khác, chủ đề
chính của đoạn văn là đưa ra một phương thế để có thể được lănh nhận Bí
Tích Thánh Thể nhờ bởi xưng tội và sống tiết dục, chứ không phải là đưa
ra một phương thế để lănh Bí Tích Thống Hối. V́ vậy đoạn văn này không
hề đưa ra điều kiện tiết dục để được xưng tội nói chung.
7- Không đ̣i hỏi điều kiện hoàn toàn tiết dục khi lănh nhận Bí Tích Giải
Tội
Sẽ có nghi vấn: Tại sao Hội Thánh không đ̣i là phải cam kết tiết dục mới
được xưng tội, như đă đ̣i hỏi về việc lănh nhận Thánh Thể đối với người
ly dị tái hôn?
a-
Lư do đ̣i phải tiết dục hoàn toàn khi muốn lănh nhận Thánh Thể
Trước hết hăy t́m hiểu lư do về việc cấm lănh nhận Thánh Thể,
đưa ra bởi Tông Huấn:
Họ bị ngăn trở (impediunt) đón nhận Thánh Thể v́ t́nh trạng của họ và v́ điều kiện sống của họ trái ngược khách quan (obiective dissideant) với sự kết hiệp t́nh yêu (amoris coniunctione) giữa Đức Kitô và Hội Thánh, mà sự kết hiệp này được biểu hiệu (significatur) và thực hiện (peragitur) bởi Thánh Thể. Ngoài ra c̣n có một lư do mục vụ riêng biệt khác: nếu chấp nhận cho những người ấy được rước lễ, điều đó sẽ dẫn các tín hữu đi tới chỗ lầm lạc và bối rối (errorem turbationemque) về giáo lư của Hội Thánh về sự bất khả phân ly của hôn nhân."
Lư do thứ nhất: nếu Hội Thánh chấp nhận cho nhận lănh Thánh Thể th́ thần học về hôn nhân và Thánh Thể bị mâu thuẩn. Có thể nói đây là lư do gây mâu thuẩn thuẩn thần học tín lư. Lư do thứ hai là lư do mục vụ, là sẽ dẫn tới lầm lạc và bối rối về giáo lư.
C̣n có lư do khác, của Giáo Luật, ghi ở điều 915: "những người ngoan cố
sống trong tội trọng tỏ tường, không được rước lễ". Điều luật này áp
dụng chung cho các trường hợp ngoan cố trọng tội trọng tỏ tường, chứ
không riêng ǵ cho tội tái hôn.
Chú ư là: Tông Huấn cấm người ly dị tái hôn lănh nhận Thánh Thể không v́
lư do: "ngoan cố sống trong tội ly dị tái hôn", có ư nói rằng: cho dù
ngoan cố hay không ngoan cố, có tội hay không tội đều bị cấm. Lư do cấm
mà không kể đến có tội hay không có tội chủ quan là v́ những thiệt hại
khách quan gây ra cho Giáo Hội và tín hữu, như đă nói.
Khi người ly dị tái hôn đă ăn năn thống hối, không ngoan cố, nhưng v́
hoàn cảnh không bỏ được cuộc sống chung vợ chồng th́ họ có thể lănh nhận
bí tích Thánh Thể, sau khi đă xưng tội và cam kết tiết dục. Lư do phải
tiết dục không phải v́ chính tội dâm dục là nặng mà là v́ sự kết hợp
thân xác đó (thể hiện sự bất trung đối với kết ước hôn nhân trước) th́
nghịch lại h́nh ảnh kết hợp t́nh yêu chung thủy giữa Đức Kitô và hội
Thánh (lư do thần học). Tuy nhiên khi thỏa măn yêu cầu tiết dục th́ cũng
cần phải tránh gây hiểu lầm và bối rối về giáo lư (lư do mục vụ) nên chỉ
rước lễ nơi xa, không ai biết.
b- Không đ̣i tiết dục hoàn toàn khi lănh nhận Bí Tích thống hối
Khi đón nhận Bí Tích Thống Hối th́ tội nhân không gây ra tại hại khách quan như là việc lănh nhận Bí Tích Thánh Thể, v́:
- Xưng tội th́ tự nó không nghịch với h́nh ảnh của sự kết hiệp giữa đức
Kitô và Hội Thánh hay với Thánh Thể. V́ vậy, không gây mâu thuẩn thần
học.
- Xưng Tội là thú nhận ḿnh tội lỗi, là biểu hiện cho người khác thấy
rằng ḿnh là kẻ tội lỗi th́ tất nhiên không làm cho người ta hiểu lầm
hay bối rối về giáo lư Hội Thánh về ly dị tái hôn. V́ vậy, không gây
thiệt hại mục vụ.
- Phạm tội trọng hay cứ liên tiếp phạm tội trọng, như trong trường hợp
sống rối hôn phối cũng không là một cản trở theo luật để lănh nhận Bí
Tích Thống hối. Nó chỉ có thể là cản trở về ơn thánh hay ơn tha thứ v́
người này thiếu sự hoán cải, canh tân đời sống.
c- Về một biện luận sai lầm:
Cái trở ngại lớn nhất khiến ngăn cản người ly dị tái hôn lănh nhận Bí Tích Giải tội là do biện luận cho rằng: họ đang c̣n phạm trọng tội dâm dục thường xuyên; nếu họ không từ bỏ bằng biểu hiện ra bên ngoài th́ vẫn bị coi là ngoan cố trong tội trọng đó. Và v́ thế họ không thể nào xứng đáng để nhận ơn tha thứ nhờ qua bí tích Thống Hối.
Quan niệm ấy hoàn toàn sai lạc v́ hành động t́nh dục của họ không luôn
luôn là tội trọng, nhưng c̣n tùy trường hợp. Và cho dù việc đó là tội
trọng và cứ được tái phạm th́ tội nhân cũng không bị cấm nhận lănh bí
tích Thống Hối.
Hoạt động t́nh dục trong t́nh trạng rối hôn phối không luôn luôn là tội
trọng. Điều này dễ dàng nhận ra từ giáo huấn của Giáo Hội. Hồng Y
Ratzinger nói họ vẫn có thể rước lễ thiêng liêng (x. Thư Bộ GLĐT 1984).
Đức Giáo Hoàng Phanxicô, trong Amoris
Laetitia cũng cho thấy
rơ:
“không thể nào cho rằng, tất cả những ai trong hoàn cảnh “không b́nh thường” đều là sống trong t́nh trạng tội trọng hay không có ơn thánh hoá.” (AL, 301).
Khi Đức Giáo Hoàng nói họ có thể không ở trong t́nh trạng tội trọng như vậy th́ cũng hàm ư rằng thực hiện hành vi t́nh dục vợ chồng trong những hoàn cảnh đó cũng không mắc tội trọng. Nếu không hàm ư như vậy, th́ các ngài sẽ phải nói kèm theo một điều kiện, ví dụ như sau: "Người ly dị tái hôn có thể không mắc tội trọng và có thể có ơn thánh hóa nếu hoàn toàn tiết dục". Thật sự th́ chưa bao giờ thấy có một giáo huấn nào như vậy.
Giáo Hội đă đặt nền tảng Giáo huấn của ḿnh trên một trong những nguyên
tắc luân lư cơ bản: Một tội được coi là trọng khi hội đủ ba điều kiện:
"Phạm một lỗi nặng, với đầy đủ ư thức và cố t́nh" (SGLCG, 1857). Amoris
Laetitia của Đức Giáo
Hoàng Phanxicô cũng nhắc nhở một quy tắc cơ bản trong giáo lư công giáo:
“việc quy tội và việc chịu trách nhiệm đối với một hành động có thể được giảm thiểu hay thậm chí triệt tiêu v́ do không biết, vô ư, bị cưỡng ép, sợ hăi, thói quen, quyến luyến vô trật tự và các nhân tố tâm lư hay xă hội khác”(AL, 302).
Nói cụ thể hơn là: tội dâm dục trong đời sống vợ chồng đó có thể không là tội trọng. V́ tội dâm dục cũng phải được xét theo nguyên tắc luân lư trên, nghĩa là, cần phải có ư thức đầy đủ và cố t́nh th́ mới là tội trọng. Ví dụ một trường hợp: Người vợ bị buộc phải ăn nằm với chồng, nếu không cho chồng ăn nằm th́ bà sẽ bị chồng đạp xuống khỏi gường hay người chồng sẽ rước bà khác về nhà, trong khi đó bà c̣n phải lo nuôi dưỡng giáo dục con cái. Trường hợp này người vợ ấy sẽ không có tội trọng.
Khi đ̣i hỏi các mục tử phải biện phân đối với những hôn nhân bất quy tắc
(rối hôn phối, ly dị tái hôn…), Amoris
Laetitia c̣n nhắc đến
những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi: thói
quen, quyến luyến vô trật tự và các nhân tố tâm lư hay xă hội khác”
(AL, 302) khiến cho tội có thể giảm nhẹ hay triệt tiêu. Những yếu tố
này th́ có rất nhiều. Do đó đừng xét định tội trạng người khác quá đi
nguyên tắc mà Giáo Hội dạy bảo.
Để có một xác tín hơn về vấn đề tội trạng, xin nhắc lại đây một chỉ dẫn
chính thức của Hội Thánh:
Ủy Ban
Giáo Hoàng về Những Văn Bản Lập Pháp, ngày 24- 6 - 2000, có văn bản
"Tuyên
Bố về việc lănh nhận
Thánh Thể của người ly dị tái hôn", cùng với Bộ Giáo Lư Đức Tin và Bộ
Phụng tự Bí Tích, xác định một số vấn đề, trong đó có xác định như sau:
"…, không được xem những tín hữu ly dị tái hôn là ở trong t́nh trạng tội trọng thường xuyên, mà khi họ không thể v́ những lư do nghiêm trọng - như là giáo dục con cái - 'mà thực hiện sự buộc phải chia tay, đảm nhận việc sống hoàn toàn tiết dục, nghĩa là tránh những hành vi dàng riêng cho vợ chồng' (FC, 84)" (Tuyên Bố, c).
Sau cùng, đối với những ai, không cho phạm nhân xưng tội, do vẫn cứ khư
khư giữ quan điểm về tội một cách nghiêm khắc, cứng nhắc, tức là định
tội theo những yếu tố khách quan bên ngoài mà không xem xét đến những
yếu tố chủ quan bên trong và coi đó như là nguyên tắc lư tưởng phải tuân
theo, hoặc do từ quan điểm này mà áp đặt cho tín hữu, th́ hăy nghe lời
trách mắng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong tông huấn Amoris
Laetitia:
"Rơ
ràng là nếu một ai đó khoác lác (ostenta, flaunts) rằng một tội khách
quan (peccato oggettivo) như là một phần của lư tưởng (ideale) Kitô
Giáo, hay muốn áp đặt một điều ǵ đó khác hơn là điều được Giáo Hội dạy,
th́ họ không thể nào mong được (non pụ pretendere) giảng dạy giáo lư
hay rao giảng cho người khác (AL, 297)".
8. Phân tích sự biên soạn của số 1650 trong SGLCG
Một khó khăn lớn nhất đă gây hiểu lầm Tông Huấn chính là SGLCG số 1650
với câu:
Việc giao ḥa bằng Bí tích thống hối chỉ có thể được ban cho những người biết hối hận v́ đă phạm đến dấu hiệu của Giao ước và của sự trung thành với Đức Kitô, và chấp nhận sống hoàn toàn tiết dục.
Để xem xét vấn đề, trước tiên, cần xác định nguyên tắc thẩm quyền: Tông Huấn Familiaris Consortio là văn bản chính thức có thẩm quyền ra giáo huấn và luật lệ. Thư của Bộ Giáo Lư Đức tin, do bộ Trưởng Hồng Y Ratzinger kư tên có nhiệm vụ giải thích, hướng dẫn việc thực hành Tông Huấn. Bộ Giáo Lư Đức Tin không có quyền lập pháp nên không có quyền ra luật lệ mới. Sách Giáo Lư Công Giáo càng không có quyền ra luật lệ. Sách này có nhiệm vụ tổng hợp lại các giáo thuyết đạo, trong đó có ghi những điều phải tin và phải giữ, lấy nguồn từ Kinh Thánh, Thánh Truyền và Giáo Huấn Giáo Hội, tức là từ các Giáo Huấn của Đức Giáo Hoàng và các Công Đồng.
Trong vấn đề đang bàn, thư của Đức Hồng Y Ratzinger lúc bấy giờ là giải
thích hướng dẫn để hiểu và thực hành Tông Huấn Familiaris
Consortio, Sách Giáo Lư Công Giáo số 1650 được biên soạn theo nguồn
là Tông Huấn này và dựa theo giải thích của Hồng y Ratzinger.
Chúng ta hăy khảo sát các bản văn trong những cột song song với nhau như
sau:
(Các đoạn văn trong bản so sánh vẫn được giữ nguyên sự liên tục, không bị cắt bớt, nhưng được tách rời để dễ so sánh, trừ chỗ nào có đánh dấu "…" v́ thấy không cần thiết phải giữ).
|
Familiaris Consortio, 1981 |
Bộ GLĐT, "Thư gởi các Giám Mục…" của Ratzinger, 1994 |
SGLCG, 1992 | |
1 |
Tuy nhiên, Hội Thánh vẫn xác nhận lại kỷ luật của ḿnh, kỷ
luật xây dựng trên Thánh Kinh, |
Hội Thánh trung thành với lời Chúa Giêsu Kitô (Mk 10:11-12),
xác định rằng một sự kết hợp mới không thể được công nhận là
thành sự nếu hôn nhân trước đă thành sự. |
1650 (2384) Hội Thánh trung thành với lời của Đức Ki-tô:
"Ai bỏ vợ và cưới người khác, là phạm tội ngoại t́nh; ai bỏ
chồng để lấy người khác th́ cũng phạm tội ngoại t́nh" (x. Mc
10, 11-12). Nếu hôn nhân lần đầu đă thành sự, Hội Thánh
không thể công nhận liên kết mới là thành sự. Nếu những
người đă ly dị, tái hôn theo luật đời, họ rơi vào t́nh trạng
khách quan đi ngược lại luật Thiên Chúa. |
|
B́nh luận: Từ
một phần câu rất ngắn của Tông Huấn bộ GLĐT giải thích rộng
ra. SGLCG lại diễn ra rộng hơn nữa bằng cách lấy lại nguyên
văn phần giải thích của bộ GLĐT và ghi rơ ra thêm câu Kinh
Thánh Mc10, 11-12. Điều này cho thấy SGLCG đă khai triển
thêm về Kinh Thánh, giáo thuyết. Đây là điều phù hợp với
chức năng của một quyển sách Giáo Lư. |
||||
|
theo đó Hội Thánh không thể chấp nhận cho những người ly dị
tái hôn được lănh nhận Thánh Thể. |
V́ thế, bao lâu c̣n sống trong t́nh trạng này, họ không được
lănh nhận Thánh Thể. |
V́ thế, bao lâu c̣n sống trong t́nh trạng này, họ không được lănh nhận Thánh Thể. |
|
B́nh luận: Lệnh
cấm nhận Thánh Thể của Tông Huấn, được cả hai bản văn sau
ghi lại. Ta c̣n thấy SGLCG ghi lại nguyên văn câu của bộ
GLĐT. Điều này cho thấy SGLCG đă trung thành phản ảnh lại
lệnh cấm lănh nhận Thánh thể của Tông Huấn mà bộ GLĐT đă
viết theo. |
||||
|
|
|
Cũng vậy, họ không thể đảm nhận một số trách nhiệm trong Hội
Thánh. |
|
B́nh luận: Sách
GLCG đă thêm vào một câu. Câu này không có nguồn gốc quy
chiếu từ Tông Huấn. Đây là một điều mới lạ được thêm vào,
liệu có được phép thêm vào như vậy không? Mệnh đề "Không thể
đảm nhận một số trách nhiệm" cũng có nghĩa chung chung chứ
không xác định là trách nhiệm nào. |
||||
4 |
Việc giao ḥa trong Bí
tích Thống hối – (việc) mà mở đường đến bí tích Thánh Thể – có
thể được ban cho chỉ những ai biết hối hận v́
đă phạm đến dấu hiệu của Giao ước và của sự trung thành với
Đức Kitô, và thành thật sẵn ḷng chấp nhận một h́nh thức
sống không c̣n mâu thuẫn với sự bất khả phân ly của hôn nhân
nữa. Nói như thế là mặc nhiên cho rằng, khi có những lư do
hệ trọng – chẳng hạn để làm gương và giáo dục con cái –
người nam và người nữ không thể xa ĺa nhau như luật buộc,
th́ “họ có thể đảm nhận (suscipiant, take on)
sống ḥan toàn tiết dục, nghĩa là tránh hẳn những hành vi
dành riêng cho vợ chồng. |
Đối với những tín hữu vẫn cứ ở trong t́nh trạng hôn nhân như
thế, con đường đến lănh nhận Thánh Thể chỉ được mở ra từ sự
xá giải bí tích, có
thể được ban cho "chỉ
những aibiết hối hận, có thể được ban cho "chỉ
những ai biết hối hận v́ đă phạm đến dấu hiệu của Giao ước
và của sự trung thành với Đức Kitô, và thành thật sẵn ḷng
chấp nhận một h́nh thức sống không c̣n mâu thuẫn với sự bất
khả phân ly của hôn nhân nữa. Nói như thế là mặc nhiên cho
rằng, khi có những lư do hệ trọng – chẳng hạn để làm gương
và giáo dục con cái – người nam và người nữ không thể xa ĺa
nhau như luật buộc, th́ “họ có thể đảm nhận sống ḥan toàn
tiết dục, nghĩa là tránh hẳn những hành vi dành riêng cho vợ
chồng” (FC, 84). |
Việc giao ḥa trong Bí tích Thống hối chỉ
có thể được ban cho những người biết hối hận v́ đă phạm đến
dấu hiệu của Giao ước và của sự trung thành với Đức Kitô, và
buộc ḿnh sống hoàn toàn tiết dục (in completa continentia
obligant). |
|
B́nh luận: Tông
huấn đă tŕnh bày giáo huấn bằng một đoạn dài. Nhận thấy tầm
quan trọng của đoạn văn, bộ GLĐT đă viết lại hầu như nguyên
văn, trừ câu đầu. Tuy nhiên SGLCG lược bỏ hầu hết, viết lại
thành một câu ngắn gọn, vẫn giữ nguyên văn chủ ngữ "Việc
giao ḥa trong Bí Tích Thống Hối" (La
riconciliazione nel sacramento della penitenza). Khi
viết tóm gọn như vậy, SGLCG đă lược bỏ mệnh đề phụ: "mà mở
đường cho Bí tích Thánh Thể" khiến cho câu văn trở nên mang
ư nghĩa khác. Đó là cấm nhận Bí Tích Thống Hối, trừ khi cam
kết tiết dục. Rơ ràng là Tông Huấn đă không có ư này, như đă
phân tích cú pháp nói trên và dựa vào văn bản của Bộ GLĐT. |
||||
SGLCG số
1650 có thể bị sai lầm không?
Đến đây, chúng ta sẽ đặt câu hỏi: Vậy th́ người hay ban biên soạn SGLCG
bị lầm chăng?
Câu trả lời là "có thể sai lầm", lư do:
- Biên soạn: cho dù SGLCG được biên soạn bởi một tiểu ban, do Đức Giáo
Hoàng trao trách nhiệm và do ngài chuẩn nhận xuất bản, và cho dù bản văn
được viết bởi một người được những người khác sửa chửa, nó vẫn có thể
sai lầm. Khẳng quyết "có thể sai lầm" khi nói về sách SGLCG là điều
không ai chối cải.
Tuy nhiên cũng lưu ư rằng, khẳng quyết này không có ư nói chúng ta được
phép coi thường SGLCG hay chối bỏ sự vâng phục. Hai việc "sai lầm" và
"vâng phục" có liên quan nhưng không luôn phải đi đôi với nhau. Tương tự
như vấn đề khả ngộ của các Đức Giám mục và sự vâng phục các ngài. Điều
753 chỉ dạy:
Các Giám
Mục hiệp thông với các thủ lănh của Giám Mục đoàn và với các thành viên,
hoặc cách riêng rẽ, hoặc khi họp nhau trong các Hội Đồng Giám Mục hay
trong các công đồng địa phương,mặc
dầu không có ơn bất khả ngộ khi
giảng dạy, các ngài vẫn là những tiến sĩ và thầy dạy chính thức về đức
tin đối với các Kitô hữu được trao phó cho các ngài coi sóc; các Kitô
hữu buộc phải
chấp nhận huấn quyền chính thức của các Giám Mục ḿnh với ḷng cung kính
vâng phục.
Khả thể về lư do của sự sai lầm có thể được nhận thấy là các tác giả
biên soạn cũng chịu ảnh hưởng bởi tài năng, quan điểm, bởi cái nh́n bị
hạn chế của ḿnh, bởi sự không chuyên môn của ḿnh. Rơ ràng là nếu một
soạn giả là một chuyên viên về Thần học tín lư mà viết một điều về Thần
học Luân Lư hay Giáo Luật th́ có thể dễ bị lầm, ít ra là lầm về thuật
ngữ, cách diễn tả khác khau. Viết về điều cấm liên quan đến Luân lư hay
Giáo Luật th́ quả thực một chuyên viên Thần học tín lư khó mà viết cho
chính xác.
V́ vậy có thể xác định rằng SGLCG số 1650 đă có sự lầm lẫn hay nói cách
khác đă vô ư trong khi phản ảnh lại Giáo Huấn của Familaris
Consortio số 84 hay Giáo
Huấn của Giáo Hội nói chung.
Giả sử SGLCG không sai lầm th́ sao?
Chúng ta thấy rơ là SGLCG không có thẩm quyền lập luật, cũng không có
quyền tự đưa ra một Giáo huấn chính thức. Một người hay một tiểu ban
biên soạn sách phải tham chiếu từ nguồn Kinh Thánh, Thánh Truyền và Giáo
Huấn của Giáo Hội (Lời dạy, luật, sắc lệnh … của Đức Giáo Hoàng; các
Công đồng chung và riêng), chứ không được phép tự sáng tác ra một chân
lư phải tin hay một điều phải giữ.
9. Được lănh nhận Bí Tích Giải Tội nhưng vẫn bị cấm nhận Thánh Thể
Cuối cùng, chúng ta phải xác nhận rằng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II,
trong Tông HuấnFamililaris
Consortio số 84 không hề
có ư cấm hay hạn chế lănh nhận Bí Tích Thống hối đối với người ly dị tái
hôn.
Tuy nhiên, xin đừng hiểu rằng được xưng tội th́ được Rước Lễ. Việc cấm
rước lễ, như đă phân tích, không v́ lư do "tội trọng" của phạm nhân, mà
v́ sự tai hại khách quan gây cho Hội Thánh hay cộng đoàn tín hữu. Bởi
vậy, người ly dị tái hôn cho dù có tội hay không có tội, th́ theo nguyên
tắc, vẫn không được rước lễ, trừ một số trường hợp đặt biệt. Cha Giải
tội cần phải nhắc điều này cho giáo dân mỗi khi họ xưng tội.
10.
Những khó khăn
Chắc có lẽ cũng c̣n những khó khăn lư giải về tội, về sự ngoan cố và tha
thứ trong Bí Tích giải tội. Có thể diễn tả những khó khăn đó qua những
câu hỏi sau:
- Tội ly dị tái hôn vẫn không chừa bỏ th́ có được tha không, trong khi Bí Tích Thống hối cần phải ăn năn chừa cải?
- Khi giải tội th́ cha giải tội tha tội nào, tội ly dị tái hôn hay tội nặng, nhẹ khác?
Nếu tỉnh trí một chút, sẽ thấy ngay câu giải đáp với gợi ư ví dụ cụ thể như sau:
- Một cô gái làm nghề mại dâm trong nhà chứa của khu phố, ai cũng biết, đến xin cha được giải tội, cha có giải không?
- Một chàng trai nghiện hút trong giáo xứ, ai cũng biết người này luôn trộm cắp không chừa cải, thậm chí giết người cướp của. Cha có giải tội khi người này đến xin không?
Có phải v́ sự vẫn ở trong t́nh trạng tội trọng (mại dâm, nghiện hút trộm cắp…) mà cha giải tội từ chối ban Bí Tích không? Dĩ nhiên là cha không từ chối, vẫn cứ giải tội.
Sự chừa bỏ hoàn cảnh tội khách quan bên ngoài quả là điều tốt, là hoa
quả của ḷng thống hối, nhưng đó không phải là điều buộc phải có để
chứng tỏ một người thống hối ăn năn hay là điều kiện buộc phải có để
được xưng tội.
Sự thống hối ăn năn, một điều cần thiết để được tha thứ, lại là một
chuyện xảy ra trong tâm hồn. Nó là một việc của ư chí chứ không phải là
của một hành vi biểu hiện ra bên ngoài.
Ơn tha thứ tùy thuộc vào ḷng ăn năn sám hối. Ăn năn tội cách trọn hảo
cũng đủ để được tha tội trước khi lănh nhận Bí Tích Xá Giải. Ăn năn ít
sẽ được tha ít, ăn năn nhiều sẽ được tha nhiều, cho dù là được ban ơn xá
giải trong Bí tích Giải tội. Lư do là Chúa muốn như vậy, không cần b́nh
luận nhiều, v́ như có lần Ngài đă nói: "tội lỗi phụ nữ nầy nhiều lắm, đă
được tha hết, v́ người đă yêu mến nhiều; song kẻ được tha ít th́ yêu mến
ít” (Lc7, 47).
Cô gái được tha tội nào: tội măi dâm hay các tội nặng nhẹ khác?
V́ sự thứ tha cho dù trong ṭa giải tội cũng tùy thuộc vào ḷng ăn năn
sám hối. Mà ḷng sám hối nhiều ít hay như thế nào th́ không ai biết
được.
Cha giải tội có biết cô ấy thật t́nh sám hối hay chỉ đóng kịch thôi
không? Cha có biết cô ấy có bị Mafia khống chế phải làm như vậy không;
có bị áp lực v́ phải kiếm tiền để nuôi mẹ già bệnh tật không? Cha có
biết cô ấy có hoàn toàn tự do chọn nghề này không?
Không ai có thể biết chắc được người này thật t́nh sám hối hay chỉ đóng
kịch hay ngay cả để chỉ lừa đảo. (Đă có trường hợp, sau khi giải tội,
cảm thấy thương tâm cha gọi lại cho một số tiền để giúp nạn nhân thoát
khỏi ổ mại dâm, để có tiền về quê làm ăn. Nhưng không ngờ cô ta vẫn dùng
chiêu này để lừa hết cha này đến cha khác để lấy tiền).
V́ vậy, không thể nào nói được Chúa tha hay không tha, tha nhiều hay tha
ít, tha tội nào hay không tha tội nào. Cha giải tội có bổn phận ban ơn
xá giải th́ cha cứ ban và tin rằng Thiên Chúa tha thứ cho người có ḷng
ăn năn là đủ.
Bổn phận này được điều 980 quy định: Nếu
cha giải tội không hồ nghi về sự chuẩn bị của hối nhân, và nếu hối nhân
xin xưng tội, th́ ngài không được từ chối và cũng không được hoăn ban ơn
xá giải (CIS 886).
Và cha giải tội cũng cần biết ḿnh "không
phải là ông chủ, nhưng là người đầy tớ của ơn tha thứ của Thiên Chúa”
(GLCG số 1466).
11.
Ngược lại, nên khuyến khích lănh nhận Bí Tích thống hối
Nếu như Đức Hồng Y Ratzinger (ĐGH Benedicto XVI) trong thư gởi các Giám
Mục năm 1994 có nói đến người ly dị tái hôn có thể rước lễ thiêng liêng,
nếu như Đức Giáo Hoàng Phanxicô, trongAmoris
Laetitia nói họ có thể có
ơn thánh hóa (AL, 301), có thể tăng trưởng trong đời sống ân sủng (AL.
305), th́:
- Tại sao họ lại không được lănh nhận Bí Tích Giải Tội để được rước lễ
thiêng liêng?
- Tại sao họ lại không năng lănh nhận bí tích này để được ơn thánh hóa?
- Tại sao họ lại không năng lănh nhận bí tích này để được gia tăng đời
sống ân sủng?
Dĩ
nhiên là họ được phép nhận lănh Bí Tích Thống Hối để rước lễ thiêng
liêng, để được ơn thánh hóa, để gia tăng đời sống ân sủng. V́ vậy, các
mục tử không nên cấm, nhưng ngược lại càng khuyến khích những người ly
dị tái hôn ăn năn hoán cải và chạy đến Bí Tích Giải Tội.
12. Những kiến nghị
Xin các Đấng Bản Quyền địa phương, xem xét lại và hủy bỏ việc thực hành
cấm người ly dị tái hôn hay rối hôn phối lănh nhận Bí Tích Thống Hối để
được ơn tha thứ, mà không phải là để lănh nhận Thánh Thể.
Trong trường hợp c̣n có nghi ngại, để dễ dàng cho các quư Đức Cha quyết
định, con xin gợi ra đây một nguyên tắc Giáo Luật theo điều 14: "Trong
trường hợp hồ nghi về pháp luật, luật không buộc, kể cả những luật băi
hiệu hay băi năng";
Hồ nghi về pháp luật, áp dụng ở đây là hồ nghi không biết rằng có luật
cấm xưng tội hay không. Theo nguyên tắc này, khi hồ nghi như vậy th́
không buộc phải giữ luật. Ví dụ, khi hồ nghi không biết có luật kiêng
thịt ngày thứ sáu không, th́ không buộc phải giữ. Hơn nữa, như đă nói,
một luật cấm, cần phải được tuyên bố rơ ràng, minh nhiên.
Cũng xin tất cả các mục tử chú ư đến giáo huấn của Đức Giáo Hoàng
Phanxico trong tông huấnAmoris
Laetitia:
"Không
ai có thể bị kết án măi măi v́ điều này không phải là luận lư học của
Tin Mừng! Ở đây, tôi không chỉ nói tới người ly dị và tái hôn, mà là mọi
người, trong bất cứ hoàn cảnh nào họ rơi vào. Rơ ràng là nếu một ai đó
khoác lác (ostenta, flaunts) rằng một tội khách quan (peccato oggettivo)
như là một phần của lư tưởng (ideale) Kitô Giáo, hay muốn áp đặt một
điều ǵ đó khác hơn là điều được Giáo Hội dạy, th́ họ không thể nào mong
được (non pụ pretendere) giảng dạy giáo lư hay rao giảng cho người khác
(AL, 297)".
- Xin các linh mục, sau khi Đấng Bản Quyền tuyên bố hủy bỏ lệ cấm người ly dị tái hôn lănh nhận Bí Tích Thống Hối, hăy khích lệ họ năng đến lănh nhận Bí Tích Thống Hối.
- Xin các anh chị em Legio, sau khi Đấng Bản Quyền tuyên bố hủy bỏ lệ
cấm người ly dị tái hôn lănh nhận Bí Tích Thống Hối, hăy cố gắng đi t́m
những người sống rối hôn phối, giúp cho tin tưởng và lănh nhận Bí tích
Giải tội, như là bước đầu quay về giao ḥa với Chúa và Hội Thánh. Các
anh chị em hăy chú tâm t́m đến những tín hữu mà đang sống như người
lương, không đi đến nhà thờ lâu năm v́ tội sống rối hôn phối.
- Xin những linh mục tu sĩ chuyên môn nghiên cứu, có những bài viết để
giúp cho các mục tử có tư liệu, để các ngài có thể giúp giáo dân hiểu
biết sâu rộng hơn về ân sủng của Bí Tích Giải tội và dùng nó như một
phương thế để được ơn cứu độ trong khi họ không thể đón nhận Bí Tích
Thánh Thể.
Xin tất cả các vị cố gắng làm sao cho anh chị em đang sống rối hôn phối
thấy Bí Tích Giải tội không chỉ là được ơn tha thứ nhưng c̣n là một Bí
Tích để thờ phượng Chúa, để diễn tả ḷng tin cậy mến đối với Chúa, để "có
thể sống trong ân sủng của Thiên Chúa, vẫn có thể tăng trưởng trong đời
sống của ân sủng và bác ái, khi nhận được sự trợ giúp của Giáo Hội”
(AL 305).
Cuối cùng, một điều thực tế trong cư xử là làm sao cho người rối hôn
phối không bị mặc cảm tội lỗi và như thế họ có thể tự tin rằng ḿnh có
thể dấn thân phục vụ và nên thánh trong hoàn cảnh riêng biệt của ḿnh.
Chủ Nhật
Thứ Nhất Mùa Vọng, 27-11-2016
Lm.
JB. Lê Ngọc Dũng